MỤC LỤCtrangMỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG . 7
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐẠI PHỤC HƯNG VÀ NỀN VĂN HỌC PHỤC HƯNG.1.1 Thời đại phục hưng . 7
1.1.1 Cơ sở lịch sử xã hội của thời đại phục hưng 7
1.1.2 Tư tưởng cơ bản của nền văn hóa phục hưng . 9
1.2 Văn học theo tinh thần phục hưng 13
1.2.1 Điểm mới về nội dung . 13
1.2.2 Cách tân về nghệ thuật 16
1.3 Tiểu kết . 17
CHƯƠNG 2 : TINH THẦN PHỤC HƯNG TRONG TÁC PHẨM “MƯỜI NGÀY” CỦA BÔCCACIÔ.2.1 Và nét về tác giả Bôccaciô . 18
2.2 Tác phẩm “mười ngày” theo tinh thần phục hưng 21
2.2.1 Tư tưởng chống lễ giáo phong kiến và nhà thờ
thiên chúa giáo . 21
2.2.2 Tư tưởng mới của gia cấp thị dân tư sản . 34
2.3 Những sáng tạo nghệ thuật độc đáo cuả Bôccaciô
theo tinh thần phục hưng 39
2.3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện . 39
2.3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật 42
2.4 Tiểu kết . 43
KẾT LUẬN . 44 Chú thích 46
Tài liệu tham khảo . 47
MỞ ĐẦU1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Mỗi thời đại lịch sử có một nền nghệ thuật tương xứng “ Xã hội thế nào thì văn nghệ thế ấy ”. Những biến động trong đời sống kinh tế chính trị thường dẫn đến những biến đổi trong lĩnh vực văn nghệ. Hay nói cách khác mỗi sự kiện lịch sử đều có ý nghĩa mở đầu hay kết thúc cho một giao đoạn phát triển nghệ thuật. Khi đề cập đến nền văn học phục hưng – nền văn học đã góp phần thanh toán thời trung cổ phong kiến – người ta nghỉ ngay đến một nền văn học muôn màu, muôn sắc và nhà văn là những “ người khổng lồ ”( chữ dùng của Ănghen ) đã tạo nên vườn hoa muôn sắc đó. Đây là thời kỳ nền văn học Châu Âu bước vào một trào lưu mới với chủ nghĩa nhân văn làm nền tảng cơ bản. Thời kỳ đó kéo dài trong hai thế kỷ XV-XVI, là một bước ngoặt lịch sử với việc làm sống lại, làm mới lại một nền văn hóa đã bị “ bóng ma thời trung cổ ” nhấn chìm. Ở đó các nhà văn trở nên kiệt xuất : họ đã hòa mình vào mối quan tâm của thời đại, tích cực tham gia vào đấu tranh thực tiển. Người thì dùng lời nói và cây bút, người thì dùng kiếm hoặc cũng có người dùng cả hai cách trên.
Quê hương của phong trào phục hưng là vùng đất Plorăngx trù phú của nước Ý. Sở dĩ phong trào được khởi nguồn từ đây là nhờ lúc bấy giờ Italia đã có nhiều điều kiện thuận lợi để hình thành quan hệ tư bản chủ nghĩa. Sự chi phối về mặt tư tưởng của giai cấp tư sản với đời sống đã tạo tiền đề cho các hoạt động văn học nghệ thuật phát triển phong phú. Hơn nữa đây còn là quê hương của nền văn minh La Mã, tại đây còn lưu giử nhiều di sản về kiến trúc, điêu khắc, văn học, triết học tạo điều kiện cho các nghệ sĩ phục hưng dễ dàng học tập nghiên cứu. Việc phục hồi học tập những tinh hoa văn hóa thời cổ xưa trên một tinh thần của thời đại mới đó đối với các nghệ sĩ phục hưng Ý còn có ý nghĩa dân tộc cao độ.
Cùng với những biến đổi to lớn của xã hội do sự tác động của phong trào phục hưng, văn học phục hưng Italia phát triển một cách sôi nổi với nhiều tên tuổi Đantê, Pettracque, Bôccaciô, Castiglione,Tasso, đặc biệt ba nhà văn thiên tài Đantê, Pettracque, Bôccaciô được xem là gạch nối giữa buổi hoàng hôn Trung cổ và buổi bình minh Phục hưng. Nếu Đantê được mệnh danh là người sáng tạo ra thể loại anh hùng ca, thơ tự sự, giáo huấn, Pettracque là người canh tân thơ trữ tình thì Bôccaciô được xem là người có công mở đầu cho nền văn xuôi nghệ thuật Ý. Với tập truyện ngắn “ mười ngày ”bất hủ, Bôccaciô đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học phục hưng. “Mười ngày ”là “ tấn tuồng đời” đầu tiên của văn học Châu Âu thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại : trân trọng đề cao con người trái với sự miệt thị kinh rẻ con người trong thời đại trung cổ; đấu tranh cho tự do con người chống lại nền chuyên chế độc tài phong kiến, giáo hội; đồng thời ca ngợi khát vọng của con người mới, quan điểm nhân sinh mới.
Xuất phát từ lòng ham hiểu biết văn học Phương Tây, sự yêu mến đối với thiên tài Bôccaciô và thực tế giảng dạy, học tập của bản thân chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “ tinh thần phục hưng trong tác phẩm “ mười ngày’ của Bôccaciô làm đề tài nghiên cứu luận văn cuối khóa.
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
Cái nôi truyện ngắn trong văn học Châu Âu là nước Italia với nhà văn Bôccaciô ( 1314 – 1375 ) xuất hiện vào đầu thời kỳ phục hưng. Tập truyện “ mười ngày ” của ông hướng đến miêu tả con người trong thế tự do của nó chống lại tất cả những gì ràng buộc, phản lại con người. Cùng với tác phẩm bất hủ này, Bôccaciô đã tiến lên vị trí hàng đầu trong nền văn nghệ phục hưng. Vậy khi lật lại lịch sử nghiên cứu nền văn học phục hưng, sẽ có nhiều công trình, nhiều bài viết về tác giả cũng như tác phẩm “ mười ngày ” nhưng do những hạn chế về mặt ngôn ngữ chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu về việc nghiên cứu về Bôccaciô trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam, Bôccaciô chưa được biết đến nhiều và tài liệu nghiên cứu về ông còn hạn chế. Sở dĩ như vậy là vì thời lượng dạy và chương trình học của văn học Phương Tây trong nhà trường còn hạn chế, sự am hiểu về ngôn ngữ Italia ở Việt Nam có hạn nên mới chỉ dừng lại ở việc dịch thuật còn việc đi sâu vào nghiên cứu thực sự còn bị bỏ ngỏ.
Dựa trên một số hiểu biết của bản thân và nguồn tư liệu thu thập được tôi xin trích dẫn một và nhận định xoay quanh vấn đề :
Trong cuốn “ văn học Phương Tây ”do nhiều tác giả biên soạn, nxb giáo dục, 1997, tác giả Lương Duy Trung đã nêu một cách khái quát về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tập truyện “ mười ngày ”.Theo nhà nghiên cứu Lương Duy Trung tác phẩm đã đạt được một thành công rất lớn, được sự say mê của đọc giả khắp mọi nơi. Bài viết đã nhận định truyện “ Mười ngày toát lên tinh thần ham sống yêu đời, là sự khẳng định nhân sinh quan mới. Nó chống lại quan điểm tôn giáo truyện mười ngày còn dành cho tầng lớp thị dân tư sản, thương dân mới thiện cảm và sự khích lệ rõ rệt ” hay về mặt nghệ thuật tác phẩm được đánh giá là “ tác phẩm văn xuôi xuất sắc nhất của văn học Italia ” [ 2,137 ].
Với tính chất giới thiệu cho cuốn truyện “ mười ngày ” của Bôccaciô, tác giả Hữu Ngọc cũng có nêu lên một vài vấn đề về nội dung của tập truyện như “ mười ngày thuộc chủ đề phản phong, đả kích thói giả đạo đức của những người làm nghề tôn giáo, lên án cái luân lý khắc nghiệt đòi hỏi cuộc sống trần gian với thú vui tự nhiên của nó ” hay “ Mười ngày dậy chất men tư tưởng của giai cấp thị dân tư sản đang bước vào vũ đài chính trị ”[ 1,5 ]
Tác giả Bùi Việt Thắng trong cuốn “ bình luận truyện ngắn ” nhắc đến sự hình thành của thể loại truyện ngắn đã khẳng định vai trò của Bôccaciô – tác giả kiệt tác “mười ngày ”- chính là người mở đường, người đặt nền móng đầu tiên cho nền văn xuôi hiện thực Châu Âu. Ông còn đề cập “ truyện ngắn của Bôccaciô chú ý đến con người trong thế tự do của nó và trong ý thức cá nhân về số phận ” [ 5,8 ]
Có thể nhận thấy nghiên cứu tác phẩm “ mười ngày ” của Bôccaciô còn là một mảnh đất trống. Những nguồn tư liệu ít ỏi song quý báu đó chính là nguồn tư liệu giúp chúng tôi tiếp cận đề tài, hy vọng sẽ giúp người đọc hiểu thêm về tác giả, tác phẩm và giá trị của nền văn học thời đại phục hưng.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Luận văn tập trung nghiên cứu các truyện ngắn kể trong 10 ngày do bảy cô gái và ba chàng trai quý tộc kể. Tác phẩm bao gồm 100 câu chuyện, các truyện kể trong một ngày chịu sự quy định chung về đề tài nên có nhiều truyện tương đối giống nhau. Đó là lý do chính khiến các dịch giả lược qua một số truyện, phiên bản dịch chỉ còn 44 truyện nhưng cũng đủ toát lên đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau :
- Phương pháp thống kê, phân loại ( văn bản dịch )
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh
5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Người viết nghiên cứu tập truyện mong muốn đem đến một cái nhìn sâu sắc cụ thể hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Qua đó khẳng định tinh thần nhân văn trong nền văn học đương thời, sự thể hiện sâu sắc tinh thần nhân văn trong tác phẩm “ mười ngày ” của Bôccaciô. Thấy được nghệ thuật độc đáo của tác giả trong việc cách tân nghệ thuật theo tinh thần của thời đại.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN :
Lần đầu tiên tiếp xúc với công việc nghiên cứu khoa học người viết muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu tác phẩm “ mười ngày ” theo tinh thần phục hưng. Việc nghiên cứu đề tài giúp người đọc hiểu sâu hơn, toàn diện hơn về tác giả tác phẩm và thêm yêu mến nền văn học phục hưng – một nền văn học xuất phát trong thời kỳ mang nhiều tư tưởng tiến bộ và bừng bừng khí thế đấu tranh dân tộc.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN ;
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn của chúng tôi gồm có hai chương.
Chương 1 : Khái quát về thời đại phục hưng và nền văn học phục hưng.
Chương 2 : Tinh thần phục hưng trong tác phẩm “ mười ngày ”.
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10277 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về nền văn học phục hưng và tinh chất phục hưng qua tác phẩm mười ngày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giai cấp thống trị phong kiến. Bản chất của triết học kinh viện là sử dụng phương pháp biện luận rắc rốI, chú trọng lôgic hình thức, không thừa nhận cái mới, chỉ chú trọng giải quyết mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin tôn giáo, là những kết luận mang tính chất rút từ kinh thánh : chủ quan, bảo thủ, thiếu hơi thở sinh động của cuộc sống.
Chính bản chất chế độ xã hội và nhà thờ đã làm cho cuộc sống của xã hội Châu Âu trong một khoảng thời gian dài hàng ngàn năm chìm trong bóng tối không có bước tiến. Nó làm cho kinh tế chính trị xã hội trở nên trì trệ; văn hóa ràng buộc lỗi thời; văn học thì đơn điệu; giáo dục thì lạc hậu không phát triển ... Con ngườI là nạn nhân trong xã hội bị hạn chế phát triển về mọi mặt, cuộc sống trở nên gò bó thiếu nguồn vui về vật chất và tinh thần do bị những giáo điều, giáo lý khắc nghiệt đè nặng , do giai cấp thống trị thực hiện chính sách ngu dân, mỵ dân. Con ngườI bị cuốn vào vòng xoáy của tôn giáo trở nên mê tín, lẫn quẩn trong sự tối tăm.
Bằng tinh thần phê phán xã hội phong kiến, lên án giáo hội theo tinh thần chủ nghĩa nhân văn, Bôccaciô viết nên tập truyện "Mười ngày" mang tinh thần phục hưng sâu sắc giàu tính chiến đấu . Tác phẩm bao gồm một loạt các truyện kể mà chủ đề tập trung phê phán chế độ đương thời, nhà văn Hữu Ngọc đã nhận xét " Chủ đề phản phong đả kích thói đạo đức của những người làm nghề tôn giáo, lên án luân lý khắc nghiêt do họ đề ra, đòi hỏi cuộc sống trần gian với những thú vui của nó" [ 1,5] quả thực như nhà văn Hữu Ngọc nhận xét, Mười ngày là bản cáo trạng tố cáo nhà thờ và chế độ phong kiến là hai thế lực ngăn cản sự phát triển của con người. Qua tập truyện một hiện thực trần trụi được trình bày trên trang sách : những luân lý nghiêm ngặt của nhà thờ bị vi phạm trắng trợn, cuộc sống của bọn tu hành nhem nhuốc, dơ bẩn. Không dừng lại ở đó, tác phẩm còn phủ định các học thuyết tôn giáo, cho rằng sự lý giải của kinh thánh và triết học kinh viện về cuộc sống và con người là hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc. Thật đúng như các nhà nhân văn đã phát biểu thần thánh chỉ là kẻ giả danh giả nghĩa; nhà thờ, tôn giáo tực như những "vũng lầy hôi thối"
Bằng lối viết phúng dụ tác giả đã kể hàng loạt các câu chuyện đả kích tôn giáo thông qua các nhân vật kể chuyện của mình.. Truyện kể là lờI đàm đạo về đạo đức của những người làm nghề tôn giáo, những giáo lý hà khắc ràng buộc con người. Bằng những tình huống kịch tính, trớ trêu và hài hước, cái cười bật ra khi ta tiếp xúc với các câu chuyện. Nhưng đó không phải là tiếng cười dễ dãi trong chốc lát, đằng sau những tiếng cười đó chứa đựng những vấn đề nghiêm trọng nhất, lớn nhất, những nỗI xót xa lo âu về cuộc sống tù đày đến nghẹt thở dưới một chế độ chíinh quyền độc tài.
ĐốI tượng đả kích của ông là tất cả các tầng lớp từ cao qúy đến thấp hèn, từ đấng chí tôn cho đến những kẻ hèn mọn. Ông làm cho chúng ta trở nên hoài nghi liệu rằng thật sự có một đức chúa thấu rõ trần gian hay không?.
Ngay từ đầu tập truyện " Mười ngày" ta gặp tên đại bịp Xiappenlettô trong câu chuyện "Tinh thần Gia Tô giáo" do Păngtin kể vào ngày thứ nhất. Xiappenlettô là một con người chứa đựng tất cả những gì xấu xa nhất từ ngoại hình bên ngoài cho đến tính cách bên trong. Y sống bằng lừa lọc, dốI trá, y lừa tất cả mọi ngườI kể cả chúa. Trước lúc chết, bằng những lờI thú tội giả dối Xiappenlettô đã đánh lừa được vị giáo sĩ rửa tội và vô tình chung sau khi chết y được tôn làm thánh - thánh Xiappenlettô . Trong mắt vi tu sĩ cuộc đời y là một tấm gương thánh thiện đáng để các đức tin noi theo. Sống trong rơm rác nhưng chết xuống y lạI được hưởng tất cả những đặc ân dành cho con người thánh thiện và nhân đức nhất - họ liệm y trong một chiếc lăng bằng cẩm thạch. Thật ngạc nhiên khi những lời báng bổ thánh thần, lừa dối chúa vào cuối đời lại đưa đến một vị trí cao nhất. Người người còn lũ lượt kéo đến trước thi hài của y để cầu xin phép lạ vớI tất cả lòng thành kính của mình.
Vậy là Xiappenlettô đã sống hèn mọn và chết vinh quang như thế, y được thánh hóa mặc dù cuộc đời tội lỗi, đáng ghét của y cho đến cuốI đời vẫn không thay đổi, vẫn là kẻ điêu ngoa, xảo trá, mưu mô . Vậy những điều mà kinh thánh rao giảng về đức hạnh và tu thân để đạt được chính quả là hoàn toàn bịa đặt. Cuộc đờI của Xiaparenlo đa prado là nhân chứng bóp nghẹt triết lý của nhà thờ, sự coi thường thần thánh, báng bổ và đánh lừa cả chúa. Không chỉ dừng lại ở đó câu chuyện còn chỉ ra cho chúng ta thấy sự mê muội của những giáo dân, họ bị lừa bởi sự mê tín, mù quáng. Cuộc đời của họ từ lâu đã đắm chìm vào vòng xoáy tôn giáo, không có khả năng nhận thức vấn đề.
Mở đầu là tiền thân của một vị thánh với nhiều chi tiết nực cười, đáng giễu cợt, còn cuộc sống của những người tu hành chuyên rao giảng lời chúa, lời thánh thì như thế nào ? Liệu họ có thật sự trong sạch và thánh thiện như bản chất họ cần phải có trong truyện của Bôccaciô không ?
Câu chuyện " Trường học La Mã" do Nefin kể vào ngày thứ nhất là một bức tranh sinh động về cuộc sống của giới tăng lữ tu hành, những con người vốn được tuyên truyền là có đời sống hết sức mẫu mực và đức độ. Theo yêu cầu của bạn nhà thương nhân Abraham muốn tận mắt chứng kiến sinh hoạt của những giáo đồ ở tòa thánh La Mã để quyết định xem mình có nên cải giáo hay không ? Ông đã lặng lẽ thận trọng quan sát cuộc sống tu hành của họ từ hồng y giáo chủ, ngườI có quyền lực cao nhất, cho đến những con chiên ngoan đạo khác của chúa ở tòa thánh. Cuối cùng ông đi đến kết luận : "tất cả bọn họ từ người lớn nhất đến nhỏ nhất tất cả toàn thể họ đều phạm phải tội nhục dục hết sức vô sĩ . . . tất cả bọn họ đều phàm ăn nát rượu. . . thấy họ biển lận, hám tiền" [1,56] . Nếu ở câu chuyện đầu tiên ta thấy đức chúa thật nhân từ vì đã tha thứ cho mọi tội lỗi Xiaparenlo và thu nhận y làm ngườI của chúa thì ở đây ta thấy đức chúa hết sức nhẫn nhịn khi che đậy hành vi tai tiếng của bọn tu sĩ. Cuộc sống sinh hoạt của họ là gàu nước lạnh tạt vào bộ mặt của nhà thờ Thiên chúa giáo. Họ sống vô độ dưới cái lốp đạo đức và vi phạm vào tất cả những điều cấm kỵ của giới tu hành mà bằng việc làm lời nói của mình cho thấy tôn giáo là lành mạnh. Một lần nữa ta thấy không những giáo điều của tôn giáo là bịa đặt, xuyên tạc mà đạo đức của những con người đáng lẽ phải "chí thánh" lại hết sức dơ bẩn. Bản thân cuộc sống của họ đã tự bôi bẩn vào nhân phẩm đạo đức của mình.
Sự phê phán hình ảnh các thánh và những người làm nghề tôn giáo khiến ta nhớ tới một số tác phẩm văn học dân gian Việt Nam cũng có giá trị phê phán đạo đức của những người tu hành. Nếu tăng lữ phương tây vi phạm các chuẩn mực của kinh thánh dưới chân chúa thì văn học dân gian Việt Nam lại đề cập đến những thầy chùa tôn sùng đất phật lại cũng vi phạm những điều cấm kỵ như : vô sấc, vô tửu, vô ngã. .
Các thầy tu vốn ăn chay kiên thịt, gõ mỏ tụng kinh và luôn giữ cho tâm hồn trong sạch để trở thành chính quả, để được lên cõi "miết bàn" . Nhưng trong kho tàng Văn học dân gian Việt Nam hình ảnh của họ lại được miêu tả hoàn toàn trái ngược. Qua truyện " Đậu phụ cắn" ngườI viết đã vạch trần cái "hữu danh vô thực" của thầy chùa như sau : Một lần vị sư cụ lén ăn thịt chó trong phòng bị chú tiểu bắt gặp, hỏi dò "Bạch Thầy ! Thầy ăn gì đó ?" Sư cụ trả lời "Tao ăn đậu phụ" đúng lúc đó có tiếng chó từ ngoài cổng chùa vang lên. Sư cụ lại hỏi "Có chuyện gì ngoài đó thế ?" Chú tiểu trả lời hết sức hài hước, mỉa mai châm biếm "Đậu phụ chùa mình đang cắn đậu phụ làng". Hay trong truyện "Nam mô bong" hình ảnh sư thầy ham mê nữ sắc bị chơi khâm nhục nhã thật đáng lên án và phê phán..
Bên cạnh kho tàng Văn học dân gian Việt Nam hình ảnh của bọn tu hành giả dối sau này cũng được của "bà chúa thơ Nôm" phản ánh sâu sắc, bà đã từng lên án cảnh sống ngược đời của bọn sùng đạo thầy đạo:
" Thuyền từ cũng muốn sang Tây Trúc
Trước gió cho nên phải lặn lèo"
(Sư bị làng đuổi)
Hay qua con mắt của bà sinh hoạt của các nhà sư ở chùa Quán Sứ vừa lười biếng vừa vô độ.
" Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẻ rêu"
(Chùa Quán Sứ)
Với Hồ Xuân Hương sự phê phán bao giờ cũng gay gắt, bà không có sự phê phán nửa vời, không có thái độ khoan nhượng. Vì vậy cái triết lý hư vô của đạo phật không bao giờ được bà ủng hộ.
Tinh thần phê phán và đấu tranh của Hồ Xuân Hương cùng với các nhà văn đương thời dễ khiến người ta liên tưởng đến một thời đại phục hưng và chủ nghĩa nhân văn ở Việt Nam
Đời sống tôn giáo của những người tu hành hiện ra hết sức phong phú, đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Qua một số truyện kể khác, mỗi truyện đề cập đến một mảng vi phạm riêng, hoặc cùng chung chăng nữa cũng là từ các khía cạnh, góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả đều khái quát lên sự tầm thường, đáng lên án, khinh bỉ. Elidơ đã đem đến câu chuyện “ thuốc tẩy giun ” ( ngày thứ bẩy ) với những tình huống éo le và hài hước. Câu chuyện kể về vị tu sĩ Rơnô, một con người ngoại đạo nhưng vì những lý do hết sức riêng tư lại quay sang mộ đạo, tu hành để thành tu sĩ. Bởi nếu làm tu sĩ thì sẽ có được điều kiện hết sức thuận lợi để đức cha khả kính Rơnô dễ dàng trở thành người tình của mẹ đứa bé mà cha nhận đỡ đầu. Sau một thời gian đi lại vụng trộm, cặp tình nhân bị người chồng phát hiện nhưng lòng mộ đạo của người chồng cộng với một chút lập luận tôn giáo và sự khôn khéo của người vợ đã lật ngược được tình thế. Đang là người nằm trong thế bị động, Rơnô lại trở thành ân nhân cứu mạng đứa bé và trở thành ân nhân của gia đình. Dưới cái lốt tôn giáo, những hành động xấu xa của y trở nên hợp pháp hơn và suôn sẽ hơn. Câu chuyện là tiếng cười chế giễu, nhạo báng thói đạo đức giả. Tác giả đưa tôn giáo ra ánh sáng, vạch trần bản chất của tôn giáo, không những không đem lại hạnh phúc mà còn phá huỷ hạnh phúc của con người, biến con người thành kẻ mê muội, mù quáng, mất lý trí - thể hiện qua hình tượng nhân vật anh chồng mộ đạo.
Bên cạnh nhân vật chính, gã tu sĩ Rơnô lợi dụng tôn giáo để thoả mãn những dục vọng tầm thường của mình, còn có một bức tranh sinh động miêu tả lối sống, lối sinh hoạt của những người tu hành. Họ có một bộ dạng thật khắc đạo, một cuộc sống thật xa hoa, chẳng có gì làm nên cái tư chất tôn giáo trong con người họ: “ những người này vênh váo phô bày chiếc bụng phệ, cái mặt phè phởn béo tốt, quần áo sang trọng và tất cả những lễ bộ của đời sống khoái lạc ”, đó là cái dung mạo sau một thời gian tu hành khổ hạnh của những kẽ mộ đạo còn nơi sinh hoạt của họ thì sao? . “ Khi người ta quan sát kỹ thì đó hoàn toàn không phải là phòng khổ hạnh của thầy tu mà là cửa hàng dược liệu và hương phẩm ” [1;263]. Tác giả đã chỉ cho ta thấy cuộc sống của những kẻ giả dối, sự mâu thuẫn giữa lý thuyết tôn giáo và đời sống thực. Những con người đó không hề tu hành khổ hạnh mà còn phè phởn hưởng thụ với một mức sống hết sức xa hoa, sang trọng.
Đây chính là sự phản biện hùng hồn cho chủ nghĩa hoài nghi của Mongtenhơ, ông luôn hỏi “ tôi không biết tôi biết cái gì? ”. Đó là sự hoài nghi với giáo điều của triết học kinh viện bởi bản thân của những giáo điều đó là sự mâu thuẫn. Nó làm thui chột những suy nghĩ độc lập và sáng tạo của cá nhân. Nhà tư tưởng cho thấy rằng triết học kinh viện là một mớ các ý kiến mâu thuẫn, chất chứa nhiều điều phi lý đến nỗi không có điều gì phi lý hơn.
Kinh thánh thì quan niệm muốn sống tốt hơn phải hy sinh phần xác để cúu phần hồn vì con người sinh ra đã mang tội lỗi nghuyên thuỷ. Các nhà tu hành chính là giáo đồ của chúa, thực hiện các sứ mệnh của chúa, là truyền thuyết giáo lý, sống làm gương cho những đức tin mộ đạo. Họ phải có một cuộc sống trong sạch, vứt bỏ mọi ham muốn vật chất, tinh thần tầm thường phàm tục, nhưng liệu trong truyện của Boccacio họ có làm đựơc điều đó không?
Ngày thứ chín, Elidơ thực hiện yêu cầu của hoàng hậu Enưli kể câu chuyện “ Nữ tu sĩ ”. Đó là câu chuyện về tu viện vùng Lômbacđi có những nữ tu sĩ nữ nổi tiếng là trinh bạch và đức hạnh. Tình huống truyện đầy bất ngờ và kịch tính: Để bắt quả tang một nữ đồng trinh của mình phạm tội diệt dục, bà tu viện trưởng đã vội vàng để lộ cuộc sống tội lỗi tương tự cô gái của mình. Bà đã cùng vị mục sư khả kính hưởng những lạc thú của con người, sự vội vàng đã làm bà nhầm chiếc khăn trùm đầu với chiếc quần của ông mục sư. Thật bẽ mặt nhưng để biện hộ, bà đã đi đến cái kết luận đầy chất nhân văn “ con người ta không thể phòng ngừa nổi cái kích thích của xác thịt và rốt cuộc như trước mà tiếp tục những chị em nào có khả năng cứ việc bí mật tìm lạc thú cho mình ” [1;311]. Như vậy, một cuộc sống trái tự nhiên chỉ đưa lại sự rối ren, tội lỗi , kìm hãm những nhu cầu xác thịt làm cho con người héo hon và thềm khát hơn mà thôi. Nhân vật nữ tu vốn phải là những con người tu hành diệt dục, giữ vững tiết trinh, một lòng trong trắng thờ chúa thì cuối cùng vẫn phạm phải điều cấm kỵ. Họ không thể thoát ra khỏi cuộc sống trần thế với niềm vui tự nhiên của nó, để rồi tự bôi đen nhân phẩm, đạo đức của mình, rơi vào tình huống lố lăng và kệch kỡm.
Như vậy ta thấy “ Mười ngày ” mặc dù là tập hợp các truyện kể có chung một chủ đề nhưng lại rất phong phú về nội dung, tính chất mỗi truyện một tình huống, một khía cạnh riêng. Tác phẩm xoay quanh những vấn đề gắn liền với yêu cầu của phong trào văn hoá Phục hưng, đòi hỏi con người với những khả năng trần thế và hiện thực phải được thoả mãn. Phê phán cái thiết chế phong kiến và nhà thờ kìm hãm con người, những giáo lý của thần học, triết học kinh viện rối rắm và khập khiểng giữa lý thuyết và thực tế. Truyện của Boccacio vì thế mang tính chất đã kích sâu sắc, nhưng không phải làm cho người đọc khi tiếp xuc với trang sách thấy càng thẳng bởi độ căng của truyện. Ngược lai, các tình huống kịch gây cười làm cho sự đã kích trở nên nhẹ nhàng hơn. Người đọc khi tiếp xúc với cái thế giới thực đầy xấu xa và tội lỗi có một tâm thế thoải mái, nhiều tình huống hài hước làm chúng ta phải bật cười. Nhưng đằng sau những lời lẽ bóng bẩy, kín đáo là sự mỉa mai, chỉ trích, tố cáo và phản kháng lại các tiêu cực, xấu xa, lỗi thời trong xã hội.
Chế độ phong kiến Trung cổ và nhà thờ truyền bá một thứ nhân sinh quan hết sức bi đát, đen tối, nghiệt ngã. Cõi trần gian được tuyên truyền là đen tối, thiên đường là ánh sáng, là nơi hướng đến của con người. Vì vậy con người cần phải tránh xa cõi trần gian với những lạc thú tầm thường để tu dưỡng đạo đức – làm trong sạch phần hồn để được lên thiên đường. Họ đề ra những luân lý khắt khe, nghiệt ngã đó là chủ nghĩa quyền uy, chủ nghĩa khổ hạnh, chủ nghĩa diệt dục. Các thánh được suy tôn là hiện thân của chân lý và đức tin, lời nói việc làm của họ là khuôn vàng thước ngọc. Thánh Ôđông đơ đã phát biểu: “thân thể đẹp là nhờ làn da. Nay có thể nhìn làn da mà thấy được tất cả bên trong…toàn là máu mủ dơ bẩn cả! Ôi giá mà ta phải sờ vào cái đống nôn mửa ấy thôi thì ta đủ thấy ghê rồi. Vậy mà ta há lại nên ham ôm vào mình cái bọc ô uế đó ” (Calaxion ) [2;125]. Đó là lời kêu gọi của đức thánh Ođôngđơ, hãy tránh xa nhục dục và tu thân thực hiện chủ nghĩa diệt dục. Trái ngược với chủ nghĩa độc tài phong kiến, nhà thờ chủ nghĩa nhân văn xem “ tự nhiên là khuôn vàng thước ngọc ” của cuộc sống xem con người là “ sản phẩm của tự nhiên ” có những nhu cầu về cả vật chất và tinh thần. Họ chống đối lại thế lực xã hội đen tối phản tự nhiên gò bó, kìm hãm con người về các mặt tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, …Boccacio cũng là một nhà nhân văn chủ nghĩa, truyện của ông vi thế mà chứa đựng một tinh thần nhân văn sâu sắc, ngợi ca trần thế, con người, chế giễu những gì trái tự nhiên và kêu gọi cho con người ý thức cá nhân về số phận.
“ Viện cung nữ của người câm ” di Nefin kể ( ngày thứ ba ) cho ta thấy khát vọng muốn đập tan cái lề thói phong kiến quay về với tự nhiên, với bản năng con người. Chuyện kể rằng anh chàng Macxenttô ở Lamporecchiô giả vờ câm điếc để trở thành người làm vườn trong tu viện của các nữ tu sĩ. Họ đã lần lượt giành nhau cái đặc ân được ngủ với chàng, đến lượt bà tu viện trưởng cuối cung cũng rơi vào vòng quay của dục vọng khám phá những lạc thú đời thường mà bấy lâu nay bị cấm đoán. Bên cạnh việc lên án đạo đức của các nữ tu sĩ, tác giả còn muốn đánh vào chủ nghĩa khổ hạnh diệt dục của tôn giáo, nó làm cho con người héo hon và kìm hãm những nhu cầu bình thường nhất. Cuộc sống trở nên bế tắc, nhàm chán và buồn tẻ. Điều này thể hiện ở chi tiết: sự việc tất cả nữ tu sĩ đi lại với chàng Macxentto bị phát giác thì cách giải quyết của họ là thu xếp cho Macxentto một vị trí hợp lý để thực hiện nhiệm vụ của mình. Và sự ra đời của các tiểu tăng là một tình huống vừa gây cười, vừa khẳng định quy luật của tự nhiên: con người vốn có thiên chức duy trì và phát triển nòi giống. Câu chuyện là sự châm biếm của tác giả với thế giới giả tạo do nhà thừ thêu dệt ra, qua đó đòi hỏi giải phóng con người để họ tự do phát triển những khả năng vô tận của họ, trả họ về với cuộc sống trần tục, để được tận hưởng những khát vọng khổng lồ của đời sống con người. Sự trói buộc chỉ làm cho con người trở nên gian dối, lén lút, xấu xa hơn mà thôi, và cái khát vọng sống lại bùng lên một cách bỏng cháy trong họ. Cụ thể, qua lời của một tu sĩ: “ không hiểu chị có nhận thấy sự khắc nghiệt người ta bó buộc chúng ta không….? ” [1;159]. Đó là lời kêu gọi hãy trả con người về vớ cuộc sống tươi đẹp….
Boccacio còn cho rằng con người sinh ra với hai giới là hai nữa của thế thế giới, thiếu một trong hai thì cuộc sống trở nên vô vị, tựa như Eva và Ađam, sự luyến ái nam nữ là căn nguyên của cuộc sống, nó tồn tại một cách tự nhiên trong mỗi con người. Chế độ phong kiến Trung cổ cố tình ngăn cản, kìm hãm thì vẫn không thể xoá bỏ được. Tác giả đã dẫn chứng cho lập luận này qua truyện “ chim cái ”. Sự tu hành lâu năm vẫn không thể làm cho chàng trai quên đi tình cảm nam nữ ở cuộc sống trần gian. Đó là câu chuyện về chàng thanh niên từ nhỏ đã được đưa lên núi tu hành cách ly với cuộc sống đời thường. Năm 18 tuổi, ông bố cho rằng anh đã đắc đạo, nên đưa xuống núi. Sự lạ lẫm làm anh thấy choáng ngợp, gặp gì cũng hỏi. Nhưng anh đặc biệt thấy choáng váng trước các cô gái, hỏi tên thì ông bố đáp ỡm ờ cho qua chuyện rằng họ không tốt và gọi là chim cái. Và thật nực cười, chàng trai đã đòi đem một con “ chim cái ” lên núi. Câu chuyện nhỏ nhưng ý nghĩa lớn. Phụ nữ và tình yêu không chỉ là niềm vui mà là một phần của cuộc sống. Chủ nghĩa khổ hạnh và chủ nghĩa diệt dục chỉ là những lý thuyết sơ cứng, trái quy luật và sẽ bị huỷ diệt.
Bên cạnh hệ thống tôn giáo lệch lạc, xã hội còn bị những giáo lý khắc khe đè nặng: như những quan niệm về dòng tộc, đẳng cấp, địa vị…. Tình yêu, hôn nhân giữa những con người khác đẳng cấp bị cấm đoán, chia rẽ và kết cục là những bi kịch đau buồn. Vấn đề này không nằm ngoài tầm bút của Boccaciô, ông đem đến cho người đọc cả một thiên tình éo le, đau thương và mất mát để chống đối, phản kháng lại xã hội đương thời.
Câu chuyện tình yêu của hai con người thuộc hai đẳng cấp: “ thắng lợi của cái chết ” do Fiammet kể vào ngày thứ tư làm xúc động bao người: Nàng bá tước trẻ trung, xinh đẹp lại sớm goá bụa đã không thể cầm lòng trước chàng Ghixcar đức độ. Họ đã yêu nhau say đắm nhưng thật bất hạnh mối tình vụng trộm này kéo dài không được bao lâu thì bị phát hiện. Cha của nàng bá tước – vua Tangcređơ - hết sức tức giận và để ngăn cản mối tình không tương xứng này ông đã sai người giết Ghixcar. Nghĩ cái chết của chàng Ghixcar sẽ răn được con gái của mình, ông cho đặt trái tim chàng vào một chiếc cốc bằng vàng và gởi đến cho con gái. Thế nhưng, trái với dự đoán của nhà vua, một kết cuộc bi thảm đã xảy ra, nàng Ghixmông đơ đã tự uống thuốc độc để bảo vê tình yêu của mình, còn câu chuyện tình bi thảm đã làm bao người phải ngậm ngùi khi được nghe kể.
Mối tình vụng trộm trở nên đẹp vì nó chứa đựng những lý tưởng đẹp của tình yêu. Họ vượt qua ranh giới rào cản để đến với nhau lúc sống, khi không còn cách nào khác để bảo vệ tình yêu họ đã chết vì nhau, hết lòng bảo vệ tình yêu. Cuộc tình tan vỡ gây ra cho người đọc sự tiếc nuối mà nguyên nhân chính là do sự phân biệt đẳng cấp, tầng lớp xã hội của tầng lớp qúy tộc trong xã hội phong kiến. Ghixmôngđơ vốn xuất thân từ dòng dõi quý tộc - con vua - còn Ghixcar lại là ngườI có nguồn gốc xuất thân thấp hèn nhưng lại có một phong cách và đức tính ưu việt. Cuộc tình của hai con người tội nghiệp trái với đạo lý của chế độ phong kiến nên bị cấm đoán và kết thúc bi thảm, cả hai người cùng chết để bảo vệ tình yêu của mình, để chống đối lại sự phân biệt giữa các lớp người trong xã hội. Cụ thể qua lời nói của đức vua ta thấy lẽ ra mối tình vụng trộm ấy, không gặp phải sự trừng phạt nặng nề nếu nàng yêu một người thuộc dòng dõi quyền qúy : " Nhưng trong tất cả những kẻ qua lại triều đình của cha, con đã chọn
Ghixcar kẻ hèn mọn nhất trong bọn họ về dòng dõi, cái tên Ghixcar mà từ thời thơ ấu cho đến nay chúng ta đã nuôi ở triều đình vì nhân đức "[1,199] ngườI cha tức giận khi con người con gái yêu quý của mình làm ô danh dòng tộc. Nếu đức vua là ngườI đại diện cho thế lực phong kiến đen tối thì Ghixmôngđơ là người đại diện cho cái mới, cho chủ nghĩa nhân văn, lời nói của nàng là sự phản kháng tự phát chống lại cái ràng buộc lỗi thời "hình như cha công nhận rằng cha sẽ không phật lòng nếu con chọn một người qúy tộc ? Vậy cha không thấy là không phải cha đang chất vấn con mà đang chất vấn số phận đó sao ? Số phận thường nâng đỡ những con người ít xứng đáng nhất và vùi những người xứng đáng vào vị trí thấp hèn . . " [1,202]. Lời đối thoại là sự đối kháng giữa hai hệ tư tưởng giữa cái cũ lỗi thời lạc hậu với cái tiến bộ, nhân văn. Ghixmôngđơ còn cho rằng " Khi mọi người xử sự đạo đức thì người ấy đóng vai trò qúy tộc trước mắt mọi người" đây là tư tưởng tiến bộ đề cao khả năng của con người, muốn phá bỏ cái quan niệm về vị thế xã hội hoàn toàn cứng nhắc. Lời của nhân vật ở đây chính là tư tưởng cách suy nghĩ của tác giả - nhà nhân văn chủ nghĩa.
Bản tình ca là lời phản kháng, là sự phủ định cái cũ và sự chống đối đó dù chưa thể đủ sức để xóa bỏ những lề thói cũ nhưng cũng bước đầu khẳng định được tinh thần nhân văn là đúng đắn là chuẩn mực vươn đến của con người. Cái chết của Ghixcarr cho thấy sự dã man tàn bạo, coi thường sinh mạng của con người của chế độ trung cổ, nhưng đến cái chết của Ghixmôngđơ thì chủ nghĩa quyền uy đã sụp đỗ. NgườI cha nghĩ bằng sự uy hiếp và dọa nạt, thậm chí dùng cái chết khủng khiếp để răn đe thì con gái sẽ sợ và chùn bước, nhưng không ngờ tình yêu của cô gái quá lớn đã vượt qua nỗi sợ hải và quyết tâm bảo vệ đến cùng tình yêu của mình. Cái chết của ngườI ruột thịt, thân yêu đã làm vua cha phải rơi nước mắt, giọt hối hận và xót thương. Đỉnh điểm của cốt truyện một lần nữa khẩng định sâu sắc rằng : dòng dõi và đẳng cấp chỉ là nguồn gốc xuất thân của mỗi người không nên vì điều đó mà gây ra tang thương, đau khổ cho con người. Đây không chỉ là vấn đề trong tác phẩm của Bôccacio nó còn là vấn đề của thời đại, qua tác phẩm của Cervantes : Đonkihôte đã phát biểu " Bởi vì thà nghèo hèn mà có đạo đức còn hơn qúy tộc mà gian ác, dòng máu thì có di truyền, còn việc làm tốt đẹp thì tự mình làm mà có. Đạo đức tự bản thân nó có giá trị gấp bao lần dòng máu " [3,104] Đề cao đức hạnh, tài năng, năng lực của con người.
Sự hối hận và nước mắt khóc cho cuộc tình chỉ càng khẳng định dù là kết thúc bằng cái chết nhưng lại là một cái chết thắng lợi - với chi tiết hai con người bất hạnh được chôn chung một mồ theo lời di nguyện, cái chết mà lại đem đến sự lạc quan. Đây là vấn đề bản chất của xã hội được nhiều nhà văn quan tâm đến, cụ thể sau này chúng ta sẽ gặp trong bi kịch tình yêu Romeo và Juliet của nhà văn thiên tài người Anh W-Shakespeare, kết thúc của họ cũng là cái chết bi thương nhưng không hoàn toàn bi quan mà còn mang màu sắc lạc quan. Về tinh thần mà nói họ chiến thắng hai lần : lúc sống đến được vớI nhau, lúc chết họ bên nhau và giải tỏa được mối hận thù dai dẳng. Cái chết lại đi gieo mầm sống mới hay đây là đáu hiệu suy thoái của chế độ phong kiến trung cổ sắp phải nhường cho cái tiên bộ cho cái nhân văn.
Thời đại phục hưng tuy là sự ra đời của cái mới nhưng cái cũ vẵn tồn tại, hai chế độ cùng tồn tại trong lòng xã hội lúc mạnh lúc yếu khác nhau. Cho nên văn học phục hưng luôn trăn trở, lý giải vấn đề mâu thuẩn, giữa sống và chết : sống không xứng đáng thì như không sống, chết mà thắng lợi tức là sống. Sự đấu tranh cao này ta sẽ gặp trong kịch Shakespeare qua vở Hamlét.
Chế độ trung cổ qua trang sách của Bôccacio được đưa ra ánh sáng phơi bày tất cả những gì xấu xa nhất. Thời đại phục hưng với những tư tưởng tiến bộ nhân văn được ca ngợi đề cao. Con người ở đây đòi hỏi sự tự do được sống được hưởng thụ tất cả những gì mình đáng được hưởng. Tập truyện là hiện thực của đờI sống trần gian, đề cao giá trị tự nhiên của con ngườI nên đôi khi rơi vào chủ nghĩa tự nhiên quá đề cao bản năng của con người.
Chế độ phong kiến trung cổ không những truyền bá một nhân sinh quan hết sức bi đát mà bên cạnh đó nó còn đem đến một nền giáo dục kìm hãm con ngườI đưa con người vào vòng quay tôn giáo, vào những đức tin mù quáng làm cho con người phát triển tư duy trí tuệ mà ngược lại làm thui chột, u muội con người bằng liều thuốc phiện tôn giáo, vì thế trình độ dân trí rất thấp kể cả tầng lớp quý tộc có điều kiện học tập.
Truyện của Bôccacio cũng không bỏ qua vấn đề này. Ông viết nó bằng bút pháp trào lộng, hài hước nhưng lại chứa đựng sự mỉa mai, miệt thị. Ngày thứ chín, Filoxt'rat đã kể chuyện "NgườI bị bệnh tưởng" để minh chứng cho sự ngu dốt của con ngườI do thiếu giáo dục; Anh chàng Canglăngđanh ngờ nghệch, bị bạn lừa. Anh có bà cô ruột mất đi để lại vốn tài sản ít ỏI, đang suy nghĩ việc làm ăn thì bị những người bạn bịp bợm lừa để kiếm tiền. Theo lời xui của Bruyno, Buypfanmac và Nenlo thầy thuốc Ximông làm cho Calăngdranh tin rằng mình có chửa. Để chữa bệnh Calăngdranh đã đưa cho mấy anh bạn vài cặp gà thiến và năm đồng lia trắng để mua thuốc, anh tin mình đã khỏi bệnh vì đã kịp thời chữa bệnh.
Câu chuyện ngỡ thật khó tin, bởi cách lừa phản khoa học lại làm cho Calăngdranh hốt hoảng, than khóc. Sụ ngu muội của Calăngdranl cho thấy sự dốt nát do thiếu giáo dục và sự hạn chế khi không được tiếp xúc vớI tiến bộ khoa học kỹ thuật. Xã hội trung cổ lần lượt bị vạch trần và đưa ra ánh sáng, cái chế độ mà bóng tối của nó đã làm cho xã hội chậm tiến hàng ngàn năm.
Nhìn vào bản chất xã hội, các nhà nhân văn chủ nghĩa lên tiếng kêu gọi cho tự do phát triển. Con người cần được giáo dục về trí tuệ và tạo điều kiện cho họ phát triển tài năng, đưa họ thoát ra khỏi sự lừa bịp xuyên tạc về thế giới vũ trụ của triết học kinh viện và thần học.Con người ở đây phải được đề cao về thể chất, trí tuệ, lạc quan, yêu đời hướng đến tương lai mới : như Gacgangchuga và Pantagruyên của Rabelais. Bên cạnh đó họ phải nắm được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật như bác sĩ Pauxt trong vở kịch của Maclôvơ, Hamlét của Shakespeare . . Từ đó, họ trở nên hoàn thiện hơn để nắm bắt được các vấn đề của cuộc sống.
Như vậy tắm mình trong không khí thờI đại, Bôccacio trở thành nhà văn chiến sĩ, trang viết của ông là vũ khí là bản cáo trạng, đánh vào chế độ trung cổ. Sự đả kích sâu cay nằm sâu trong lớp ngôn từ bóng bẩy, hài hước., cả tập truyện là tiếng cườI đả kích, bác bỏ những vấn đề đen tối của xã hội, những u nhọt cần phải được loại bỏ và xây dụng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuộc sống mà ở đó con người làm chủ số phận của mình, làm chủ cuộc sống trần thế với những niêm vui bất tận.
2.2.2 Tư tưởng mới của thị dân tư sản :
Cuộc vận động tư tưởng và văn hóa phục hưng đã gặt hái được một mùa hoa trái tốt đẹp, phong phú vô cùng phong trào phục hưng là cơ sở cho toàn thể văn hóa Châu Âu bừng tỉnh giấc sau một thời gian tương đối dài chìm trong bóng tối. Bước ngoặt lịch sử này đã góp phần đưa nền văn hóa Châu Âu tiến xa hơn, nhanh hơn nữa vào nền lịch sử cận đại. Văn hóa phục hưng được xem là nề văn hóa rực rở của loài nguười đem đến sự thay đổi trên tất cả các lĩnh vực xã hội đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thụât. Với cảm hứng chủ đạo đề cao tinh thần nhân văn, văn học phục hưng ca ngợi cuộc sống mới, con người mới của ý thức hệ tư sản. Bôccaciô đã đưa những con người mới , người thương dân thành thị vào trong tác phẩm của mình, để họ được sống sinh hoạt tự do theo tư tưởng mới.
Bước vào thế kỷ XIV, Italia có quốc gia thành thị tự do thống trị nền kinh tế Châu Âu bằng thương nghiệp và ngân hàng. Mặc dù trên danh nghĩa các thành thị vẫn phục vụ giáo hoàng và hoàng đế nhưng bước đầu đã có sự giải phóng thoát khỏi ách phong kiến để tự trị về mặt chính trị. Ngành thương nghiệp lên ngôi, người thương nhân xuất hiện với những hào quang mới. Tập truyện “ mười ngày ” của Bôccaciô còn được xem là “thiên hùng ca về thương nhân ”rất được người thương nhân thế kỷ XIV tán thưởng.
Xuất thân từ một gia đình thương nhân, Bôccaciô còn được cha tạo điều kiện cho đi học kinh doanh nên ông nhanh chống nắm bắt được tình hình mới của xã hội. Bên cạnh đó ông còn được sinh ra gắn liền với mảnh đất trù phú Plorăngx, được chứng kiến sự phồn thịnh của các thành thị tư sản, sự phá vở cấu trúc kinh doanh phường hội phong kiến của thương nhân và chủ ngân hàng. Tác phẩm của ông vì vậy luôn hướng tới thế giới tư sản đang lên hơn là chế độ trung cổ đang suy tàn.
Con người mới trong tác phẩm của Bôccaciô là những thương nhân có đầu óc thực tế thông minh khéo léo, có ý muốn đạt đến thành công, thích phiêu lưu, biết bằng lòng với hạnh phúc thực tại chấp nhận sự may rủi của số phận. Thông qua truyện kể “ trận bão ”( ngày thứ hai ) ta bắt gặp chàng thương nhân Langdonfo Ruyfơlô – người vùng biển Amanfi rất giàu có. Chưa bằng lòng với thực tại của mình anh quyết chí tính toán làm ăn buôn bán để kiếm thêm một món hời lớn. Nhưng thật rủi ro thay anh lâm vào cảnh khốn khó và trở thành tên cướp biển. Câu chuyện là chí hướng của con người mới, thích phiêu lưu mạo hiểm để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn. Trên đường đi biển anh bị dân Gienơ bắt sau đó bị lâm vào vụ đắm thuyền may mắn lại mĩm cười anh thoát thân trên một chiếc hòm nhỏ đựng đầy châu báu lại gặp những người tốt bụng anh trở về được nhà của mình và có một khoản tài sản đủ để sống đến cuối đời.
“ Trận bão ”là hành trình đi tìm kiếm tương lai của chàng Langdonfo. Truyện mang tính chất phiêu lưu kỳ thú với nhiều chi tiết bất ngờ, hành trình đó là một chuỗi may rủi nối tiếp nhau. Đặc biệt Langdonfo còn là hình ảnh người thương nhân mới có đầu óc thực tế, với số tài sản may mắn có được anh chi tiêu một cách hợp lý, không quên trả ơn những người giúp đở mình. Phần tài sản còn lại anh giữ cho riêng bản thân , trang trải cho cuộc sống đến cuối đời không xa hoa phù phiếm như giai cấp quý tộc trung cổ. Đây còn là dấu hiệu mới của thời kỳ tích lũy tư bản, đồng tiền dần được coi trọng.
Văn học thời kỳ phục hưng là mùa xuân mới phát triển sôi nổi. “ Mười ngày ” của Bôccaciô được xem là đứa con tinh thần của thời đại. Đồng thời với việc xây dựng hình tượng con người mới, tác giả còn xây dựng một hệ thống nhân sinh quan mới.
Tình yêu được nhìn nhận là một thế giới muôn màu muôn sắc, tươi sáng hơn vượt qua những rào cản của chủ nghĩa quyền uy, khổ hạnh, diệt dục. Tập truyện say sưa ca ngợi tình yêu với đầy đủ các cung bậc từ cao quý nhất cho đến thấp hèn nhất. Có loại tình yêu trong trắng thanh cao của chàng Federic Aberinhi một loại tình yêu không vụ lợi, tính toán mà sẵn sàng hy sinh tất cả cho người mình yêu. Dù không được đáp lại anh vẫn tôn thờ quý bà Giovanna, không từ một việc gì để làm hài lòng người mình yêu. Chàng đã tiêu phí toàn bộ tài sản của mình cho việc chinh phục người tình nhưng điều vo vọng. Không nản lòng, thứ tài sản duy nhất còn lại mà chàng rất quý là con chim ưng cũng được dâng tặng cho bữa ăn khi ý trung nhân đến thăm nhà. Động lòng trước tấm lòng cao quý đó, quý bà Giovanna đồng ý lấy chàng và xây lại cơ nghiệp lại cho chàng. Đó là một câu chuyện tình đẹp cao quý làm người đọc phải trân trọng.
Hay như thứ tình yêu son sắc đá vàng sẵn sàng vượt qua mọi rào cản để đến được với nhau trong câu chuyện kể “ chàng nô lệ tài hoa ”. Chàng nô lệ Gionito lại yêu nàng Goxtanza danh giá. Tình cảm đó không được sự ủng hộ vì gia đình chàng trai quá nghèo, chàng quyết định ra đi làm giàu để tìm một vị thế xứng đáng. Sự việc làm cho nàng Goxtanza hiểu lầm là chàng bị chết, quá đau lòng và tuyệt vọng, nàng đã xuống thuyền tự vẫn, lại bị trôi dạt đến đảo Xutxơ. Thật ngẫu nhiên tại đây nàng gặp lại được Gionito sống ở Tuynix đã thành đạt. Hai người kết hôn và trở về sống ở quê hương của mình. Câu chuyện ca ngợi tình yêu son sắc thủy chung cuối cùng tìm được hạnh phúc, và hạnh phúc chỉ dành cho những ai biết sống và hy sinh vì nó.
Nhưng cũng có những chuyện tình dan díu dục vọng, oán thù tàn bạo. Minh chứng cho điều đó Pănpine đã kể truyện “ không đùa giỡn với tình yêu ”( ngày thứ tám ). Một giáo đồ vì quá say mê cô nàng xinh đẹp goá chồng nên luôn tìm mọi cách khiến cô nàng yêu mình, thật trớ trêu cô nàng lại say mê một người khác. Một đêm đông lạnh cô đã chơi khăm anh giáo đồ bằng cách cho đứng hàng tiếng đồng hồ ngoài trời lạnh trong khi mình thì đang hưởng khoái lạc với người tình. Lòng hận thù đã khiến chàng giáo đồ quyết định trả đủa lại cô ả : một ngày giữa tháng bảy ,cô bị lừa phải trần truồng phơi nắng trên đỉnh nmột ngọn tháp và bị ruồi trâu hành hạ. Tình yêu nhưng lại xuất phát từ tính toán hận thù chỉ đem lại bi kịch và làm cho tình cảm đó trở nên tầm thường.
Bôccaciô còn viết rất nhiều về tình yêu từ tình cảm trái đạo đức của các cặp tình nhân trong truyện “ con ma ”, “ trăm sự nhờ cái thùng ”( ngày thứ bảy ) cho đến tình yêu đá vàng cao quý trong truyện “ thắng lợi của cái chết ”( ngày thứ tư ). Như vậy nếu văn học trung cổ viết về tình yêu của những người quyền quý suốt đời suy tôn một vị phu nhân làm hoàng hậu thì văn học thời phục hưng tình yêu được miêu tả như một vườn hoa đa màu, đa sắc.
“ Mười ngày ”còn quan tâm đến con người trong thế tự do của nó với ý thức cá nhân về số phận. Đề cao thân phận con người xem con người là trung tâm vũ trụ, Bôccaciô chú ý đến người phụ nữ, đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của họ. Trong xã hội trung cổ người phụ nữ có một địa vị thấp hèn, kinh thánh biện luận phụ nữ là xấu xa, dơ bẩn đáng kinh tởm. Họ bị nằm ngoài lề xã hội chịu sự quản lý của nam giới không được tự do lựa chọn hạnh phúc niềm vui cho bản thân mình. Cụ thể qua truyện “lấy được chồng” ( ngày thứ ba )Bôccaciô đã khẳng định vai trò của người phụ nữ và để họ chủ động trong tình cảm của mình.
Truyện kể về cô con gái ông thầy lang Gilettơ xuất thân trong một gia đình thấp hèn lại đem lòng yêu thương chàng trai quý tộc Bect’răng. Nhân dịp chữa được bệnh cho đức vua nước Pháp cô xin một đặc ân là lấy Bect’răng làm chồng. Vì chữ tín, đức vua đồng ý nhưng chàng Bect’răng lại chê nàng địa vị thấp hèn từ chối và bỏ đi Plorăngx. Ở đó, chàng say mê một thiếu phụ khi vợ yêu cầu chàng trở về nhà thì chàng đã ra hai điều kiện và nghĩ chỉ có phép lạ mới giúp nàng thực hiện được yêu cầu. Nhưng cô vợ thông minh và tài giỏi đã tìm cách thực hiện được cả hai điều kiện, cuối cùng Bect’răng chấp nhận yêu nàng và coi nàng là vợ thật sự.
Con đường đi tìm hạnh phúc của người phụ nữ chịu sự chi phối nặng nề bởi những ràng buộc, quan niệm cổ hủ như Bect’răng đã phát biểu “ tâu đức ông, vậy người muốn khanh lấy một người có địa vị như thế ! ”[ 1,173 ] Gilettơ bằng bản lĩnh của mình đã tìm lại được chồng cô là hiện thân của người phụ nữ mới : tài giỏi biết tự tìm kiếm chinh phục hạnh phúc cho bản thân. Người phụ nữ trong tác phẩm của Bôccaciô không còn trong thế bị động nữa mà đã biết đứng lên thực hiện mong muốn của mình. Điều đó cho thấy người phụ nữ có vai trò quan trọng không thua gì nam giới trong xã hội, họ rất xứng đáng được hưởng những quyền sống chính đáng của mình. Kết thúc câu chuyện với sự nhượng bộ của người chồng ta thấy sự thắng thế của chủ nghĩa nhân văn, của tiến bộ, bước đầu phá vỡ cấu trúc của hệ tư tưởng phong kiến, giải phóng con người kể cả người phụ nữ.
Hay ta có thể thấy hình ảnh của người phụ nữ hết sức thông minh khéo léo biết tự vượt lên số phận giành lại hạnh phúc cho mình, qua câu chuyện kể “ những đồ nữ trang không kín đáo ”. Bị Angbrôgiuôlô lừa Becnanô ở Gienơ mất tiền cược và ra lệnh giết vợ mà không biết nàng vô tội. Người vợ thoát chết cải trang vào phục vụ trong quân đội Ai Cập. Cơ hội đến, gặp lại kẻ đã lừa mình nàng trừng trị anh ta đưa sự việc ra ánh sáng rồi cho gọi Becnanô đến Alexăngđri. Xong việc nàng trở lại hình dáng cũ, vợ chồng nhận nhau trở nên giàu có hơn và quay trở về Gienơ. Givenơ là một người vợ hoàn hảo giàu lòng thủy chung, vị tha ,nhân ái đã tìm lại được hạnh phúc cho bản thân, nàng là hiện thân của một người phụ nữ cao quý.
Trong tác phẩm của Bôccaciô giai cấp tư sản đang lên có tư tưởng nhân văn tiến bộ đề cao cuộc sống trần gian, con người, đưa ra mẫu người mới phù hợp với xã hội mới. Nhìn chung Bôccaciô đã đem đến cho nền văn học phục hưng một tác phẩm có giá trị cao về mặt nội dung phản ánh, vừa là bản cáo trạng đanh thép tấn công vào chế độ trung cổ vừa là “ thiên anh hùng ca ” về người tư sản mới với quan điểm nhân quan mới. Tập truyện cũng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng, bởi lúc về già Bôccaciô quay trở về với lý tưởng độc tôn trung cổ nên hầu như tập truyện kể trong ngày thứ mười vẫn chưa thoát khỏi tư tưởng của nền văn học trung cổ, nó minh họa cho lý tưởng hiệp sĩ và cung đình. Dĩ nhiên trong hoàn cảnh thế kỷ thứ XIV tư tưởng nhân văn của Bôccaciô chưa được hoàn chỉnh nhưng phần đa tập truyện vẫn mang hơi hướng tiến bộ rõ rệt.
2.3 Những sáng tạo nghệ thuật của Bôccaciô :
Belinski đã từng nhận xét. “ trong tác phẩm tư tưởng ( tức là nội dung ) là hình thức phải hoàn hợp với nhau hữu cơ như tâm hồn và thể xác. Nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy ”[4,29] như vậy một tác phẩm đích thực phải có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức mới đem lại một giá trị nghệ thuật cao. Sáng tạo những hình thức nghệ thuật mới cũng là yêu cầu của chủ nghĩa nhân văn chống lại khuôn sáo, lối mòn của văn học trung cổ.
Bôccaciô đã thực sự đem đến cho văn học một sự sáng tạo độc đáo về hình thức. Vì sự hạn chế về ngôn ngữ, chúng tôi chỉ tiếp xúc được với bản dịch nên vấn đề nghiên cứu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ chưa thể đi sâu vào khai thác được. Đó là nguyên nhân chính khiến chúng tôi khi nghiên cứu về những sáng tạo nghệ thuật của Bôccaciô chỉ đi sâu vào hai vấn đề cơ bản cốt truyện và nhân vật.
2.3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện.
Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất bao gồm các giai đoạn phát triển chính, các sự kiện các hành động chính trong tác phẩm. Chính vì vậy mà cốt truyện có vai trò, có sức mạnh quan trọng đối với chủ đề tư tưởng tác phẩm. Tác phẩm “ mười ngày ”tập trung một trăm truyện kể ngắn cho nên phần đa cốt truyện được xây dựng đơn tính. Các sự kiện được mô tả theo thứ tự từ trước đến sau, chịu sự chi phối của thể loại nên phải tuân thủ theo yêu cầu của người nghe.
Cốt truyện của tập truyện phần đa được mượn từ kho tàng văn học dân gian, thời trung cổ, thời thượng cổ, nhưng cũng có truyện kể đương thời. Khi toiếp xúc với các truyện kể ta có một cảm giác quen thuộc gần gủi, như khi đọc truyện “ tinh thần gia tô giáo ”hành động lừa bịp cuả Xiappenletto báng bổ , lừa dối chúa, khiến ta nhớ đến việc Trạng Quỳnh cột bò trước bàn thờ để lừa chúa Liễu khi đang cúng lễ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì Bôccaciô chưa phải là nhà văn của thời đại, mặc dù cốt truyện đã cũ, gần gủi nhưng ông đã đưa nó đến một bước tiến mới. Cốt truyện dân gian được Bôccaciô sử dụng làm chất liệu để xây dựng hiện thực xã hội thời phục hưng, tức là mượn cái cười xưa để nói chuyện thế sự ngày nay. Chính vì lẻ đó mà “ mười ngày ”đã vượt qua những hạn chế trong những tác phẩm giai đoạn trước và đạt được một giá trị cao. Giá trị hiện thực của tập truyện phản ánh những vấn đề xã hội xoay quanh tinh thần của chủ nghĩa nhân văn, vì vậy truyện còn là vũ khí chiến đấu của người cầm bút.
Hoặc cốt truyện của câu chuyện “ người bị bệnh tưởng ”( ngày thứ chín ) cũng mang âm hưởng của truyện kể dân gian. Cái cười bật ra không phải để rồi quên mà đằng sau đó là cả một giá trị hiện thực phê phán nền giáo dục trung cổ làm ngu muội con người.
Như vậy ta thấy nếu như văn học thời trung cổ cốt truyện xoay quanh ca ngợi tầng lớp quý tộc với lối sống xa hoa và tình yêu lãng mạng thì giờ đây Bôccaciô xây dựng cốt truyện từ mảnh đất hiện thực của cuộc sống. Ông tái hiện lên bức tranh của xã hội Ý vào thế kỷ thứ XIV hết sức sinh động và chân thật : các tầng lớp xã hội từ quý tộc cho đến nông dân với đủ các hạng người đều xuất hiện như hình tượng sống trong tập truyện. Tinh thần nhân văn mới sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học phục hưng được thể hiện thông qua “ trường học Lamã ”; “ấy lại được chồng ”; “ trận bão ”; “ người bị bệnh tưởng ”…
Văn học trung cổ chủ yếu phát triển các thể loại : anh hùng ca, thơ trữ tình, tiểu thuyết hiệp sĩ. Cốt truyện của văn học thời trung cổ được thể hiện chủ yếu trong thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ, loại văn học tao nhã thời trung đại. Cốt truyên xoay quanh các sự kiện trong cuộc đời của một nhân vật hiệp sĩ nào đó từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, lập chiến công và tìm kiếm một tình yêu. Có thể nói Bôccaciô đã không lập lại văn chương trung cổ. Để diễn tả nội dung hiện thực ông sử dụng bút pháp phúng dụ với hình thức chuyển nghĩa của từ ngữ, là lối nói bóng bẩy ám chỉ để diễn đạt ý nghĩa khái quát trừu tượng trên cơ sở của ý nghĩa cụ thể. Chẳng hạn câu chuyện “ sự suy tưởng về kinh phúc âm ”bằng cách nói đối đáp bóng gió nhân vật muốn ám chỉ rằng lời răn dạy của kinh thánh và lòng nhân đức của đức cha lại sẽ chẳng đem lại điều gì tốt đẹp : “ ngày nào con cũng thấy người ta đem ra ngoài cho một đám đông người nghèo khó… vạc lớn cháo nóng. Đó là cháo thừa lấy từ tô của cha và các tu sĩ. Nhưng nếu ở trên ấy cứ mỗi ngày người ta hoàn lại cho cha một trăm nồi thì con nghĩ tất cả các cha sẽ chết ngạt mất ”[1,70]. Đây là lối nói châm biếm, mĩa mai sâu sắc làm cho cốt truyện của Bôccaciô trở nên hình ảnh và mang tính triết lý suy ngẫm về cuộc đời.
Điểm mới nữa mà ta cần nhắc đến khi nghiên cứu cốt truyện của Bôccaciô là tính kịch của cốt truyện. Nghệ thuật viết truyện thời trung cổ chưa có tính xung đột bởi nội dung của truyện thường mang tinh thần ngợi ca cung đình , lý tưởng của người hiệp sĩ, cũng có một số tác phẩm mang tính chất phê phán nhưng sự đã kích còn nhẹ nhàng, hài hước. Đến tác phẩm của Bôccaciô tính kịch được tạo dựng từ những xung đột hiện thực đó là sự xung đột giữa các lực lượng xã hội, giữa cá nhân này với cá nhân khác về các mặt tư tưởng, quyền lợi kinh tế, tâm lý… Bản chất hiện thực xã hội mâu thuẩn đối kháng giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu lỗi thời. Cốt truyện tạo được tính bất ngờ cho người đọc bởi những chi tiết kịch tính, ở truyện “ trăm sự nhờ cái thùng ” độ căng của cốt truyện được tạo nên từ sự việc người chồng quay trở về ngoài dự định, cuộc đụng độ tay ba gây hấp dẫn ,hồi hộp cho người đọc. Hoặc “ thuốc tẩy giun ”kịch tính xuất hiện khi vị tu sĩ cùng nhân tình là mẹ đứa bé mình đỡ đầu bị người chồng phát hiện mối quan hệ đen tối. Chuyện có kịch tính nhưng lại được dung hòa bởi tính hài hước lối đã kích ở đây được khỏa lấp dưới cái cười sâu cay. Hơn nữa kịch tính không được khai thác từ góc độ tâm lý mà là từ góc độ hành động của nhân vật cũng góp phần làm cho người đọc bớt căng thẳng khi theo dõi cốt truyện.
Văn học phục hưng vốn mang tinh thần nhân đạo sâu sắc phê phán xã hội phong kiến làm thui chột quyền năng của con người. Ta có thể bắt gặp điều này trong các tác phẩmcủa Rabelais, Shakespeare, Cervantes…, nhưng nhờ sự sáng tạo tài tình và sự kết hợp giữa các yếu tố của truyện : giữa cái hài và cái bi, giữa cái cũ và cái mới…đã tạo nên phong cách riêng cho nhà văn Italia này. Tóm lại, cốt truyện dù sử dụng chất liệu dân gian nhưng đã được hiện thực hóa bằng bút pháp phúng dụ và nghệ thuật xây dựng kịch tính đã làm cho cốt truyện trở nên độc đáo hấp dẫn người đọc.
2.3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật :
M. Gorki khuyên một nhà văn trẻ “ anh hãy bỏ nghề viết …anh không hoàn toàn có khả năng miêu tả con người cho sinh động, mà đấy là điều chủ yếu ”[4,126], miêu tả con người ở đây được xem là công việc xây dựng nhân vật của nhà văn. Nhân vật đó có tính chất riêng, có đặc trưng riêng và được gọi là những hình tượng nghệ thuật, nó không còn là nguyên mẫu của con người. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để thể hiện nhận thức của mình, một tác phẩm văn học thì không thể thiếu nhân vật. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống hay nói cách khác nhân vật văn học phải mang trong mình một sứ mệnh lịch sử quan trọng.
Khi đến với “ mười ngày ”nhân vật đầu tiên mà chúng ta thấy được là nhận vật người kể chuyện. Nhân vật kể chuyện là hiện thân của tác giả hoặc chỉ đơn thuần là người biết một câu chuyện nào đó kể lại, làm cho câu chuyện thêm tính khách quan. Nhân vật kể chuyện của Bôccaciô lại được xây dựng một cách độc đáo, họ là hiện thân của những truyện kể. Tác giả không miêu tả về ngoại hình tính cách của nhân vật mà để nhân vật hiện lên ở một khía cạnh nào đó thông qua các câu chuyện kể. Họ là những hình tượng ước lệ tượng trưng cho những trạng thái tâm hồn phù hợp với chủ đề tác phẩm.
Ngày đầu tiên hình ảnh Păngpinê hiện ra là một con người của trật tự quyền uy và đạo đức. Filomen gợi cho ta nghĩ đến sự lạc quan tinh thần vươn lên, nhìn vào cuộc sống tương lai đầy niềm tin. Neifin là hiện thân của tình dục cuồn nhiệt, Filoxt’rat là hiện thân của mối tình vô vọng. Fiamet là tham vọng chinh phục tình yêu, Êlidơ là con người của trí tuệ sự khôn khéo, Điône hiện thân của sự phản bội, Lôret là con người của sự cay cú. Păngtin là hiện thân của con người hồi tưởng quá khứ, Êmili lại là con người của sự dối trá.
Một vấn đề cần bàn đến là nếu nhân vật trung tâm của văn học trung cổ là môtif nhân vật trữ tình, hiệp sĩ, anh hùng. Nhân vật của“ mười ngày ”là con người của xã hội : có thể là con người cũ của chế độ phong kiến trung cổ, cũng có thể là con người mới của tầng lớp thị dân tư sản. Đặc biệt tác phẩm của Bôccaciô còn dành sự ưu ái lớn cho người phụ nữ, nhân vật mà văn học trung cổ không đề cập đến hay chỉ đề cập như một khía cạnh của tình yêu. Qua đó, ta thấy nhân vật của tập truyện “ mười ngày ”là con người mang ý thức cá nhân rõ rệt, đề cao vai trò của người phụ nữ minh chứng cho điều đóa trong lời tựa Bôccaciô đã viết tôi viết để phục vụ phụ nữ ngợi ca họ là lẽ sống ở đời.
Văn học trung cổ xây dựng loại hình nhân vật thiếu tính cách họ là khuôn mẫu của những kiểu người nhất định. Tập truyện của Bôccaciô đã phá vỡ khuôn khổ đó : nhân vật được xây dựng giàu tính cách hơn. Ví dụ Gilettơ là người phụ nữ được miêu tả với nhiều tính cách thông minh, thủy chung, bản lĩnh, cứng rắn…
Thời đại phụchưng với sự lên ngôi của chủ nghĩa duy vật và thuyết vô thần đã tạo đà cho văn học hướng đến miêu tả con người mang lý tưởng nhân văn mới, dân chủ hơn như Lăngdônfo trong “trận bão”, Xiquyrăng trong “ những đồ nữ trang không kín đáo ”…Họ là những con người của hành động, suy nghĩ để hành động hay hành động có suy nghĩ.
Như vậy nhắc đến nghẹ thuật xây dựng nhân vật của Bôccaciô ta thấy được những sáng tạo độc đáo về nhân vật người kể chuyện; sự mới mẻ trong việc xây dựng nhân vật trung tâm…đó là những sáng tạo mang tính chất tiến bộ trên tinh thần của chủ nghĩa nhân văn.
2.4.Tiểu kết :
Ở chương này chúng ta có một cái nhìn cơ bản hoàn thiện cụ thể về mặt nội dung tác phẩm cũng như hình thức nghệ thuật. Nhận thấy “mười ngày ” là tác phẩm văn học lớn của Bôccaciô mang tinh thần thời đại sâu sắc. Qua đó tác phẩm còn giúp ta hiểu thêm về tâm hồn suy nghĩ của nhà văn đối với tư tưởng tôn giáo và đối với thời đại phục hưng.
KẾT LUẬN
“ Mười ngày ”là tác phẩm lớn của Bôccaciô, tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi của nhà văn, đưa ông lên vị trí hàng đầu của nền văn học phục hưng. Do đó việc nghiên cứu tác phẩm theo tinh thần phục hưng là điều kiện giúp người đọc tiếp cận toàn diện, cụ thể giá trị của tác phẩm, thấy được đóng góp của tác giả đối với nền văn học Ý nói riêng và nền văn học phục hưng nói chung.
1. Trong luận văn bước đầu chúng tôi đi vào tìm hiểu nội dung của những câu chuyện kể. Từ cơ sở đó đi vào phân tích kỹ từng truyện thuộc các chủ đề lớn, các chuyện không được phân tích cụ thể tất cả các góc độ và trình bày thành từng truyện riêng biệt mà chỉ chú trọng vào chủ đề chung của các truyện để khai thác, rút ra nhận định có hệ thống về loại chủ đề. Bằng việc phân tích tổng hợp chúng tôi đã tìm ra những giá trị nội dung của tác phẩm như : chủ đề phản phong chống phong kến,quan niệm chống lại luân lý của nhà thờ thiên chúa giáo, quan điểm nhân sinh mới của giao cấp thị dân tư sản. Bên cạnh đó tác phẩm còn mang những giá trị nghệ thuật lớn theo tinh thần văn học phục hưng.
2.Trong luận văn chúng tôi còn thực hiện sự so sánh mở rộng với một số tác phẩm của các nhà văn đồng đại khác, để góp phần làm rõ tính chất thời đại của tác phẩm. Tinh thần phục hưng có sự chi phôi sâu sắc đối với nền văn nghệ, nên tinh thần mà tác phẩm thể hiện cũng mang tính phổ biến trong nền văn học đương thời. Chẳng hạn tinh thần chống phong kiến và nhà thờ, ta có thể thấy rõ trong các tác phẩm của Rabelais, Shakespeare, Cervantes… tuy nhiên mỗi nhà văn có một cái nhìn riêng, có một góc độ khai thác nghệ thuật riêng. Riêng với Bôccaciô ông đã chọn thể loại truyện ngắn để thể hiện thế giới quan của mình, và trở thành nhà văn đặt nền móng cho nền văn xuôi nghệ thuật Ý
Sẽ là một khiếm khuyết nếu như nếu nghiên cứu nền văn học phục hưng mà không nắm được tác phẩm “ mười ngày ”của nhà văn Italia Bôccaciô. Việc tiếp cận cụ thể tác phẩm giúp ta hiểu được giá trị của tập truyện. Tuy nhiên do thời gian và tư liệu nghiên cứu có hạn cũng như khả năng còn hạn chế người viết chưa thể khai thác được tất cả giá trị của tác phẩm, đặc biệt là về mặt nghệ thuật. Hy vọng rằng chúng tôi sẽ có dịp lặt lại vấn đề này, lúc đó chắc chắn sẽ có điều kiện nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc hơn.
Kính mong sự góp ý của quý thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
CHÚ THÍCH
Số thứ tự cuốn sách được ký hiệu ( 1,2,3,…)cuối cùng là số trang trong cuốn sách đặt trong móc vuông.
Ví dụ cuốn sách số1, trang 15 được ký hiệu là [1,15]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van tot nghiep.doc