Bài tập học kỳ chứng khoán:
Tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp
. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Thị trường chứng khoán được coi là môi trường đầu tư kinh doanh phức tạp và nhạy cảm, số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn cùng với độ rủi ro cao, kéo theo sự cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích được thiết lập trên thị trường. Do vậy tranh chấp là hiện tượng tất yếu xảy ra. Tuy nhiên thời gian qua tranh chấp trên thị trường chứng khoán diễn ra ngày một phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, như giữa các nhà đầu tư, giữa nhà đầu tư với công ty chứng khoán, giữa doanh nghiệp với cổ đông Vậy nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu? Thực trạng giải quyết tranh chấp đó như thế nào? Các giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết tốt tranh chấp là gì? Đó là nội dung em xin trình bày trong bài tập lớn học kì của mình với đề tài : “Tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp”. Do thời gian ngắn, kiến thức còn hạn chế nên bài làm của em còn nhiều thiếu sót.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Một số vấn đề lý luận.
1. Khái niệm tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
2. Đặc trưng của tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
II. Thực trạng giải quyết trong lĩnh vực chứng khoán.
1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
2. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
4. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
* NHẬN XÉT CHUNG:
III. Ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp.
1. Bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hạn chế và giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
a. Quy định rõ về việc xác định thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tranh chấp.
b. Bổ sung các quy định còn thiếu và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán.
c. Hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
d. Cần bổ sung luật
2. Thành lập tòa án riêng dành cho chứng khoán và đơn giản hóa các thủ tục.
3. Nâng cao vai trò hoạt động của các trung tâm trọng tài và thành lập trung tâm trọng tài trong lĩnh vực chứng khoán.
4. Nâng cao trình độ hiểu biết của công chúng về pháp luật liên quan đến tranh chấp và giải quyết tranh chấp.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3579 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Thị trường chứng khoán được coi là môi trường đầu tư kinh doanh phức tạp và nhạy cảm, số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn cùng với độ rủi ro cao, kéo theo sự cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích được thiết lập trên thị trường. Do vậy tranh chấp là hiện tượng tất yếu xảy ra. Tuy nhiên thời gian qua tranh chấp trên thị trường chứng khoán diễn ra ngày một phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, như giữa các nhà đầu tư, giữa nhà đầu tư với công ty chứng khoán, giữa doanh nghiệp với cổ đông…Vậy nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu? Thực trạng giải quyết tranh chấp đó như thế nào? Các giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết tốt tranh chấp là gì? Đó là nội dung em xin trình bày trong bài tập lớn học kì của mình với đề tài : “Tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp”. Do thời gian ngắn, kiến thức còn hạn chế nên bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô trong tổ bộ môn chỉ dạy thêm để em hoàn thiện bài làm của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Một số vấn đề lý luận.
1. Khái niệm tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Luật chứng khoán năm 2006 không đưa ra khái niệm cụ thể về thế nào là tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên có thể hiểu : “Tranh chấp trên thị trường chứng khoán là những xung đột về quyền và lợi ích phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia thị trường chứng khoán và được thể hiện bên ngoài dưới dạng nhu cầu cần giải quyết thông qua hình thức nhất định theo quy định của pháp luật” (trang 415 – giáo trình Luật chứng khoán, trường Đại học Luật Hà Nội).
2. Đặc trưng của tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
- Thứ nhất: về phạm vi chủ thể. Chủ thể của tranh chấp trên thị trường chứng khoán phải là các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán. Tổ chức, cá nhân được coi là tham gia thị trường chứng khoán khi họ thực hiện một hoặc một số hoạt động mà theo quy định của pháp luật những hoạt động đó chỉ được phép diễn ra trên thị trường chứng khoán.
- Thứ hai: về đối tượng tranh chấp. Đối tượng của tranh chấp tranh chấp trên thị trường chứng khoán là quyền và lợi ích của các chủ thể có được do tham gia thị trường chứng khoán. Nói cách khác, các quyền và lợi ích phát sinh trên cơ sở sự tham gia của các bên vào thị trường chứng khoán. Do vậy, trường hợp hai bên tranh chấp đều là chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nhưng quyền và lợi ích tranh chấp giữa họ không phát sinh từ quan hệ thiết lập trên thị trường chứng khoán thì không được xác định là tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
- Thứ ba: về giá trị của tranh chấp.Việc xác định giá trị của tranh chấp (nếu có) phát sinh trên thị trường chứng khoán hoàn toàn không dễ dàng nếu xuất phát từ thời điểm, tiêu chí đánh giá khác nhau. Nhìn chung, các tranh chấp xảy ra trên thị trường chứng khoán thường liên quan đến việc một bên bị thiệt hại do sự biến động giá chứng khoán có chủ ý từ bên kia.
II. Thực trạng giải quyết trong lĩnh vực chứng khoán.
Điều 131 Luật Chứng khoán 2006 quy định: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt nam có thể được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc toàn án giải quyết theo quy định của pháp luật”.
1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Thương lượng là việc các bên tranh chấp cùng nhu bàn bạc, trao đổi, đấu tranh, nhân nhượng và thỏa thuận để đi đến thống nhất phương án giải quyết xung đột. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp không chính thức, do các bên tự nguyện áp dụng. Lựa chọn thương lượng các bên tiết kiệm được thời gian, chi phí – những yếu tố vô cùng quan trọng đối với bất kì chủ thể nào tham gia thị trường chứng khoán. Giải quyết bằng thương lượng thường được áp dụng với tranh chấp đơn giản, giái trị tranh chấp không lớn.
Thực tiễn cho thấy giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng là hình thức được sử dụng phổ biến nhất, chiếm tỷ trọng gần như quyết định trên thị trường chứng khoán hiện nay. Điều này xuất phát từ chính ưu điểm của phương thức này là không có sự xuất hiện của bên thứ 3, uy tín của các bên không bị ảnh hưởng (đây lại là vấn đề được đặc biệt quan tâm bảo vệ khi thị trường có tính cạnh tranh cao). Điều đó cũng lí giải vì sao trong thời gian qua, mặc dù thực tế có nhiều tranh chấp nhưng không được đề cập trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên tự thỏa thuận để thống nhất lựa chọn giải pháp chấm dứt xung đột với sự hỗ trợ của người thứ ba đóng vai trò là trung gian hòa giải (hòa giải viên). Đối với việc giải quyết tranh chấp thị trường chứng khoán giữa các thành viên, trung tâm giao dịch chứng khoán có thể làm trung gian hòa giải. Khoản 8 Điều 37 LCK không quy định Sở giao dịch CK hoặc trung tâm giao dịch CK có thể làm trung gian hòa giải nếu được thành viên yêu cầu đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch CK. Quy định này cho thấy rất nhiều tranh chấp khác phát sinh trên thị trường chứng khoán có thể thực hiện hòa giải bởi các hòa giải viên khác. Chẳng hạn như tranh chấp phát sinh trong quá trình tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ đầu tư hay danh mục quản lý quỹ đầu tư CK, tranh chấp phát sinh trong quá trình lưu kí CK.
Cũng giống như quốc gia có thị trường trung tâm giao dịch CK Việt Nam thành lập ban hòa giải nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp bằng con đường này.
Hình thức hoà giải phải có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian, có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ các bên trong quá trình đàm phán để nhanh chóng tìm ra giải pháp thích hợp, Xem xét các văn bản pháp lý cao nhất về CK và TTCK từ trước đến nay cho thấy, pháp luật luôn ghi nhận vai trò trung gian hào giải của Sở giao dịch CK. Trung tâm giao dịch CK đối với những tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch CK. Đây là điểm đặc thù trong pháp luật về giải quyết tranh chấp trên TTCK ở Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
Trên thế giới, tuỳ theo điều kiện cụ thể mỗi nước mà pháp luật có sự điều chỉnh khác nhau nhưng xu hướng chung đều ghi nhận thương lượng, hoà giải là phương thức giải quyết mang tính tự nguyện. Mỹ được coi là nước có TTCK lâu đời và phát triển nhất hiện nay, trong đó phải kể đến thị trường giao dịch tập trung NYSE và thị trường giao dịch OTC NASD. Quy tắc giải quyết tranh chấp tại hai thị trường này đều thừa nhận thương lượng, hòa giải là cách giải quyết hoàn toàn tự nguyện, không bắt buộc đồng thời mỗi sở đều đưa ra chương trình hoà giải riêng, phù hợp với điều kiện của mình. Thương lượng, hoà giải được đề cập ở trên với tư cách là biện pháp ngoài tố tụng, tức là được thực hiện trước khi các bên đưa đơn kiện ra trọng tài hoặc toà án. Bên cạnh đó, pháp luật một số nước lại nhìn nhận hoà giải với tư cách biện pháp bắt buộc trong thủ tục tố tụng. Quy chế Sở giao dịch CK Kuala Lumpur (Malaixia ) quy định: “khi Sở giao dịch chấp nhận giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan thì các bên phải tự hoà giải trong vòng 30 ngày kể từ ngày có thông báo chấp nhận giải quyết tranh chấp của Sở giao dịch. Chỉ sau khi các bên không thể thoả thuận được thì Sở giao dịch mới chỉ định trọng tài viên giải quyết”.
* Vai trò trung gian hoà giải của sở giải dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán ở Việt Nam.
TTCK là sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường. Để đảm bảo chất lượng hoà giải các tranh chấp phát sinh trên thị trường, đòi hỏi đội ngũ hoà giải viên ngoài kinh nghiệm đàm phán, nghệ thuật thuyết phục, sự nhiệt tình, trung thực phải có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực CK và TTCK. Xuất phát từ yêu cầu này, pháp luật đã ghi nhận vai trò trung gian hoà giải của một tổ chức hoạt động trên TTCK, bao gồm Trung tâm giao dịch CK và Sở giao dịch CK, tại các văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất về TTCK. Theo quy định hiện hành, giao dịch CK tại thị trường tập trung phải thực hiện thông qua thành viên của trung tâm giao dịch là các công ty CK. Đối với phương thức giao dịch thoả thuận ( áp dụng cho giao dịch CK lô lớn ), mức giá và số lượng CK giao dịch đã thoả thuận từ trước giữa hai nhà đầu tư với công ty CK hoặc giữa hai công ty CK với nhau, công ty CK chỉ nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của trung tâm để trung tâm xác nhận kết quả giao dịch. Đối với phương thức khớp lệnh, căn cứ vào lệnh ( mua hoặc bán CK ) của khách hàng, công ty CK nhập lệnh vào hệ thống giao dịch tại trung tâm để tiến hành khớp lệnh trên cơ sở ưu tiên về giá. Quy trình giao dịch CK kết thúc bằng thủ tục chuyển giao CK và thanh toán tiền giữa trung tâm lưu ký CK và ngân hàng chỉ định thanh toán. Tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch CK có thể phát sinh tại bất kỳ giai đoạn nào trong quy trình giao dịch trên giữa các chủ thể là công ty CK, nhà đầu tư, tổ chức thanh toán và tổ chức có CK giao dịch. Khi xảy ra tranh chấp, các chủ thể này đều có quyền đề nghị trung tâm tiến hành hoà giải vì quy định nêu trên không xác định rõ quyền đề nghị thuộc chủ thể nào. Nếu xem xét quy định của pháp luật Việt nam về vai trò trung gian hòa giải của các tổ chức như Sở giao dịch CK, trung tâm giao dịch Ck trong mối tương quan với pháp luật của các quốc gia thì đây là quy định có tính kế thừa thành tựu lập pháp của các nước. Hầu hết các nước có TTCK phát triển lâu đời hay vừa hình thành đều ghi nhận quy định trên. Bên cạnh đó pháp luật của một số nước còn ghi nhận vai trò hòa giải các tranh chấp trên TTCK cho một số tổ chức khác. Ví dụ: Luật CK Hàn Quốc quy định rõ về Ủy ban hòa giải TC về CK và thủ tục hòa giải TC về CK….
3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên (với tư cách là bên thứ ba độc lập) nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra các phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Trên thế giới, trọng tài được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán nói riêng và tranh chấp trong kinh doanh nói chung bởi tranh chấp luôn được giải quyết tận gốc bằng phán quyết chung thẩm, có tính bắt buộc chung trong khi thởi gian và chi phí không cao, thủ tục đơn giản, không cứng nhắc. Tuy nhiên khi đã lựa chọn hình thức trọng tài, các bên đương nhiên mất quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra tòa án.
- Giải quyết tranh chấp trên TTCK tại trọng tài thương mại phải tuân theo trình tự thủ tục luật định. Do pháp luật chuyên ngành không có quy định riêng nên theo quy định chung của pháp luật tố tụng trọng tài, thời hiệu khởi kiện tranh chấp trên TTCK nói riêng và tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nói chung là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp. Pháp luật cho phép các bên lựa chọn một trong hai hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp, tại các trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập.
. Hiện nay, tại Viên Nam chưa tồn tại trung tâm trọng tài nào chuyên phân xử tranh chấp trong lĩnh vực CK. Trong khi đó, trọng tài ở các nước có TTCK phát triển đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp rất cao, điển hình là thị trường chứng khoán Mĩ.
- Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ đọng cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và bảo đảm bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi.
Theo nguyên tắc này học có thể giữ được bí quyết trong kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kì trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình.
Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với các hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kì một tổ chức hay tòa án nào.
- Nhược điểm: giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì chi phí trọng tài càng cao. Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án.
Có thể nhận thấy rằng tại Việt Nam, cơ quan trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu được các bên thỏa thuận. Thỏa thuận trọng tài có thể được quy định trong hợp đồng hoặc một văn bản riêng biệt, trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp; nhưng quan trọng là thỏa thuận này chỉ định một trung tâm trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Những thỏa thuận trọng tài không đáp ứng quy định này sẽ bị coi là vô hiệu và khi đó tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết.
Do một số hạn chế nhất định cùng tập quán và thói quen nên ở nước ta trọng tài thương mại thường không được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng và các tranh chấp thương mại nói chung.
Qua số liệu thống kê của các năm cho thấy số lượng các vụ tranh chấp chứng khoán được giải quyết tại các trung tâm trọng tài thấp hơn rất nhiều so với số lượng các vụ tranh chấp chứng khoán được giải quyết tại tòa án. Cùng với các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán, các tranh chấp trong các lĩnh vực thương mại khác đã khiến hệ thống tòa án trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
4. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Với mục đích tạo một mặt bằng thông thoáng về mặt thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa án và hình thành một nền văn hóa tư pháp công bằng, lành mạnh thông qua hoạt động xét xử, Quốc hội đã ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 2005, quy tụ các thủ tục tố tụng gần nhau vào thành một mối. Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự mà còn mở rộng sang các quan hệ tố tụng kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. Do vậy, mọi tranh chấp xảy ra trên TTCK đưa ra giải quyết tại tòa án tuân theo một trình tự tố tụng chung, thống nhất trên cơ sở Bộ luật tố tụng dân sự.
Giải quyết tranh chấp tại tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp theo đó một bên bằng đơn kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và tòa án theo thủ tục luật định sẽ đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Lựa chọn hình thức này, các bên phải tuân theo trình tự, thủ tục pháp lý phức tạp, thời gian bị kéo dài, công sức và chi phí cao. Do vậy giải quyết tranh chấp bằng tòa án chủ yếu trong các trường hợp, hòa giải không thành hoặc không thể áp dụng hình thức trọng tài (do không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Về thẩm quyền của tòa án:
+ Theo vụ việc: căn cứ vào điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, có thể xác định tranh chấp trên thị trường chứng khoán thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế và tòa dân sự. Nhóm thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế gồm các tranh chấp xảy ra giữa các tổ chức, cá nhân có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; một số tranh chấp trên thị trường chứng khoán được nhà làm luật quy kết về loại tranh chấp xảy ra giữa công ty và thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau. Các tranh chấp trên thị trường chứng khoán không thuộc hai nhóm trên thuộc thẩm quyền của tòa dân sự.
+ Thẩm quyền theo cấp của tòa án: căn cứ theo quy định tại điều 33, 34 Bộ luật tố tụng dân sự, tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về mua bán chứng khoán giữa các tổ chức, cá nhân có đăng kí kinh doanh và tranh chấp giữa công ty với cổ đông hoặc giữa cổ đông với nhau, không phụ thuộc có yếu tố nước ngoài trong tranh chấp. Các tranh chấp còn lại thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh nếu đương sự hay tài sản (chứng khoán) ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
- Về thời hiệu: Bộ luật tố tụng dân sự ra đời, thống nhất trình tự thủ tục giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Tuy nhiên, pháp luật vẫn quy định một số thủ tục đặc thù áp dụng cho một số loại việc cụ thể. Thủ tục giải quyết tranh chấp trên TTCk không nằm trong các trường hợp đặc biệt đó mà tuân theo thủ tục tố tụng chung. Theo đó, thời hiện khởi kiện của các tranh chấp trên thị trường là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. “Thời điểm quyền, lợi ích bị xâm phạm được xác định là thời điểm người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đó”, không phụ thuộc vào bên có quyền lợi ích xâm phạm có nhận thức được hành vi xâm phạm của bên kia không.
- Về trình tự, thủ tục: thủ tục tố tụng bắt đầu từ thời điểm tòa án thụ lý đơn kiện của nguyên đơn và kết thúc bằng bản án do hội đồng xét xử tuyên. Thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp của các bên là một trong những lý do tòa án trả lại đơn kiện. Đối với tranh chấp xảy ra giữa các thành viên (không phải với tư cách thành viên sở hữu) của trung tâm giao dịch CK, nếu các bên không tiến hành thương lượng hòa giải theo quy định trong nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ của trung tâm trước khi khởi kiện, tòa án cũng có quyền không thụ lý (Điểm e Khoản 1 Điều 168 Bộ luật TTDS). Sau khi thụ lý vụ án, tòa án sẽ tiến hành một số công việc cần thiết để chuẩn bị cho phiên tòa xét xử. Điểm đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là trách nhiệm hòa giải của tòa án, cụ thể là của thẩm phán được giao giải quyết vụ án. Pháp luật hiện hành quy định rõ, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tối đa là 6 tháng (kể từ ngày thụ lý) đối với tranh chấp về dân sự và 3 tháng đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Trong trường hợp hòa giải thành, thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Các bên được pháp luật dành cho một khoảng thời gian cần thiết là 7 ngày (kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành) để suy nghĩ và cân nhắc nhữn nội dung đã thỏa thuận. Hết thời hạn đó mà không có bên nào thay đổi ý kiến thì thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trường hợp hòa giải không thành, thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa sơ thẩm diễn ra công khai theo thời gian và địa điểm do thẩm phán ấn định. Đương sự có thể tự mình tham gia hoặc cử người đại diện và có quyền tranh luận tại phiên tòa. Đây được coi là “hoạt động trung tâm của phiên tòa, bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hơp pháp của mình trước tòa án”. Theo quy định, hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội đồng xét xử làm việc tập thể và ra bản án giải quyết vụ tranh chấp theo nguyên tắc đa số dựa trên kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Bản án có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên và được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước mà đại diện là cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, nếu không đồng ý với quyết định phân xử của tòa án, các bên tranh chấp có quyền kháng cáo trong thời gian luật định theo thủ tục phúc thẩm. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản giữa bản án của tòa án và phán quyết của trọng tài, bởi phán quyết của trọng tài có giá trị trung thẩm, các bên không có quyền kháng cáo. Quy định thủ tục kháng cáo trong tố tụng tòa án thể hiện tính chất hai mặt, vừa tạo cơ hội cho cơ quan xét xử sửa chữa sai lầm trong trường hợp bản án tuyên không thỏa đáng nhưng vừa là nguyên nhân làm cho quá trình giải quyết tranh chấp. bị kéo dài, gây lãng phí thời gian của đương sự và cơ quan xét xử.
Thực tế cho thấy trong thời gian qua đường tới Tòa án của các vụ tranh chấp chứng khoán đang còn nhiều trắc trở. Chánh toà Kinh tế, Toà án Nhân dân TP. Hà Nội, ông Phạm Tuấn Anh cho biết, năm 2010, cơ quan này chưa thụ lý và đưa ra xét xử vụ nào liên quan đến tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán, còn trước đó cũng chỉ có rất ít vụ liên quan đến chứng khoán được đưa đến Tòa. 10 năm qua, trên TTCK Việt Nam ghi nhận khá nhiều vụ tranh chấp gay gắt, nhất là giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường tự do khi mà quy định pháp lý về chứng khoán vẫn hoàn toàn bỏ ngỏ thị trường này. Tuy nhiên, việc Tòa án nhân dân TP. Hà Nội cũng như Tòa án nhân dân các địa phương khác không mấy khi phải "động não" phán xét các vụ tranh chấp về chứng khoán cho thấy, con đường đến Tòa để xử lý tranh chấp trong lĩnh vực này là không đơn giản.
Trong số các vụ "cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt" xảy ra giữa CTCK và NĐT, hẳn dân chơi "chứng" chưa quên các vụ: một NĐT "tố" CTCK APEC "xài chùa" tài khoản của mình xảy ra năm 2008; năm ngoái, các NĐT Nguyễn Bá Phong, Đồng Thị Phương Thanh, Nguyễn Thanh Hải và Nguyễn Thị Thu Hà tố cáo Công ty Chứng khoán phố Wall chủ động cho bảng điện tử "nghỉ" giao dịch, khiến họ bị thiệt hại hàng tỷ đồng khi giao dịch cổ phiếu MB trên thị trường OTC… Các vụ việc trên sau một hồi rùm beng dư luận, đã rơi vào im lặng, mà chưa có một phán quyết rõ ràng từ cơ quan công quyền rằng bên nào đúng, bên nào sai. Đây có thể là một trong những lí do chính khiến một số vụ tranh chấp vẫn diễn ra dai dẳng.
Theo bà Đồng Thị Phương Thanh, thành viên của nhóm NĐT kiện Cty Chứng khoán phố Wall về giao dịch cổ phiếu MB, sau hơn 1 năm chuẩn bị hồ sơ, bà cùng nhóm NĐT khởi kiện vẫn chưa thể nộp hồ sơ lên Toà kinh tế, Toà án nhân dân TP Hà Nội, mặc dù có sự trợ giúp của luật sư. Sự chậm trễ này là do bên bị hại phải hoàn tất những thủ tục khởi kiện, giải quyết tranh chấp của Toà án quá rườm rà, tốn nhiều thời gian…Dẫu vậy, bà Thanh khẳng định sẽ theo đuổi vụ kiện tới cùng để làm rõ phải trái, dù nguyên đơn hiểu rằng điều này chưa có tiền lệ.
Với tư cách là luật sư hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Ban pháp chế, Ngân hàng Bảo Việt lý giải, người bị hại, nhất là NĐT khó tìm đến Toà để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình không phải do khó khăn trong thu thập chứng cứ, vì rất nhiều vụ chứng cứ đã có đầy đủ. Lý do chủ yếu là bởi thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp của Toà án quá phức tạp, kéo dài. Tâm lý của người đi kiện thường muốn giải quyết nhanh tranh chấp, trong khi dù có thắng kiện ở Toà án cũng chưa chắc thu hồi được tiền hoặc phải chịu cảnh theo kiện nhiều năm, làm mất hết cơ hội đầu tư, nên khiến người bị hại ngán ngại tìm đến tòa.
* NHẬN XÉT CHUNG:
Có thể nhận thấy tranh chấp trên thị trường chứng khoán thời gian vừa qua diễn ra khá phức tạp. Các tranh chấp khá mới và có xu hướng tăng mạnh. Ông Trần Vũ Hải, Trưởng Văn phòng Luật sư Trần Vũ Hải, là một nhà đầu tư chứng khoán không thành công, nhưng lại khá “phát” trên thị trường chứng khoán với vai trò một luật sư, bởi có rất nhiều việc để làm.
Theo ông Hải, thời gian qua, do những kẽ hở về pháp lý, nên đã xuất hiện khá nhiều tranh chấp trên thị trường chứng khoán, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, như giữa các nhà đầu tư, giữa nhà đầu tư với công ty chứng khoán, giữa doanh nghiệp với cổ đông… Vì thế, các luật sư như ông làm không hết việc.
Theo các chuyên gia về pháp luật, trên thị trường chứng khoán đang xuất hiện những tranh chấp rất phức tạp, nhiều vụ việc tưởng chừng đã xử lý xong, toà đã tuyên án rồi, nhưng hệ quả còn kéo dài, để lại tiền lệ xấu trong xã hội.
III. Ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp.
1. Bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hạn chế và giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
Việc hoàn thiện pháp luật cần được triển khai theo các hướng sau:
a. Quy định rõ về việc xác định thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tranh chấp.
Theo quy định hiện hành của Luật chứng khoán, việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán sẽ được thực hiện theo thứ tự ưu tiên thông qua các con đường thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Có thể nhận thấy các quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp đã được quy định rất đầy đủ bởi các luật chung và luật chuyên ngành. Tuy nhiên thực tiễn cũng cho thấy rằng việc giải quyết các tranh chấp về chứng khoán thường gặp phải một số khó khăn và vướng mắc nhất định, trong đó nổi cộm nhất là vấn đề xác định thiệt hại để dựa trên cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ở các nước, LCK thường quy định rất rõ nghĩa vụ bồi thường cho từng loại hành vi gây thiệt hại, đi kèm với cách thức xác định giá trị khoản bồi thường trong một số trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, LCK Hàn Quốc quy định mức bồi thường tổn thất do hồ sơ sai sót được quy định tại điều 15, trách nhiệm bồi thường của kiểm toán viên trong điều 197 được xác định là: Lượng chênh lệch giữa mức thực trả của bên nguyên để mua chứng khoán và một trong các giá trị sau đây: (1) Giá trị thị trường của chứng khoán tại thời điểm kết thúc xét xử ứng khẩu nếu có đơn kiện đối với các chứng khoán liên quan ( trong trường hợp không có giá trị thị trường thì sẽ áp dụng giá trị được đánh giá tại thời điểm chứng khoán được bán thanh lý); (2) giá trị mà tại đó chứng khoán được bán thánh lý, trong trường hợp việc thanh lý những chứng khoán này được tiến hành trước thời điểm kết thúc xét xử nêu trong trường hợp (1).
Ở Việt Nam, nhà làm luật lựa chọn giải pháp không đưa ra quy định cụ thể về việc xác định giá trị khoản bồi thường trong trường hợp vi phạm mà dựa trên các quy định chung của Bộ luật dân sự và Luật thương mại về bồi thường thiệt hại. Luật thương mại 2005 quy định: bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Trong đó, giá trị bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản trực tiếp mà bên bị thiệt hại đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (khoản 10 – điều 302).
Đối với các hợp đồng thương mại thông thường, để xác định các khoản thiệt hại đó, có thể căn cứ vào các yếu tố của hợp đồng như giá trị hàng hóa, thời điểm giao kết, thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Nhưng trong giao dịch chứng khoán, việc định lượng các yếu tố đó là vô cùng khó khăn.
Ví dụ: giả sử mối quan hệ giữa công ty chứng khoán A và khách hàng B là hợp đồng dịch vụ môi giới. Ngày 1/1/2007 khách hàng B đặt lệnh bán 10.000 cổ phiếu X, giá 150.000 VNĐ/ cổ phiếu, nhưng công ty chứng khoán A nhậ lệnh mua 10.000 cổ phiếu với giá 155.000 VNĐ/ cổ phiếu, lệnh được khớp. Giá cổ phiếu X có xu hướng giảm mạnh, khách hàng B thấy bị thiệt hại, vào ngày 4/1/2007 đã kiện ra tòa, tại thời điểm này giá cố phiếu X là 120.000 VNĐ/ cổ phiếu. Ngày 4/2/2007 tòa án kết luận công ty chứng khoán A có hành vi vi phạm, gây thiệt hại và phải bồi thường cho khách hàng, lúc này giá cổ phiếu X là 130.000 VNĐ/ cổ phiếu. Vậy công ty chứng khoán A phải bồi thường cho khách hàng bằng cách nào và bồi thường bao nhiêu??? Có một số vấn đề cần xem xét trong trường hợp này: Thứ nhất: hành vi của công ty chứng khoán A có thể đã gây ra 2 loại thiệt hại cho khách hàng, đó là: thiệt hại không bán được chứng khoán với giá tốt và mua phải chứng khoán với gíá cao, vậy công ty chứng khoán sẽ hủy bỏ giao dịch sai bằng cách mua lại 10.000 cố phiếu với giá 155.000 VNĐ/ cổ phiếu và thực hiện lệnh bán của khách hàng bằng cách mua 10.000 cổ phiếu với giá 150.000 VNĐ/ cổ phiếu hay bồi thường thiệt hại cho khách hàng một khoản xác định bằng tổng thiệt hại trên cơ sở chênh lệch giá. Thứ hai: nếu xác định thiệt hại là chênh lệch giữa giá trị đã giao dịch và giá thị trường được tính tại thời điểm khởi kiện hay thời điểm tòa án đưa ra quyết định.
Hiện nay các vấn đề này chưa được pháp luật quy định rõ ràng cho nên không có căn cứ pháp lý để giải quyết. Trong khi trên thực tế, những tranh chấp như vậy có thể diễn ra rất phổ biến trên thị trường nhiều khi còn phức tạp hơn. Giả sử chứng khoán trong ngày 2/1/2007 tăng lên 160.000VNĐ/ cổ phiếu, khách hàng thấy giao dịch chênh lệch sai được khớp là có lợi nên không có yêu cầu gì với công ty chứng khoán. Đến ngày 4/1/2007 khi giá giảm mạnh, khách hàng mới phản ánh việc nhập sai với công ty chứng khoán và không được chấp nhận. Trong tình huống này, liệu có mặc nhiên coi như khách hàng đã chấp nhận giao dịch bị nhầm vì không có khiếu nại ngay đến công ty chứng khoán hay không??? Đây là vấn đề cần được pháp luật quy định cụ thể.
Qua sự phân tích trên ta thấy cần hoàn thiện các cơ sở pháp lý cho vấn đề này để tạo điều kiện cho việc đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư một cách thỏa đáng. Giải quyết vấn đề này sẽ góp phần bảo vệ nhà đầu tư khi quyền lợi của họ bị xâm phạm và trên cơ sở đó góp phần hạn chế nguy cơ xảy ra các tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
b. Bổ sung các quy định còn thiếu và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán.
Để góp phần bảo đảm tính khả thi của Luật chứng khoán, điều quan trọng là xác định rõ những quy định còn thiếu hoặc đã có trong luật này nhưng chưa cụ thể hoặc chưa được hướng dẫn thi hành, liên quan đến việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán nhất là hoàn thiện các quy định về hành vi bị cấm.
Phải thừa nhận rằng việc quy định các hành vi bị cấm trên thị trường chứng khoán là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến quyền lợi của nhiều chủ thể khác nhau và rất có thể bị các chủ thể này phản ứng. Thực tế cho thấy, để kiểm soát, phát hiện và ngăn chặn các nguy cơ gây thiệt hại cho quyền lợi của các nhà đầu tư dẫn đến tranh chấp, rất cần có những quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết mỗi dạng hành vi, cách thức biểu hiện của nó qua các hành vi thương mại, các cơ chế phát hiện, ngăn chặn và các chế tài đối với các hành vi đó. Đây là vấn đề tuy đã được đề cập trong luật chứng khoán nhưng thiết nghĩ cần được quy định rõ hơn, chi tiết hơn bằng các văn bản dưới luật của cơ quan hành pháp. Có như thế mới tránh được các tranh chấp xảy ra.
c. Hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
- Thứ nhất: cần hoàn thiện nội dung các quy định về thanh tra, giám sát thị trường. Ngoài các quy định hiện hành của luật chứng khoán về thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường chứng khoán thì cần bổ sung thêm các quy định về hoạt động điểu tra chứng khoán. Thiết nghĩ đây là quy định rất cần thiết nhằm nâng cao tính minh bạch của thị trường chứng khoán để phòng ngừa các tranh chấp xảy ra. Việc hình thành các quy định riêng biệt trong lĩnh vực này và thành lập tổ chức điều tra riêng biệt về chứng khoán sẽ tạo ra hiệu quả thực tế cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Nghiệp vụ điều tra trên thị trường chứng khoán đặc biệt ở chỗ, ngoài việc thu thập thông tin, chứng cứ, số liệu cần phải thực hiện, còn cần đến hoạt động phân tích dữ liệu đó để chứng minh các hành vi vi phạm ẩn giấu đằng sau đó. Công việc này cần có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán. Hoạt động của cơ quan điều tra cần được tổ chức toàn diện, bao gồm các hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra. Các hoạt động này sẽ nâng cao tính tự chủ của hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời hỗ trợ cho hoạt động tố tụng sau này khi có tranh chấp xảy ra trên thị trường.
Thứ hai: cần hoàn thiện các thiết chế bổ trợ và xây dựng mô hình giám sát thị trường toàn diện. Về mô hình giám sát thị trường, rõ ràng sẽ không đạt hiệu quả tối đa nếu chỉ thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán. Điều đó cho thấy rằng để có được mô hình giám sát thị trường toàn diện và hiệu quả, nhất thiết phải tạo được sự liên kết linh hoạt từ các mắt xích hay các thành tố chủ yếu của thị trường như UBCDCK, SGDBDS, TTGDCK, các chủ thể, các nguồn thông tin, các biến động của thị trường để hạn chế tới mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra.
d. Cần bổ sung luật
Thiết nghĩ rằng trong tương lai không xa sẽ phát sinh loại tranh chấp mới là các cổ đông yêu cầu tòa buộc hội đồng quản trị cũ phải bồi thường thiệt hại do việc ký kết hợp đồng cũ bị tranh chấp hoặc chưa giải quyết xong làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Nội dung này luật chưa quy định cụ thể. Hay các tranh chấp liên quan đến việc thành lập, giải thể, chia tách… một số loại hình như trường tư thục, trường dân lập… trong khi các mô hình tổ chức này chưa được quy định trong Luật Doanh nghiệp khiến tòa án gặp khó khăn. Do đó cần phải bổ sung khoản 3 Điều 29, hướng dẫn cụ thể cho khoản 4 Điều 29 và khoản 4 Điều 30 BLTTDS. Điều 56 BLTTDS cũng cần được bổ sung thuật ngữ bên yêu cầu và bên liên quan để gọi các bên đương sự cho phù hợp.
2. Thành lập tòa án riêng dành cho chứng khoán và đơn giản hóa các thủ tục.
Có nên chăng trong tương lai cần lập một tòa án riêng chuyên giải quyết các vụ về giao dịch nội gián, giao dịch không công bằng trong hoạt động chứng khoán. Mặt khác cũng cần tăng cường năng lực của các hiệp hội bảo vệ cổ đông và hiệp hội này cũng cần có quy chế hoạt động riêng và được Luật Chứng khoán quy định thành một chương riêng. Cũng cần hình thành các câu lạc bộ nhà đầu tư để các thành viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cạnh đó, bản thân các cổ đông cần phải tự học hỏi pháp luật để tự bảo vệ mình khi cần thiết.
Bởi lẽ trong những năm qua con đường đi tới tòa án để giải quyết các vụ tranh chấp chứng khoán còn nhiều trắc trở là do thủ tục giải quyết tại tòa án tương đối phức tạp, thời gian kéo dài. Do đó trong những năm tới đây nên đơn giản hóa các thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa để việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng và hiệu quả hơn.
3. Nâng cao vai trò hoạt động của các trung tâm trọng tài và thành lập trung tâm trọng tài trong lĩnh vực chứng khoán.
Ở các nước trên thế giới việc giải quyết tranh chấp tại các trung tâm trọng tài là khá phổ biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam hình thức giải quyết tranh chấp chứng khoán tại trọng tài thương mại đang còn gây ra nhiều e ngại cho các nhà đầu tư mặc dù đã có đầy đủ cơ sở pháp lý cho hoạt động này. Vì vậy việc tăng cường vai trò giải quyết tranh chấp chứng khoán của các trung tâm trọng tài là cần thiết. Rất có thể đây sẽ là hình thức giải quyết tranh chấp chứng khoán trong tương lại.
Mặt khác, việc thành lập trung tâm trọng tài riêng trong lĩnh vực chứng khoán sẽ tạo nên tính chuyên môn hóa cao hơn của hoạt động nghiệp vụ mang lại hiệu quả như mong muốn.
4. Nâng cao trình độ hiểu biết của công chúng về pháp luật liên quan đến tranh chấp và giải quyết tranh chấp.
Để đảm bảo tính khả thi cho luật chứng khoán trước yêu cần ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp rõ ràng không chỉ dựa vào việc hoàn thiện các quy định của Luật chứng khoán mà còn cần một cơ chế tự kiểm soát hữu hiệu hơn, dựa trên cơ sở nâng cao hiểu biết thị trường và pháp luật của các nhà đầu tư chứng khoán. Bằng cách này, các nhà đầu tư chứng khoán có được khả năng hiểu biết pháp luật, thực hiện theo luật pháp để tránh các tranh chấp đáng tiếc xảy ra.
Không thể phủ nhận rằng hiện nay phần lớn các nhà đầu tư nhỏ lẻ ở Việt Nam thiếu hiểu biết về lĩnh vực chứng khoán. Chính điều này đã góp phần tạo ra các tranh chấp không đáng trên thị trường chứng khoán. Việc áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao năng lực đầu tư của nhà đầu tư để phòng ngừa ngay từ đầu tranh chấp xảy ra.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Là một lĩnh vực mới mẻ và nhiều tiềm năng chúng ta luôn hy vọng chứng khoán Việt Nam sẽ phát triển thịnh vượng trong những năm tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán, trường ĐH Luật HN, NXB CAND – HN 2008.
2. Luật chứng khoán 2006.
3. Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
4. Luật doanh nghiệp 2005.
5. Dương Quỳnh Nga “ Hiệu ứng của luật chứng khoán trước yêu cầu bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán” – khóa luận tốt nghiệp, HN 2007.
6. Các bài viết trên các báo, tạp chí và các trang web về chứng khoán.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp.doc