Tìm hiểu về động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh

MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 4. Giả thuyết nghiên cứu 2 5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3 5.1. Nghiên cứu lí luận 3 5.2. Nghiên cứu thực tiễn 3 6. Khách thể và phạm vi nghiên cứu 3 6.1. Khách thể nghiên cứu 3 6.2. Phạm vi nghiên cứu 3 7. Phương pháp nghiên cứu 3 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 4 8.1. Ý nghĩa lý luận 4 8.2. Ý nghĩa thực tiễn 5 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 6 1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề 6 1.1.1. Nước ngoài 6 1.1.2. Trong nước 8 1.2. Các khái niệm cơ bản 10 1.2.1. Khái niệm động cơ 10 1.2.2. Phân loại động cơ 11 1.2.3. Khái niệm về động cơ học tập 12 1.2.4. Đặc điểm động cơ học tập 13 1.2.5. Sự hình thành động cơ học tập 14 1.2.6. Vai trò của động cơ đối với hoạt động học tập của học sinh 16 1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT 16 1.3.1. Vị trí, ý nghĩa của lứa tuổi của học sinh THPT 16 1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của học sinh THPT 17 1.3.2.1. Đặc điểm về sự phát triển thể chất 17 1.3.2.2. Điều kiện sống và hoạt động 19 1.3.3. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ 20 1.3.3.1 Đặc điểm hoạt động học tập 20 1.3.3.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ 22 CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25 2.1. Sơ lược về trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh 25 2.2. Những vấn đề về động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh 27 2.2.1. Nhận thức của học sinh về mục đích học tập 28 2.2.2. Thứ bậc động cơ học tập của học sinh 33 2.2.3. Tương quan về động cơ học tập giữa học sinh các khối 10, 11, 12 34 2.2.4. Tương quan động cơ học tập giữa học sinh nam và học sinh nữ 36 2.2.5. Hoạt động định hướng động cơ học tập cho học sinh trong nhà trường 38 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh 41 2.3.1. Thái độ học tập 41 2.3.2. Sở thích - năng lực 42 2.3.2.1. Sở thích 42 2.3.2.2. Năng lực 43 2.3.3. Hứng thú - Nhu cầu bản thân 45 2.3.4. Đặc điểm học sinh dân tộc nội trú 47 2.3.4.1. Về mặt sinh lý 47 2.3.4.2. Đặc điểm tâm lý 47 2.3.5. Gia đình 48 2.3.6. Bạn bè 50 2.3.7. Giáo viên 53 2.3.7.1. Nhận thức của giáo viên về vai trò của phương pháp giảng dạy với động cơ học tập của học sinh 53 2.3.7.2. Thái độ của học sinh đối với việc tổ chức giảng dạy của giáo viên 56 2.3.8. Văn hóa - xã hội 58 CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 62 3.1. Kết luận 62 3.2. Kiến nghị 62 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo “Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc”, giáo dục và đào tạo là một trong năm nhân tố “phát năng” của phát triển nguồn nhân lực (giáo dục và đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và giải phóng con người), trong đó giáo dục và đào tạo là cơ sở của tất cả các nhân tố khác. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII đã xác định: “Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Định hướng xây dựng xã hội công bằng, văn minh trong đó trước hết là thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là một trong những tư tưởng chủ đạo của chiến lược phát triển giáo dục nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa. Thời đại ngày nay, sự phát triển của nền khoa học công nghệ làm biến đổi về chất toàn bộ đời sống xã hội. Tại hội nghị bộ trưởng giáo dục Á - Âu lần 2 năm 2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và một trong những yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam là sự phát triển tương xứng về chất lượng giáo dục giữa các vùng, miền. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển vững mạnh khi và chỉ khi quốc gia ấy có một đội ngũ nhân lực dồi dào và trình độ dân trí không ngừng được nâng cao. Chính vì thế, học sinh có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để đảm nhận trọng trách của mình, trước hết người học phải học tập thật tốt và học tập là hoạt động cơ bản nhất của học sinh - sinh viên. Và chất lượng học tập chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Trong đó, động cơ học tập là một trong những yếu tố quan trọng nhất hình thành thái độ học tập tích cực cho học sinh. Việc nghiên cứu “Tìm hiểu về động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh” giúp chúng tôi thấy được tình hình học tập hiện nay cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập từ đó có những đề xuất, kiến nghị lên nhà trường để tăng cường các chính sách hỗ trợ cho các em học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh nói riêng và cho các trường DTNT nói chung nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong trường góp phần đào tạo đội ngũ tri thức trong thời hiện đại. 2. Mục đích nghiên cứu Bước đầu tìm hiểu thực trạng về động cơ học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập chủ yếu của học sinh trường PTDTNT THPT Tỉnh Trà Vinh. Từ đó, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hình thành và phát triển động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Qua việc nghiên cứu động cơ học tập của học sinh trường, chúng tôi muốn đưa ra một số kết luận giúp cho nhà trường có những kế hoạch, phương pháp giáo dục phù hợp cũng như những hoạt động ngoại khóa thu hút học sinh tham gia. Trên cơ sở đó vừa nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, vừa thúc đẩy học sinh học tập nhờ xây dựng được hệ thống động cơ học tập đúng đắn. 3. Đối tượng nghiên cứu Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh THPT trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh: Nhận thức, định hướng và các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh THPT trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh. 4. Giả thuyết nghiên cứu Các học sinh đã xác định được động cơ học tập của mình. Các động cơ học tập đều rất đa dạng. Học sinh có hứng thú trong môn học hơn nếu giáo viên có phương pháp dạy hay. 5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu lí luận: Khái quát các vấn đề lí luận của đề tài. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT nói chung và Dân tộc nội trú nói riêng. Vài nét sơ lược về địa bàn nghiên cứu. 5.2. Nghiên cứu thực tiễn Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh; về thứ bậc động cơ học tập; mối tương quan về động cơ học tập giữa học sinh 3 khối 10, 11, 12; giữa học sinh nam và nữ. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh THPT. Kiến nghị một số biện pháp nhằm hình thành và phát triển động cơ học tập đúng đắn cho học sinh PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh. 6. Khách thể và phạm vi nghiên cứu 6.1. Khách thể nghiên cứu Với đề tài nghiên cứu về động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh, chúng tôi đã tiến hành phát bảng hỏi cho 30 giáo viên và 233 học sinh THPT về các vấn đề liên quan đến động cơ học tập của học sinh. Phỏng vấn sâu 24 học sinh và 6 giáo viên của trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh. 6.2. Phạm vi nghiên cứu Trong đề tài của chúng tôi đề cập đến một số vấn đề về động cơ học tập của học sinh: Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của việc học, những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của các em học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh. 7. Phương pháp nghiên cứu Đề tài chúng tôi sẽ sử dụng phối hợp hệ thống các phương pháp sau: 7.1. Phương pháp nghiên cứu, phân tích và tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài Sưu tầm chọn lọc và nghiên cứu các tài liệu sách báo, tạp chí, luận văn liên quan đến vấn đề động cơ học tập của học sinh. 7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Bảng hỏi được đưa ra dưới dạng phiếu khảo sát ý kiến gồm 27câu. Các dạng câu hỏi: câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Thang đo được sử dụng trong bảng hỏi gồm: Thang đo định danh, thang đo khoảng cách và thang đo thứ bậc. 7.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Phỏng vấn sâu 24 học sinh đại diện 3 khối lớp 10, 11, 12 và 6 giáo viên đại diện cho các tổ chuyên môn trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh về những vấn đề cơ bản của đề tài. Các cuộc phỏng vấn trên được ghi băng và được gỡ ra thành các biên bản phỏng vấn. Kết quả được sử dụng phối hợp với các dữ kiện định lượng khi phân tích các vấn đề. 7.4. Phương pháp xử lý thông tin Các thông tin tư liệu được tổng hợp theo các chủ đề để trình bầy khái quát về lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài. Các thông tin định tính được lọc theo các chủ đề dưới dạng trích dẫn báo cáo hoặc trích dẫn bảng gỡ băng phỏng vấn sâu cá nhân. Kết quả được xử lý theo phương pháp phân tích nội dung. Trong khi phân tích, các trích dẫn được sử dụng kết hợp với số liệu thống kê định lượng. Các thông tin định lượng: các sự kiện điều tra bằng bảng hỏi được xử lý bằng chương trình SPSS, sử dụng chủ yếu phương pháp thống kê: Tính tần số và phần trăm (%) cũng như tương quan chéo giữa biến độc lập và biến phụ thuộc kèm theo kiểm định chi – bình phương (chi – square) khi điều kiện về dữ liệu cho phép. Tính trung bình, độ lệch chuẩn và kiểm nghiệm ý nghĩa sự khác biệt giữa các trung bình điểm số bằng kiểm định T - test. 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 8.1. Ý nghĩa lí luận Đề tài góp phần làm sáng tỏ quan điểm, nhận thức về động cơ và động cơ học tập của giáo viên và học sinh THPT. Đề tài làm tài liệu tham khảo cho các thầy cô, các sinh viên khi nghiên cứu vấn đề này. Rút ra những nhận thức, hiểu biết, cơ sở lý luận về động cơ học tập. 8.2. Ý nghĩa thực tiễn Cung cấp thêm kiến thức về động cơ học tập giúp cho học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh nhận thức, hiểu biết đúng đắn về động cơ học tập giúp cho quá trình học tập đạt kết quả tốt. Cung cấp thêm thông tin về động cơ học tập của học sinh giúp các nhà giáo dục và giáo viên của trường tìm ra những giải pháp hợp lý giúp các em học tập tốt hơn.

doc65 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10456 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ xã hội ở học sinh khối 11 và 12 đóng vai trò quan trọng thúc đẩy việc học của các em. Trong khi đó, với học sinh khối 10, việc đến trường xuất phát từ mục đích muốn trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng chiếm nhiều sự lựa chọn hơn khối 11 và 12. Một học sinh lớp 10C thổ lộ “em thích đi học vì muốn mở rộng kiến thức”. Như vậy, động cơ về hoàn thiện tri thức ở học sinh khối 10 có vai trò quan trọng thúc đẩy việc học của các em. Kết luận: Kết hợp kết quả khảo sát trên với dữ kiện phỏng vấn sâu , chúng tôi kết luận rằng ở học sinh khối 10, trong các loại động cơ học tập, động cơ về hoàn thiện tri thức chiếm tỉ lệ cao hơn học sinh khối 11 và 12. Còn học sinh khối 11 và 12, động cơ về quan hệ xã hội chiếm được nhiều sự lựa chọn hơn. 2.2.4. Tương quan về động cơ học tập giữa học sinh nam và học sinh nữ Sự chênh lệch trong việc xác định động cơ học tập của học sinh nam và học sinh nữ của trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh được thể hiện rõ ở bảng số liệu sau đây: Bảng 2.8. Tương quan giữa giới tính với mục đích đến trường giới tính tổng nam nữ Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Mục đích đến trường (gộp) Trau dồi kiến thức 59 88.1% 128 78.0% 187 81.0% Có việc làm 57 85.1% 146 89.0% 203 87.9% học chung với bạn 22 32.8% 42 25.6% 64 27.7% vui lòng cha mẹ 32 47.8% 80 48.8% 112 48.5% Không thua kém anh chị em 7 10.4% 14 8.5% 21 9.1% Không thua kém bạn bè 15 22.4% 25 15.2% 40 17.3% Ý kiến khác 6 9.0% 14 8.5% 20 8.7% tổng 67 295.5% 164 273.8% 231 280.1% Dựa vào bảng trên, ta thấy trong tổng số 67 học sinh nam thì có 59 em chọn đến trường vì mục đích trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng chiếm tỷ lệ 88.1%. Ở các em nữ tỷ lệ này chiếm 78.0% với 128 sự lựa chọn. Có 57 học sinh nam chọn đi học vì muốn có việc làm tốt sau này chiếm 85.1%, các em nữ có 146 sự lựa chọn (89.0%). Bên cạnh đó, yếu tố gia đình chiếm tỷ lệ không nhỏ trong sự lựa chọn của các em, ở nam có 32 học sinh chiếm 47.8%, ở nữ là 80 sự lựa chọn chiếm 48.8%. Ngoài ra, ta còn thấy sự chênh lệch trong sự lựa chọn giữa nam và nữ trong những yếu tố khác như việc đến trường để được học chung với bạn, để không thua kém bạn bè, người thân trong gia đình. Như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận, động cơ học tập gồm có động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội. Như vậy, theo chúng tôi nhận thấy, có 203 trong tổng số 233 học sinh chọn đi học vì muốn có việc làm tốt sau này chiếm tỷ lệ cao nhất 87.9%, tiếp theo là mục đích muốn được nâng cao kiến thức, rèn luyện kỹ năng chiếm 81%, thứ ba là hầu hết các em muốn làm vui lòng cha mẹ chiếm 48.5%. Trong sự lựa chọn của học sinh nam, việc đến trường xuất phát từ mong muốn trau dồi kiến thức, kỹ năng chiếm tỷ lệ cao nhất và cao hơn so với các em học sinh nữ. Em K.T.T học sinh lớp 12A cho biết “bản thân em muốn đi học vì muốn mở rộng kiến thức của mình”. Như vậy chứng tỏ rằng, động cơ về việc hoàn thiện tri thức ở học sinh nam đóng vai trò quan trọng thúc đẩy việc học của các em. Trong khi đó, một học sinh nữ lớp 11B, T.H.N đã thổ lộ “Em đi học vì gia đình là chủ yếu” và “điều quan trọng hơn, học lên cao em dễ dàng xin được việc làm có điều kiện chăm lo cho gia đình và cho bản thân em”. Kết luận: Ở các em học sinh nam, trong các loại động cơ học tập, động cơ hoàn thiện tri thức chiếm tỷ lệ cao hơn ở nữ. Còn đối với học sinh nữ, động cơ về quan hệ xã hội lại vượt trội hơn và chiếm được nhiều sự lựa chọn hơn chẳng hạn như việc đi học vì muốn có một tương lai tốt đẹp hơn, có việc làm ổn định hơn và các em đến trường đa phần là muốn làm vui lòng cha mẹ mặc dù động cơ về tri thức đóng vai trò quan trọng đối với việc học của các em. Như vậy, trong hai loại động cơ học tập thì động cơ quan hệ xã hội chiếm ưu thế hơn động cơ hình thành tri thức đặc biệt là trong những mục đích về tương lai hay vì lý do từ gia đình. Chính vì thế, gia đình nên thường xuyên động viên, khích lệ hơn các em trong học tập đặc biệt là các em nội trú sống xa nhà. Ngoài ra, nhà trường cần tổ chức những hoạt động giao lưu, định hướng tương lai cho các em để tạo niềm tin, sự hứng thú của các em trong học tập và quan trọng hơn, các em có thể định hướng được nghề nghiệp sau này cho bản thân mình. 2.2.5. Hoạt động định hướng động cơ học tập cho học sinh trong nhà trường Động cơ học tập đóng một vai trò quan trọng, là động lực và định hướng cho hoạt động học tập của học sinh diễn ra đúng hướng. Nó sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thường xuyên thúc đẩy các em vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tri thức. Như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận, về một số đặc điểm về động cơ nói chung và động cơ học tập nói riêng, có thể nhận thấy rằng động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được hình thành dần dần trong quá trình học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên cùng với tác động của nhà trường. Nhu cầu giải quyết được mâu thuẫn giữa cái biết và cái chưa biết là một trong những nguyên nhân chính hình thành động cơ học tập cho học sinh. Đối với học sinh lứa tuổi trung học, các em đã ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học. Đây là thuận lợi rất lớn cho các hoạt động định hướng động cơ học tập cho học sinh của nhà trường. Người cụ thể hóa việc xây dựng động cơ học tập cho học sinh không ai khác chính là giáo viên. Và để có thể thực hiện được điều này, người giáo viên cần có các hoạt động cụ thể. Đối với trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh, hoạt động định hướng động cơ học tập cho học sinh của nhà trường diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Hàng năm nhà trường có nhiều hoạt động như các kỳ thi học sinh giỏi, các lớp bồi dưỡng cho học sinh, thi đua khen thưởng cũng phần nào tác động kích thích động lực cho học sinh trong quá trình học tập. Không những thế, việc nhà trường tổ chức các hoạt động đoàn, văn nghệ, giao lưu với các trường khác cũng có những tác động nhất định và hiệu quả. Một hoạt động được nhiều học sinh hưởng ứng, đó chính là hoạt động hướng nghiệp của nhà trường. Thông qua sự trao đổi với ban lãnh đạo nhà trường, hàng năm có ít nhất một lần hoạt động hướng nghiệp cho học sinh, và hoạt động này được kết hợp với các trường đai học, cao đẳng. Hoạt động hướng nghiệp có sự tác động nhất định đến việc hình thành và phát triển động cơ học tập cho học sinh. Hoạt động định hướng này được thực hiện cụ thể thông qua các hoạt động của giáo viên. Trong quá trình nghiên cứu, để có thể tiếp cận và hiểu rõ hơn công tác định hướng của giáo viên, chúng tôi thực hiện công tác dự giờ một số bộ môn. Thông qua công tác dự giờ, chúng tôi nhận thấy: nhiều giáo viên đã có những hoạt động nhất định trong việc xác định mục đích học tập cho học sinh. Giáo viên đã thực hiện cụ thể vấn đề bằng cách: mở đầu một môn học giáo viên đã cho học sinh biết mục tiêu học tập và phác họa cho học sinh thấy nội dung môn học hôm nay có những gì và học sinh cần nắm gì, cuối buổi giáo viên cố gắng nhắc lại một lần nữa. Để có thể nắm rõ nguyên tắc này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu một số giáo viên trực tiếp giảng dạy cho học sinh. Trong quá trình phỏng vấn sâu chúng tôi có đặt ra câu hỏi: “Trong quá trình giảng dạy, Thầy cô có định hướng mục tiêu học tập cho các em hay không? Nếu có, Thầy cô thực hiện như thế nào?”. Cô N.T.H chia sẻ: “Trong quá trình giảng dạy, việc định hướng mục tiêu thường được thực hiện vào đầu mỗi tiết học. Trước mỗi tiết học, cô thường cho các em biết hôm nay phải học những gì, cần đạt được điều gì và sau bài học củng cố thêm một lần nữa. Làm như vậy học sinh sẽ nhớ bài lâu hơn và không đi chệch mục tiêu so với giáo án mình đề ra”. Và điều đó cho thấy giáo viên đã xác định rõ phương pháp tạo nên động cơ học tập cho học sinh. Giáo viên đã giúp cho học sinh thấy được học xong một môn học, các em sẽ lĩnh hội được những gì và nếu không được học thì các em không thể có được. Có như thế học sinh mới cố gắng nỗ lực học tập. Không dừng ở việc xác định mục tiêu học tập cho học sinh, việc tạo hứng thú cho học sinh cũng không kém phần quan trọng. Hứng thú là một trong những yếu tố tạo nên động cơ cho học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Trong học tập không những cần động cơ đúng đắn mà cần có hứng thú bền vững thì học sinh mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả nhất. Nắm được đặc điểm này, nhiều giáo viên đã định hướng động cơ học tập cho học sinh thông qua việc tạo hứng thú học tập cho học sinh. Cũng với câu hỏi định hướng mục tiêu học tập cho học sinh, chúng tôi nhận được rất nhiều chia sẻ của giáo viên. Nhiều giáo viên cho rằng để tạo một động cơ học tập tốt thì cần tăng hứng thú học tập cho học sinh. Việc này được thực hiện thông qua việc chuẩn bị giáo án tốt, các phương tiện dạy học hấp dẫn, lời nói uyển chuyển, lôi cuốn, hình ảnh trực quan,... Bàn về vấn đề này, giáo viên dạy bộ môn Sử của nhà trường chia sẻ : “Để có thể kích thích động lực học tập của học sinh đối với môn Sử, người giáo viên bên cạnh việc cho học sinh học những con số thì cũng cần cung cấp thêm những câu chuyện hay, những sự kiện cụ thể với những con số đó. Đồng thời kết hợp với hình ảnh minh họa sống động như các đoạn clip về các sự kiện. Chính phương pháp này làm cho học sinh hứng thú khám phá tri thức”. Công tác định hướng động cơ học tập cho học sinh còn được thể hiện thông qua công tác chủ nhiệm của giáo viên. Chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn một số giáo viên chủ nhiệm về việc định hướng động cơ học tập cho các em. Theo lời chia sẻ của một giáo viên chủ nhiệm: “Định hướng học tập trong giờ sinh hoạt chủ nhiệm, tôi có phân tích cho các em bây giờ đi học có gia đình và nhà nước lo, chu cấp tiền cho học, phải cố gắng học, ra trường phải có nghề, quan trọng là tự lo cho mình được, dư dả thì lo cho cha mẹ. Học nghề: xác định được là xã hội đang thiếu gì, địa phương đang thiếu gì, học xong về địa phương kiếm việc làm…”. Đây cũng là một hình thức tạo nên động cơ học tập cho học sinh thông qua sự phân tích tình hình xã hội và sự chia sẻ ân cần. Đối với người giáo viên chủ nhiệm, việc kết hợp những cách thức để hình thành động cơ học tập mang tính xã hội cho học sinh là điều cần thiết. Và chính thái độ ân cần, niềm nở, thái độ vui mừng khi học sinh hoàn thành nhiệm vụ, những lời khen, những điểm thưởng khi học sinh giải quyết tốt vấn đề… là động lực to lớn để các em cố gắng hơn. Đó cũng là ý kiến của một số giáo viên chủ nhiệm khi chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc hình thành động cơ học tập cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm. Kết luận: Như vậy, với sự chia sẻ của giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm và thông qua một số hoạt động của nhà trường, có thể nói rằng công tác định hướng động cơ học tập cho học sinh được nhà trường đặc biệt quan tâm . Không chỉ quan tâm vấn đề định hướng động cơ học tập cho học sinh mà nhà trường và giáo viên cũng có những hoạt động cụ thể đi sâu, đi sát trong việc hình thành động cơ học tập cho các em. Điều này sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thường xuyên thúc đẩy các em vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tri thức. 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh 2.3.1. Thái độ học tập Thái độ học tập của học sinh được thể hiện ở bảng 2.5 Bảng số liệu thống kê 2.5 cho thấy học sinh trong mẫu nghiên cứu có thái độ học tập tích cực và nghiêm túc, có 171 lượt chọn thái độ học tập là tham gia phát biểu xây dựng bài, đạt 75,7%. Có 51 lượt chọn thái độ là chỉ nghe giảng và ghi chép, chiếm 22,6%. Có 4 lượt chọn là làm việc riêng trong lớp, chiếm 1,8%. Qua đó cho thấy bên cạnh 75,7% học sinh có thái độ nghiêm túc trong giờ học thì vẫn còn một số học sinh có thái độ học thụ động và chưa tích cực. 2.3.2. Sở thích, năng lực 2.3.2.1. Sở thích Động cơ học tập là yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động học tập của học sinh. Bên cạnh đó, sở thích của bản thân học sinh cũng là yếu tố quan trọng không kém. Qua bảng khảo sát về việc đánh giá về mức độ yêu thích các môn học ở trường, chúng tôi có được kết quả như sau: Bảng 2.9. Đánh giá của học sinh về môn học yêu thích nhất STT Môn học Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Toán 62 27.9 2 Văn 36 16.2 3 Anh văn 30 13.5 4 Lý 7 3.2 5 Hóa 19 8.6 6 Sinh 18 8.1 7 Sử 10 4.5 8 Địa 8 3.6 9 GDCD 2 0.9 10 Ngữ văn Khmer 13 5.9 11 Thể dục 10 4.5 12 GDQP 1 0.5 13 Tin học 6 2.7 Dựa vào kết quả khảo sát, chúng tôi thấy môn toán có tỉ lệ học sinh yêu thích cao nhất, có 62 học sinh trong tổng số 233 em chiếm 27.9%. Môn Văn có 36 em chiếm 16.2% và môn Anh văn có 30 em chiếm 13.5% trong tổng số 233 học sinh . Như vậy, hầu như các em đều yêu thích tất cả các môn được giảng dạy trong trường. Vì vậy, các em đã có hứng thú trong việc học của mình. Đây là một thuận lợi lớn trong công tác giảng dạy và định hướng cho học sinh của nhà trường. Để tìm hiểu sâu hơn sở thích về các môn học, chúng tôi có tìm hiểu về lý do mà các em yêu thích các môn học đó. Bảng 2.10. Đánh giá của học sinh về lý do yêu thích môn học STT Nguyên nhân Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Môn học dễ hiểu, thú vị 99 26.1 2 Giáo viên dạy hay, hiểu tâm lý học sinh 88 23.2 3 Được thực hành thực tế nhiều 36 9.5 4 Giáo viên vui vẻ, thân thiện, học sinh được tự do, thoải mái trong giờ học 89 23.4 5 Ý kiến khác 68 17.9 Ba lý do được học sinh chọn nhiều nhất: - Môn học đó dễ hiểu, thú vị (26.1%); - Giáo viên vui vẻ thân thiện, học sinh tự do, thoải mái khi học (23.4%). - Giáo viên dạy hay, hiểu tâm lý học sinh (23.2%) Như vậy, các em đánh giá cao sự nhiệt tình giảng dạy của giáo viên và các em cũng tin vào năng lực của mình. Kết luận: Qua phân tích chúng tôi thấy rằng với những môn học mà các em đặc biệt yêu thích thì xuất phát phần lớn ở sự nhiệt tình giảng dạy và tấm lòng yêu mến học trò của thầy cô. Đây là một động lực lớn cho cả thầy cô và học sinh, giúp cho quá trình dạy và học đạt kết quả tốt hơn. Điều đó cho thấy phương pháp giảng dạy của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức cũng như thái độ học tập của học sinh. 2.3.2.2. Năng lực Hoạt động học ở giai đoạn này đòi hỏi sự cố gắng, tích cực, chủ động, sáng tạo và đặc biệt phát huy hết năng lực sẵn có của người học. Muốn cho quá trình học tập đạt kết quả cao thì người học phải nhận thức được việc học và nỗ lực bản thân. Bên cạnh việc nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc học thì năng lực bản thân cũng góp phần không nhỏ vào kết quả học tập. Qua quá trình khảo sát chúng tôi thu được kết quả học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh như sau: Bảng 2.11. Kết quả học tập của học sinh STT Kết quả học tập Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Dưới 5.0 9 3.9 2 Từ 5.0 – 6.4 95 41.1 3 Từ 6.5 – 7.9 116 50.2 4 Trên 8.0 11 4.8 Bảng 2.12. Tương quan giữa kết quả học tập và khối lớp lớp lớp 10 lớp 11 lớp 12 Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Kết quả học tập kì vừa rồi dưới 5.0 3 3.5% 3 3.5% 3 5.0% 5.0-6.4 23 26.7% 48 56.5% 24 40.0% 6.5-7.9 53 61.6% 31 36.5% 32 53.3% 8.0 trở lên 7 8.1% 3 3.5% 1 1.7% Tổng 86 100.0% 85 100.0% 60 100.0% Về kết quả thu được cho thấy, kết quả học tập của các em đạt được trong học kì qua chưa thực sự cao: mặc dù có 55% em đạt học lực khá, giỏi nhưng tỷ lệ học sinh đạt học lực trung bình và yếu khá cao 45% trong tổng số 233 em học sinh được khảo sát. Trong 3 khối lớp thì khối lớp 10 có kết quả tốt hơn cả (53 học sinh đạt loại khá, từ 6.5 – 7.9 chiếm 61.6%). Điều này có thể cho thấy các em mới bước vào môi trường cấp 3, nơi mơ ước của nhiều bạn học sinh nên các em có tâm lý thỏa mãn. Vì thế mà các em ham học hơn, mơ mộng về tương lai cũng phong phú hơn, mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, phần lớn ở cấp hai các em đều là những học sinh khá giỏi. Do vậy, mà các em đặt mục tiêu cho bản thân mình cao hơn các anh chị lớp trên. Tuy nhiên, có tới 193 học sinh chiếm 83.2% cho rằng mình chưa hài lòng với kết quả học tập trên, trong đó khối lớp 10 cũng có tỉ lệ chưa hài lòng cao nhất Bảng 2.13. Mức độ hài lòng của học sinh về kết quả học tập STT Mức độ hài lòng Số lượng Tỉ lệ % 1 Chưa hài lòng 193 83.2 2 Bình thường 31 13.4 3 Hài lòng 8 3.4 Như vậy, các em tin vào khả năng của mình, và đòi hỏi ở bản thân rất cao. Điều đó cho thấy các em nhận thức rất tốt về việc học của mình. 2.3.3. Hứng thú - nhu cầu bản thân Trong các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập, chúng ta không thể không nhắc đến hứng thú và nhu cầu của bản thân. Yếu tố này đã thể hiện rất rõ khi khảo sát trên 233 học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh. Qua bảng số liệu 2.1., chúng tôi nhận thấy rằng phần lớn các em học sinh có nhu cầu học tập của bản thân mình. Trong đó nổi bật lên là 187 học sinh (28.9%) đến trường để trau dồi kiến thức, kĩ năng. Các em có nhu cầu đến trường và học vì nhu cầu của chính mình, để tích lũy kiến thức ở trường lớp. Có 203 học sinh (31.4%) đã trả lời là học để hướng tới tương lai sau này có một công việc tốt khi ra trường. Bên cạnh đó, qua bảng tổng kết phỏng vấn sâu, trong tổng số 24 học sinh được phỏng vấn thì có 12 học sinh trả lời rằng các em đi học là do sở thích và 7 học sinh đi học vừa vì sở thích lẫn vì gia đình muốn như vậy. Khi có nhu cầu học tập cho bản thân thì các em có sự chủ động trong việc học như chăm chỉ lên lớp để nghe giảng, chuẩn bị bài cũ và mới từ ở nhà. Ngoài ra, các em còn tìm hiểu, nghiên cứu kiến thức sâu rộng hơn. Bảng 2.14. Tương quan giữa mục đích đến trường và hoạt động của học sinh trong giờ học Hoạt động của học sinh trong giờ học Chỉ nghe giảng và ghi chép Tham gia phát biểu xây dựng bài Làm việc riêng Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Mục đích đến trường (gộp) Trau dồi kiến thức, kỹ năng 34 66.7 148 87.1 2 50.0 Có việc làm tốt sau này 41 80.4 154 90.6 2 50.0 học chung với bạn 13 25.5 50 29.4 1 25.0 Làm vui lòng cha mẹ 24 47.1 84 49.4 1 25.0 Không thua kém anh chị em trong nhà 4 7.8 16 9.4 Không thua kém bạn bè 8 15.7 30 17.6 Ý kiến khác 3 5.9 17 10.0 Tổng 51 249.0 170 293.5 4 150.0 Qua kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng: học sinh đến trường với mục đích trau dồi kiến thức, kĩ năng thì số học sinh vừa nghe giảng vừa ghi chép (66.7%) và số học sinh tham gia phát biểu xây dựng bài (87.1%) chiếm tỉ lệ khá cao. Trong khi đó, các em đi học để không thua kém bạn bè thì số học sinh vừa nghe giảng vừa ghi chép (15.7%) và số học sinh tham gia phát biểu xây dựng bài (17.6%) lại chiếm tỉ lệ thấp. Sự khác biệt này nói lên rằng nhu cầu của bản thân có ảnh hưởng quan trọng tới động cơ học tập, tính chủ động của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức mà giáo viên truyền đạt. Chính điều này đã giúp các em không những nhận được tri thức cần thiết mà còn có một ý thức tốt trong học tập. Việc chú ý nghe giảng, tham gia phát biểu xây dựng bài sẽ làm cho không khí lớp học sôi động và thú vị. Hơn nữa, hứng thú và nhu cầu của bản thân còn giúp các em vạch ra được một phương pháp học hiệu quả. Đó là việc tự học và tìm hiểu, nghiên cứu thêm kiến thức cho bài học của mình. Em T. S. D (học sinh lớp 12B) cho biết: “Ngoài thời gian lên lớp, em tự học là chính. Em cũng làm thêm những bài tập ở các sách nâng cao nữa”. Do vậy, việc các em vừa củng cố kiến thức trên lớp, đồng thời đào sâu vào những vấn đề mình quan tâm hoặc chưa nắm rõ sẽ làm cho việc học tập của các em tốt hơn. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát ở bảng 2.2. cho thấy con đường định hướng tương lai của các em phần lớn là muốn học tiếp lên cao hơn sau khi tốt nghiệp THPT. Có 207 học sinh (88.8%) muốn thi lên ĐH, CĐ, THCN. Như vậy, nhu cầu học tập của các em rất lớn và đây cũng chính là động lực để các em học lên những chương trình cao hơn. Kết luận: Nhìn chung, tầm quan trọng của hứng thú, nhu cầu bản thân có ảnh hưởng rất lớn đến động cơ học tập. Điều này trở thành động lực để học sinh cố gắng học tập nhằm chiếm lĩnh được tri thức cho bản thân. Đồng thời, hình thành trong ý thức học tập của các em một sự chủ động và luôn cố gắng hoàn thiện mình. 2.3.4. Đặc điểm học sinh dân tộc nội trú Bên cạnh những nét chung của trẻ trong giai đoạn THPT thì học sinh các trường DTNT có thêm những nét riêng. 2.3.4.1. Về mặt sinh lý Học sinh ở các trường dân tộc nội trú thường là con em thuộc các dân tộc thiểu số ở các huyện vùng sâu, vùng xa, hoàn cảnh sống còn nhiều khó khăn. Đa phần các em thuộc gia đình làm nông, kinh tế ở mức trung bình.. Vì vậy sự phát triển về mặt cơ thường chậm hơn so với giai đoạn phát triển của mình. Tuy nhiên, từ nhỏ các em thường đã lao động phụ giúp cho gia đình nên các em thường có thể lực tốt. 2.3.4.2. Đặc điểm tâm lý Từ nhỏ các em đã sống trong các làng, phun, sóc với cha mẹ và các thành viên trong khuôn khổ nhỏ hẹp. Vì vậy còn bỡ ngỡ, thiếu tự tin trong giao tiếp, hay ngại ngùng, e dè. Đặc điểm nổi bật là các em thường rất chân thật, yêu mến mọi người và có mong muốn quan tâm người khác và được người khác quan tâm. Học sinh các trường DTNT thường thích các hoạt động văn nghệ như múa, hát... Các hoạt động ngoại khóa cũng thường thu hút sự tham gia của hầu hết các em. Do học tập trong môi trường nội trú, với những nội quy rõ ràng và sự quản lý chặt chẽ từ nhà trường nên tạo cho các em ý thức tự giác và kỉ luật tương đối cao. Thường các em trong các trường DTNT là sống xa nhà nên có tâm lý nhớ nhà, nhớ người thân trong gia đình. Học sinh trường DTNT sống cùng với nhau trong kí túc xá cả một thời gian dài nên các em thường thân thiết, gắn bó với nhau. Các em ăn uống, sinh hoạt cùng nhau từ đó xây dựng nên ý thức tập thể cao. Vì bạn bè rất quan trọng nên các em luôn muốn tìm được chỗ đứng của mình trong tập thể, sợ bị bạn bè xa lánh, không hiểu mình. Thầy cô cũng có ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của các em vì trong môi trường nội trú, thầy cô như người cha, người mẹ thứ 2 của học sinh. Vì vậy nếu thầy cô quan tâm và dành tình cảm nhiều cho học sinh sẽ giúp các em yên tâm và vui thú với việc học hơn. Và thường ở các trường nội trú, thầy cô và học sinh thường có quan hệ gần gũi, yêu thương nhau. Ở trong môi trường nội trú, các em học sinh nam và nữ sống gần nhau nên dễ nảy sinh chuyện tình cảm với khá nhiều rắc rối. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của các em, vì vậy nhà trường và thầy cô cần định hướng cho các em có tình cảm đúng đắn, trong sáng và thực hiện tốt công tác quản lý học sinh. 2.3.5. Gia đình Gia đình luôn là một yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng, gia đình luôn là một nguồn động viên cổ vũ rất lớn cho các em học sinh về mặt tinh thần cũng như vật chất. Nếu gia đình luôn động viên, cổ vũ cho các em học sinh một cách tích cực, đúng đắn thì các em học sinh sẽ có động lực để phấn đấu học tập và vươn lên trong học tập. Nhưng nếu gia đình không quan tâm đến con em mình hay cổ vũ tiêu cực thì các em học sinh sẽ chán nản dẫn đến học hành chểnh mảng, sa sút và bỏ học. Bảng 2.15. Sự ủng hộ của gia đình đối với việc học của học sinh STT Sự ủng hộ của gia đình Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Không ủng hộ 1 0.4 2 Ủng hộ 223 95.7 3 Em không biết 9 3.9 Bảng thống kê trên cho biết gia đình có ủng hộ việc các em học sinh đi học hay không và nó cho thấy các em học sinh trong mẫu nghiên cứu hầu hết đều nhận được sự ủng hộ từ phía gia đình. Có 223 lượt chọn các em nhận được sự ủng hộ từ gia đình, có tỷ lệ 95.7%. Có 9 lượt chọn các em không biết có nhận được sự quan tâm từ gia đình hay không, có tỷ lệ 3.9%. Chỉ có duy nhất 1 lượt chọn là không nhận được sự ủng hộ của gia đình, có tỷ lệ 0.4%. Bảng 2.16. Mức độ quan tâm của gia đình đối với việc học tập và cuộc sống của học sinh ở trường STT Sự quan tâm của gia đình Số lượng Tỉ lệ % 1 Không bao giờ 1 0.4 2 Thỉnh thoảng 49 21.0 3 Thường xuyên 183 78.5 Qua bảng thống kê cho thấy mức độ quan tâm của gia đình các em học sinh là không giống nhau. Có 183 lượt chọn các em thường xuyên nhận được sự quan tâm của gia đình, có tỷ lệ 78.5%. Có 49 lượt chọn là các em chỉ thỉnh thoảng nhận được sự quan tâm từ phía gia đình, có tỷ lệ 21%. Chỉ có 1 lượt chọn là em không bao giờ nhận được sự quan tâm từ phía gia đình, có tỷ lệ 0,4%. Điều này cho thấy công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường cần phải thắt chặt hơn nữa. Mặt khác, do đặc thù là trường nội trú nên công tác liên lạc với gia đình học sinh phải thường xuyên hơn để gia đình biết tình hình học tập và cuộc sống của con em mình và quan tâm đến con em mình nhiều hơn. Bảng 2.17. Các yếu tố ảnh hưởng của gia đình đến kết quả học tập của học sinh STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Truyền thống học tập từ gia đình 40 12.1 2 Áp lực của cha mẹ 59 17.8 3 Gia đình động viên học tập 130 39.3 4 Kinh tế gia đình khó khăn 77 23.3 5 Ý kiến khác 25 7.6 Bảng thống kê này cho thấy sự ảnh hưởng của gia đình các em học sinh đối với động cơ học tập của các em cũng không giống nhau và rất đa dạng. Có 130 lượt chọn sự ảnh hưởng tới động cơ học tập của mình là do gia đình động viên học tập, có tỷ lệ 39.3%. Tiếp đến là có 77 lượt chọn sự ảnh hưởng là do kinh tế gia đình khó khăn, tỷ lệ 23.3%. Tiếp theo, có 59 lượt chọn sự ảnh hưởng là do áp lực của cha mẹ, có tỷ lệ 17.8%. Có 40 lượt chọn sự ảnh hưởng là do truyền thống học tập từ gia đình, có tỷ lệ 12.1%. Cuối cùng, có 25 lượt chọn sự ảnh hưởng không phải là các yếu tố kể trên, có tỷ lệ 7.6%. Kết luận: Như vậy cho thấy yếu tố gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành động cơ học tập của học sinh, mặc dù có rất nhiều khía cạnh, yếu tố ảnh hưởng khác nhau nhưng đều góp phần hình thành ở học sinh động cơ để học tập. 2.3.6. Bạn bè Do đây là độ tuổi các em học sinh đang trưởng thành để chuẩn bị bước ra ngoài xã hội nên nhu cầu tìm hiểu về bản thân, những điều xảy ra xung quanh là rất lớn. Chính vì thế nhu cầu tình bạn trong độ tuổi này là rất lớn, các em có thể cãi lại bố mẹ, không nghe bố mẹ nhưng lại nghe bạn. Khi bạn bè tâm sự, nói chuyện với nhau về học tập, quá trình này cũng góp phần hình thành ở học sinh động cơ học tập. Bảng 2.18. Mức độ trao đổi với bạn bè về việc học STT Trao đổi Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Không bao giờ 5 2.1 2 Thỉnh thoảng 89 38.2 3 Thường xuyên 139 59.7 Kết quả cho thấy, có tới 59.7% học sinh thường xuyên trao đổi với bạn bè về việc học của mình. Chỉ có 2.1% là không bao giờ trao đổi, đây chỉ là một con số nhỏ, một số lượng rất ít học sinh so với số lượng học sinh thường xuyên trao đổi với nhau học tập. Phần đông các em dễ dàng trao đổi với nhau hơn là với cha mẹ cũng như thầy cô. Nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 24 em học sinh thì có tới 18 em thường xuyên trao đổi với bạn bè về việc học. Như vậy đa số các em thường tìm đến bạn bè để cùng nhau học tập. Chẳng hạn như khi được hỏi: “Bạn bè trong lớp có thường giúp nhau trong học tập không?”, bạn T.H.N lớp 11B cho biết: “Các bạn trong lớp luôn giúp đỡ nhau trong học tập, thường trao đổi bài với nhau, tổ chức học nhóm, cùng giải bài tập, giúp các bạn yếu, thường là tổ chức phong trào đôi bạn cùng tiến”. Cũng như vậy, bạn T.X lớp 11B cũng nói: “Dĩ nhiên, chúng em thường tổ chức đôi bạn cùng tiến nên thường bạn nào khá thì kèm cho một bạn yếu, thường xuyên học nhóm giải bài tập”. Các em thường giúp nhau trong học tập bằng nhiều hình thức khác nhau: Bảng 2.19. Hình thức trao đổi việc học tập của học sinh STT Hình thức trao đổi Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Trao đổi bài vở 124 54.9 2 Giúp nhau về vật chất 2 0.9 3 Động viên nhau trong học tập 49 21.7 4 Ý kiến khác 51 22.6 Có nhiều hình thức học sinh giúp nhau trong học tập nhưng chủ yếu là các em trao đổi về bài vở. Có 124 em chiếm tới 54.9% cho rằng các em thường trao đổi bài vở là chủ yếu, ai học khá thì giúp những bạn học kém hơn, bạn này không hiểu bài thì hỏi bạn kia. Các em thường tìm cho mình thời gian để hỏi bạn khi không hiểu bài. Bạn T.T.H.N lớp 10A nói: “Ở lớp, các bạn thường xuyên giúp đỡ nhau trong việc học. Có khi, chúng em thường đến sớm hơn trước giờ vào học để cùng nhau truy bài, giúp các bạn hiểu những bài tập khó”. Ngoài việc trao đổi bài vở, các em cũng thường động viên nhau trong học tập, có 49 em chiếm 21.7% và cũng có những trường hợp giúp nhau về vật chất nhưng đây chỉ là số ít, chủ yếu là các em trao đổi bài vở, động viên nhau học tập, cùng nhau cố gắng vượt khó vươn lên mỗi ngày. Như đã tìm hiểu ở trên, động cơ theo nghĩa rộng nhất được hiểu là cái thúc đẩy con người hoạt động làm thỏa mãn nhu cầu, là cái làm nảy sinh tính tích cực và xu hướng của tính tích cực đó. Động cơ học tập là sức thúc đẩy hoạt động học tập, tức là học để làm gì. Động cơ học tập là những nhân tố kích thích, thúc đẩy tính tích cực học tập ở học sinh nhằm đạt kết quả nhận thức và hình thành phát triển nhân cách. Các động cơ học tập ảnh hưởng đến tính chất của hoạt động học, đến thái độ của học sinh đối với việc học tập. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh, bạn bè cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến động cơ học tập, đến hoạt động học, thái độ học tập của học sinh. Vậy thì những điều gì từ bạn bè thúc đẩy việc học của chúng ta? Bảng 2.20. Yếu tố từ bạn bè thúc đẩy việc học tập của học sinh STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Động viên, giúp đỡ nhau trong học tập 113 49.1 2 Thi đua trong học tập 94 40.9 3 Ý kiến khác 23 10.0 Có nhiều điều từ bạn bè làm động lực thúc đẩy chúng ta cố gắng trong học tập. Cụ thể qua nghiên cứu kết quả cho thấy có 49.1% cho rằng việc bạn bè động viên, giúp đỡ nhau trong học tập là yếu tố quan trọng thúc đẩy việc học, là yếu tố tạo nên động cơ thúc đẩy chúng ta cố gắng vươn lên trong học tập. Ngoài ra, việc thi đua trong học tập cũng là yếu tố không kém phần quan trọng trong việc tạo nên động cơ thúc đẩy việc học của học sinh. Tuy nhiên, không phải tất cả bạn bè đều đem lại ảnh hưởng tốt cho tuổi trẻ. Trái lại, nhiều tuổi trẻ bị bạn bè lôi cuốn quên cả việc học hành, ăn tiêu phung phí, … Loại tuổi trẻ này đã hiểu lầm sự quan trọng trong quan hệ bạn bè để thỏa mãn lối sống đua đòi, tự do ngoài quyền kiểm soát của cha mẹ. Từ những ảnh hưởng xấu ở mức độ nhẹ đến những ảnh hưởng xấu ở mức độ nặng hơn vượt ra ngoài khuôn khổ của gia đình, học đường, xã hội và đây chính là nguyên nhân của vấn đề tuổi trẻ bụi đời, tuổi trẻ phạm pháp. Như vậy, sự quan trọng của quan hệ bạn bè đem lại ảnh hưởng tốt và ảnh hưởng xấu, tuổi trẻ với sự hướng dẫn của cha mẹ, tìm bạn tốt để vui chơi học hỏi và cùng nhau học tập. Kết luận: Qua kết quả nghiên cứu cũng như trực tiếp phỏng vấn sâu các em học sinh trong trường, chúng tôi nhận thấy bạn bè là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong môi trường học tập, ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh, cũng có thể là ảnh hưởng tốt nhưng cũng có thể là ảnh hưởng không tốt. Vì vậy, chúng ta cần định hướng cho các em giúp các em tìm cho mình những môi trường tốt, định hướng cho mình điều nào là xấu để tránh và điều nào là tốt để học hỏi. Cùng nhau học tập và cùng nhau động viên chia sẻ niềm vui nỗi buồn, chia sẻ khó khăn trong học tập là thói quen tốt đã từng có ở học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh. Đây là thói quen tốt mà các em cần cố gắng phát huy hầu giúp tạo cho mình động lực vươn lên mỗi ngày trong học tập. 2.3.7. Giáo viên Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Phương pháp giảng dạy của giáo viên là một nhân tố quan trọng để tạo nên chất lượng dạy học trong nhà trường. 2.3.7.1. Nhận thức của giáo viên về vai trò của phương pháp giảng dạy với động cơ học tập của học sinh Để tìm hiểu nhận thức của giáo viên Trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh về mức độ ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy của giáo viên đối với động cơ học tập của học sinh, nhóm đã tiến hành khảo sát giáo viên và đánh giá với 5 mức độ: Không ảnh hưởng, Ít ảnh hưởng, Ảnh hưởng, Rất ảnh hưởng, Là yếu tố quyết định. Kết quả xử lí được thể hiện ở bảng 2.21. Bảng 2.21. Đánh giá của giáo viên về phương pháp giảng dạy ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Không ảnh hưởng 1 3.3 2 Ảnh hưởng 5 16.7 3 Rất ảnh hưởng 15 50.0 4 Là yếu tố quyết định 9 30.0 Kết quả bảng 2.21 cho thấy: tỉ lệ giáo viên đánh giá mức độ rất ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy đối với động cơ học tập của học sinh chiếm tỉ lệ cao nhất (50%), tiếp đó là yếu tố quyết định (30%), ảnh hưởng chiếm 16.7% và không ảnh hưởng chiếm 3.3%. Các giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy vì dù người thầy có kiến thức, trình độ giỏi đến đâu mà không có phương pháp giảng dạy, phương pháp truyền đạt kiến thức cho học sinh thì học sinh không thể nào lĩnh hội tri thức, và quá trình dạy học sẽ không thể nào đạt hiệu quả được. Từ đó không thể tạo động cơ cho học sinh tích cực chiếm lĩnh tri thức. Để tìm hiểu phương pháp dạy học của giáo viên, chúng tôi đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học khác nhau, giáo viên sẽ đánh giá mức độ áp dụng các phương pháp đó trong thực tiễn dạy học của mình qua 5 mức độ (1: hoàn toàn không, 5: Rất thường xuyên). Kết quả xử lí theo trị trung bình được thể hiện ở bảng 2.22. Bảng 2.22. Đánh giá mức độ thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên STT Mức độ sử dụng các phương pháp Trung bình Độ lệch tiêu chuẩn Xếp hạng 1 Đặt câu hỏi để học sinh thuyết trình 2.38 0.863 1 2 Thực hành thực tế 2.00 0.845 2 3 Thuyết trình kết hợp Giáo án điện tử 1.89 0.892 3 4 Đóng vai 1.62 0.898 4 5 Đọc chép 1.31 0.471 5 Kết quả bảng 2.22. cho thấy: giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp đặt câu hỏi để học sinh thuyết trình chiếm tỉ lệ cao nhất (TB: 2.38), thực hành thực tế (TB: 2.00), thuyết trình kết hợp giáo án điện tử (TB:1.89), đóng vai (TB:1.62), đọc chép là thấp nhất (TB: 1.31). Điều đáng mừng ở đây là phương pháp “đọc chép” là phương pháp mà giáo viên ít lựa chọn nhất, thay vào đó là những phương pháp mới theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm. Các giáo viên đã dần thay thế các phương pháp giảng dạy cũ bằng những phương pháp mới nhằm tạo hứng thú cho học sinh. Việc tổ chức cho học sinh được tiếp cận phương pháp đóng vai trong quá trình học tập chưa được áp dụng thường xuyên trong phương pháp giảng dạy của giáo viên. Chúng tôi đã phỏng vấn giáo viên về việc tổ chức cho học sinh được tiếp cận các phương pháp mới, giáo viên lí giải: trong thực tế, điều kiện áp dụng phương pháp mới còn hạn chế do hạn chế về cơ sở vật chất nhà trường. Thực tế, nhà trường chỉ có một phòng máy chiếu. Việc sử dụng phương pháp giảng dạy kết hợp giáo án điện tử là rất khó. Bên cạnh đó, do đặc điểm từng môn học có nên áp dụng phương pháp mới, ví dụ phương pháp đóng vai hay không trong khi một tiết dạy chỉ có 45 phút. Để làm rõ hơn vấn đề này, chúng tôi tiến hành khảo sát trên học sinh để tìm hiểu về mức độ thường xuyên giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học với 5 mức độ tương tự, kết quả thu được ở bảng 2.23. Bảng 2.23. Đánh giá của học sinh về mức độ thường xuyên sử dụng các phương pháp giảng dạy của giáo viên STT Mức độ sử dụng các phương pháp Trung bình Độ lệch tiêu chuẩn Xếp hạng 1 Đọc chép 2.35 0.736 1 2 Đặt câu hỏi để học sinh thuyết trình 2.17 0.864 2 3 Thuyết trình kết hợp Giáo án điện tử 1.73 0.846 3 4 Thực hành thực tế 1.41 0.683 4 5 Đóng vai 1.18 0.434 5 Ngược lại với bảng kết quả của giáo viên, bảng kết quả của học sinh lại đánh giá việc giáo viên sử dụng phương pháp đọc chép là nhiều nhất (TB:2.35), kế đến là đặt câu hỏi để học sinh thuyết trình (TB: 2.17), thuyết trình kết hợp giáo án điện tử (TB:1.73), thực hành thực tế (TB: 1.41), đóng vai (TB: 1.18). Trao đổi với Ban giám hiệu và Giáo viên về vấn đề này, thầy cô cho biết, có thể trong quá trình trả lời các câu hỏi, học sinh chưa thực sự hiểu rõ ý nghĩa của phương pháp “Đọc – chép”, do đó tỉ lệ các em chọn cho phương pháp này cao. Tuy nhiên, một thực tế trong khi dự giờ các tiết học, nhóm thấy phần đông các thầy cô vẫn chưa tạo được hứng thú thực sự cho học sinh vì vẫn sử dụng các phương pháp truyền thống. Một số môn học sinh được tiếp cận phương pháp thực hành thực tế nhưng điều kiện cơ sở vật chất vẫn là một trở ngại cho giáo viên và học sinh. Theo chúng tôi, các phương pháp giảng dạy mới cần được thực sự coi trọng hơn trong quá trình dạy học ở nhà trường. 2.3.7.2. Thái độ của học sinh đối với việc tổ chức giảng dạy của giáo viên Học sinh là đối tượng chính của quá trình dạy học, việc tiếp thu kiến thức đến mức độ nào là phụ thuộc một phần lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy thái độ học tập của học sinh qua đánh giá của thầy cô được thể hiện ở bảng 2.24. Bảng 2.24. Đánh giá của giáo viên về thái độ học tập của học sinh qua các giờ học STT Đánh giá thái độ học tập Trung bình Độ lệch tiêu chuẩn Xếp hạng 1 Đi học đầy đủ 3.80 0.407 1 2 Tập trung nghe giảng 3.53 0.571 2 3 Tham gia phát biểu xâydựng bài 3.27 0.639 3 4 Chuẩn bị bài 3.17 0.699 4 Kết quả trên cho thấy: thái độ học tập của học sinh trong các giờ học khá nghiêm túc. Các em đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học thể hiện qua việc đi học đầy đủ. Để tìm hiểu thêm về hứng thú học tập của học sinh qua các môn học và tìm hiểu nguyên nhân gây hứng thú, nhóm đã tiến hành khảo sát trên học sinh, kết quả thu được ở bảng 2.9 và bảng 2.25. Kết quả bảng 2.9 cho thấy, học sinh thích môn toán nhất (27.9%) và kế đến là môn văn (16.2%). Tìm hiểu nguyên nhân gây nên hứng thú cho học sinh, kết quả thu được ở bảng 2.25. Bảng 2.25: Tương quan môn học mà học sinh thích nhất và lí do tạo nên hứng thú với môn học Lý do thích môn học (gộp) Môn học dễ hiểu, thú vị Giáo viên dạy hay, hiểu tâm lý học sinh Thực hành thực tế nhiều Giáo viên vui vẻ, học sinh thoải mái Môn học em thích nhất Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Toán 18 18.8 26 30.6 11 30.6 22 25.3 Văn 12 12.5 19 22.4 2 5.6 14 16.1 Anh văn 16 16.7 5 5.9 8 22.2 15 17.2 Qua kết quả bảng 2.25, chúng tôi thấy rằng lí do gây nên hứng thú cho học sinh với môn học toán là do giáo viên dạy hay, hiểu tâm lý học sinh (30.6%) và được thực hành thực tế nhiều (30.6%). Bên cạnh đó, yếu tố giáo viên vui vẻ thân thiện, học sinh được tâm lý thoải mái trong giờ học khá cao (25.3%). Giáo viên đã có sự cố gắng trong việc vận dụng phương pháp mới vào thực tiễn và một yếu tố không kém phần quan trọng là việc tạo lập mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và học sinh, đồng thời hiểu được tâm lý cũng như nhu cầu học tập của các em là yếu tố kích thích hứng thú học tập. Giáo viên phải làm sao cho những nhu cầu được gắn liền với một trong những mặt của hoạt động học tập. Khi đó những mặt này của việc học tập sẽ biến thành động cơ và bắt đầu thúc đẩy hoạt động học tập của học sinh. Nó sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thường xuyên thúc đẩy các em vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tri thức. Qua trao đổi với một số học sinh trong các tiết sinh hoạt, chúng tôi nhận thấy rằng học sinh chỉ cảm thấy hứng thú với những môn học mà thầy cô có cách dạy thu hút và kích thích sự tò mò, còn những giáo viên có phương pháp dạy độc thoại thì hầu hết các em đều cảm thấy chán nản và mong cho nhanh hết giờ để được giải tỏa. Ta nhận thấy được sự hiệu quả của các phương pháp mới, nó không gói gọn hay trói buộc học sinh trong nội dung của bài giảng của giáo viên nữa, mà học sinh có thể chủ động tìm kiếm thông tin cho chính mình, được trình bày ý kiến và quan điểm, được thảo luận và trao đổi kiến thức tìm được với thầy cô và bạn bè, qua đó sẽ phát huy tính sáng tạo của mình, tâm lý thoải mái không bị áp lực với thi cử hay lượng kiến thức ngồi nhét. Chính tâm lý thoải mái tham gia học tập sẽ làm cho học sinh năng động và sáng tạo tham gia vào tiết học, sẽ không còn cảm giác e ngại, lo sợ hay chán nản khi đến lớp nữa, thay vào đó là niềm say mê tìm tòi, phát hiện những kiến thức mới, khao khát được đến lớp để được chia sẻ và học tập lẫn nhau. Kết luận: Nhìn chung, giáo viên và học sinh nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của phương pháp giảng dạy, cũng như sự cần thiết của việc áp dụng những phương pháp mới vào hoạt động dạy học hiện nay để góp phần phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh, khơi dậy niềm đam mê tìm tòi học tập và động cơ học tập khi đến lớp. Theo chúng tôi, phương pháp dạy học thực sự được giáo viên và học sinh trường quan tâm hàng đầu, phương pháp giảng dạy được nhận thức đúng đắn và cập nhật đưa vào giảng dạy những phương pháp mới là một sự tiến bộ đáng trân trọng của ngành giáo dục. 2.3.8. Văn hóa - xã hội Văn hóa và phong tục tập quán cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh vì hơn 90% học sinh của trường là người dân tộc Khmer. Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu những nét văn hóa riêng của người Khmer. Đồng bào Khmer ở Nam bộ có ba hình thức tôn giáo: theo tín ngưỡng dân gian, đạo Bà La Môn và đạo Phật dòng tiểu thừa, trong đó đạo Phật là tôn giáo có số lượng người tham gia đông đảo nhất và cũng là tôn giáo được sùng kính nhất của người Khmer. Đặc biệt trong văn hóa người Khmer, chùa đóng một vai trò quan trọng trong tâm thức cũng như cuộc sống hàng ngày của người dân. Người Khmer không tiếc công sức và tiền bạc cho việc xây dựng và tu bổ chùa. Thanh niên Khmer trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Nhà chùa thường dạy kinh nghiệm sản xuất, dạy chữ Khmer. Các lễ hội hàng năm của người Khmer cũng được diễn ra tại chùa như chôn-chơ-nam-thơ-mây (năm mới), lễ Phật đản, lễ Đôn-ta (xá tội vong nhân), Oóc-bom-boóc (cúng trăng). Đồng bào Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp. Những nét văn hóa, phong tục tập quán trên có những ảnh hưởng nhất định đến động cơ học tập của học sinh Khmer. Thứ nhất, chùa là nơi linh thiêng và là niềm tự hào của người Khmer nên không ít học sinh có xu hướng học xong 12 thì quay trở về phục vụ trong các chùa, hoặc là đi tu chứ không muốn học lên cao nữa. Thứ hai, những ngày lễ tết thường được diễn ra vào khoảng thời gian các học sinh đang học tại nhà trường nên nhà trường cần để cho các em về ăn tết với gia đình sau đó tiếp tục giảng dạy trở lại. Tuy nhiên có không ít trường hợp các học sinh sau khi về tham gia các ngày lễ tết thì không tiếp tục trở lại học. Thêm nữa, đối với các học sinh trở lại học cũng cần mất một thời gian để ổn định lại tâm lý cũng như hệ thống lại kiến thức cho các em. Về phương diện ngôn ngữ: Mặc dù được học tiếng Việt phổ thông nhưng đa phần học sinh có thói quen sử dụng ngôn ngữ riêng của mình trong sinh hoạt hàng ngày. Điều này gây ra tình trạng các em sử dụng yếu và hiểu không rõ ràng hoặc chưa hết ý lời thầy cô giảng. Từ đó dẫn đến tâm lý thụ động, dễ nản trong học tập. Văn hóa cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh trong trường. Phần đông các em là người đồng bào dân tộc Khmer, có sự yêu thích đối với các hoạt động sinh hoạt văn nghệ nói chung và các lễ hội địa phương nói riêng. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó qua bảng sau: Bảng 2.26. Mức độ tham gia các lễ hội ở địa phương của học sinh STT Tham gia lễ hội Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Không tham gia 34 14.6 2 Thỉnh thoảng 124 53.2 3 Thường xuyên 56 24.0 4 Rất thường xuyên 19 8.2 Nhìn vào bảng số liệu chúng tôi thấy rằng hầu hết các em đều có tham gia các lễ hội ở địa phương (chiếm tỉ lệ 85.4%), chỉ có 14.6% số học sinh là không tham gia lễ hội. Tỉ lệ các em học sinh tham gia ở mức độ “thỉnh thoảng” chiếm vị trí cao nhất là 53.2%. Điều này thể hiện một đặc điểm tâm lý của học sinh các trường dân tộc nội trú là thích các hoạt động sinh hoạt ngoại khóa và giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc. Để tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của việc tham gia lễ hội đến việc học của các em, chúng tôi có bảng 2.27. Bảng 2.27. Mức độ ảnh hưởng của việc tham gia lễ hội đến việc học của học sinh STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Không ảnh hưởng 124 53.2 2 Ít ảnh hưởng 87 37.3 3 Rất ảnh hưởng 22 9.4 Dựa vào bảng số liệu trên, chúng tôi thấy rằng việc tham gia lễ hội ở địa phương không ảnh hưởng nhiều đến việc học của các em. Ta nhận thấy tỉ lệ học sinh ở mức độ không ảnh hưởng chiếm số lượng cao nhất (53.2%), ít ảnh hưởng là 37.3% và rất ảnh hưởng chỉ có 9.4% học sinh. Từ đó có thể thấy rằng học sinh ở trường biết cân bằng hoạt động tham gia lễ hội với việc học, các em không vì tham gia lễ hội mà sao nhãng công việc học tập của mình. Như vậy có thể nhận thấy các em có ý thức tự giác cao trong học tập và sắp xếp thời gian học một cách hợp lý. Để tìm hiểu xem yếu tố truyền thống văn hóa có ảnh hưởng nhiều đến định hướng trong tương lai của học sinh, chúng tôi có bảng 2.2. Từ bảng số liệu có thể thấy rằng, tỉ lệ học sinh muốn thi ĐH, CĐ, THCN chiếm tỉ lệ rất cao (88,8%), tỉ lệ các em chọn các định hướng khác như đi học nghề, vào chùa, lập gia đình đều rất thấp (đều dưới 3,0%). Riêng dự định trở về nhà phụ giúp gia đình thì hoàn toàn không có em nào lựa chọn. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, chứng tỏ là các em học sinh trong trường đã xác định được tầm quan trọng của việc học, cũng như xác định cho mình tiếp tục con đường học vấn để đảm bảo cho tương lai và góp sức mình cho xã hội. Bên cạnh yếu tố về văn hóa, truyền thống, chúng tôi cũng tìm hiểu việc thực hiện các chính sách trợ cấp của nhà nước đối với trường và nhận định của các em về sự trợ cấp của nhà nước. Bảng 2.28. Ý kiến của học sinh về trợ cấp nhà nước STT Trợ cấp nhà nước Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Đáp ứng đầy đủ 68 29.4 2 Đáp ứng 1 phần 157 68.0 3 Ý kiến khác 6 2.6 Nhìn vào bảng trên, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh cảm thấy sự trợ cấp của nhà nước mới chỉ đáp ứng được một phần chiếm tỉ lệ cao nhất (68.0%), có 29.4% các em cho rằng trợ cấp nhà nước đã đáp ứng đầy đủ cho việc học tập và sinh hoạt của mình ở trường, còn 2.6% là ý kiến khác. Từ đó, có thể nhận thấy rằng đa phần các em mong có sự quan tâm, trợ cấp nhiều hơn nữa. Điều này cũng rất quan trọng, vì nếu các em nhận được sự trợ cấp từ nhà nước là đảm bảo thì sẽ yên tâm hơn trong học tập cũng như trong cuộc sống. CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Học tập là quá trình lâu dài và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố. Từ môi trường học, phương pháp học, phương pháp giảng dạy của giáo viên…Trong đó, nhu cầu muốn học, muốn tìm hiểu, chiếm lĩnh tri thức là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến cả quá trình lâu dài của mỗi học sinh. Có thể nói rằng để học sinh say mê các môn học và có kết quả học tập tốt thì việc giúp các em xác định và xây dựng cho mình một động cơ học tập đúng đắn là yếu tố quyết định nhất. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh đa phần đều nhận thức được tầm quan trọng của việc học và xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn. Bên cạnh đó, các em được học tập và sinh hoạt trong một môi trường giáo dục tốt, từ cơ sở vật chất đảm bảo, đồng thời có sự quan tâm của thầy cô, gia đình và được học tập với nhiều phương pháp giảng dạy mới, từ đó tạo cho các em niềm vui, sự hứng thú trong học tập. Tuy nhiên các em còn khó khăn trong việc tiếp cận một số phương pháp giảng dạy mới cũng như chưa hứng thú nhiều với một số môn học. Sự quan tâm hơn nữa từ phía nhà trường, việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới một cách bài bản và có kế hoạch, có sự điều chỉnh từ phía thầy cô sẽ là yếu tố quan trọng để các em có thể học tập với nhiều phương pháp giảng dạy, cũng như có niềm vui, sự đam mê với tất cả các môn học. Từ đó các em tìm được niềm vui trong học tập, là cơ sở để nâng cao kết quả học tập của mình. Nâng cao kết quả học tập, cũng đồng thời là các em đã trưởng thành hơn, phát triển hơn về mặt nhân cách để vững bước trên những con đường học tập và lao động sau này. 3.2. Kiến nghị 3.2.1. Từ phía xã hội Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục nhằm xây dựng truyền thống học tập của học sinh. Qua đó, góp phần tuyên truyền cho phụ huynh biết tầm quan trọng cả việc học tập với con em mình. Tăng cường các chính sách hỗ trợ cho giáo viên và học sinh đặc biệt là những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Cần có những chính sách xóa đói, giảm nghèo thích hợp nhằm nâng cao cuộc sống người dân vì đa số kinh tế chính của các hộ dân ở đây là nông nghiệp. 3.2.2. Từ phía nhà trường Cần coi trọng và phát huy việc giáo dục ý thức, thái độ học tập cho học sinh thông qua nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Tăng cường cơ sở vật chất, dụng cụ thí nghiệm và trang thiết bị dạy học, tạo điều kiện cho giáo viên ứng dụng thành công phương pháp dạy học mới. Tổ chức thường xuyên các buổi tập huấn về phương pháp dạy học mới (ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học) nhằm rèn luyện khả năng chuyên môn và khả năng tin học cho giáo viên để nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy để đem lại hứng thú hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tổ chức những buổi tọa đàm giữa các giáo viên về các chuyên đề về dạy học và king nghiệm giảng dạy tạo điều kiện cho giáo viên trẻ được học hỏi và ứng dụng trong công tác giáo dục. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, có sự định hướng đầy đủ về nghề nghiệp trong tương lai giúp học sinh hình thành động cơ học tập. Có sự quan tâm, giúp đỡ, quan tâm từ bạn bè đối với những em có kết quả học tập thấp, trang bị cho học sinh những tri thức nền tảng, quan tâm, động viên khen thưởng kịp thời những em có thành tích xuất sắc và có tiến bộ trong học tập. 3.2.3. Từ phía gia đình Khuyến khích, động viên, khen ngợi, quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho con em được học hành, tôn trọng nguyện vọng, nhu cầu, hứng thú của của học sinh. 3.2.4. Từ bản thân học sinh Bản thân mỗi em cần nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng việc học của mình để hình thành thái độ học tập đúng đắn và định hướng cho nghề nghiệp tương lai sau này. Học sinh cần tích cực, chủ động hơn trong hoạt động học tập của mình (phát biểu ý kiến, đưa ra ý tưởng sáng tạo…) trong các giờ học giúp các em tiếp thu bài nhanh hơn và ghi nhớ kiến thức được lâu hơn. Cần mạnh dạn, cởi mở hơn trong việc trao đổi với giáo viên những vấn đề liên quan đến học tập, những khó khăn trong đời sống để tạo sự gần gũi thân thiện giữa giáo viên – học sinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu về động cơ học tập của học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh Trà Vinh.doc
Luận văn liên quan