Tìm hiểu về hệ thống tài chính Nhật Bản

- Tăng tính độc lập của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thi hành các chính sách tiền tệ. Ở Nhật Bản, để ra các quyết định liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ, luật cho phép BOJ thiết lập một Hội đồng chính sách với 9 thành viên bao gồm thống đốc, hai phó thống đốc, và sáu thành viên khác (không nhất thiết là người của ngân hàng trung ương và điểm quan trọng nhất ở đây là không cho phép đại diện của chính phủ trong hội đồng này). Với hội đồng này, kết hợp với mục tiêu được ấn định, BOJ không bị chi phối và đi lệch hướng trong quyết định thực thi chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ của Việt Nam là một phó thủ tướng, các thành viên khác là thống đốc, bộ trưởng các bộ có liên quan và thành viên khác. Điều này hạn chế đáng kể tính độc lập trong quyết định chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng cần đảm bảo nhất quán về mục tiêu (chẳng hạn như ổn định giá cả), độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm) cũng như vấn đề tài chính (cơ chế chính sách cụ thể về tài trợ ngân sách)

doc17 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5485 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về hệ thống tài chính Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học viện Ngân hàng Bài thảo luận: Tìm hiểu về hệ thống tài chính Nhật Bản Môn học: Tiền tệ ngân hàng – Nhóm 38 – ca 2 thứ 4 Người thực hiện: Nhóm 5 Mục lục 1. Lời nói đầu 2. Mô hình tổ chức hệ thống tài chính Nhật Bản Thành phần Đặc điểm Thực trạng Ưu điểm và nhược điểm 3. Phương thức luân chuyển vốn 4. Bài học cho Việt Nam Thực trạng Việt Nam Bài học cho Việt Nam Lời nói đầu Nằm ở phía Đông của châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm cùng với đó là kết cấu dân số già cùng với đó là những khủng hoảng tài chính trong giai đoạn hiện nay, nhưng Nhật Bản vẫn là một trong những quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới với giá trị GDP tính theo ngang giá sức mua tương đương khoảng 4.500 tỷ USD đứng thứ 4 trên thế giới (theo bảng xếp hạng được Ngân hàng thế giới công bố 7/2013) Nhật Bản là một cường quốc kinh tế đã trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập niên 90 của thế kỷ XX khiến cho cả thế giới khâm phục. Nhiều nước trong khu vực châu Á đã phấn đấu noi theo mô hình phát triển của Nhật Bản, trong đó một số nước và lãnh thổ Đông Á đã nhanh chóng trở thành con rồng kinh tế, giải quyết thành công nhiều vấn đề đời sống kinh tế, xã hội chỉ trong vòng 2-3 thập niên. Riêng với Việt Nam, hằng năm lượng vốn đầu tư vào của các doanh nghiệp Nhật Bản chiếm một con số không nhỏ, tính đến tháng 6/2013, Nhật Bản có 1990 dự án với tổng số vốn đăng ký gần 33 tỷ USD; bên cạnh đó, Nhật Bản hiện cũng là quốc gia cung cấp vốn ODA nhiều nhất cho Việt Nam (khoảng 24 tỷ USD), chiếm hơn 30% tổng cam kết viện trợ cho Việt Nam. Chính vì vậy, việc xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu học hỏi những chính sách, giải pháp chiến lực mà Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng để đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như vậy đối với Việt Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao và bền vững cho việc phát triển kinh tế - xã hội đồng thời nắm bắt được các nhu cầu của nền kinh tế Nhật Bản để đáp ứng các yêu cầu mà họ đề ra. Do đó chủ đề thảo luận mà nhóm lựa chọn để nghiên cứu là “Tìm hiểu về hệ thống tài chính Nhật Bản” Vì kiến thức của bản thân còn hạn chế nên nội dung bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong cô chỉ bảo, góp ý để bài thảo luận của nhóm em được hoàn chỉnh hơn. Mô hình tổ chức (cấu trúc) của hệ thống tài chính Nhật Bản Hiện nay, trên thế giới, hệ thống tài chính được phân thành hai loại: hệ thống tài chính dựa vào thị trường và hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng. Nếu như Anh, Mỹ là đại diện nổi bật cho hệ thống tài chính dựa vào thị trường thì Nhật Bản là tiêu biểu cho hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng chiếm 60% tổng tài sản tài chính, và so với GDP, khu vực ngân hàng lớn hơn các nước trong khối G7 trừ Anh và Pháp. Thị trường bảo hiểm Nhật Bản đứng thứ hai trên thế giới về bảo hiểm tổng hợp. Thành phần Người tiết kiệm và người đầu tư Ngân hàng Nhật Bản và các tổ chức tài chính Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) là ngân hàng trung ương của Nhật Bản. Ngân hàng Nhật Bản phát hành và quản lý các loại tiền giấy. Ngân hàng tiến hành các chính sách tiền tệ để đảm bảo sự ổn định về giá cả nhằm duy trì một nền kinh tế không lạm phát hay giảm phát. Đồng thời cung cấp các dịch vụ thanh toán và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính. Thị trường tài chính + Thị trường vốn , trong đó cung cấp các phương tiện để tài trợ cho nợ công và tư nhân và bán quyền sở hữu của công ty còn lại, + Thị trường tiền tệ, cung cấp cho các ngân hàng nguồn thanh khoản và cung cấp các Ngân hàng của Nhật Bản với các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ Các cơ quan quản lý và giám sát hệ thống tài chính + Ủy ban giám sát giao dịch chứng khoán Nhật Bản (SESC): thuộc thẩm quyền của Cơ quan dịch vụ tài chính, được thành lập vào 7/1992 sau các vụ bê bối liên quan đến các công ty chứng khoán năm 1991. Không như Ủy ban chứng khoán và hối đoái Mỹ, SESC không có quyền lực để trừng phạt những người vi phạm pháp luật. + Cơ quan dịch vụ tài chính Nhật Bản (FSA): Là tổ chức Chính phủ chịu trách nhiệm giám sát các ngân hàng,thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối, bảo hiểm để đảm bảo sự ổn định. Nó giám sát Ủy ban giám sát giao dịch chứng khoán Đặc điểm Đặc trưng của hệ thống này là các ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong các giao dịch thực hiện trên cơ sở quan hệ giữa bên đi vay và cho vay. Mỗi doanh nghiệp thường cố gắng xây dựng sơi dây liên kết và hiểu biết lâu dài với một ngân hàng nhất định. Quyết định cấp vốn tín dụng của ngân hàng đối với một doanh nghiệp được đưa ra phụ thuộc vào việc có đầy đủ thông tin về những ưu, nhược điểm của doanh nghiệp đó. Với cấu trúc hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, ở Nhật Bản vốn huy động của các doanh nghiệp chủ yếu là vay từ những tổ chức trung gian tài chính, gấp khoảng 10 lần so với nhận từ thị trường chứng khoán, với điều lệ sửa đổi thị trường chứng khoán trong những năm gần đây, vốn của các công ty vay từ các tổ chức trung gian tài chính đã giảm tương đối so với vốn nhận được từ thị trường chứng khoán. Thực trạng Trên thị trường có khoảng 2000 tổ chức nhận tiền gửi nhưng chỉ một số ngân hàng lớn đã thống trị lĩnh vực này. Sáu ngân hàng thành phố (citybank) là các ngân hàng thương mại lớn, bốn trong số đó thuộc về ba nhóm ngân hàng lớn (megabanks) nắm giữ khoảng 51% tài sản ngành ngân hàng. Các ngân hàng không chỉ có quan hệ chặt chẽ với các nhóm ngành công nghiệp lớn mà còn cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ. Sáu ngân hàng tín thác (trust bank) tập trung vào cả thương mại và tin tưởng ngân hàng, bao gồm cả các dịch vụ quản lý tài sản cho các tập đoàn lớn (thường được định hướng xuất khẩu). Các ngân hàng khu vực (regional bank) thường có trụ sở tại thành phố chính của tỉnh và tài trợ chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương và chính phủ. Kể từ đầu những năm 2000, hợp nhất trong lĩnh vực này còn hạn chế. Ngân hàng nước ngoài đóng một vai nhỏ trong thị trường trong nước, họ tập trung chủ yếu vào đầu tư và dẫn vốn kinh doanh ở các ngân hàng tư nhân, và cổ phiếu của họ về tài sản ngành công nghiệp đã giảm xuống chỉ còn 3,5 phần trăm trong năm 2010 từ 7 % trong năm 2006.Ngân hàng bưu điện Nhật Bản đại diện 12% tài sản của tất cả các tổ chức nhận tiền gửi (bao gồm cả các ngân hàng và tổ chức tài chính hợp tác xã), và là tổ chức nhận tiền gửi lớn nhất trên thế giới. Trong lĩnh vực bảo hiểm, lãi suất thấp và giá cổ phiếu giảm trong cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 đã gây sức ép đáng kể về ngành công nghiệp và dẫn đến hợp nhất. Tính đến cuối năm 2010, tổng tài sản của ngành bảo hiểm chiếm 78% GDP, trong đó khoảng 80% là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Khoảng một phần ba tài sản trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ thuộc về Bảo hiểm bưu điện Nhật Bản, công ty bảo hiểm nhân thọ lớn nhất trên thế giới, và hầu hết các phần còn lại một trong số ít các công ty bảo hiểm lớn. Lĩnh vực phi nhân thọ chủ yếu là bảo hiểm xe máy (gần hai phần ba của thị trường). Khoảng 6% doanh nghiệp phi nhân thọ và dưới 2% doanh nghiệp nhân thọ là tái bảo hiểm, tập trung ở thị trường địa phương. Nhìn chung, dưới 1% của doanh nghiệp bảo hiểm được tái bảo hiểm ra nước ngoài và dưới 1% phí bảo hiểm của công ty bảo hiểm Nhật Bản liên quan đến tái bảo hiểm rủi ro nước ngoài. Tham gia trực tiếp của chính phủ trong hệ thống tài chính đã giảm trong thập kỷ qua nhưng vẫn còn đáng kể. Chính phủ giữ lại quyền sở hữu các tổ chức tài chính quan trọng thuộc Chính phủ thông qua một công ty cổ phần, bao gồm Ngân hàng bưu điện Nhật Bản (JPB) và Bảo hiểm bưu điện Nhật Bản (JPI). Ngoài ra, bảo lãnh tín dụng công đã được mở rộng trong những năm gần đây khoản nợ tương đương khoảng 8% GDP Đối mặt với sự tăng trưởng và nhu cầu tín dụng nội địa thấp, các tổ chức tài chính đã ngày càng mở rộng hoạt động ra nước ngoài đặc biệt là ở châu Á. Số tiền đòi bồi thường quốc tế của các ngân hàng Nhật Bản tăng gấp đôi từ 1,3 nghìn tỷ USD lên 2,7 nghìn tỷ USD từ năm 2004 đến năm 2010. Mỹ vẫn là điểm đến chính, nhưng cổ phiếu của châu Á đã tăng lên khoảng 15% rủi ro nước ngoài. Đồng yên tăng giá và hoạt động trong nước yếu có thể thúc đẩy tiếp tục mở rộng ở nước ngoài của các tổ chức tài chính của Nhật Bản với thị trường tài chính toàn cầu và khu vực. Sở hữu chéo giữa các tập đoàn tài chính hầu hết giảm, trừ các công ty bảo hiểm. Ví dụ, các công ty bảo hiểm nắm giữ khoảng 8% cổ phiếu ngân hàng trong năm 2001 nhưng chỉ còn 2% trong năm 2010. Khu vực công ty chứng khoán là tương đối nhỏ, và lợi nhuận thấp đã dẫn đến hợp nhất. Nhìn chung, các công ty chứng khoán Nhật Bản theo đuổi mô hình kinh doanh cũ và thu nhập xuất phát chủ yếu từ tiền hoa hồng (khoảng 70% của doanh thu thuần từ hoạt động) chứ không phải là kinh doanh độc quyền. Điều này trái ngược với các ngân hàng đầu tư toàn cầu khác với doanh thu thương mại chiếm khoảng 46-60% tổng thu nhập. Đổi mới tài chính trong phân khúc bán lẻ đã được duy trì trong một thập kỷ qua, nhưng phạm vi còn phát triển hơn nữa. Trong khi tiếp tục duy trì hơn 50 phần trăm của tài sản tài chính trong tiền gửi, các hộ gia đình Nhật Bản đã dần dần tìm lợi nhuận cao hơn bằng cách đa dạng hóa sang ủy thác đầu tư (quỹ Toushin), ủy thác đầu tư bất động sản Nhật Bản (J-REITs) -ETFs/ETNs-, và bán lẻ tài khoản giao dịch ngoại hối. Tuy nhiên, số lượng các quỹ vẫn còn khiêm tốn so với các thị trường phát triển khác. Khu vực hưu trí, bao gồm cả lương hưu công cộng và tư nhân, là một phần quan trọng của hệ thống tài chính. Quỹ hưu trí nắm giữ một lượng tài sản lớn-tổng cộng khoảng 287 tỷ Yên tính đến cuối năm 2011, bao gồm cả các khoản đầu tư đáng kể vào trái phiếu Chính phủ (JGB). Ngoài thị trường trái phiếu thị trường vốn tại Nhật Bản là nhỏ so với các quốc gia khác trong nhóm G7. Thị trường nợ công của Nhật Bản là lớn nhất trên thế giới, cả về quy mô tuyệt đối và tương đối so với GDP. Trong năm 2011, lượng trái phiếu chính phủ Nhật Bản đứng ở mức khoảng 12 nghìn tỷ USD, vượt tổng mức tín dụng ngân hàng trong nước. Hoạt động trong thị trường tài trợ ngắn hạn vẫn còn hạn chế cho sự phong phú của tính thanh khoản trong nước. Thị trường bán buôn tài trợ của các tổ chức tài chính và các công ty xuyên quốc gia là hai chìa khóa quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn cho các quốc gia G7 khác có quy mô nhỏ ở Nhật Bản. Giá trái phiếu quốc tế bằng tiền yên Nhật đã giảm từ 6% trái phiếu tài chính toàn cầu năm 2001 xuống còn 2,5% trong năm 2011. Đổi mới tài chính, đặc biệt là chứng khoán, bắt đầu phát triển vào giữa những năm 2000, nhưng thị trường bất ổn và suy giảm kinh tế từ năm 2008 đã dẫn tới một sự đảo ngược của xu hướng đó. Japanese financial system Ưu điểm và nhược điểm Ưu điểm: + Cung cấp, phân tích thông tin, giám sát các khoản vay tốt hơn, hỗ trợ cho tăng trưởng hiệu quả hơn hệ thống tài chính dựa vào tài chính nhất là đối với các quốc gia đang phát triển. + Biến đổi tài sản, giảm rủi ro cho doanh nghiệp, tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính. Nhược điểm: + Doanh nghiệp phải trả chi phí huy động vốn cao hơn vì vốn doanh nghiệp chủ yếu dựa vào ngân hàng. + Các doanh nghiệp nhỏ, uy tín thấp khó có thể tiếp cận vốn của ngân hàng. + Vấn đề về rủi ro đạo đức các ngân hàng cấu kết với các giám đốc doanh nghiệp gây thiệt hại cho chủ sở hữu doanh nghiệp, lựa chọn đối nghịch Phương thức luân chuyển vốn của hệ thống tài chính Nhật Bản Trước khi tìm hiểu về sự luân chuyển của dòng vốn, ta cùng tìm hiểu về đồng YEN và chu trình di chuyển trong “cuộc đời” của đồng tiền này. Đồng YEN khi bắt đầu được in ra tại sở in ấn quốc gia Nhật Bản sẽ chuyển tới Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, bằng các chính sách tiền tệ mà đồng tiền này sẽ được tung ra nền kinh tế thông qua các tổ chức tài chính (Financial institution) bằng việc mua lại trái phiếu chính phủ đã phát hành. Từ các tổ chức tài chính, tiền được phân bổ cho các thành phần kinh tế qua các khoản cho vay, thu mua lại trái phiếu do tổ chức đó phát hành…; ngược lại tiền từ các thành phần kinh tế cũng trơ lại các tổ chức tài chính thông qua các khoản gửi tiết kiệm… Sau một thời gian sử dụng, di chuyển từ các tổ chức kinh tế tới các thành phần khác như các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp…cũng như các thành phần kinh tế kể trên với nhau, đồng YEN không còn lưu thông được nữa do hỏng hóc sẽ được Ngân hàng Trung ương thu hồi lại từ các tổ chức tín dụng và các thành phần kinh tế bằng việc đổi tiền hoặc bán trái phiếu chính phủ, những đồng tiền bị hỏng không lưu thông được nữa sẽ được đem đi tiêu hủy. Qua mô hình về “cuộc đời” của một đồng YEN ta có thể thấy được các cách luân chuyển vốn khác nhau của nền kinh tế (không chỉ là tiền mặt), đó là luân chuyển trực tiếp giữa các chủ thể của nền kinh tế với nhau và luân chuyển thông qua các trung gian, tổ chức tài chính. Để hiểu sự vận động của nguồn vốn qua hai phương thức trên, chúng ta sẽ tìm hiểu sự vận động của nguồn vốn thông qua các thị thường tài chính đại diện cho các phương thức đó. Thị trường tiền tệ (Money maket) Thị trường tiền tệ là nơi trao đổi và mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn, bao gồm thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở rộng. Hình dưới đây mô tả sự chu chuyển của dòng vốn trên thị trường liên ngân hàng. Ở đây, dòng tiền được Ngân hàng Trung ương Nhật Bản phát hành hay thu hồi thông qua các công cụ tài chính của mình như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc…tới các tổ chức tài chính như ngân hàng thương mại… Các ngân hàng hình thành các quan hệ tài chính với nhau từ việc vay các khoản tiền từ nhau để bù đắp việc thiếu hụt vốn tạm thời hay là để đảm bảo lượng tiền yêu cầu của Ngân hàng trung ương khi tới thời điểm kết thúc giao dịch của một ngày, từ đó hình thành nên thị trường liên ngân hàng. Ở thị trường liên hàng chủ yếu là các khoản vay qua đêm với lãi suất nhất định, lãi suất này được các ngân hàng tự thỏa thuận với nhau trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của cả hai bên, ngoài ra mức lãi suất này còn chịu ảnh hưởng từ lãi suất của thị trường Mỹ. Hình bên dưới cho thấy xu hướng biến động của lãi suất dần trở nên ổn định hơn và có xu hướng giảm, từ 07/2008 tới nửa cuối năm 2009 thì lãi suất qua đêm (Repo rate) luôn ở trên mức 0,1% và biến động khá mạnh, từ đầu năm 2010 thì mức lãi suất này luôn duy trì ở mức dưới 0,1%. Thị trường tín dụng (Credit markets) Thị trường tín dụng ở Nhật Bản đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, hộ gia đình cũng như các thành phần kinh tế khác, nó chiếm tới hơn 70% lượng vốn huy động. Như hình trên ta có thể thấy được mức lãi suất từ các khoản vay từ ngân hàng (Basic loan rate) luôn được giữ ở mức thấp (0,3% từ năm 2009 trở đi), mức lãi suất này do ngân hàng trung ương Nhật Bản quy định, và nó chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ mức lãi suất của thị trường Mỹ. Một kênh huy động vốn khác cho doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng khác tại Nhật Bản đó là phát hành trái phiếu doanh nghiệp, mức lãi suất của các trái phiếu này phụ thuộc vào hạng mức tín nhiệm của các doanh nghiệp đó, các doanh nghiệp có hạng mức tín nhiệm cao thì lãi suất sẽ ở mức thấp hơn so với các doanh nghiệp có mức độ tín nhiệm thấp. Ngoài ra thì mức lãi suất của các trái phiếu này còn phụ thuộc vào lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh, lĩnh vức phi ngân hàng (Non bank) thì lãi suất ở mức rất cao, tiếp đó là xây dựng (Construction) và bất động sản (Real estate) thì lãi suất lại ở mức khá thấp. Thị trường chứng khoán (Stock markets) Đây là một phương thức hữu hiệu trong kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp bằng cách phát hành cổ phiếu, huy động được lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư. Thị trường chứng khoán cũng là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính, trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp… tạo tính lỏng cho các công cụ tài chính này, thúc đẩy thị trường sơ cấp nơi phát hành các công cụ tài chính lần đầu phát triển. Trong khoảng thời gian gần đây, cùng với sự chững lại của thị trường chứng khoán với tâm lý dè dặt của các nhà đầu tư, thị trường chứng khoán tại Nhận Bản cũng lâm vào tình cảnh tương tự khi chỉ số quan trọng hàng đầu Nikkei Index chưa cho thấy dấu hiệu ổn định trở lại như thời kỳ trước khủng hoảng năm 2008. Thị trường ngoại hối Như hình trên ta thấy được tỉ giá USD/JPY có xu hướng giảm dần qua thời gian, vào nửa cuối năm 2010 duy trì ở mức 1USD= 80,0 – 80,5 YEN, tỉ giá đồng YEN giảm tạo ra những sự bất lợi không nhỏ đối với việc xuất khẩu hàng hóa, hay việc thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài cũng gặp trở lại rất lớn do tỉ giá thấp, chính vì vậy trong giai đoạn gần đây chính phủ Nhật đã thi hành hàng loạt chính sách tiền tệ mở rộng với mục tiêu đẩy tỉ giá đồng YEN lên cao để có lợi cho xuất khẩu và thu hút dòng vốn nước ngoài tới đất nước Nhật Bản. Nhận xét: Trong các phương thức luân chuyển vốn thì sự luân chuyển vốn gián tiếp thông qua các trung gian tài chính là chủ yếu. Phần lớn các nguồn vốn được huy động phục vụ cho các doanh nghiệp Nhật Bản được lấy từ các tổ chức tài chính như ngân hàng thương mại, chiếm tới hơn 70%. Bên cạnh đó, cùng với sự bất ổn của thị trường chứng khoán trong vài năm trở lại đây, thì các ngân hàng, bảo hiểm, trái phiếu… là những nơi đáng tin cậy dành cho những khoản tiết kiệm của người dân. Hình thức luân chuyển này có những ưu điểm đó là độ an toàn cao, tính thanh khoản cao đối với nhà đầu tư, còn đối với người có vốn, thì đó chính là sự ổn định với các khoản vay, cũng như khối lượng và thời hạn vốn được họ tận dụng một cách linh hoạt. Tuy nhiên, hình thức này vẫn còn những điểm hạn chế như đối với các nhà đầu tư thì phần lãi mà họ thu được thường thấp hơn so với việc đầu tư ngoài thị trường, bù lại việc đầu tư ở thị trường thì rủi ro cao hơn, còn đối với các thành phần cần vốn, với sự ổn định của đồng YEN và sự giảm phát liên tục kéo dài trong suốt một thập kỷ của Nhật Bản đã khiến cho lãi suất từ các khoản vay luôn duy trì ở mức thấp, tuy nhiên sự tiếp cận với các khoản vay đó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Bài học cho Việt Nam Khái quát thực trạng Việt Nam Là một quốc gia đang phát triển, hệ thống tài chính của nước ta cũng được tổ chức giống với mô hình với Nhật Bản là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng. Việt Nam đã lấy lại sự ổn định kinh tế vĩ mô trong năm qua. Xuất khẩu đang hoạt động tốt, đặc biệt là đầu tư nước ngoài doanh nghiệp, nhưng các khu vực trong nước, mặc dù cải thiện, vẫn chưa tìm thấy một nền tảng vững chắc do nhiều yếu tố, bao gồm cả năng suất thấp, cơ cấu phân bổ nguồn lực, bảng cân đối ngân hàng suy giảm và kém hiệu quả trong nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Tăng trưởng tín dụng ở mức khiêm tốn, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực định hướng xuất khẩu và nông nghiệp. Lạm phát đã giảm đáng kể, nhưng áp lực cơ bản vẫn tồn tại. Doanh thu tài chính trong nước và nhập khẩu liên quan đã được phần nào yếu trong những tháng gần đây. Thặng dư tài khoản vãng lai tăng lên 9,1 tỷ USD trong năm 2012 từ 0,2 tỷ USD trong năm 2011 cho thấy sự suy giảm trong nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ. Tỷ giá hối đoái đã ổn định, và dự trữ ngoại hối tăng hơn gấp đôi trong tháng 2 năm 2013 từ cuối năm 2011, mặc dù họ vẫn còn thiếu khoảng 2,5 tháng nhập khẩu tiềm năng. Trong hai năm tới, thặng dư tài khoản vãng lai dự kiến ​​sẽ vẫn khá lớn, và đầu tư (FDI) trực tiếp nước ngoài sẽ vẫn mạnh mẽ, hỗ trợ dự trữ quốc tế. Thị trường tài chính đã ổn định sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cung cấp thanh khoản và tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ và yếu kém hợp nhất trong hai năm qua. Hơn nữa, để giảm bớt rủi ro từ đầu cơ vàng, Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện các biện pháp để ngăn chặn hoạt động huy động và cho vay vàng. Trong khi một số ngân hàng yếu kém không thể đáp ứng các điều kiện cần thiết để tiếp cận thị trường liên ngân hàng và phải dựa trên cơ sở tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước và nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết thì chức năng của thị trường liên ngân hàng đã phần lớn được phục hồi. Thanh khoản hệ thống ngân hàng đã giảm bớt, bằng chứng là tốc độ tăng trưởng tiền gửi cao hơn và chi phí vốn thấp hơn đáng kể. Chính phủ đã đưa ra kế hoạch tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, khoảng 1.200 doanh nghiệp nhà nước được dự kiến ​​sẽ được tái cơ cấu, trong đó một số đang làm ăn thua lỗ thậm chí là rơi vào nguy cơ phá sản. Chiến lược cải cách giai đoạn 2011-2015 tập trung vào việc duy trì quyền sở hữu khoảng 50% doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công cộng hoặc mang tính chiến lược, một số trong đó có sức mạnh độc quyền đáng kể. Khoảng 43% doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hóa, và phần còn lại cơ cấu lại, bán, hoặc thanh lý. Quyền sở hữu chéo giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng và doanh nghiệp được lưu tâm và đang nỗ lực để giải quyết và ngăn chặn nguy cơ lây lan. Hạn chế dữ liệu và những thách thức trong khung pháp lý và giám sát, cản trở sự hiểu biết về tình trạng thực sự của hệ thống tài chính. Doanh nghiệp nhà nước thống trị ngành công nghiệp quan trọng,số dư lợi nhuận cao, mặc dù tình trạng tài chính thực sự của họ vẫn còn công khai không rõ. Ước tính gần đây cho thấy doanh nghiệp nhà nước chiếm một phần ba của tổng tài sản các doanh nghiệp, và một phần sáu lao động. Họ chiếm một nửa doanh thu thuế thu nhập doanh nghiệp và một phần ba số thuế giá trị gia tăng trong nước. Bài học cho Việt Nam Trước hết ta cần phải xây dựng hệ thống giám sát tài chính làm việc có hiệu quả đảm bảo mục tiêu thị trường tài chính hiệu quả, ổn định, có khả năng cạnh tranh và có khả năng phát hiện sớm các rủi ro tại các trung gian tài chính cũng như cảnh báo sớm các rủi ro hệ thống và mức độ biến động của kinh tế vĩ mô trong mối quan hệ của luồng vốn quốc tế. Thành lập một ban chỉ đạo cấp cao sẽ là rất quan trọng để thúc đẩy tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy mạnh, tăng tính trách nhiệm và tăng cường kỷ luật tài chính. Cần tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các công ty tư nhân và nhà nước, đảm bảo tiếp cận bình đẳng về nguồn vốn, cơ sở hạ tầng góp phần tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp với nhau. Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân và thu hút được từ nước ngoài để tránh tình trạng đô la hóa. Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Phát triển các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư trong nước; thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn ngoại tệ ở trong dân Tăng tính độc lập của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thi hành các chính sách tiền tệ. Ở Nhật Bản, để ra các quyết định liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ, luật cho phép BOJ thiết lập một Hội đồng chính sách với 9 thành viên bao gồm thống đốc, hai phó thống đốc, và sáu thành viên khác (không nhất thiết là người của ngân hàng trung ương và điểm quan trọng nhất ở đây là không cho phép đại diện của chính phủ trong hội đồng này). Với hội đồng này, kết hợp với mục tiêu được ấn định, BOJ không bị chi phối và đi lệch hướng trong quyết định thực thi chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ của Việt Nam là một phó thủ tướng, các thành viên khác là thống đốc, bộ trưởng các bộ có liên quan và thành viên khác. Điều này hạn chế đáng kể tính độc lập trong quyết định chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng cần đảm bảo nhất quán về mục tiêu (chẳng hạn như ổn định giá cả), độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm) cũng như vấn đề tài chính (cơ chế chính sách cụ thể về tài trợ ngân sách)  Ngân hàng nhà nước phải đủ sức và đủ công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của VNĐ, đủ sức kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của Ngân hàng nhà nước như điều hành thị trường tiền tệ; điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra- giám sát hoạt động ngân hàng của mọi loại định chế tài chính Tái cơ cấu vốn các ngân hàng, tăng cường giám sát và điều tiết ngân hàng, và thực hiện tính toán để giải quyết nợ xấu. Tăng cường phân tích rủi ro tín dụng và quản trị bằng cách thúc đẩy sự minh bạch lớn hơn, nên tiếp tục là một ưu tiên hàng đầu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_thao_luan_8034.doc
Luận văn liên quan