Muc lục
Trang
Chương I : Khái niệm giai cấp công nhân 1
Chương II : Những chuyển biến của giai cấp công nhân Việt Nam 3
Chương III: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam 10
Tài liệu tham khảo 16
Chương I
Khái niệm giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thể kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như những cụm đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như htế nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp hoá ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Căn cứ hai thuộc tính nói trên chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tíng chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
Ở Việt Nam, Giai cấp công nhân ra đời đầu thể kỉ XX do chính sách khai thác thuộc địa của tư bản thực dân Pháp. Trong thời kì này, dưới sự bóc lột của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam mang cả hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân. Sau khi lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dưng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì giai cấp công nhân Việt Nam là những người nắm trong tay tư liệu sản xuất và chỉ mang đăc trưng chủ yếu bằng thuộc tính thứ nhất của giai cấp công nhân. Cho đến nay tuy giai cấp công nhân đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn có nhiều nhược điểm: số lượng ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp
NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ ***********
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3417 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về công nhân Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Muc lục
Trang
Chương I : Khái niệm giai cấp công nhân 1
Chương II : Những chuyển biến của giai cấp công nhân Việt Nam 3
Chương III: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam 10
Tài liệu tham khảo 16
Chương I
Khái niệm giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thể kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp… như những cụm đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như htế nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp hoá ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Căn cứ hai thuộc tính nói trên chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tíng chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
Ở Việt Nam, Giai cấp công nhân ra đời đầu thể kỉ XX do chính sách khai thác thuộc địa của tư bản thực dân Pháp. Trong thời kì này, dưới sự bóc lột của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam mang cả hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân. Sau khi lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dưng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì giai cấp công nhân Việt Nam là những người nắm trong tay tư liệu sản xuất và chỉ mang đăc trưng chủ yếu bằng thuộc tính thứ nhất của giai cấp công nhân. Cho đến nay tuy giai cấp công nhân đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn có nhiều nhược điểm: số lượng ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp…
Chương II
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam
Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rừ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đó đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đó cú bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn vào quá trỡnh đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp công nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức, những con số khảo sát dưới đây thực sự là những vấn đề rất đáng để chúng ta suy ngẫm.
Chất lượng nguồn nhân lực - thỏch thức của quỏ trỡnh phỏt triển. Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dũng vốn đầu tư nước ngoài và xu thế phát triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân nước ta đang bộc lộ dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Tỡnh trạng thiếu hụt lao động có tay nghề cao và cỏc chức danh quản lý cú trỡnh độ đang là hiện thực. Số liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho thấy, 72,55% công nhân lao động trong các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 - 35. Tuyệt đại bộ phận đều là học sinh phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động phổ thông chiếm đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của công việc đang đảm nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có bằng cấp. Số đó qua đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đó được đào tạo, tỷ lệ có tay nghề cao cũng rất ít. Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ 66,51%, bậc 4 - 5 chiếm tỷ lệ 25,01%, bậc 6 và 7 chiếm chỉ có 6,88%. Không cần phải cảnh báo, với tốc độ thu hút FDI và xu thế phát triển như 2 năm gần đây (2006 - 2007), vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Ý thức giai cấp và phẩm chất chính trị của đội ngũ công nhân còn thấp. Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xó hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của tỡnh hỡnh thế giới, nhiều cụng nhõn lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xó hội chủ nghĩa, vai trũ vị trớ của giai cấp cụng nhõn...
Khảo sát tại Đồng Nai cho thấy: 95% công nhân trả lời chỉ quan tâm đến việc làm và thu nhập, có 40% công nhân được hỏi có quan tâm tới vấn đề định hướng xó hội chủ nghĩa, 3,5% cụng nhõn khụng trả lời. Tỷ lệ cụng nhõn là đảng viên rất thấp, năm 2003 là 7,69%, năm 2004 là 8,18%, năm 2005 là 6,87%. Tổ chức đảng được đánh giá là hoạt động tốt chỉ chiếm 35,7%, Công đoàn 45,5%, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chỉ có 24,6%, Hội Cựu chiến binh 5,9%. Cũng theo số liệu khảo sát tại 13 doanh nghiệp khác nhau với 5.400 công nhân, cho thấy chỉ có 38,2% công nhân thường xuyên được học tập các nghị quyết của Đảng. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ 51,9%, doanh nghiệp liên doanh 40%, công ty cổ phần 37,5%, công ty tư nhân 32,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 24,9%. Bản thân công nhân cũng không thường xuyên cập nhật thông tin. Khảo sát 100 cụng nhõn Cụng ty Giầy Thỏi Bỡnh về WTO chỉ cú 10% trả lời cú nghe núi về WTO nhưng không hiểu WTO là gỡ.
Rừ ràng, nếu bản thõn người công nhân chưa giác ngộ về mục tiêu lý tưởng, non yếu về bản lĩnh chính trị cộng với trách nhiệm của các cấp và công tác đào tạo chăm lo như hiện nay, thỡ sẽ rất khú vượt qua được áp lực của toàn cầu hóa và hội nhập.
Cường độ lao động, việc làm, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần đang xuất hiện nhiều vấn đề nghịch lý. Nước ta hiện đang thuộc nhóm quốc gia có số lượng lao động thất nghiệp cao, nhiều công nhân thiếu việc làm. Tuy thiếu việc làm nhưng nhỡn chung cường độ làm việc của công nhân tại các doanh nghiệp lại rất căng. Hầu hết các doanh nghiệp đều tăng ca để bảo đảm kế hoạch và tăng doanh thu. Điều đáng nói là Luật Lao động quy định công nhân làm việc không quá 200h/người/năm, nhưng trong nhiều doanh nghiệp công nhân đó phải làm việc bỡnh quõn tới 500 - 600h/người/năm.
Ở khía cạnh đời sống, tuy người công nhân vẫn đang chấp nhận được với mức lương hiện nay, nhưng không phải lĩnh vực này không có vấn đề. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước, thu nhập của khối cán bộ, công chức hành chính, giáo dục bỡnh quõn 1,3 triệu/người/tháng; khối doanh nghiệp nhà nước 1,425 triệu/người/tháng; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1,4 triệu/người/tháng; khối văn phũng và cụng nhõn kỹ thuật cao 4 triệu/người/tháng. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1,15 triệu/người/tháng. Ở cỏc tỉnh Bỡnh Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu...cũng cú những số liệu khụng mấy cỏch biệt.
Không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt siêu lợi nhuận, nhưng công nhân Việt Nam vẫn chỉ nhận được những đồng lương rất ít ỏi. Như vậy, nếu so với đóng góp chung và với cường độ lao động hiện nay, cộng với sự tăng lên của giá cả và các loại dịch vụ, đời sống của công nhân lao động trực tiếp sản xuất vẫn cũn rất nhiều khú khăn.
Đời sống vật chất là như vậy, điều kiện làm việc về tinh thần cũn đáng lo ngại hơn thế nhiều. Phải khẳng định nhiều doanh nghiệp chưa thực sự chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân tương xứng với quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Số lượng các khu công nghiệp gia tăng rất nhanh, nhưng đến nay chỉ có khoảng 2% công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất được thuê nhà ở do các doanh nghiệp xây dựng. Tuyệt đại bộ phận cũn lại phải tự lo thuờ lấy nhà ở trong những điều kiện chật chội, thiếu thốn, không đủ tiện nghi sinh hoạt và điều kiện an sinh tối thiểu về văn hóa, thẩm mỹ và môi trường sống. Cũn ở tại cỏc doanh nghiệp, điều kiện làm việc cũng không như mong muốn. Do đa phần công nghệ thiết bị ở nước ta thuộc thế hệ cũ, người lao động phải làm việc trong môi trường ô nhiễm như nóng, bụi, tiếng ồn, độ rung... vượt tiêu chuẩn quy định. Điều kiện làm việc không bảo đảm đó tỏc động xấu đến sức khỏe công nhân lao động, hậu quả là bệnh nghề nghiệp gia tăng và diễn biến phức tạp. Tuổi nghề của người công nhân đang có khuynh hướng rút ngắn đáng kể. Theo thống kê của ngành bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh, mười tháng đầu năm 2006 có 58.000 người nộp đơn xin trợ cấp một lần để được nghỉ việc vỡ khụng đủ sức khỏe làm việc đến lúc được hưởng chế độ hưu trí.
Ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có công trỡnh và những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa tối thiểu cho công nhân. Theo một kết quả điều tra xó hội học tại Bỡnh Dương có đến 71,8% công nhân không hề đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trớ bằng Ti vi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng Internet. Nguyờn nhõn của tỡnh hỡnh trờn đều do công nhân không có đủ thời gian và bản thân các khu công nghiệp cũng không có đủ cơ sở vật chất để đáp ứng.
Thực trạng trên đây đó dồn nộn làm bựng nổ cỏc cuộc đỡnh cụng lan rộng và rất khú kiểm soỏt như hiện nay. Nếu từ 1995 đến 2005 tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh có 437 vụ đỡnh cụng (bỡnh quõn 40 vụ/năm), riêng 6 tháng đầu năm 2006 đó cú 303 vụ. Cú những vụ số lượng tham gia đến hàng nghỡn người, nhiều vụ kéo dài từ 1 - 2 ngày. Xu hướng cho thấy các cuộc đỡnh cụng tự phỏt ngày càng gia tăng và lan rộng, tính chất gay gắt, phức tạp khó lường. Đỡnh cụng trở thành hiện tượng phổ biến ở tất cả các thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp nhà nước là 6,9%, doanh nghiệp tư nhân 30%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất 66,5%. Nguyên nhân của các cuộc đỡnh cụng phần lớn đều xuất phát từ phía người sử dụng lao động không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật: Không trả lương đúng bảng lương đó đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, hà khắc trong quản lý điều hành, điều kiện lao động không bảo đảm vệ sinh tối thiểu, tiền phụ cấp độc hại thấp, không đóng bảo hiểm xó hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân... Đáng nói hơn cả là tỷ lệ ký kết các hợp đồng lao động với công nhân rất thấp. Nếu có ký chủ yếu cũng chỉ là các hợp đồng ngắn hạn. Hiện nay mới chỉ có 21% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xó hội cho cụng nhõn, 69% cũn lại chưa được bảo đảm về những quyền lợi tối thiểu.
Vai trũ của cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội trong phong trào cụng nhõn. Cùng với sự nghiệp đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đó cú sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, chưa bao giờ chúng ta có lực lượng công nhân đông đảo như hiện nay. Tính đến cuối năm 2005, tổng số công nhân lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đó lờn đến 11,3 triệu người. Trong đó doanh nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước 2,95 triệu, tăng 6,86 lần; 1,3 triệu công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần; doanh nghiệp cá thể 5,29 triệu, tăng 1,63 lần so với 1995.
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,67%; 33,33% cũn lại làm việc trong lĩnh vực cụng nghiệp và tiểu thủ cụng nghiệp.
Các số liệu trên đây cho thấy, đội ngũ và cơ cấu giai cấp công nhân tăng nhanh, nhưng công tác phát triển đảng và vai trũ của Cụng đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong công nhân chưa tương xứng, thậm chí rất mờ nhạt.
Núi giai cấp cụng nhõn là giai cấp lónh đạo cách mạng, nhưng nhiều công nhân chưa muốn vào Đảng. Công tác phát triển đảng trong công nhân rất chậm, không có mục tiêu, kế hoạch và định hướng chiến lược cụ thể. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng các tổ chức đảng. Những nơi có tổ chức đảng thỡ lỳng tỳng trong cụng tỏc tổ chức và phương thức hoạt động, chất lượng đảng viên, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp loại hỡnh này đa phần là yếu kém.
Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong phong trào công nhân cũng đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc. Đoàn, hội là lực lượng xung kích và là trường học giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên công nhân, nhưng nhiều năm qua, tổ chức đoàn, hội cũng chưa có bước chuyển thích hợp. Hỡnh thức tổ chức và tập hợp thanh niờn cụng nhõn của đoàn, hội chưa thực sự hấp dẫn, chưa phù hợp với cuộc sống và nhu cầu của tuổi trẻ trước những đổi thay phong phú, đa dạng của đời sống thực tiễn. Nhiều cuộc đỡnh cụng, bói cụng tự phỏt liờn tiếp diễn ra trong cỏc doanh nghiệp thời gian qua chưa thấy rừ vai trũ của tổ chức Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên công nhân. Nếu đoàn và hội không là người đi tiên phong bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên, không là chỗ dựa vững chắc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, là nơi gửi gắm tỡnh cảm, niềm tin, đoàn và hội sẽ không tập hợp và tổ chức được thanh niên.
Tổ chức công đoàn cũng đang đặt ra nhiều vấn đề. Theo báo cáo của các nhà khoa học, từ năm 1995 - 2006 đó cú 700 cuộc đỡnh cụng diễn ra ở cỏc doanh nghiệp khụng cú tổ chức cụng đoàn. Chúng ta không phủ định thời gian qua tổ chức công đoàn đó làm được rất nhiều việc. Nhờ có các tổ chức công đoàn đời sống và quyền lợi của công nhân được bảo đảm và nâng lên rừ rệt. Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận, hoạt động công đoàn đang đứng trước những thách thức rất lớn, nhất là tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm, gần như hoạt động của các tổ chức công đoàn vẫn mang nặng đặc trưng chung của thời bao cấp. Bệnh hỡnh thức chủ nghĩa vẫn là phổ biến. Nhiều tổ chức cụng đoàn chưa thực sự đứng về phía những người lao động, bởi cán bộ công đoàn do doanh nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự quản lý, lónh đạo trực tiếp của chủ doanh nghiệp. Các cuộc đỡnh cụng, bói cụng thời gian qua, ngoài những nguyờn nhõn khỏch quan, cũn cú một nguyờn nhõn thực tế khỏc, đó là sự yếu kém của các tổ chức công đoàn. Hàng loạt các vấn đề bức xúc nảy sinh giữa giới chủ và công nhân không được các tổ chức công đoàn phát hiện hũa giải kịp thời. Nhiều vụ việc cụng nhõn bị ngược đói, trự dập khụng cú nhiều tổ chức cụng đoàn lên tiếng bênh vực, bảo vệ. Tổ chức công đoàn đang có dấu hiệu thoát ly khỏi phong trào công nhân, không gắn và chưa thực sự đại diện cho lợi ích chính đáng của công nhân. Chúng ta đang thực sự thiếu một cơ chế chính sách đủ tầm cho hoạt động công đoàn. Đó đến lúc cần một cuộc cải biến thực sự mang tính cách mạng trong hoạt động công đoàn, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ công đoàn chuyên trách. Xem việc thành lập tổ chức công đoàn là điều kiện bắt buộc đối với các nhà đầu tư, xây dựng tổ chức công đoàn thực sự là tổ chức chính trị của giai cấp công nhân.
Chương III
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII nhấn mạnh: “Cựng với quỏ trỡnh phỏt triển cụng nghiệp và cụng nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trỡnh độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm trũn sứ mệnh lịch sử của mỡnh”. Với tinh thần thẳng thắn, Đảng đó chỉ ra những hạn chế về xõy dựng, phỏt huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn và cụng đoàn trong quá trỡnh chuyển sang cơ chế mới: đó cú những biểu hiện coi nhẹ vị trớ, vai trũ giai cấp cụng nhõn, cỏc chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm được đổi mới, và khẳng định: “Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, công đoàn và các tổ chức chính trị - xó hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định và phát triển tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996).
Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp công nhân ngày càng phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: “Đối với giai cấp cụng nhõn, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trỡnh độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trớ thức húa cụng nhõn”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trũ lónh đạo cỏch mạng trong thời kỳ mới...”.
Như vậy, có thể khẳng định: Sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vị trí, vai trũ của giai cấp cụng nhõn từng bước được bổ sung trong suốt quá trỡnh lónh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng và phát huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn, đó và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta tuy chỉ chiếm 17,5% tổng lực lượng lao động xó hội, nhưng hằng năm tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, và đang nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xó hội, thực sự là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, là lực lượng nũng cốt trong khối liờn minh cụng nhõn - nụng dõn - trớ thức, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh chóng và có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xó hội, cuộc đua giành thắng lợi trong sản xuất, kinh doanh hiện nay chủ yếu là đua tranh về trí tuệ, về hàm lượng chất xám, chất lượng nguồn nhân lực, giai cấp công nhân nước ta hiện đang cũn bộc lộ khụng ớt mặt hạn chế: Trỡnh độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đa phần chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc, nhiều công nhân chưa qua đào tạo; thiếu kỹ sư giỏi và công nhân lành nghề trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ; có sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân; ý thức phấn đấu rốn luyện, học tập nõng cao trỡnh độ, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của không ít công nhân chưa cao; một bộ phận bị tha hóa, có lối sống thực dụng, phai nhạt lý tưởng... Trước yêu cầu của tỡnh hỡnh mới, việc xõy dựng, phỏt triển giai cấp cụng nhõn là yờu cầu khỏch quan và cấp bỏch, đũi hỏi Đảng, Nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị cần hoạch định và thực hiện tốt chiến lược xây dựng, phát triển, phát huy triệt để vai trũ tiờn phong và gương mẫu của giai cấp công nhân, coi đây là nhiệm vụ chiến lược tất yếu, liên tục, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xó hội của đất nước. Trước mắt cũng như lâu dài, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư toàn diện nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam phát triển vững về số lượng, mạnh về chất lượng, tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc về việc xây dựng, phát huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn.
Từ cỏch nhỡn đó, Đảng ta tiếp tục đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của tỡnh hỡnh thực tế và lónh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật để giải quyết thỏa đáng các vấn đề sau:
Đẩy mạnh cuộc vận động sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về việc nâng cao hơn nữa nhận thức và ý thức phỏt triển trỡnh độ chuyên môn, nghiệp vụ trong tầng lớp công nhân, lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước, từ đó góp phần nâng cao địa vị của người lao động, phát triển các giá trị văn hóa lao động, hỡnh thành phong cỏch lao động công nghiệp, tiên tiến, văn minh, góp phần cải thiện đời sống, phát triển kinh tế - xó hội đất nước.
Nhà nước cần tập trung nghiên cứu, hoàn thiện chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân, xác định rừ tiờu chuẩn cụng nhõn phải qua đào tạo, đặc biệt trong các ngành trọng điểm, các lĩnh vực đũi hỏi trỡnh độ kỹ thuật và công nghệ cao. Cần xây dựng, hoàn thiện chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thông nhằm giúp học sinh định hướng đúng đắn việc chọn nghề; có cơ chế khuyến khích, tuyển chọn một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là con em các gia đỡnh cú truyền thống làm cụng nhõn, những thanh niờn hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quõn sự... được đào tạo trong các trường dạy nghề. Tạo điều kiện thuận lợi về cả vật chất và tinh thần cho công nhân học tập nâng cao trỡnh độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học; nghiên cứu ban hành chính sách ưu đói trong tuyển chọn, sử dụng đối với những công nhân giỏi nghề, học tập có kết quả cao, để đưa đi thực tập hoặc đào tạo thêm ở các nước có nền công nghiệp phát triển. Đồng thời, cần có quy định về việc tôn vinh những công nhân hội tụ đủ đức và tài, có nhiều sáng kiến, thành tích nổi bật trong lao động, sản xuất nhằm khuyến khích và thúc đẩy không khí thi đua phấn đấu trong đội ngũ công nhân.
Nhà nước cần tiến hành kế hoạch hóa công tác dạy nghề một cách đồng bộ, bảo đảm sự cân đối ngay trong hệ thống giáo dục, cũng như sự cân bằng giữa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, hướng nghiệp với nhu cầu và yêu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế - xó hội. Chỳ trọng đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng trường dạy nghề chuẩn với chương trỡnh chuẩn trong cả nước để đào tạo những ngành nghề mũi nhọn; có chính sách phù hợp phát triển đa dạng và chuyên sâu nhiều loại hỡnh đào tạo tại các trường, trung tâm và tại chính các doanh nghiệp, thu hút người lao động học tập nâng cao trỡnh độ, tay nghề.
Thụng qua cỏc chớnh sỏch xó hội và bằng chớnh sỏch xó hội, Nhà nước cần đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu và điều kiện thiết yếu cho công nhân, lao động, quan tâm hơn đến việc thực hiện chính sách xó hội đối với công nhân, như: tiền lương, nhà ở, bảo hiểm xó hội, bảo hiểm y tế..., bởi nguyện vọng chính đáng của công nhân là khi tham gia lao động được trả công tương xứng với sức lao động bỏ ra, có và được hưởng lợi ích vật chất, tinh thần, cũng như các quyền lợi chính trị - xó hội một cỏch cụng bằng. Sớm hoàn thiện chớnh sỏch nhà ở và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, lao động (đặc biệt ở các khu công nghiệp tập trung) theo hướng Nhà nước và doanh nghiệp cùng góp vốn, hoặc huy động thêm vốn của người lao động để xây các khu tập thể, hoặc nhà bán trả góp cho họ, hoặc cho thuê, hỗ trợ về nhà ở cho những gia đỡnh cụng nhõn, lao động nghèo... nhằm giúp họ ổn định về chỗ ở, yên tâm cống hiến cho công việc.
Xét ở góc độ quản lý, việc đáp ứng các điều kiện cho người lao động thực chất là đầu tư chiều sâu, là bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trước mắt, cần xây dựng, hoàn thiện hơn nữa môi trường xó hội và thị trường lao động lành mạnh, tạo mọi điều kiện để công nhân, lao động được phát huy hết khả năng của mỡnh. Đồng thời, cần chú trọng khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề, khuyến khích người có vốn, kỹ thuật, công nghệ, có trỡnh độ quản lý... đầu tư vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lực lượng lao động.
Hoàn thiện chớnh sỏch về bảo hiểm xó hội, thành lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp trờn cơ sở huy động sự đóng góp của Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân để trợ cấp một phần tài chính cho người lao động khi bị thất nghiệp; cải cách chính sách tiền lương và công tác tổ chức tiền lương trong cỏc loại hỡnh doanh nghiệp nhằm bảo đảm đời sống cho công nhân.
Đồng thời, cần quan tâm hơn nữa đến các chính sách khuyến khích xó hội, như: chính sách thi đua - khen thưởng, tôn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều sáng kiến, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, công nghệ,... góp phần rút ngắn thời gian lao động, nâng cao hiệu suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc; có quy định ưu đói những cụng nhõn cú thành tớch lao động, sản xuất tốt, nổi bật, nhằm khuyến khích họ cống hiến năng lực, trí tuệ và sức lao động một cách hiệu quả nhất.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến người lao động: có quy định xử lý nghiờm những vi phạm đến quyền lợi người lao động, chú trọng cải thiện điều kiện lao động, phũng chống cú hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe cho họ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh định kỳ, đặc biệt đối với nữ giới.
Chú trọng công tác phát triển đảng trong công nhân, xây dựng đội ngũ công nhân là đảng viên làm nũng cốt cho mọi hoạt động, phong trào của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp... Các cấp ủy cần triển khai tổ chức thực hiện tốt các quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển tổ chức đảng, các đoàn thể (đặc biệt là tổ chức công đoàn) trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân, để bênh vực, bảo vệ các lợi ích chính đáng của người lao động, giúp họ hiểu và được biết, thực hiện và được hưởng các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỡnh.
Tài liêu tham khảo:
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (NXBGD).
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.
Tạp chí cộng sản.
Và một số tài liệu tham khảo khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu về công nhân Việt Nam.DOC