A- Đề cương bài làm.
I. CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO
2. Cơ sở pháp lí cho việc giải quyết tranh chấp của WTO
3. Cơ cấu tổ chức hoạt động
4. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO
5. Thực hiện quyết định của Cơ quan giải quyết tranh chấp và áp dụng biện pháp trả đũa
6. Quy tắc ứng xử của WTO cho Bản ghi nhớ về Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc Giải quyết Tranh chấp
II. ỨNG XỬ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
1. Ứng xử của các nước phát triển và đang phát triển đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
2. Sự thay đổi chế độ áp dụng đối với các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
3. Khó khăn của các nước đang phát triển khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
III. HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
1. Ưu điểm
2. Nhược điểm
IV. XEM XÉT CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO VÀO VỤ KIỆN TÔM ĐÔNG LẠNH CỦA VIỆT NAM
1. Những vấn đề khởi kiện của Việt Nam
2. Quá trình theo kiện của Việt Nam trong vụ kiện tôm đông lạnh
B- Bài làm chi tiết.
I. CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh chóng các quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết các tranh chấp trong khuôn khổ tổ chức thương mại quốc tế WTO cũng đã được thiết lập với mục đích lớn nhất là đảm bảo việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các qui định trong các Hiệp định, ngăn chặn các biện pháp thương mại vi phạm các Hiệp định, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu to lớn của WTO. Cơ chế này là sự hiện thực hoá xu thế pháp lý hoá quá trình giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế ngày nay, dần dần thay thế các phương thức giải quyết tranh chấp mang tính chính trị, ngoại giao trong lĩnh vực này.
Học tập những quy định có tác dụng tích cực và rút kinh nghiệm từ những bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947, áp dụng một số cải tiến căn bản về thủ tục, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao tính chất xét xử của thủ tục của cơ chế mới cũng như tăng cường tính ràng buộc của các quyết định giải quyết tranh chấp, WTO đã đưa ra một cơ chế hoàn thiện hơn, đáp ứng được những yêu cầu về giải quyết tranh chấp trong thực tiễn đời sống thương mại quốc tế của các chủ thể tham gia quan hệ thương mại quốc tế.
Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm “đạt được một giải pháp tích cực cho tranh chấp”, và ưu tiên những “giải pháp được các bên tranh chấp cùng chấp thuận và phù hợp với các Hiệp định liên quan”. Xét ở mức độ rộng hơn, cơ chế này nhằm cung cấp các thủ tục đa phương giải quyết tranh chấp thay thế cho các hành động đơn phương của các quốc gia thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung của các qui tắc thương mại quốc tế.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3962 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và xem xét vào vụ kiện tôm đông lạnh của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các hành động đơn phương của các quốc gia thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung của các qui tắc thương mại quốc tế.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên bốn nguyên tắc: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp, phù hợp với mục tiêu bảo toàn các quyền và nghĩa vụ, phù hợp với các hiệp định thương mại có liên quan trên cơ sở tuân thủ các quy phạm của luật tập quán quốc tế về giải thích điều ước quốc tế.
Ngoài ra, WTO cũng vẫn sẽ tiếp tục áp dụng cách giải quyết tranh chấp của GATT 1947 như: tái lập sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ; giải quyết tích cực các tranh chấp; cấm đơn phương áp dụng các biện pháp trả đũa khi chưa được phép của WTO - nguyên tắc có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của hệ thống thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, nguyên tắc này không bao hàm rõ ràng ý có cấm các nước thành viên không được đơn phương xác định các hành vi của nước thành viên khác có vi phạm các hiệp định của WTO hay không. Lợi dụng sự không rõ ràng này nên một số nước thành viên phát triển như Mỹ, EU vẫn tiếp tục đơn phương áp dụng các đạo luật của riêng mình như điều khoản Super 301 trong luật thương mại Mỹ hoặc quy định 384/96 của Hội đồng châu Âu để “kết án” và trừng phạt các nước thành viên WTO khác.
Cơ sở pháp lí cho việc giải quyết tranh chấp của WTO
Trên cơ sở các quy định rời rạc về giải quyết tranh chấp trong GATT, WTO đã thành công trong việc thiết lập một cơ chế pháp lí đầy đủ, chi tiết trong một văn bản thống nhất là Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) – Phụ lục 2 Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, để giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên WTO (bao gồm các quốc gia có chủ quyền và những lãnh thổ thuế quan riêng biệt).
Ngoài những quy định mới về giải quyết tranh chấp trong DSU, cơ chế này cũng đã viện dẫn đến một số điều khoản của GATT, đó là:
- Điều XXII và XXIII GATT 1947 (Điều 3.1 DSU)
- Các qui tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh chấp tại các Hiệp định trong khuôn khổ WTO (Ví dụ: Điều 11.2 Hiệp định về các Biện pháp Kiểm dịch Thực vật; Điều 17.4 đến 17.7 GATT 1994…)
- “Quyết định về các Thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt” GATT 1966: bao gồm các qui tắc áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp giữa một nước kém phát triển và một nước phát triển (Điều 3.12 DSU) và các thủ tục đặc biệt áp dụng cho tranh chấp có một bên là nước kém phát triển nhất (Điều 2.4 DSU)
Cơ cấu tổ chức hoạt động
Cơ quan giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body-DSB)
-Thành phần: Cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên., nhưng chỉ những chính phủ là thành viên của một hiệp định đa biên cụ thể mới có thể tham gia vào các quyết định của DSB liên quan đến hiệp định cụ thể đó
-Thẩm quyền: DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa). Điều này có nghĩa là DSB được lập ra để giám sát việc vận dụng và thực thi chức năng của DSU.Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp. Các quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Đây là một nguyên tắc mới theo đó một quyết định chỉ không được thông qua khi tất cả thành viên DSB bỏ phiếu không thông qua.
DSB họp thường xuyên khi cần thiết để thực hiện các chức năng của mình trong các khuôn khổ thời gian do DSU quy định và phải thông báo cho các Ủy ban và Hội đồng WTO liên quan về bất cứ tiến triển nào trong tranh chấp có liên quan tới các điều khoản của các hiệp định liên quan.
Nhóm chuyên gia hoặc Ban hội thẩm (Panel)
Ban hội thẩm do DSB thành lập để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và giải thể sau khi kết thúc nhiệm vụ.
-Thành phần: (Điều 8 DSU) mỗi ban hội thẩm gồm 3-5 người. Khác với cơ cấu ban hội thẩm thời kỳ GATT 1947 chủ yếu được ưu tiên lựa chọn trong các quan chức chính phủ các nước thành viên, ban hội thẩm của WTO được ưu tiên lựa chọn trong số những chuyên gia độc lập, không làm việc cho chính phủ, có uy tín quốc tế về chính sách hoặc luật thương mại quốc tế.
-Nhiệm vụ: Công việc chính về giải quyết tranh chấp do ban hội thẩm thực hiện, đó là xem xét một vấn đề cụ thể bị tranh chấp trên cơ sở các qui định WTO được quốc gia nguyên đơn viện dẫn, giúp cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO làm sáng tỏ nội dung tranh chấp và khuyến nghị một giải pháp để các bên hữu quan giải quyết tranh chấp của họ, phù hợp với các hiệp định thương mại có liên quan. Kết quả công việc của Ban hội thẩm là một báo cáo trình DSB thông qua, giúp DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các Bên tranh chấp. Trên thực tế thì đây là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp mặc dù không nắm quyền quyết định.
-Hoạt động: Trong quá trình xem xét sự việc, ban hội thẩm có quyền tìm kiếm thông tin từ mọi nguồn và trưng cầu ý kiến giám định của các chuyên gia bên ngoài về những vấn đề kỹ thuật (Điều 13). Toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp từ thời điểm các bên tranh chấp tự thương lượng với nhau cho đến khi ban hội thẩm đệ trình báo cáo lên DSB tối đa không quá 1 năm. Trong đó, thời gian kể từ thời điểm thành lập ban hội thẩm cho đến khi đệ trình báo cáo tối đa không quá 6 tháng. Báo cáo của ban hội thẩm sẽ được gửi đến cho các bên tranh chấp trong vòng 6 tháng, trong trường hợp tranh chấp liên quan đến những hàng hóa dễ hư hỏng thì thời hạn là ba tháng, và gửi đến tất cả các thành viên của WTO sau đó 3 tuần. Sau 60 ngày, báo cáo của ban hội thẩm sẽ tự động trở thành quyết định của DSB nếu không có sự đồng thuận của tất cả các nước thành viên WTO, kể cả hai bên tranh chấp bác bỏ nội dung của báo cáo.
Cơ quan phúc thẩm thường trực (SAB)
-Thành phần: (Điều 17 DSU) 7 thành viên, do cơ quan giải quyết tranh chấp bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm, là những chuyên gia pháp lý và thương mại quốc tế có kinh nghiệm lâu năm, uy tín và những nội dung của các hiệp định có liên quan nói chung, và họ không được gắn kết với bất kỳ một chính phủ nào.
-Nhiệm vụ: Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, đảm bảo tính đúng đắn của báo cáo giải quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này cũng cho thấy rõ hơn tính chất xét xử của thủ tục giải quyết tranh chấp mới. Cơ quan này có chức năng xem xét theo thủ tục “phúc thẩm” những kết luận và giải thích pháp lý được đưa ra trong báo cáo của ban hội thẩm, theo đề nghị của một trong các bên tranh chấp. Khi giải quyết vấn đề tranh chấp, SAB chỉ xem xét lại các khía cạnh pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của ban hội thẩm chứ không điều tra lại các yếu tố thực tiễn của tranh chấp. Khi có đề nghị xem xét phúc thẩm, cơ quan phúc thẩm thường trực sẽ lập ra một nhóm phúc thẩm riêng biệt cho mỗi một vụ tranh chấp, bao gồm 3 thành viên. Kết quả làm việc của SAB là một báo cáo trong đó Cơ quan này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc hủy bỏ hay đảo ngược lại các kết luận trong báo cáo của ban hội thẩm. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được thông qua tại DSB và không thể bị phản đối hay khiếu nại tiếp.
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO
4.1. Trình tự giải quyết tranh chấp của WTO
Tham vấn (Điều 4 DSU)
Một thành viên có khiếu nại phải tham vấn với thành viên áp dụng biện pháp có tranh chấp trước khi yêu cầu thành lập một ban hội thẩm để xem xét vấn đề. Các thành viên phải phúc đáp các yêu cầu tham vấn trong vòng 10 ngày và thiện chí tham gia tham vấn trong vòng không quá 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu tham vấn, nhằm đạt được một giải pháp đáp ứng các bên.
Thành viên yêu cầu tham vấn phải thông báo yêu cầu tham vấn của mình cho DSB, các Ủy ban và Hội đồng WTO liên quan. Thành viên yêu cầu tham vấn có thể yêu cầu thành lập một ban hội thẩm nếu một thành viên không hồi đáp trong khoảng thời gian quy định đối với một yêu cầu tham vấn hoặc nếu việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu tham vấn. Bên khiếu nại cũng có thể gửi yêu cầu lập ban hội thẩm trong vòng 60 ngày nếu các bên cùng cho rằng việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp.
Các cuộc tham vấn diễn ra bí mật và được tổ chức không ảnh hưởng đến quyền của các Thành viên trong các thủ tục tiếp theo. Các Thành viên khác ngoài các Thành viên tham vấn có thể tham gia tham vấn nếu Thành viên được yêu cầu tham vấn đồng ý rằng các Thành viên khác này “có lợi ích thương mại đáng kể” liên quan. Chính vì lí do đảm bảo tính bí mật nên hầu như tất cả các quốc gia đều cố gắng giải quyết các bất đồng ở giai đoạn tham vấn nhằm hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại cho các bên liên quan và bí mật thông tin liên quan đến tranh chấp. Nhưng cá nhân tôi cho rằng, chính yếu tố bí mật lại là rào cản cho việc xác minh tính đúng đắn của các quy định của WTO vì sẽ xảy ra việc các nước phát triển sẽ dùng các lợi ích khác để tránh việc các nước đang phát triển đưa vụ tranh chấp ra cơ quan giải quyết tranh chấp DSB, do vậy, thỏa thuận đó chỉ đơn thuần là sự thỏa hiệp về lợi ích của các bên mà bỏ qua những quy định của WTO
Môi giới, hòa giải và trung gian (Điều 5 DSU)
Đây là thủ tục được tiến hành tự nguyện nếu các bên tranh chấp có sự nhất trí, và phải được giữ bí mật và không làm phương hại đến quyền của bất kỳ bên nào trong các bước tố tụng tiếp theo. Những thủ tục này có thể được bắt đầu và chấm dứt bất kỳ lúc nào và khi chấm dứt thì bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập nhóm chuyên gia.
Ưu điểm lớn nhất của các thủ tục này là tiết kiệm được thời gian, tiền bạc và duy trì mối quan hệ hòa hảo giữa các quốc gia và các thủ tục này đặc biệt được DSB khuyến khích vì việc tìm ra được một giải pháp hợp lí thỏa mãn tất cả các bên tranh chấp còn được coi trọng hơn cả việc đạt được một giải pháp phù hợp với các quy tắc thương mại trong Hiệp định.
Thành lập ban hội thẩm (Điều 6 DSU)
Yêu cầu thành lập một ban hội thẩm phải được làm bằng văn bản, phải chỉ rõ đã thực hiện tham vấn hay chưa, các biện pháp cụ thể nào đang có tranh chấp, cơ sở pháp lý cụ thể của khiếu nại. Yêu cầu này được gửi tới DSB để cơ quan này ra quyết định thành lập Ban hội thẩm. Nhờ có nguyên tắc đồng thuận phủ quyết nên hầu như quyền được giải quyết tranh chấp bằng hoạt động của Ban hội thẩm của nguyên đơn được đảm bảo.
Khi có yêu cầu của một bên khiếu nại, một ban hội thẩm có thể được thành lập muộn nhất là trong cuộc họp DSB kế tiếp cuộc họp mà trong đó yêu cầu lập ban hội thẩm được đưa vào chương trình nghị sự của cuộc họp, trừ khi trong cuộc họp đó DSB đồng thuận không lập ban hội thẩm. Nếu bên khiếu nại tiếp tục đưa yêu cầu thì một cuộc họp của DSB phải được tổ chức vì mục đích này trong vòng 15 ngày kể từ khi có yêu cầu, với điều kiện là thông báo cuộc họp được gửi trước ít nhất 10 ngày.
Hoạt động của Ban hội thẩm (Điều 12 DSU)
Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của mình để giúp DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp.
Về nghĩa vụ chứng minh của các bên: Theo tập quán hình thành từ GATT 1947, trường hợp khiếu kiện có vi phạm thì bên bị đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm của mình không gây thiệt hại cho Bên nguyên đơn; trường hợp khiếu kiện không có vi phạm thì bên nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi không vi phạm của Bên bị đơn gây ra thiệt hại về lợi ích mà bên nguyên đơn đáng lẽ phải được hưởng theo qui định của Hiệp định hoặc chứng minh sự cản trở đối với việc thực hiện một mục tiêu nhất định của Hiệp định. Đối với việc chứng minh các vấn đề khác, mặc dù DSU không có qui định cụ thể về việc này, một tập quán chung (vốn được áp dụng tại Toà án Quốc tế) đã được thừa nhận khá rộng rãi trong khuôn khổ cơ chế này là bên tranh chấp đã đưa ra một chi tiết hoặc thực tế thì phải có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ chứng minh cho chi tiết hoặc thực tế đó không phụ thuộc vào việc bên đó là nguyên đơn hay bị đơn trong tranh chấp.
Hoạt động của ban hội thẩm có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:
Trong vòng 1 tuần sau khi lập ra ban hội thẩm và thống nhất về điều khoản tham chiếu, thành viên ban hội thẩm phải tham vấn các bên có tranh chấp và định ra khung thời gian cho quy trình ban hội thẩm. Ban hội thẩm thông qua thời hạn chính xác cho các bên đệ trình văn bản bao gồm giải trình và các lập luận để chuẩn bị cho phiên xét xử đầu tiên, sau đó là phiên xét xử thứ hai có sự tham gia của các bên tranh chấp và luật sư trình bày lập luận của mình và trả lời câu hỏi của ban hội thẩm. Sau phiên xét xử thứ hai, Ban hội thẩm soạn thảo và chuyển đến các bên phần tóm tắt nội dung tranh chấp của báo cáo để các bên cho ý kiến trong một thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội thẩm đưa ra báo cáo giữa kỳ (mô tả vụ việc, các lập luận, kết luận của Ban hội thẩm). Nếu trong khoảng thời gian quy định trước các bên không có ý kiến thì báo cáo tạm thời này sẽ được coi là báo cáo cuối cùng và được nhanh chóng gửi cho các thành viên. Trong trường hợp các bên tiếp tục cho ý kiến về báo cáo này: Nếu có yêu cầu, Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề liên quan. Sau đó Ban hội thẩm soạn thảo báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên WTO và chuyển cho DSB thông qua. Trong trường hợp các bên có tranh chấp không đi đến một giải pháp thỏa mãn các bên, ban hội thẩm sẽ đưa ra kết luận của mình dưới hình thức một báo cáo bằng văn bản trình lên DSB. Trong những trường hợp này, báo cáo của ban hội thẩm phải chỉ ra các kết luận thực tế, khả năng áp dụng những điều khoản liên quan và lập luận cơ bản cho những kết luận và đề xuất của ban hội thẩm. Các hoạt động của ban hội thẩm trong giai đoạn này phải được bảo mật.
Một điểm khác biệt quan trọng giữa cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT và DSU là việc DSU đã có những quy định rất chặt chẽ về thời hạn cho những hoạt động của ban hội thẩm với mục tiêu giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, không để ứ đọng các vụ tranh chấp để tránh gây thiệt hại về kinh tế cho các bên tranh chấp.
Thông qua báo cáo của ban hội thẩm (Điều 16 DSU)
Để các thành viên có đủ thời gian xem xét báo cáo của ban hội thẩm, các báo cáo này chỉ được coi là đã được DSB thông qua sau 20 ngày kể từ ngày gửi cho các thành viên vì DSB không được xem xét các báo cáo này trong vòng 20 ngày kể từ ngày báo cáo được gửi đến các thành viên. Các thành viên phản đối báo cáo phải gửi văn bản đưa ra lý do, giải thích quan điểm của mình ít nhất 10 ngày trước cuộc họp DSB mà tại cuộc họp này báo cáo của ban hội thẩm sẽ được xem xét. Trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi báo cáo của ban hội thẩm cho các thành viên, báo cáo này phải được thông qua trừ khi một bên trong tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo của mình hoặc DSB quyết định đồng thuận không thông qua báo cáo. Nếu một bên thông báo quyết định kháng cáo của mình, báo cáo của ban hội thẩm sẽ không được DSB xem xét thông qua cho đến khi hoàn tất việc kháng cáo.
Rà soát của cơ quan phúc thẩm (Điều 17 DSU)
Việc rà soát phúc thẩm được DSU đưa vào là một chức năng mới nhằm nhấn mạnh “tính định hướng quy tắc” trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và làm đối trọng với “cải cách thủ tục” đại diện bởi sự đồng thuận tiêu cực. Trên thực tế, với cơ chế đồng thuận tiêu cực, các báo cáo của ban hội thẩm tự động được DSB thông qua trừ khi tất cả các Thành viên WTO (nghĩa là cả các bên có tranh chấp) không nhất trí. Một bước hướng tới “tư pháp hóa” hệ thống giải quyết tranh chấp cần có sự đảm bảo của một cơ quan có thẩm quyền và đáng tin cậy đại diện cho “cấp độ thứ hai” của tư pháp và cho phép các Thành viên WTO kháng cáo cơ sở pháp lý của các báo cáo của ban hội thẩm.
Chỉ các bên có tranh chấp chứ không phải các bên thứ ba mới có quyền kháng cáo báo cáo của ban hội thẩm. Một kháng cáo phải giới hạn ở các vấn đề luật liên quan trong báo cáo của ban hội thẩm và diễn giải pháp lý của ban hội thẩm. Theo thông lệ, Cơ quan Phúc thẩm phải đưa ra kết luận trong vòng 60 ngày sau khi một bên có kháng cáo. Nếu cần thiết, Cơ quan Phúc thẩm có thể gia hạn thêm 30 ngày, nhưng thủ tục này không bao giờ được vượt quá 90 ngày. Các bên không được quyền phản đối bản báo cáo này. DSB phải thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong vòng 30 ngày kể từ khi báo cáo được gửi, trừ khi DSB đồng thuận không thông qua báo cáo này.
Khuyến nghị các giải pháp và giám sát thực hiện các giải pháp đó của ban hội thẩm hoặc cơ quan phúc thẩm thường trực (Điều 19 & 21 DSU)
Khi báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một bên là vi phạm qui định của WTO, cơ quan ra báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc bên có biện pháp vi phạm phải tuân thủ qui định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp liên quan) và có thể đề xuất các cách (không bắt buộc) để các bên có thể thực hiện khuyến nghị đó.
Trong trường hợp khiếu kiện không vi phạm, bên thua kiện không phải rút lại biện pháp liên quan (vì không có vi phạm) nhưng báo cáo có thể khuyến nghị bên thua thực hiện các dàn xếp nhất định để thoả mãn các bên liên quan (báo cáo có thể đưa ra những gợi ý về biện pháp dàn xếp thoả đáng, ví dụ: bồi thường)
DSB cũng chính là cơ quan giám sát việc thực thi khuyến nghị của các Bên liên quan. Trong thời gian qui định cho việc thực hiện khuyến nghị, bất kỳ thành viên nào cũng có thể đưa vấn đề thực hiện khuyến nghị này vào chương trình nghị sự của DSB; mỗi khi có đề nghị như vậy thì Bên phải thực hiện khuyến nghị có nghĩa vụ giải trình bằng văn bản về việc thực hiện khuyến nghị của mình gửi cho DSB chậm nhất là 10 ngày trước khi tiến hành phiên họp của DSB.
Những thay đổi chính trong thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO
Thay đổi quan trọng nhất là việc áp dụng hình thức “đồng thuận phủ quyết”: những quyết định của ban hội thẩm (lúc ban đầu) và cơ quan phúc thẩm thường trực được mặc nhiên chấp nhận, trừ khi có một sự đồng thuận trong Cơ quan giải quyết tranh chấp để lật ngược các quyết định đó. Điều này có nghĩa là nếu có kháng cáo, thì cơ quan phúc thẩm thường trực sẽ có quyết định cuối cùng. Giả định là cơ quan phúc thẩm thường trực đưa ra các quy định hoàn toàn độc lập với áp lực của các quốc gia và không thiên vị một nước nào đó, các công ty và các chính phủ sẽ cân nhắc về “sự đánh giá” và “tiền lệ” của các trường hợp để quyết định có nên kiện ra WTO hay không. Điều đó có nghĩa là các trường hợp tranh chấp được đánh giá có khả năng chiến thắng lớn hơn và những tiền lệ chiến thắng cũng rõ ràng hơn sẽ được đưa ra giải quyết tại WTO. Ngược lại, phía bị đơn sẽ phải cân nhắc đến vấn đề này.
Một sự thay đổi khác kèm theo là khả năng xảy ra trả đũa rất cao khi phía bị đơn từ chối thực hiện phán quyết vi phạm. Trong khuôn khổ của GATT trước đây, bên thua kiện có thể dễ dàng cản trở phán quyết của ban hội thẩm hay yêu cầu trả đũa (Tại GATT, việc trả đũa chỉ xảy ra một lần duy nhất). Hiện nay, phán quyết “vi phạm” hay yêu cầu trả đũa đều không dễ dàng bị ngăn cản. Vì vậy, phía bị đơn, một khi đã nhận được một bản tuyên án vi phạm, phải chấp nhận khả năng bị trả đũa đã được WTO cho phép. Bên được phép trả đũa phải cân nhắc các yếu tố khác nhau khi quyết định trả đũa, ít nhất phải cân nhắc các ảnh hưởng đến kinh doanh của chính mình. Mối quan tâm rất thiết thực này cần được chú ý thậm chí là cả trong một hoàn cảnh phi thực tế. Một nền kinh tế lớn với một thị trường nhập khẩu phong phú có ý nghĩa quan trọng đối với phía bị đơn (ví dụ như nước Mỹ) khi đe doạ trả đũa sẽ có tác dụng nhiều hơn so với một nền kinh tế nhỏ với những ngành nghề yếu kém phụ thuộc vào hàng nhập khẩu.
Sự thay đổi lớn thứ ba là việc đẩy nhanh tiến trình giải quyết tranh chấp với một lịch trình thủ tục nghiêm ngặt của WTO trong khi các vụ kiện trong GATT có thể kéo dài mãi do các bên dựa vào các thủ thuật trì hoãn thời hạn. Những lợi ích lớn nhất có thể thấy rõ: tranh chấp được giải quyết càng nhanh thì bên thắng cuộc càng đạt được nhiều lợi ích còn các công ty bị vi phạm sẽ có động lực lớn hơn để giải quyết tranh chấp tại WTO và các công ty đang bào chữa cũng có động lực lớn hơn để thừa nhận sai phạm của mình.
Sự thay đổi thứ tư là sự bổ sung thủ tục kháng cáo. Cho dù cơ quan phúc thẩm thường trực có vẻ như không gạt bỏ hoàn toàn những quyết định của ban hội thẩm, thì việc sửa đổi từng phần vẫn thường diễn ra. Khi điều này được đưa ra, bên bị đơn (với thất bại tại bước hội thẩm) chắc chắn sẽ kháng cáo để hy vọng một phán quyết mềm dẻo hơn từ cơ quan phúc thẩm thường trực. Một minh chứng cho sự thay đổi này là các bên đã sử dụng rất thường xuyên thủ tục kháng cáo. Trong số 78 quyết định của ban Hội thẩm được đưa ra từ năm 1995 đến tháng 10/2003, đã có 53 trường hợp kháng cáo(chiếm 68%).
Thực hiện quyết định của Cơ quan giải quyết tranh chấp và áp dụng biện pháp trả đũa
Để bảo đảm là bên thua kiện sẽ thực hiện nghiêm túc quyết định của DSB và để tránh tình trạng ‘rơi vào im lặng’, WTO đề ra một cơ chế theo dõi và giám sát việc thực hiện quyết định trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua báo cáo của ban hội thẩm, bên thua kiện phải thông báo cho DSB tại buổi họp của DSB triệu tập biết về những biện pháp mà nước này dự định áp dụng để thực hiện khuyến nghị của ban hội thẩm. Nếu nước này vì lý do nào đó không thể thực hiện ngay khuyến nghị của nhóm chuyên gia thì DSB có thể cho phép nước này được thực hiện trong một thời hạn “hợp lý”. Và nếu trong thời hạn ‘hợp lý’ đó bên thua kiện vẫn không thể thực hiện được khuyến nghị của nhóm chuyên gia thì nước này có nghĩa vụ thương lượng với bên thắng kiện về mức độ bồi thường thiệt hại, ví dụ như giảm thuế quan đối với một sản phẩm nào đó có lợi cho bên thắng kiện.
Nếu trong vòng 20 ngày kể từ ngày chấm dứt thời hạn hợp lý, các bên tranh chấp không đạt được thoả thuận về mức độ bồi thường thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa, cụ thể là tạm ngưng việc cho bên thua kiện hưởng những nhân nhượng thuế quan hoặc tạm ngưng thực hiện những nghĩa vụ đối với bên thua kiện theo hiệp định có liên quan.
Biện pháp trả đũa phải tương ứng với mức độ thiệt hại và phải được thực hiện trong lĩnh vực thương mại mà bên thua kiện bị thiệt hại. DSU nghiêm cấm việc trả đũa đơn phương mà không có sự chấp thuận của cơ quan này (qui định này thực chất nhằm chấm dứt hiện tượng trả đũa đơn phương khá phổ biến trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT 1947). Mức độ và thời hạn trả đũa do DSB quyết định theo đúng thủ tục qui định cho vấn đề này trong DSU.
Để bảo đảm tính hiệu quả của các biện pháp trả đũa và rút kinh nghiệm từ các thời kỳ trước, WTO quy định trong trường hợp việc áp dụng biện pháp trả đũa mà lĩnh vực bị thiệt hại là không thực tế hoặc không có hiệu quả thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép trả đũa trong một lĩnh vực khác (trả đũa chéo). Chẳng hạn một nước đang phát triển sẽ khó có thể áp dụng một cách hiệu quả biện pháp trả đũa trong lĩnh vực thương mại hàng hoá đối với một nước phát triển nhưng nếu trả đũa trong lĩnh vực thương mại dịch vụ hoặc sở hữu trí tuệ thì có thể sẽ hiệu quả hơn. Hơn thế nữa, trong một số trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bên thắng kiện còn có thể yêu cầu DSB cho phép trả đũa trong những lĩnh vực thuộc các hiệp định thương mại khác với hiệp định thương mại mà bên thua kiện vi phạm.
Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng và trong trường hợp có tranh chấp về mức độ trả đũa, WTO cũng dành cho bên thua kiện quyền đưa tranh chấp nói trên ra giải quyết theo phương thức trọng tài. Quyết định trọng tài về vấn đề này là quyết định cuối cùng và có giá trị thi hành đối với tất cả các bên.
Quy tắc ứng xử của WTO cho Bản ghi nhớ về Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc Giải quyết Tranh chấp
Nguyên tắc điều chỉnh của các quy tắc ứng xử cho DSU nhấn mạnh rằng mỗi người thuộc diện điều chỉnh phải độc lập và không thiên vị, có trách nhiệm tránh các xung đột về lợi ích dù trực tiếp hay gián tiếp, và phải tôn trọng tính bảo mật về tiến trình thủ tục của các cơ quan trong cơ chế giải quyết tranh chấp. Thông qua việc tuân thủ các tiêu chuẩn ứng xử này, tính liêm chính và không thiên vị của cơ chế được đảm bảo. Các quy tắc không làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo DSU hay các quy tắc và thủ tục của DSU. Trong phạm vi nguyên tắc điều chỉnh của các quy tắc ứng xử, mọi người thuộc diện điều chỉnh phải tiết lộ thông tin, mà họ một cách hợp lý phải biết, vào thời điểm có khả năng ảnh hưởng hoặc phát sinh các mối nghi ngờ hợp lý liên quan đến tính độc lập hoặc không thiên vị của họ.
Phụ lục 2 của các Quy tắc ứng xử bao gồm một “danh sách mô tả các thông tin phải tiết lộ” có đề cập đến các ví dụ về thông tin thuộc loại mà một người được yêu cầu tham gia vào giải quyết một vụ tranh chấp có nghĩa vụ phải tiết lộ. Danh sách này bao gồm thông tin về: (a) lợi ích tài chính (ví dụ: đầu tư, vay nợ, cổ phiếu, các khoản lãi, các khoản nợ khác); (b) lợi ích kinh doanh (ví dụ: vị trí giám đốc hay các lợi ích trong hợp đồng khác); (c) lợi ích về tài sản có liên quan đến tranh chấp đang xem xét; (d) lợi ích chuyên môn (ví dụ: mối quan hệ hiện tại hay quá khứ với khách hàng tư nhân, hay bất kỳ lợi ích nào một người có thể có liên quan đến các thủ tục giải quyết trong nước hoặc quốc tế và các ảnh hưởng trong trường hợp các lợi ích này liên quan đến các vấn đề tương tự trong tranh chấp đang được giải quyết; (e) các lợi ích chủ động khác (ví dụ: chủ động tham gia vào các nhóm lợi ích công cộng hoặc các tổ chức khác có chương trình nghị sự công bố liên quan tới tranh chấp đang xem xét); (f) tuyên bố ý kiến cá nhân về những vấn đề liên quan tới tranh chấp đang xem xét (ví dụ: các công bố, tuyên bố với công chúng); (g) lợi ích về việc làm hay gia đình (ví dụ: khả năng có lợi thế không trực tiếp hoặc bất cứ dạng áp lực nào có thể phát sinh từ người sử dụng lao động, liên danh cộng sự kinh doanh hay thành viên gia đình.)
Trên thực tế, mỗi người thuộc diện điều chỉnh vào mọi thời điểm phải duy trì bảo mật về các cân nhắc và tiến trình thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như bất kỳ thông tin nào mà một bên coi là bí mật. Mọi người thuộc diện điều chỉnh và các Thành viên liên quan phải giải quyết các vấn đề liên quan đến việc vi phạm đáng kể có thể có đối với quy tắc ứng xử một cách nhanh chóng nhất có thể để không làm chậm chễ việc hoàn thành quá trình giải quyết tranh chấp.
ỨNG XỬ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
Ứng xử của các nước phát triển và đang phát triển đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
Trong một nghiên cứu được công bố vào năm 1985, Uỷ ban thương mại quốc tế của Mỹ (USIC) đã chỉ ra một số nguyên nhân làm cho các nước đang phát triển ít sử dụng đến Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, mà nguyên nhân phần lớn xuất phát từ bản thân nội lực của các nước:
-Thứ nhất, các nước đang phát triển không có đội ngũ chuyên gia pháp lý có chuyên môn và kinh nghiệm trong việc tham gia xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế và cũng không có khả năng tài chính để đi thuê các chuyên gia phương Tây;
-Thứ hai, tâm lý lo sợ rằng nếu đi kiện cáo các nước phát triển thì có khi họ phải chịu thiệt nhiều hơn là được lợi. Nguyên nhân chính của tâm lí lo sợ này là sự phụ thuộc vào thị trường và các nguồn giúp đỡ về tài chính của phương Tây khiến các nước đang phát triển rất ngại va chạm với các nước phát triển và nếu có tranh chấp thì các nước này chủ trương xử lý song phương, kín đáo và thường là sẵn sàng nhượng bộ;
-Thứ ba, các nước đang phát triển nhận thức được rằng cho dù họ có thắng kiện và dám dũng cảm áp đặt các biện pháp trả đũa hợp pháp chăng nữa thì cũng không đem lại hiệu quả và có thể có một ảnh hưởng đến cách cư xử của các nước phát triển;
-Thứ tư, tuy tham gia GATT ngay từ khi mới thành lập, nhưng các nước đang phát triển vẫn còn giữ thái độ lưỡng lự trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì đa số các nước này cho rằng cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng chỉ là một trong những công cụ của các nước phương Tây sử dụng để ép buộc các nước đang phát triển mở cửa thị trường, làm lợi cho các quốc gia phát triển trên thế giới.
Và do vậy, quan điểm chung của các nước đang phát triển đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trong khoảng 30 năm (từ 1948-1979) là “phớt lờ” cơ chế này. Trong khoảng thời gian này, số vụ kiện của các nước đang phát triển chỉ chiếm có 12% tổng số các vụ kiện tại GATT và đa số là kết thúc thông qua thương lượng trước khi nhóm chuyên gia của GATT thông qua báo cáo cuối cùng.
Chỉ đến thời kỳ sau Vòng đàm phán Tokyo, các nước đang phát triển, đặc biệt là một số nước NIC như Brazil, Mexico, Ấn Độ, Argentina mới thực sự quan tâm và sử dụng thường xuyên hơn cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Sự thay đổi này xuất phát từ những lý do sau.
-Thứ nhất, sự giảm sút của thương mại thế giới những năm 1970 do tác động của hai cuộc khủng hoảng dầu lửa đã dẫn đến việc trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển.
-Thứ hai, quá trình công nghiệp hoá tại một số nước đang phát triển đã đem lại những thành quả đầu tiên, nổi bật nhất là trong một số ngành sản xuất công nghiệp và chế biến, các nước NIC đã đạt được ưu thế cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của phương Tây và đã bắt đầu dư thừa năng lực sản xuất trong một số lĩnh vực như may mặc, điện tử dân dụng, thép. Các nước này bắt đầu nhận thức được cần phải sử dụng nhiều công cụ để tiếp cận thị trường tiêu thụ của các nước phương Tây và khi cần thiết sử dụng cả cơ chế giải quyết tranh chấp.
-Ngoài ra việc thành lập một bộ phận pháp lý (Legal Office) trực thuộc Ban thư ký GATT đã giúp cung cấp những trợ giúp kỹ thuật có hiệu quả cho các nước đang phát triển trong việc nghiên cứu về cơ cấu thể chế và pháp lý của GATT và tư vấn pháp lý cho các nước này trong quá trình chuẩn bị các tài liệu và thủ tục khiếu kiện.
Trong vòng 15 năm (1979-1994), số lượng các vụ kiện của các nước đang phát triển chống lại các nước phát triển đã tăng lên đến 25% tổng số các vụ kiện tại GATT (25/117 vụ).
Sự thay đổi chế độ áp dụng đối với các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Ở Vòng đàm phán Uruguay, Brazil đã đưa ra đề nghị cần thiết phải áp dụng nguyên tắc đối xử đặc biệt đối với các nước đang phát triển khi áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Đề nghị này đã được chấp nhận và thể hiện trong Thoả thuận về Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO. Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) đã đề cập đến địa vị đặc biệt của các thành viên WTO là các nước đang phát triển. Trong các quy định này, đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các thành viên là nước đang phát triển không có nghĩa làm giảm nhẹ nghĩa vụ, làm tăng các quyền về nội dung hoặc cho phép thời gian ân hạn, mà là thuật ngữ mang tính thủ tục. Cụ thể là:
- Trong tham vấn: Nếu tham vấn là biện pháp do một nước thành viên đang phát triển áp dụng thì các bên có thể đồng ý kéo dài thời hạn tham vấn thông thường. Nếu vào cuối giai đoạn tham vấn, các bên không thể đồng ý kết thúc tham vấn thì Chủ tịch DSB có thể kéo dài thời hạn tham vấn.
- Nếu nguyên đơn là thành viên đang phát triển thì trong thành phần của ban hội thẩm nhất thiết phải có một thành viên là công dân của một nước đang phát triển, trừ khi nước đang phát triển có liên quan không yêu cầu như vậy. Nếu bị đơn là nước thành viên đang phát triển thì các bên có thể thoả thuận kéo dài thời gian tham vấn và Ban Hội thẩm có trách nhiệm xác định các thời hạn về thủ tục phù hợp sao cho bên tranh chấp là nước đang phát triển có đủ thời gian để chuẩn bị và trình bày lập luận của mình.
- Các nước đang phát triển có thể yêu cầu Tổng giám đốc WTO đứng ra làm trung gian, hoà giải trong trường hợp có tranh chấp với nước phát triển;
-Thời gian để giải quyết tranh chấp với các nước đang phát triển có thể được kéo dài hơn so với quy định chung;
- Các nước phát triển cần có thái độ kiềm chế khi áp dụng các biện pháp trả đũa với bên thua kiện là nước đang phát triển;
- Các nước đang phát triển có thể được phép áp dụng các biện pháp trả đũa chéo đối với bên thua kiện là nước phát triển;
- Các nước đang phát triển có thể yêu cầu Ban Thư ký WTO trợ giúp pháp lý khi có tranh chấp;
- Các nước đang phát triển có thể áp dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp được Đại hội đồng GATT thông qua theo Quyết định ngày 5-4-1966
- Trong quá trình giám sát việc thực hiện các khuyến nghị và quyết định, DSB cần chú ý đến các ảnh hưởng mà khuyến nghị có thể gây ra đối với lợi ích của các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển đã nhanh chóng nhận thức được lợi ích từ việc sử dụng Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và chỉ sau gần 5 năm, các nước đang phát triển đã trở thành nhóm các nước sử dụng nhiều nhất cơ chế giải quyết tranh chấp mới của WTO. Tính đến ngày 31-12-1998, các nước đang phát triển dẫn đầu số lượng các vụ kiện (37%) nhiều hơn Mỹ (34%) và EU (21%) và 80% trong số đó kết thúc thắng lợi. Có thể nói Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được các nước đang phát triển sử dụng như một công cụ có hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại với các nước phát triển.
Các nước đang phát triển đã nhanh chóng nhận thức được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và chỉ sau gần 5 năm, các nước đang phát triển đã trở thành nhóm các nước sử dụng nhiều nhất cơ chế giải quyết tranh chấp mới của WTO. Tính đến ngày 31-12-1998, các nước đang phát triển dẫn đầu số lượng các vụ kiện (37%) nhiều hơn Mỹ (34%) và EU (21%) và 80% trong số đó kết thúc thắng lợi. Có thể nói Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được các nước đang phát triển sử dụng như một công cụ có hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại với các nước phát triển.
Khó khăn của các nước đang phát triển khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
-Vấn đề tài chính là vấn đề lớn nhất mà các nước đang phát triển phải đối mặt khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Đó là chi phí tư pháp phải trả khi tham gia kiện, là những tổn thất về lợi ích kinh tế và thương mại mà các nước này phải gánh chịu trong suốt quá trình tranh chấp đang được giải quyết. Thậm chí, trong trường hợp nước đang phát triển là nguyên đơn thắng kiện thì cũng không nhận được bất kỳ khoản bồi thường nào cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu trong suốt thời gian bị đơn thực hiện phán quyết.
- Thiếu nguồn nhân lực với các kiến thức chuyên môn cụ thể về giải quyết tranh chấp của WTO. Do vậy, thông thường các nước đang phát triển thường phải đi thuê các chuyên gia về pháp lí và thương mại từ các nước phát triển khác nên thường bị thiệt thòi hơn rất nhiều.
HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
Ưu điểm
-Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ có lợi nhiều cho các nước đang phát triển vì nó thông thoáng hơn, ít tốn thời gian, trên cơ sở tự động và có tính ràng buộc. Thông thường, bước đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp là quá trình tham vấn của các bên có tranh chấp thương mại. Nếu quá trình tham vấn này không giải quyết được mâu thuẫn của hai bên thì một ban hội thẩm sẽ được tự động thành lập. Nếu hai bên không nhất trí với quyết định cuối cùng của ban hội thẩm thì họ có thể đưa lên cơ quan phúc thẩm thường trực. Khoảng thời gian giữa các công đoạn được quy định rõ ràng và chặt chẽ để tránh tình trạng xử kiện kéo dài. Quyết định cuối cùng của cơ quan phúc thẩm thường trực hoặc ban hội thẩm chỉ có thể bị bác bỏ bằng sự đồng thuận của tất cả các thành viên, sự phủ quyết đơn lẻ của một thành viên là không có hiệu lực.
-Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương không cho phép các nước phát triển áp đặt luật của mình trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
-Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp được tiến hành thận trọng, qua hai bước bởi các cơ quan Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, đảm bảo giải quyết một cách chính xác các tranh chấp. Đây là lần đầu tiên trong một cơ chế tài phán giải quyết tranh chấp quốc tế xuất hiện một Cơ quan Phúc thẩm với các cơ hội xem xét lại quyết định ban đầu, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp.
-Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ về thời gian, tạo ra sự nhanh chóng, hiệu quả kịp thời của các biện pháp giải quyết tranh chấp.
-Thứ năm, như đã trình bày ở trên, nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết” là sự thay đổi lớn nhất về thủ tục giải quyết các tranh chấp của WTO, và đây cũng là một ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, nó cho phép các báo cáo được thông qua dễ dàng, tránh sự thao túng của các nước phát triển vào việc giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc này khắc phục được nhược điểm cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT 1947 nơi áp dụng nguyên tắc đồng thuận truyền thống - mọi quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các thành viên bỏ phiếu thông qua (mỗi thành viên đều có quyền phủ quyết quyết định) – một rào cản trong việc thông qua các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp.
-Thứ sáu, trong các quy định của DSU nổi bật lên là thủ tục dành riêng cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển để tạo điều kiện cho các nước này bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế.
Nhược điểm
-Nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết” là một nguyên tắc có hai mặt tích cực và tiêu cực. Điểm tiêu cực ở đây chính là việc thông qua quá dễ dàng các báo cáo một phần sẽ làm cho việc chuẩn bị báo cáo và thực hiện nó trở nên kém quan trọng vì báo cáo đó chắc chắn sẽ được thông qua khi đưa ra phiên họp toàn thể.
-Như đã phân tích ở các phần trước, có thể thấy rằng việc thực hiện không hiệu quả các biện pháp trả đũa là một nhược điểm khá lớn đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khi nước thành viên thực hiện các biện pháp trả đũa là thành viên đang phát triển đối với thành viên phát triển. Nhiều khi bên vi phạm không thực hiện các phán quyết cuối cùng của cơ quan giải quyết tranh chấp, hay thậm chí là chấp nhận biện pháp trả đũa của bên thắng kiện áp dụng cho mình vì đó chỉ là những nước nhỏ, kém phát triển hơn và không phải là đối tác quan trọng. Trong đa số trường hợp, do sức ép chính trị, văn hóa – xã hội và kinh tế hoặc dù có tiếp tục trả đũa cũng không có tác dụng tích cực gì cho họ mà các thành viên đang phát triển không thể thực hiện tiếp biện pháp trả đũa.
- Trong những năm gần đây, do cơ chế giải quyết tranh chấp ngày càng trở nên thiên về kỹ thuật (pháp lí, kinh tế-thương mại,…) đòi hỏi các nước đang phát triển phải có sự chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt khi bên bị kiện là các nước phát triển. Đối với một số nước đang phát triển, quá trình thuần tuý mang tính kỹ thuật này rất khó đáp ứng do hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức cũng như tài chính.
-Các quy định được xem như sự ưu tiên của WTO đối với các nước đang phát triển tỏ ra mờ nhạt, chỉ là những tuyên bố chung chung chứ chưa có quy định cụ thể thực tế nào, chưa bảo vệ được quyền lợi của các nước đang phát triển trong các vụ kiện với các nước phát triển.
XEM XÉT CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO VÀO VỤ KIỆN TÔM ĐÔNG LẠNH CỦA VIỆT NAM
Trong hoàn cảnh kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài, xuất khẩu Việt Nam đang gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Các ngành sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam cùng lúc phải đối mặt với hai nguy cơ lớn tại các thị trường xuất khẩu:
-Thứ nhất là sự sụt giảm số lượng các đơn hàng (do nhu cầu tiêu dùng giảm)
-Thứ hai là nguy cơ bị nước nhập khẩu áp dụng các rào cản ngày một lớn (do Chính phủ nhiều nước đang có xu hướng bảo hộ nhiều hơn nhằm hỗ trợ các ngành sản xuất nội địa đang gặp khó khăn của họ). Nguy cơ này có thể khiến những nỗ lực của doanh nghiệp và hỗ trợ của Chính phủ trong việc vượt qua khó khăn, tiếp tục xuất khẩu để đối phó với sự sụt giảm số lượng đơn đặt hàng trở nên không hiệu quả hoặc hiệu quả hạn chế.
Việt Nam đã từng là bị đơn trong vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa với Hoa Kỳ - sự thể hiện của cơ chế bảo hộ của Hoa Kỳ đối với những nhà sản xuất cá da trơn trong nước. Nhưng đến tháng 11-2004, khi Bộ Thương mại Mỹ ra quyết định cho rằng Việt Nam bán phá giá tôm đông lạnh và đóng hộp trên thị trường Mỹ và áp mức thuế chống bán phá giá với các nhà xuất khẩu tôm VN từ 4,13-25,76%, thì Việt Nam không thể làm ngơ. Nửa đầu năm 2009, sau khi Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN (VASEP) có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp với phía Mỹ qua cơ chế của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tới Bộ Công thương, Bộ NN&PTNT... thì Chính phủ đồng ý tiến hành giải quyết tranh chấp qua cơ chế WTO theo đề nghị của VASEP.
Việc khởi kiện một quốc gia khác ra trước cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO khi có cơ sở để cho rằng quốc gia đó vi phạm quyền lợi của mình là hoàn toàn phù hợp với qui định của WTO. Hoa Kỳ và Việt Nam đều là quốc gia thành viên của tổ chức thương mại này nên một cách tất yếu cả hai đều bình đẳng với nhau trong việc khiếu kiện theo các thủ tục của WTO. Đây là lần đầu tiên Việt Nam chủ động tiến hành khiếu kiện một vụ việc dạng này ra trước WTO và trở thành nguyên đơn trong một vụ kiện với Hoa Kỳ.
Những vấn đề khởi kiện của Việt Nam.
Các chuyên gia cho rằng Việt Nam có thể cân nhắc kiện Hoa Kỳ vi phạm các quy định của Hiệp định về chống bán phá giá của WTO ít nhất là về các vấn đề trong khuôn khổ điều tra rà soát lần 2 thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam sau:
- Vấn đề 1 : Phương pháp quy về 0 (zeroing) sử dụng trong tính toán biên độ phá giá;
- Vấn đề 2 : Phương pháp ký quỹ liên tục ;
- Vấn đề 3: Phương pháp xác định thuế suất thuế chống bán phá giá cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn và việc áp dụng mức thuế suất toàn quốc (country-wide rate).
Đưa cả ba vấn đề trên ra kiện đồng nghĩa Việt Nam đã có những suy nghĩ riêng của mình. Việt Nam có thuận lợi trong hai điều kiện đầu tiên là đã có những nước thắng vụ kiệnvới Hoa Kỳ trong vấn đề tương tự, tạo ra một tiền đề thuận lợi để Việt Nam có cơ hội thắng kiện; còn đối với vấn đề thứ ba thì chưa có một tiền lệ nào để khẳng định chắc chắn Việt Nam sẽ thắng kiện. Cụ thể là:
-Đối với vấn đề đầu tiên, phương pháp sử dụng zeroing trong điều tra rà soát thuế chống bán phá giá là một thông lệ được Hoa Kỳ sử dụng thường xuyên và ổn định trong nhiều vụ điều tra chống bán phá giá. Nội dung của phương pháp này là khi tính toán biên độ phá giá chung, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) chỉ tính các biên độ phá giá có giá trị dương (lớn hơn 0), biên độ phá giá có giá trị âm sẽ được tự động chuyển về thành 0. Với phương pháp này, biên độ phá giá được tính toán sẽ cao hơn, từ đó mức thuế chống bán phá giá cũng bị đội lên rất nhiều.
EU mới đây đã kiện Hoa Kỳ ra WTO về vấn đề này (vụ kiện DS294) và đã đạt được kết quả khả quan theo đó cả Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm đều kết luận việc Hoa Kỳ sử dụng phương pháp này trong 29 lần rà soát định kỳ thuế chống bán phá giá đối với nhiều hàng hóa của EU. Ngoài ra, nhiều nước khác như Thái Lan, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã khởi xướng vụ kiện về phương pháp zeroing mà Hoa Kỳ sử dụng trong các điều tra ban đầu (với cùng tính chất) cũng cho kết quả tương tự.
Vì vậy nếu Việt Nam kiện Hoa Kỳ về vấn đề này, khả năng thắng sẽ rất lớn bởi mặc dù không bị ràng buộc bởi các quyết định đã có trước đó về vấn đề liên quan, các ban hội thẩm đều xem xét rất kỹ các quyết định liên quan đã có, đặc biệt khi chúng không mâu thuẫn nhau. Điều này càng ý nghĩa hơn đối với trường hợp kết luận của Cơ quan Phúc thẩm bởi cơ quan này luôn cố gắng duy trì sự ổn định, tiếp nối tương đối trong thành phần và quan điểm của mình giữa các vụ kiện.
-Đối với vấn đề thứ hai, phương pháp ký quỹ liên tục của Hoa Kỳ đòi hỏi các nhà nhập khẩu phải đặt cọc trước toàn bộ số tiền tương ứng với số thuế chống bán phá giá sẽ áp cho tôm nhập khẩu của Việt Nam trong cả năm. Điều này cản trở các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đặt hàng từ Việt Nam đặc biệt khi tôm đông lạnh từ các nước khác không phải chịu yêu cầu này do đã thắng kiện ở WTO về vấn đề này.
Một minh chứng cụ thể là Thái Lan và Ấn Độ đã kiện Hoa Kỳ ra WTO (DS343, DS345) về việc sử dụng phương pháp này trong vụ kiện chống bán phá giá tôm nước ấm nhập khẩu (có cùng nội dung vụ kiện với Việt Nam với những đặc điểm giống với Việt Nam). Các Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đã có kết luận Hoa Kỳ vi phạm WTO về vấn đề này. Vì vậy, nếu Việt Nam kiện Hoa Kỳ về phương pháp ký quỹ liên tục, khả năng thắng là rất lớn.
-Vấn đề thứ ba là vấn đề chưa được kiện ra WTO và cũng chưa có tiền lệ của ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm thường trực nên cũng chưa chắc chắn về khả năng thắng kiện của vấn đề này nhưng có lẽ phía Việt Nam sẽ dựa vào việc Hoa Kỳ vi phạm Hiệp định chống bán phá giá ADA để đưa ra lí lẽ của mình.
Quá trình theo kiện của Việt Nam trong vụ kiện tôm đông lạnh.
11-2004: Bộ Thương mại Mỹ ra quyết định cho rằng Việt Nam bán phá giá tôm đông lạnh và đóng hộp trên thị trường Hoa Kỳ và áp mức thuế chống bán phá giá với các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam từ 4,13-25,76%.
Đầu năm 2009: Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp với phía Hoa Kỳ qua cơ chế của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tới Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.
Giữa năm 2009: Chính phủ đồng ý tiến hành giải quyết tranh chấp qua cơ chế WTO theo đề nghị của VASEP.
1-2-2010: Việt Nam gửi WTO yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ về việc nước này áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với các sản phẩm tôm đông lạnh của VN, cụ thể là đề nghị trao đổi một số vấn đề về “kết quả xem xét hành chính của vụ kiện chống bán phá giá tôm” liên quan tới việc tuân thủ Điều I, II, VI:1 và V:2 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) 1994; Điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.4, 6.8,6.10, 9.1, 9.4, 11.2, 11.3, 18.1 và 18.4 Phụ lục II của Hiệp định chống bán phá giá; Điều XVI:4 của Hiệp định thành lập WTO và Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
23-3-2010: Việt Nam và Hoa Kỳ tiến hành tham vấn, tuy nhiên hai bên không đạt được giải pháp chung. Vì vậy, Việt Nam đề nghị WTO thành lập một ban hội thẩm để xem xét vấn đề này.
26-7-2010: WTO chỉ định thành viên ban hội thẩm sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ không thể nhất trí với nhau về thành phần ban hội thẩm sau 60 ngày thảo luận và Việt Nam đã đề nghị Tổng Giám đốc WTO chỉ định các thành viên Ban Hội thẩm.
Các thành viên của ban hội thẩm gồm ông Mohammad Saeed, tham tán phái đoàn thường trực của Pakixtan tại WTO; bà Deborah Milstein, thuộc Bộ Công nghiệp, Thương mại và Lao động Ixraen và ông Ian Iain Sandford, Giám đốc Tập đoàn thương mại quốc tế Ôxtrâylia.
20-8-2010: Việt Nam nộp cho Ban hội thẩm giải quyết tranh chấp của WTO bản đệ trình vụ kiện Hoa Kỳ.
20-10-2010: Ban hội thẩm bắt đầu xét xử bằng phiên xét xử lần đầu tiên tại trụ sở của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ở Gevena.
15-12-2010: Phiên xét xử lần thứ hai tiếp tục diễn ra tại Geneva, kết thúc phần tranh tụng của hai bên trong vụ kiện này.
Hai bên trình bày bằng văn bản và tranh cãi bảo vệ lý lẽ của mình trước Ban hội thẩm. Các chứng cứ và lập luận pháp lý của Việt Nam tập trung phản đối Hoa Kỳ áp dụng cách tính “quy về 0”- một thông lệ được Washington sử dụng thường xuyên trong nhiều vụ kiện chống phá giá. Phương pháp này tạo ra biên độ phá giá lớn cho sản phẩm, làm mức thuế bị đội lên, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm đông lạnh của Việt Nam.
Việt Nam cũng nhấn mạnh quy tắc “thuế suất toàn quốc” mà Hoa Kỳ áp dụng trong quá trình rà soát lại thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam là trái với tinh thần và lời lẽ của Hiệp định chống bán phá giá ADA và Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
Và đến tháng 4-2011 tới đây, ban hội thẩm sẽ ra báo cáo cuối cùng với kết luận của mình về vụ kiện.
5-2011: tức là ba tuần sau khi trao báo cáo cuối cùng cho hai bên tranh chấp, ban hội thẩm sẽ thông báo cho tất cả các nước thành viên WTO kết quả của vụ kiện.
Tuy vụ kiện này chưa kết thúc nhưng từ quá trình trên có thể thấy rằng Việt Nam đang thực hiện các bước của vụ kiện tôm một cách thận trọng, đúng nguyên tắc, theo đúng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, đảm bảo quyền và lợi ích của một thành viên WTO. Tùy vào kết quả ban hội thâm sẽ đưa ra trong một vài tháng tới mà những bước tiếp theo của quá trình kiện tụng của Việt Nam sẽ diễn ra. Nhưng từ những phân tích trên và những phân tích của các chuyên gia pháp luật và kinh tế - thương mại, nếu Việt Nam giành chiến thắng trong lần đầu tiên đi kiện quốc tế này thì những lợi ích mà Việt Nam có được sẽ không nhỏ, xét cả về góc độ ngành sản xuất, xuất khẩu tôm, cộng đồng doanh nghiệp cũng như vị thế của Chính phủ Việt Nam. Theo VASEP và các luật sư tư vấn, vụ kiện thành công có thể đem lại lợi ích to lớn cho khả năng cạnh tranh của tôm đông lạnh Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ do không phải đặt cọc tiền chống bán phá giá. Nếu Việt Nam thắng kiện, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế rà soát lần 2 (POR 2) bằng 0, thay cho mức thuế hiện nay từ 4,13 đến 25,75% tùy đơn hàng. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể được thoát hoàn toàn khỏi thuế chống bán phá giá do 3 lần rà soát liên tục có kết quả 0%. Các vấn đề khởi kiện nói trên không chỉ liên quan đến vụ kiện tôm của Việt Nam mà còn là phương pháp được Hoa Kỳ áp dụng cho tất cả các vụ kiện trong tương lai đối với hàng hóa khác của Việt Nam, sẽ là bài học kinh nghiệm đầu tiên cho Việt Nam khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật thương mại quốc tế - Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội – Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội 2005.
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO – Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Trang, Ban pháp chế, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – nguồn: thuvienphapluat.com
Trang web: trungtamwto.vn
Bài “Tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO từ góc độ các nước đang phát triển” – tác giả Lan Hương, trang web: baocongthuong.com.vn
Kết quả tư vấn đề xuất kiện ra WTO các biện pháp chống bán phá giá áp dụng đối với tôm Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ - Hội đồng tư vấn về chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ (TRC), 2/2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và xem xét vào vụ kiện tôm đông lạnh của Việt Nam.doc