Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói
riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của
ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín
dụng trung, dài hạn là một vần đề đòi hỏi phaỉ thường xuyên và thực hiện
nghiêm túc.
74 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá -Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6.000 tấn mía/ngày tương đương 100.000 tấn đường/ năm, lao động nông
nghiệp có việc làm và nâng cao thu nhập. Đặc biệt là thông qua vốn đầu tư
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (cùng với tổ chức tín dụng khác và vốn tự
có) đã góp phàan chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại lực lượng dân cư;
- 53 -
giải quyết tốt quan hệ công nghiệp - nông nghiệp làm cho cả vùng mía thuộc
nhiều huyện phía tây, tây nam và phía bắc của Thanh Hoá từ chỗ đất xấu, dân
nghèo trở thành vùng kinh tế phát triển và nâng cao đời sống nhân dân.
- Thông qua tín dụng đầu tư đối với các dự án, Ngân hàng tác động đến
hạch toán kinh tế, làm lành mạnh tình hình tài chính và đòi hỏi doanh nghiệp
phải thực hiện nghiêm túc thể lệ tín dụng trung, dài hạn. Bởi vì Ngân hàng chỉ
xem xét đầu tư cho các dự án tính toán được hiệu quả kinh tế trực tiếp có khả
năng trả nợ được chắc chắn. Vì vậy, để được đầu tư vốn, doanh nghiệp phải
bảo vệ được dự án đầu tư với Ngân hàng, qua đó Ngân hàng cùng với doanh
nghiệp xem xét lại một cách tỷ mỷ, sự cần thiết phải đầu tư, qui mô đầu tư,
nguồn vốn tham gia đầu tư... Xác định tính toán kỹ các yếu tố chi phí để có
giá thành hợp lý, từ đó xác định được nguồn trả nợ và thời gian thu hồi vốn.
Thông qua việc thẩm định Ngân hàng giúp doanh nghiệp bổ sung, điều chỉnh
dự án vay vốn đảm bảo đúng trình tự và đảm bảo được hiệu quả kinh tế sau
khi đầu tư. Mặt khác cũng qua việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay
tín dụng trung, dài hạn, Ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp xem xét lại
công nợ, tính toán lại những khoản phải thu, phải trả và tìm biện pháp giải
quyết góp phần từng bước làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. Đi đôi với
việc đầu tư trung, dài hạn Ngân hàng đã xem xét đến việc đầu tư cho vay khép
kín, cho vay bổ sung vốn lưu động tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy chất lượng công tác tín dụng trung, dài hạn ở Ngân
hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá ngày càng được nâng cao ngay từ khâu
tìm kiếm dự án để đầu tư, sau khi đi vào sản xuất các dự án đảm bảo trả nợ
ngân hàng đạt và vượt kế hoạch. (Đến 31/12/2000 số nợ tồn đọng chủ yếu
phát sinh trong giai đoạn 90-94, chỉ có 1 dự án dài hạn của Công ty lâm sản
xuất khẩu sau khi đầu tư thì Nhà nước cấm xuất khẩu gỗ nên hiện nay công ty
đã ngừng sản xuất.
Qua số liệu biểu 9 và 10 cho thấy tín dụng trung, dài hạn của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá luôn tăng tưởng, năm 1996 dư nợ là
59.528 triêu/ tổng dư nợ 135.670 triệu, chiếm 43,8% thì cuốí năm 2000 dư nợ
là 298.982 triệu/ tổng dư nợ 496.906. Như vậy dư nợ tín dụng trung, dài hạn
đến tháng 12/2000 gấp 5 lần so với năm 1996, tỷ trọng chiếm 60% trong tổng
dư nợ tín dụng các loại, tuy tỷ trọng này đối với hoạt động tín dụng của một
Ngân hàng thương mại là cao nhưng xuất phát từ vai trò chức năng của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển nên vẫn hợp lý. Về nợ quá hạn, năm 1996 tỷ lệ nợ
quá hạn của TD trung, dài hạn so với dư nợ của chính loại này chiếm 2% thì
đến 31/12/2000 chỉ chiếm 0,33%, trong khi đó dư nợ tăng gấp 5 lần. Mặt khác
TD trung, dài hạn bằng ngoại tệ không có nợ quá hạn. Qua đó cho thấy chất
lương hoạt động TD trung dài hạn 5 năm qua rất đảm bảo. Từ đó đã góp phần
- 54 -
tăng thêm hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Mặt khác qua tín dụng đầu tư
đối với các dự án đòi hỏi bản thân cán bộ Ngân hàng đặc biệt là số cán bộ trực
tiếp làm công tác tín dụng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ để đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới chất lượng tín dụng của toàn chi
nhánh hiện nay.
Tín dụng, trung dài hạn đối với các dự án 5 năm qua đã góp phần lập
lại trật tự kỷ cương trong xây dựng cơ bản. Trong những năm trước đây trên
địa bàn Thanh Hoá tình hình vi phạm về lĩnh vực xây dựng cơ bản ở các dự
án, công trình là khá phổ biến, các chủ đầu tư chưa triệt để tuân thủ các qui
định của Chính phủ về quản lý XDCB. Thời gian gần đây thông qua hoạt
động đầu tư tín dụng của Ngân hàng đã và đang từng bước đưa lĩnh vực này
vào kỷ cương nề nếp. Đã có sự phối hợp chặt chễ giữa các ngành với Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển nên các dự án trước khi được ghi vào kế hoạch đầu
tư năm của Tỉnh đều được gửi qua Ngân hàng tham gia ý kiến. Bởi vì để thực
hiện tốt qui trình tín dụng đầu tư, Ngân hàng chỉ khảo sát trình duyệt những
dự án có đủ căn cứ, điều kiện theo đúng qui định của Nhà nước và của ngành.
Vì vậy các chủ đầu tư phải chuẩn bị tốt luận chứng kinh tế kỹ thuật, dự toán
hoặc hợp đồng kinh tế. Theo yêu cầu của Ngân hàng, để Ngân hàng thẩm
định, trình duyệt và cho vay. Thông qua việc kiểm tra của Ngân hàng phát
hiện chủ dự án có vi phạm về sử dụng vốn sai mục đích, giá cả, chủng loại
thiết bị... thì Ngân hàng đề nghị yêu cầu các chủ dự án phải thực hiện theo
đúng cam kết và chấp hành đầy đủ định mức giá cả theo đúng qui định hiện
hành.
2- Một số khó khăn tồn tại:
Qua thời gian thực hiện tín dụng đầu tư đối với các dự án, bên cạnh
những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện còn có những tồn tại khó
khăn như sau:
Thứ nhất: Chấp hành điều lệ quản lý xây dựng cơ bản
+ Hầu hết các dự án khi đưa đến Ngân hàng đã được các cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt chưa đảm bảo quy trình được ban hành.
+ Nhà nước làm, xây dựng, duyệt quy hoạch và chỉ đạo cụ thể việc các
doanh nghiệp sản xuất cái gì, bao nhiêu, bán cho ai... dẫn đến nếu ngân hàng
thẩm định theo quy trình sẽ chậm trễ, thậm chí không đầu tư là tạo thế đối lập
với chính quyền cấp tỉnh bởi ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của địa phương mà việc lý giải không phải dễ dàng.
+ Việc xét duyệt, thẩm định và quyết định đầu tư cũng có nhiều vấn đề
bất cập, nhất là chưa xác định rõ trách nhiệm của các khâu lập và xét duyệt dự
án trong đầu tư.
- 55 -
Trong thời gian qua một số dự án chất lượng luận chứng kinh tế kỹ
thuật chưa đạt yêu cầu so với điều lệ XDCB (kể cả những dự án được duyệt
luận chứng trước khi ghi kế hoạch), một số dự án được ghi kế hoạch trước khi
phê duyệt luận chứng. Chính khâu chuẩn bị đầu tư làm chưa chu đáo, hồ sơ dự
án không đầy đủ nên dẫn tới tình trạng làm vội, thiếu cân nhắc tính toán kỹ
dẫn tới sau đầu tư có dự án không phát huy được hiệu quả hoặc không tiêu thụ
được sản phẩm như kế hoạch dự tính do thiết bị lạc hậu, không đồng bộ.
Thứ hai: Về chủ trương đầu tư tín dụng trong những năm qua nhìn
chung là đúng hướng. Nhưng việc bố trí kế hoạch tín dụng hàng năm thường
chậm, do đó ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư của dự án và tiến độ phát vốn vay
của chi nhánh thường phải kéo dài qua nhiều năm. Mặt khác, việc bố trí cơ
cấu đầu tư ở các ngành chưa hợp lý. Ví dụ như sản xuất gạch tuy-nen (đầu tư
nhiều dự án, nhiều chủ đầu tư trên một địa bàn, qui mô lại lớn) mặt dù sản
phẩm làm ra đạt chất lượng song thị trường tiêu thụ không hết làm xuất hiện
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh (về giá). Hơn nữa, Nhà nước - Tỉnh
chưa có chính sách ưu đãi rõ ràng (trợ giá, thuế) cho những dự án mũi nhọn
của tỉnh, nhất là những dự án bị mất thị trường do chính sách của Nhà nước
nên gây nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn đúng kế hoạch của ngân hàng.
Thứ ba: Đối với khách hàng:
+ Việc xây dựng các dự án đầu tư hoặc những mặt hàng chưa được xác
định theo một chiến lược tổng thể, nên khi vay vốn xây dựng xong dự án, thì
không phát huy được hiệu quả kinh tế.
+ Năng lực tài chính của khách hàng vay còn quá mỏng và yếu. Nhất là
trên địa bàn Thanh hoá ít doanh nghiệp lớn, hơn 85% là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, vốn tự có chỉ chiếm 2-5% tổng nguồn vốn, nhiều dự án vay vốn ngân
hàng 100% làm cho khả năng tự bù đắp rủi ro của các doanh nghiệp là vô
cùng nhỏ bé. Bên cạnh đó chất lượng, gía cả hàng hoá của các doanh nghiệp
lại thiếu sức cạnh tranh và thị trường không ổn định, mặt khác các nhà doanh
nghiệp Việt nam khả năng quản lý kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và
trình độ kỹ thuật còn hạn chế. Do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn
vốn vay.
+ Một số doanh nghiệp còn nặng về tranh thủ nguồn vốn, chưa quan
tâm triệt để đến khả năng hoàn trả vốn (nhất là khi mới triển khai tín dụng dài
hạn), chưa chấp hành nghiêm túc điều lệ xây dựng cơ bản, thể lệ qui định của
Ngân hàng, quản lý vốn vay chưa chặt chẽ, sử dụng sai mục đích, chưa sử
dụng triệt để nguồn vốn tự có để đầu tư vào dự án (vốn tự có tham gia ít) có
doanh nghiệp đưa vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến giá thành công
trình cao ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh. Từ đó ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ ngân hàng. Mặt khác, phần lớn các doanh
- 56 -
nghiệp mới quan tâm đến trả gốc vốn vay mà chưa quan tâm đúng mức đến
trả lãi, nhất là lãi vay thi công của các dự án dài hạn (đến 31/12/2000 số lãi
chưa thu trung hạn: 3.008 triệu đồng, tăng 52,35% so 1999. Lãi chưa thu dài
hạn: 14.843 triệu đồng, tăng so 1999 là 104,03%)
Thứ tư: Trong những năm qua, Ngân hàng mới tập trung đầu tư tín
dụng trung, dài hạn vào các ngành kinh tế quốc doanh là chủ yếu, tỷ trọng đầu
tư loại hình TD này cho khách hàng ngoài quốc doanh còn rất ít.
Năng lực thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp của cán bộ
ngân hàng mà trước hết là cán bộ tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác thẩm định cho vay dự án
thiếu hiểu biết về lĩnh vực chuyên ngành, còn thiếu kiến thức về kinh tế thị
trường.
+ Việc thẩm định dự án có những trường hợp chưa sâu do thiếu thông
tin hoặc nắm bắt thông tin không kịp thời... đặc biệt là về chất lượng, giá cả
thiết bị, công nghệ; về thị trường tiêu thụ sản phẩm đáng chú ý là thị trường
nước ngoài bao tiêu sản phẩm. Vì vậy chưa phát hiện được hết những vấn đề
bất cập trong dự án (rủi ro tiềm ẩn), mặt khác việc tìm hiểu nắm bắt tình hình
sản xuất kinh doanh, tài chính của các doanh nghiệp còn chậm, chưa sâu, quá
trình cho vay (rải ngân) kiểm tra kiểm soát có lúc chưa chặt chẽ, cho nên
chậm phát hiện những sai sót của doanh nghiệp.
- Tuy đã có nhiều cố gắng để thẩm định hết các dự án với chất lượng
ngày càng đảm bảo nhưng chất lượng thẩm định dự án, phân tích đánh giá
hiệu quả còn chưa cao, mới dừng lại ở thủ tục hành chính theo các quy định
trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, chưa đánh giá sâu về thị trường tiêu
thụ sản phẩm, các yếu tố đầu vào về đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá thành,
giá bán..., chưa dự đoán được những tiềm ẩn rủi ro dẫn đến việc trả nợ khó
khăn hoặc buộc phải xin gia hạn nợ.
- Tồn tại khác:
+ Hầu hết các dự án theo kế hoạch Nhà nước vốn đầu tư vay ngân hàng
gần 100% nên khả năng trả nợ kéo dài, hiệu quả dự án thấp.
+ Cơ chế chính sách về cho vay thay đổi liên tục cũng ảnh hưởng đến
việc tín dụng đầu tư. Mặt khác, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý dự án còn
yếu
+ Hệ thống thông tin kinh tế, thị trường, giá cả nói chung và thông tin
rủi ro trong hệ thống ngân hàng nói riêng đều đang ở trong tình trạng phân
tán, kếm hiệu quả, quy mô nhỏ bé, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do hạn
- 57 -
chế thông tin ở tầm vĩ mô nên hiệu quả đầu tư của dự án thực tế khác rất xa so
với hiệu quả trong tính toán ban đầu của quá trình thẩm định dự án.
+ Chưa có hệ thống tiêu thức thống nhất trong và ngoài nghành ngân
hàng nhằm phân loại những doanh nghiệp (trước hết là doanh nghiệp Nhà
nước) để ưu tiên vốn đầu tư, ưu tiên sắp xếp, củng cố hoặc loại trừ khỏi đời
sống kinh tế.
Có được kết quả trên bởi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá
đã thực hiện các biện pháp để đẩy mạnh cho vay và nâng cao chất lượng tín
dụng trung, dài hạn- những biện pháp đó là:
- Xác định được mục tiêu chiến lược của công tác tín dụng đầu tư trung
dài hạn của mình.
- Chủ động bám sát chủ trương kế hoạch đầu tư của địa phương, phối
hiệp và đấu mối với các ngành, các sở có liên quan để tìm dự án đầu tư, qua
đó xây dựng kế hoạch về huy động vốn, mở rộng cho vay và kế hoạch cho vay
thu nợ, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của tín dụng trung dài hạn.
- Xác định không chỉ tập trung cho vay các dự án thuộc doanh nghiệp
Nhà nước mà đã mở rộng cho vay các doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài quốc
doanh; không chỉ cho vay đến doanh nghiệp mà còn thông qua doanh nghiệp
cho vay đến cán bộ côg nhân viên mua cổ phần của doanh nghiệp (Đối với
những doanh nghiệp cổ phần hoá).
- Nâng cao chất lượng trong việc thẩm định dự án từ việc nghiên cứu
dự án, nắm bắt thông tin và đánh giá hiệu quả dự án và tình hình doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp, không chỉ đánh giá tình hình trong một năm
mà đánh giá phân tích tình hình 2->3 năm gần nhất và mức độ phát triển của
doanh nghiệp trong những năm tới. Mặt khác chấp hành và thực hiện đảm bảo
đúng qui trình thẩm định, nguyên tắc cho vay.
- Chỉ ký kết HĐTD khi dự án thẩm định xét thấy hiệu quả và giải ngân
khi đã có khối lượng, không làm ẩu.
- áp dụng lãi suất linh hoạt cả trong huy động và cho vay trung, dài hạn
trên cơ sở hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam.
- Xắp xếp bố trí lại và phân công nhiệm vụ, giao trách nhiệm cho các
phòng tín dụng, thành lập tổ Thẩm định. Thực hiện cho vay khép kín đối với
một khách hàng nghĩa là khách hàng vay nhiều hình thức chỉ tập trung đầu
mối vào một phòng. Qua đó tránh phiền hà và giải quyết kịp thời nhu cầu vốn
trong quá trình SXKD của khách hàng.
- 58 -
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng tín dụng của chi nhánh
cũng như phương pháp làm việc của cán bộ. Đồng thời chỉ bố trí cán bộ làm
công tác thẩm định, tín dụng có trình độ Đại học trở lên và có phẩm chất đạo
đức, am hiểu pháp luật.
- Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm công tác thẩm định dự án đầu
tư, thông qua việc tổng kết đánh giá lại hiệu quả dự án đã đầu tư để rút ra
những mặt được và chưa được.
Tuy đã có cố gắng đẩy mạnh cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng
trung, dài hạn nhưng vẫn còn những việc chưa làm được là:
- Việc phối hợp với các ngành, các sở để nắm bắt chủ trương, tìm
khách hàng tuy đã quan tâm nhưng chưa tích cực, chưa chủ động.
- Trong quá trình nghiên cứu thẩm định dự án khi thấy hiệu quả chưa
cao còn thận trọng, từ chối không đầu tư hoặc chưa mạnh dạn tham mưu cho
tỉnh để điều chỉnh. Nhiều thông tin về kinh tế kỹ thuật của những dư án sản
xuất sản phẩm mới chưa có đủ và chưa chính xác.
- Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chưa thường xuyên.
Nguyên nhân :
- Có dự án tài sản thế chấp thiếu, hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 không có
không đảm bảo theo qui định của Chính phủ. Mặt khác, pháp luật chưa đồng
bộ lại có xu hướng hình sự hoá hoạt động ngân hàng nên những dự án khi
thẩm định không có hiệu quả nếu cho vay khả năng rủi ro là không tránh khỏi
mà nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của ngân hàng huy động.
- Chi nhánh còn nặng về hiệu quả kinh tế của dự án và lợi nhuận mang
lại cho ngân hàng.
- Đối với khách hàng: có khách hàng lập dự án chưa tính toán kỹ thậm
chí thiếu cơ sở khoa học để đánh giá hiệu qủa dự án.
- 59 -
Chương III
Giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoa
-------------------------
I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển về tín dụng
trung, dài hạn:
- Tín dụng dài hạn từ năm 2001 trở đi Ngân hàng tự huy động vốn, tự
tìm kiếm các dự án có hiệu quả để đầu tư, vấn đề này vẫn được xác định là
khâu quan trọng. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá tiếp tục đáp ứng
với mức cao nhất nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển của những dự án nằm
trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, của tỉnh chuyển tiếp từ
năm 1999, bên cạnh đó chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả theo định
hướng, mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong năm
2001 và những năm tiếp theo của Tỉnh với mục tiêu an toàn và vững chắc
trong tăng trưởng.
- Tín dụng trung hạn đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm dự án, nhất
là dự án của những công trình chuyển tiếp có thời gian thi công ngắn, những
dự án, công trình của các doanh nghiệp, khách hàng truyền thống (Bia, bưu
điện, giấy, khối xây lắp...) có hiệu quả kinh tế, chuẩn bị đủ điều kiện vay, có
khả năng trả nợ ngân hàng. Đồng thời coi trọng mở rộng quan hệ với nhóm
khách hàng mới thuộc khối xây lắp và khách hàng có dự án phát triển kinh tế
biển, kinh tế trang trại… có hiệu quả kinh tế.
- Mở rộng tìm kiếm các khách hàng mới, nhất là dự án của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, mục tiêu của loại tín dụng này nhằm tài trợ cho các doanh
nghiệp mua thêm, thay thế hoặc đổi mới trang thiết bị, máy móc, bí quyết
hoặc công nghệ để khai thác hết năng lực sản xuấtn năng lực thiết bị hiện có -
loại hình này vừa có nhu cầu vốn ít, thời gian đầu tư ngắn lại phát huy hiệu
quả được ngay. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì nó còn làm tăng khả
- 60 -
năng trúng thầu trong quá rình tham gia đấu thầu xây lắp công trình. Đặc biệt
là cho các mục đích sản xuất và thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dự án
Tài chính nông thôn (RDF), thực chất là đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh. Đồng thời tập trung vào các dự án đổi mới công nghệ nhập thiết bị tiên
tiến của các nước phát triển để có thể cho vay Tài trợ xuất nhập khẩu, lãi suất
thấp, thời gian tối đa 10 năm nguồn vốn ổn định do Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt nam ký được hiệp định khung tài trợ hàng năm với ngân hàng các
nước đó.
Để đạt đựơc các định hưóng trên, hàng năm mục tiêu hoạt động của
ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá là:
1. Nguồn vốn huy động: tăng trưởng hàng năm 18-20%
2. Sử dụng vốn:
* Tổng dư nợ: hàng năm tăng trưởng từ 15- 20%
Trong đó :- Trung hạn: tăng từ 25%-> 30%
- Dài hạn : tăng từ 5->10%
Cơ cấu tín dụng: Trung, dài hạn chiếm 50->60%
Chất lượng TD: Nợ quá hạn dưới 1% so với tổng dư nợ,
không phát sinh nợ khó đòi.
3. Kết quả kinh doanh: Lợi nhuận hàng năm tăng 5->10%
II/ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn :
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam vừa là một ngân hàng thương
mại quốc doanh, có chức năng nhiệm vụ như tất cả các ngân hàng thương mại
quốc doanh khác vừa có nhiệm vụ phục vụ lĩnh vực xây dựng cơ bản. Thực tế
đã chứng minh vai trò của hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung
cũng như ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá nói riêng với sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cùng với thời gian chất lượng công
tác tín dụng nhất là tín dụng trung, dài hạn ngày càng cao thể hiện ở dư nợ quá
hạn luôn dưới mức cho phép. Tuy nhiên như ở trên đã trình bày tín dụng
trung, dài hạn có thời gian thu hồi vốn kéo dài nên tiềm ẩn rủi ro lớn, mà dư
nợ lĩnh vực này lại chiếm trên 50% tổng dư nợ cho vay của ngân hàng Đầu tư
và phát triển Thanh hoá và trong tương lai còn tăng lên nữa. Do vậy, để đảm
bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt nam cũng như Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá thì việc
- 61 -
đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là vô cùng
quan trọng.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình kinh doanh, công tác tín dụng trung,
dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá, đặc điểm, tình hình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn: Những thuận lợi, khó
khăn cũng như những mặt đã đạt được, những tồn tại trong thời gian qua. Tôi
xin nêu một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tín dụng trung,
dài hạn như sau:
1. Ngân hàng phải xây dựng chính sách tín dụng trung, dài hạn một cách hợp lí:
Đứng về mặt chiến lược mà nói, một chính sách tín dụng phải thu hút
được khách hàng, duy trì và phát triển được khách hàng để mở rộng quy mô
hoạt động của một ngân hàng thương mại. Do vậy chính sách tín dụng trung,
dài hạn phải chú ý đến chiến lược thu hút khách hàng có sự lựa chọn. Các tiêu
chuẩn chính dể lựa chọn khách hàng, như:
- Khách hàng có khả năng ổn định và phát triển kinh doanh lâu dài.
- Khách hàng có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng tốt với
môi trường kinh doanh.
- Khách hàng có triển vọng chiếm lĩnh thị trường ...
- Khách hàng đang có khó khăn nhưng dự án đầu tư thực sự có hiệu quả
những doanh nghiệp này Ngân hàng vẫn đầu tư cho dự án đó, thông qua việc
đầu tư giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn và phát triển đi lên.
Như vậy để thực hiện quan điểm chỉ đạo gắn công tác tín dụng trung
dài hạn với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển. Vừa
phục vụ cho đầu tư phát triển vừa hỗ trợ các doanh nghiệp phát huy hiệu quả
vốn tín dụng ngắn hạn, hạn chế thấp nhất rủi ro trong hoạt động tín dụng, vừa
đảm bảo thu nhập cho ngân hàng. Chi nhánh phải chủ động nắm bất kịp thời
chủ trương đầu tư hàng năm của địa phương để xây dựng chiến lược, kế hoạch
cho vay trung, dài hạn hàng năm chi tiết đến từng ngành, từng chủ đầu tư,
từng dự án.
Bên cạnh sự lựa chọn khách hàng, dự án để thực hiện chính sách tín
dụng, lãi suất cũng là một chính sách quan trọng của ngân hàng để thu hút
khách hàng. Về nguyên tắc mà nói lãi suất cao sẽ hạn chế sự vay vốn của
khách hàng, lãi suất thấp sẽ thu hút nhiều khác hàng hơn. Song, chính sách lãi
suất phải linh hoạt với từng khoản tín dụng, từng khách hàng và phải đảm bảo
kết hợp hài hoà giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng.
- 62 -
Với đặc thù của loại hình tín dụng trung, dài hạn có thời hạn kéo dài,
vốn của ngân hàng chịu rủi ro rất lớn do nhiều yếu tố lạm phát, thị trường. Để
khắc phục tình trạng này ngân hàng nên:
+ Nghiên cứu áp dụng các hợp đồng tín dụng có lãi suất thả nổi (tức lãi
suất thay đổi) để giảm rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên khi
áp dụng hình thức này vấn đề cốt lõi là ngân hàng phải có một chiến lược về
kinh doanh và một chiến lược dự báo xu thế thị trường.
2- Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án:
Thẩm định một dự án đầu tư (TĐDAĐT) gồm nhiều phần như: Sự cần
thiết phải đầu tư, công nghệ, nguyên liệu, thị trường, tài chính dự án... Đứng
trên giác độ là Ngân hàng, ở đây tôi xin nhấn mạnh vấn đề cơ bản về thẩm
định tài chính dự án đầu tư (TĐTCDAĐT). Việc thẩm định này ngoài mục
tiêu đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm bảo đảm sự an toàn cho các nguồn vốn
tín dụng của Ngân hàng.
Tuy lâu nay phương pháp TĐTCDAĐT đã được nghiên cứu và vận
dụng thích ứng với thực tiễn nền kinh tế nhưng dưới tác động của các quy luật
kinh tế thị trường đòi hỏi việc hạch toán kinh doanh phải chặt chẽ, hạn chế
thấp nhất rủi ro thì phương pháp thẩm định cũ đã bộc lộ một số thiếu sót sau:
- Phương pháp thẩm định cũ còn khá đơn giản, phiến diện không thích
hợp với những yếu tố phức tạp đa dạng của môi trường kinh doanh hiện nay.
Chẳng hạn: ít chú ý phân tích rủi ro, chưa tính toán đủ chi phí vốn đầu tư,
chưa đề cập nhân tố lạm phát...
- Phương pháp thẩm định cũ nghiên cứu dự án đầu tư ở trạng thái tĩnh
bằng các chỉ tiêu, các con số gộp, tổng cộng, chưa chú ý trạng thái động như
quá trình diễn biến của dự án và cũng chưa chú ý đến giá trị của tiền tệ theo
thời gian.
Trước thực tế này việc nghiên cứu hoàn thiện phân tích TCDAĐT là rất
cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nội dung chính của việc nghiên cứu
phương pháp thẩm định là hệ thống chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá hiệu quả tài
chính dự án đầu tư. Trong phạm vi luận văn này tôi xin nêu một số vấn đề sau:
Một là: Hiệu quả tài chính cũng như bao loại hiệu quả khác, bản chất
của nó không chỉ được thực hiện trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía cạnh
khác nhau, nó là hệ thống chỉ tiêu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống
chỉ tiêu đó có thể chia làm 3 nhóm. Một nhóm phản ánh khả năng sinh lợi như
doanh thu, lợi nhuận, suất đầu tư... Một nhóm phản ánh mức độ rủi ro của dự
án. Một nhóm phản ánh khả năng hoàn vốn từ dự án như hệ số hoàn vốn, điểm
hoà vốn, tỷ lệ thu hồi nội tại...
- 63 -
Hai là: Sau khi xác định được hệ thống chỉ tiêu cần thiết để thẩm định
tài chính DAĐT vấn đề là tính toán các chỉ tiêu như thế nào:
+ Các chỉ tiêu thẩm định xét cho đến cùng đều được xây dựng, tính
toán trên cơ sở lợi ích của dự án. Khi tính toán phải tính đủ các yếu tố cấu
thành nên cho mọi loại hình dự án cũng như cho cả các dự án đặc thù.
+ Cuối cùng việc vận dụng tính toán các chỉ tiêu không thể không chú ý
đến tính khả thi. Tiêu điểm của vấn đề là dữ liệu. Các yếu tố cấu thành chỉ
tiêu, phương pháp tính toán chỉ tiêu phải đảm bảo dựa trên cơ sở những số
liệu có thể thu thập được trong, ngoài dự án hoặc dự kiến một cách tương đối
chính xác trong thực tế như giá cả, sản lượng, lãi suất...
Ba là: Mặc dù hệ thống chỉ tiêu cũng như cách tính toán là nội dung
chính của thẩm định TCDAĐT nhưng điều cuối cùng là phải có phương pháp
đánh giá, nhìn nhận để có kết luận xác đáng từ việc phân tích trên. Mỗi chỉ
tiêu sẽ có vai trò quan trọng khác nhau chút ít trong từng loại hình dự án. Nói
cách khác căn cứ vào từng loại hình dự án mà xem chỉ tiêu nào là quan trọng
hơn. Ví dụ như một dự án dài hạn mang lại lợi ích to lớn về mặt xã hội thì
NPV không dương vẫn có thể cho vay.
3- Trú trọng phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay:
Đứng trên giác độ Ngân hàng trước các quyết định cho vay trung, dài
hạn theo tôi cần quan tâm phân tích các chỉ tiêu tài chính sau:
a. Xem xét các chỉ tiêu về cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn gốc và
cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh
toán dài hạn của doanh nghiệp (DN), các DN thường muốn sử dụng vốn tự có
ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất vì nếu DN chỉ góp một phần nhỏ
trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho
vay gánh chịu. Trong khi đó DN nắm phần lợi rõ rệt vì chỉ bỏ ra một số vốn ít
nhưng lại được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn mà không phải chia sẻ
quyền kiểm soát. Đặc biệt khi mà hoạt động của DN đang phát triển lãi thu
được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, thì DN càng vay càng hiệu quả và
khi đó rủi ro đến với người cho vay càng lớn.
Ngân hàng luôn muốn mở rộng cho vay nhất là với các DN kinh doanh
có hiệu quả song nếu cho vay quá nhiều ngân hàng sẽ trở thành người đỡ đòn
rủi ro cho DN. Do đó khi phân tích ngân hàng cần quan tâm đến cơ cấu vốn
của DN.
*Tỷ số nợ = Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của DN
- 64 -
Hoặc
* Tỷ số tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn của DN
Tỷ số này cho biết tổng số vốn của DN chiếm bao nhiêu trong tổng số
vốn mà DN đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng lớn càng tốt, càng
có sự bảo đảm cao cho các khoản nợ, nhất là khi DN bị đặt vào tình trạng
thanh lý tài sản thì vốn tự có này để bù đắp phần thiếu hụt phát sinh khi
chuyển nhượng tài sản.
* Tỷ số nợ dài hạn = Số nợ dài hạn/Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ số này cao phản ánh DN phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc
vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì an toàn trong đầu tư càng giảm. Theo
kinh nghiệm ở một số nước, người cho vay chỉ chấp nhận tỷ số này < 1. Nghĩa
là tỷ số này càng gần 1 DN càng ít khả năng được vay vốn dài hạn.
* Tỷ số tài trợ TSCĐ = Nguồn vốn dài hạn/Giá trị TSCĐ
Tỷ số này luôn phải lớn hơn 1 mới mang lại cho DN sự ổn định và an
toàn tài chính. Tỷ số này nhỏ hơn 1 có nghĩa DN đang dùng nguồn vốn ngắn
hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của DN không bình thường, việc
cho DN vay vốn đầu tư lúc này là quá mạo hiểm.
b. Xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp
Khả năng sinh lời là yếu tố chính đo độ bền kinh tế và tài chính của
DN, là điều kiện cho sự phát triển trong tương lai của DN. Không có sinh lời
hoặc khả năng sinh lời thấp DN không thể tồn tại và phát triển, đồng thời khả
năng sinh lời là một trong các nguồn trả nợ chính cho các khoản vay dài hạn.
Vì vậy ngân hàng luôn quan tâm đến chỉ tiêu này.
Khả năng sinh lời của DN được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu. Có thể
xem 3 chỉ tiêu chính sau:
* Tỷ suất lợi nhuận Lợi tức sau thuế
doanh thu Doanh thu thuần
* Tỷ suất lợi nhuận Lợi tức sau thuế + Lãi phải trả về tiền vay
tổng tài sản Tổng tài sản
* Tỷ lệ sinh lời của Lợi tức sau thuế + Trả lãi tiền vay
nguồn vốn dài hạn Tổng tài sản
- 65 -
Nếu như tỷ suất lợi nhuận doanh thu đo lường hiệu quả hoạt động
chung của doanh nghiệp thì tỷ suát lợi nhuận tổng tài sản đo lường thành tựu
của doanh nghiệp trong sử dụng tài sản để sáng tạo ra thu nhập một cách độc
lập với những hoạt động tài trợ cho những tài sản đó, còn tỷ lệ sinh lời của
vốn thường xuyên cho thấy khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thì rủi ro mất khả
năng chi trả càng thấp.
Để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn có thể được xem
xétt qua các tỷ số sau:
* Khả năng hoàn trả Vay dài hạn
nợ vay Khả năng tự tài trợ
Vì nguồn vốn trả nợ dài hạn là khả năng tự tài trợ (Lợi nhuận + khấu hao). Tỷ
số này nêu lên thời hạn lý thuyết tối thiểu cần thiết để hoàn trả toàn bộ vốn
vay. Tỷ số này càng nhỏ càng tốt.
* Khả năng Lợi tức trước thuế + Lãi phải trả về nợ dài hạn
thanh toán lãi Lãi phải trả về nợ dài hạn
Tỷ số này thường được tính để đánh giá độ an toàn của việc hoàn trả
nợ. Số tiền thu được trước khi trả lãi lợi tức và các khoản tiền lãi cố định là số
tiền để sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay dài hạn. Thông
thường khả năng thanh toán lãi được xem là an toàn, hợp lý nếu doanh nghiệp
tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm.
Trên đây là một số chỉ tiêu tính toán nhưng cũng như khi ta thẩm định
tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là tính chính xác của số liệu. Cái khó
ở đây là cơ sở của số liệu lấy từ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhưng
báo cáo chỉ phản ánh các sự kiện tài chính trong quá khứ trong khi ta lại quan
tâm nhiều hơn đến tình hình tài chính tương lai của doanh nghiệp. Đó là chưa
nói đến một số doanh nghiệp còn vì lợi ích riêng của mình mà đưa những
thông tin sai vào báo cáo. Do vậy để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi trình
độ của cán bộ tín dụng phải được nâng cao rất nhiều.
4- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn:
Thực tế hoạt động những năm vừa qua công tác huy động vốn ở chi
nhánh có nhiều chuyển biến tích cực, vốn huy dộng có thời hạn trên một năm
ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Năm 1999, 2000 nguồn vốn tự huy động đã đáp
ứng được 100% nhu cầu vốn lưu động, vốn trung hạn bằng VNĐ và một phần
vốn cho dài hạn. Để có nguồn vốn tương đối ổn dịnh phục vụ sự nghiệp công
- 66 -
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách huy động vốn của chi nhánh
phải khắc phục một số điểm sau:
- Thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng, gửi tiền vào ngân hàng của đại
bộ phận dân cư chưa hình thành một cách phổ biến. Ngay cả dân cư thành thị,
hoạt động ngân hàng còn xa lạ với họ.
- Mạng lưới ngân hàng còn mỏng, các hình thức huy động vốn chưa đa
dạng, chưa phong phú, chưa linh hoạt theo nhu cầu sử dụng và khả năng của
từng bộ phận vốn nhàn rỗi.
Để có thể tiến tới đảm bảo cho toàn bộ nhu cầu vốn trung, dài hạn (cả
bằng VNĐ và USD) chi nhánh thanh hoá chú trọng phát triển các phương thức
huy động đã có như tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm trên một năm, kỳ phiếu ngân
hàng, trái phiếu ngân hàng... Đồng thời tiến hành đẩy mạnh huy động nguồn
vốn ngắn hạn (có số dư tăng và ổn định) để dành một tỷ lệ cho vay trung và
dàI hạn bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động với các điều kiện, lãi
suất linh hoạt phù hợp với từng nhóm đối tượng khách hàng, với tính chất của
các bộ phận vốn nhàn rỗi trong dân cư. Đổi mới triệt để phong cách phục vụ,
xử lý nhanh chóng, chính xác, với giá dịch vụ thấp để cạnh tranh với các ngân
hàng khác trên địa bàn để duy trì và mở rộng nguồn vốn tiền gửi của các
doanh nghiệp và dân cư.
Chuẩn bị các tiền đề, các điều kiện để sớm tham gia vào thị trường
chứng khoán, tăng khả năng huy động vốn từ nền kinh tế
5- Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng các công việc
từ khâu hoạch định chủ trương, chính sách, đến việc thẩm định dự án, phân
tích tài chính doanh nghiệp, ra quyết định đầu tư, kiểm tra sử dụng vốn vay,
thu nợ... Thực tiễn cho thấy ngoài những yéu tố khách quan đem lại sự thành
công hay thất bại của dự án đều có nhân tố chủ quan của con người với tư
cách là chủ thể của các mối quan hệ kinh tế. Đương nhiên ngoài yếu tố chủ
quan cố ý vì mục đích tư lợi cũng có yếu tố do trình độ khả năng bất cập
không thể hoặc chưa thể làm được.
Để có được những cán bộ ngân hàng vừa có "tâm" vừa có "tầm" chi
nhánh phải coi trọng việc đào tạo và đào tạo lại lực lượng CB ngân hàng là rất
cần thiết và cần đặt ra những tiêu chuẩn CB như sau:
- Cán bộ ngân hàng phải có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định
với mục tiêu phát triển của ngân hàng đề ra. Mọi cán bộ ngân hàng phải nhận
thức đầy đủ vị trí, vai trò của mình trong từng lĩnh vực công tác cụ thể, luôn
nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức kỷ luật tốt, liêm khiết.
- 67 -
- Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, nắm bắt kịp thời
các chủ trương, chính sách của Nhà nước, ngành, địa phương; biết vận dụng
linh hoạt, sáng tạo lý luận đã học vào thực tiễn trong khuôn khổ cho phép của
pháp luật. Không ngừng tự trau dồi kiến thức qua văn bản nghiệp vụ của
ngành, chi nhánh, sách báo... Để từ đó có sự cập nhật những thông tin liên
quan đến hoạt động của ngân hàng. Nếu không làm được những điều này cán
bộ ngân hàng sẽ không kiểm soát được chất lượng công tác mà mình đảm
nhận.
Như vậy ở những vị trí khác nhau những người làm công tác tín dụng
cần có thêm những tiêu chuẩn cụ thể sau:
* Đối với cán bộ xây dựng chiến lược về tín dụng:
- Trước hết phải là người có trình độ lý luận về nghiệp vụ ngân hàng
vững vàng, ngoài ra phải là người có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương
pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, có
khả năng tổng hợp phán đoán tốt và phải có khả năng dự báo. Từ đó có thể
xây dựng chiến lược tín dụng phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi.
- Am hiểu pháp luật vì hoạt động tín dụng liên quan đến hầu hết các
ngành thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy cũng liên quan đến hầu hết các
ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Đảm bảo hệ thống
chính sách tín dụng không chồng chéo, các quy định phù hợp với hệ thông
luật pháp.
- Phải có có kiến thức ngoại ngữ, tin học vì đây là cơ sở, phương tiện để
tiếp xúc, nắm bắt nhanh nhạy những sự kiện kinh tế mới phát sinh, để lường
trước những biến động trong tương lai. Ngoài ra phải am hiểu về marketing
ngân hàng, tuy đây là lĩnh vực khá mới mẻ ở nước ta, nhưng có như vậy chính
sách tín dụng mới khai thác được triệt để khách hàng hiện có và có chiến lược
khai thác khách hàng tiềm năng.
* Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng:
Đây là bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đến những phán
quyết tín dụng của chi nhánh. Do vậy, ngoài việc được đào tạo cơ bản về
nghiệp vụ ngân hàng, chấp hành nghiêm túc trình tự tác nghiệp tín dụng, họ
cần có thêm những tiêu chuẩn sau:
- Am hiểu sâu sắc tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Có khả năng dự báo xu hướng phát triển, hoặc phát hiện những rủi ro
tiềm ẩn từ khoản vay, từ chính doanh nghiệp. Từ đó tham mưu kịp thời cho
lãnh đạo hướng xử lý cụ thể.
- 68 -
- Có những hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, pháp luật để tránh
tình trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ doanh nghiệp
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
- Phải có trình độ ngoại ngữ, tin học nhất định vì với xu hướng phát
triển của xã hội, thì việc cập nhật thông tin mới là vô cùng quan trọng, nó là
cơ sở ban đầu cho mọi phán quyết tín dụng. Hơn nữa, ngày càng nhiều nghiệp
vụ tín dụng liên quan đến các công ty, ngân hàng nước ngoài do vậy nhu cầu
sử dụng thành thạo máy vi tính, biết giao dịch bằng một ngoại ngữ ngày càng
trở nên bức thiết.
- Chi nhánh nên có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ với những nội dung cơ
bản như: Nghiệp vụ, pháp luật, tin học, ngoại ngữ... và định kỳ đánh giá nhận
xét cán bộ qua đó để phân loại, xắp xếp lại cán bộ. Những cán bộ tín dụng nào
không đủ tiêu chuẩn sẽ bố trí cho làm công tác khác. Cùng với việc phân loại
cán bộ ngân hàng nên xây dựng chế độ thưởng, phạt công minh nhằm gắn liền
lợi ích vật chất với công việc được giao, nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín
dụng.
6- Phát triển hệ thống thông tin:
Trong thời đại ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - tin học, con người có thể khai thác
được lượng thông tin vô tận trong thời gian gần như tức thời để phục vụ, hỗ
trợ cho mục tiêu hoạt động của mình. Vì vậy nếu không có sự đầu tư quan tâm
thích đáng đến công nghệ đầu tư thông tin - tin học thì ngân hàng sẽ rất bất lợi
trong cạnh tranh khi môi trường kinh doanh ngày càng được mở rộng và trở
nên thống nhất.
Những năm gần đây, ban lãnh đạo ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
nam đã giành sự quan tâm đặc biệt cho đầu tư, ứng dụng tin học phục vụ hoạt
động của ngành và coi đây là một trong những biện pháp đột phá để tăng khả
năng cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và ngày càng khẳng định vị thế của ngân
hàng. Tuy nhiên ứng dụng tin học mới chủ yếu để phục vụ công tác thanh
toán, kế toán, lưu trữ số liệu hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà chưa
quan tâm đúng mức đến những thông tin phục vụ tín dụng.
Như trên đã nêu tầm quan trọng của thẩm định dự án, phân tích tài
chính doanh nghiệp mà trong đó thông tin chính xác là nền tảng của mọi phân
tích, đánh giá. Trong tình hình trên việc ngân hàng tự xây dựng cho mình một
hệ thống thông tin quản lý, lưu trữ và dự báo riêng là rất cần thiết. Điều đó
cho phép ngân hàng có được nguồn thông tin tin cậy, nhanh chóng, do tự
mình xây dựng, kết hợp các thông tin nhiều chiều khác để trợ giúp, phục vụ
kịp thời yêu cầu công việc. Đây thực chất là hoạt động tổng kết trên diện rộng
quá trình thực hiện đầu tư.
- 69 -
Nội dung: Hệ thống thông tin này phải được tiến hành thống nhất trong toàn
hệ thống ngân hàng đầu tư. Tất cả cán bộ tín dụng đều có nhiệm vụ cập nhật
thông tin vào mạng theo những tiêu thức thống nhất về tất cả các dự án, khách
hàng ngân hàng đã thẩm định. Trước khi cho vay một dự án mới, cán bộ tín
dụng chi nhánh có thể truy nhập vào hệ thống bất cứ lúc nào và đều có được
thông tin cơ bản như Chủ trương đầu tư hiện tại của Nhà nước, của ngành,
các chỉ tiêu, thước đo, suất đầu tư, thiết bị, công nghệ, khả năng cung cấp
nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giá thành
các sản phẩm hiện tại, giá bán, so sánh với hàng nhập khẩu...
III/ Kiến nghị
Từ chỗ đầu tư tín dụng theo kế hoạch Nhà nước cho khách hàng là
doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu không có tài sản thế chấp và không có vốn
tự có tham gia vào dự án chuyển sang việc đầu tư cho vay phải có tài sản làm
đảm bảo, có bảo lãnh của bên thứ 3 và có vốn tự có tham gia vào dự án 50%
(NĐ178/1999/NĐ-CP) mặc dù giả pháp của chính phủ cuối năm 2000 quy
định tỷ lệ này là 30% và việc tổ chức TD cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản thế chấp theo quy định của chính phủ. Với thực trạng doanh nghiệp hiện
nay vốn tự có rất thấp, tình hình SXKD khó khăn nên việc thực hiện đầu tư
cho dự án rất khó khăn, hơn nữa việc thực hiên quy định đảm bảo tiền vay của
chính phủ khó thực hiện được. Từ những lý do trên và những tồn tại rút ra từ
hoạt động tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh
Hoá, tôi xin kiến nghị như sau:
1. Đối với Nhà nước:
- Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt
động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp.
ở nước ta Luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng mới ra
đời là sự cần thiết khách quan, nhưng việc đưa luật vào cuộc sống đòi hỏi
phải có sự linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Các văn bản
dưới luật cần phải được ban hành đầy đủ và đồng bộ từng bước phù hợp với
thực tế nền kinh tế trong từng thời kỳ, không thể áp dụng một cách máy móc -
nó không những không thúc đẩy sự phát triển mà còn gây cản trở cho sự phát
triển. Trước mắt cần ban hành luật kiểm toán để làm cơ sở cho việc nghiên
cứu đánh giá tài chính doanh nghiệp một cách chính xác; luật về thé chấp tài
sản... Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lý
cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động ổn định, mặt khác đảm
bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
- Nhà nước phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nghĩa là
Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phảt triển kinh tế, hướng đầu tư một
- 70 -
cách ổn định, lâu dài, ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát
ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Đây là điều kiện để ổn
định giá trị tiền tệ, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản
xuất. Trên cơ sở đó đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
- Chính phủ cần có thái độ rứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp, chỉ
để lại các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thực sự cần thiết cho quốc tế dân
sinh nhằm tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm, hiệu quả. Đồng thời chỉ đạo
các ngành, các cấp có trách nhiệm cấp đủ vốn tự có cho các doanh nghiệp này
để nó có đủ khả năng cạnh tranh và vay vốn ngân hàng. Bên cạnh việc sắp xếp
lại doanh nghiệp Nhà nước phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn, có nhiều cơ hội đầu tư
nâng cao công suất thiết bị, mở rộng môi trường kinh doanh.
Chính phủ nhanh chóng đánh giá tình hình hoạt động của thị trường
chứng khoán trong thời gian qua, khắc phục những tồn tại, hạn chế để thị
trường này hoạt động có hiệu quả. Bởi vì sự hoạt động của thị trường này sẽ
đem lại tính lỏng cao cho các khoản đầu tư của Ngân hàng cũng như doanh
nghiệp. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là nơi cung cấp dồi dào
nguồn vốn cho tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng và của doanh nghiệp.
2. Đối với với địa phương:
- Trong thời gian tới UBND tỉnh cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại
các doanh nghiệp Nhà nước theo định hướng của chính phủ.
- Chủ trương của Chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là
rất đúng đắn, song việc cổ phần hoá hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
diễn ra rất chậm do nhiều lý do. Đề nghị UBND tỉnh cần phải tăng cường chỉ
đạo và có biện pháp thực hiện tốt hơn nữa. Vì đây là tiền đề tạo ra "hàng hoá"
giúp các doanh nghiệp trao đổi và thu hút thị trường vốn, đồng thời giúp các
doanh nghiệp này sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trong việc cho vay
chiết khấu các chứng từ có giá, an tâm trong đầu tư qua đó nâng cao được chất
lượng tín dụng.
- UBND tỉnh khoanh nợ cho các DN lỗ từ trước đồng thời cấp đủ vốn
lưu động cho các các dự án đầu tư mà Ngân hàng ĐT và PT đã đầu tư.
- UBND Tỉnh chỉ đạo các ngành chấp hành đúng trình tự xây dựng cơ
bản. Ngân hàng đầu tư phải là thành viên chính thức của Hội đồng thẩm định
dự án của Tỉnh nhất là các dự án có vay vốn tín dụng, đồng thời chỉ đạo các
ngành nên phố hợp chặt chẽ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá
trong việc xây dựng chủ trương đầu tư của tỉnh để giúp Ngân hàng chủ động
trong việc tham gia đầu tư tín dụng.
- 71 -
- Để ghi các dự án vào kế hoạch đầu tư hàng năm, tỉnh cần phải có qui
hoạch phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế một cách kỹ càng,
một mặt vừa đảm bảo đầu tư đúng hướng khai thác được tiềm năng thế mạnh
của địa phương, mặt khác cần chú ý về cơ cấu đầu tư theo ngành và đảm bảo
hiệu quả. Tránh tình trạng đầu tư tràn lan dẫn đến sau đầu tư không có thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
- Có chính sách hỗ trợ về vốn cụ thể, kịp thời cho các doanh nghiệp
được hình thành và phát triển từ nguồn vốn vay tín dụng.
3. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam:
- Có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ tín dụng qua
các đợt học tập tập trung ngắn hạn về từng chuyên đề cụ thể như thẩm định dự
án, phân tích tài chính doanh nghiệp, các văn bản luật liên quan đến ngân
hàng.
- Nâng mức uỷ nhiệm trong việc giải quyết cho vay trung, dài hạn ở chi
nhánh, qua đó nâng cao hơn trách nhiệm và tạo chủ động linh hoạt cho chi
nhánh giải quyết
- Xây dựng hệ thống thông tin toàn ngành qua mạng phục vụ công tác thẩm
định dự án .
- Xây dựng hệ thống các tiêu thức để phân loại, đánh giá khách hàng
theo từng ngành kinh tế thống nhất. Căn cứ vào đó các chi nhánh xây dựng
chiến lược khách hàng phục vụ nhu cầu kinh doanh của mình.
4. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá:
- Nâng cao hơn nữa vai trò tư vấn của ngân hàng trong lĩnh vực thẩm
định dự án. Từ đó có thể tìm kiếm các dự án có hiệu quả để cho vay.
- Chủ động nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng qua việc học các văn
bản, chế độ mới ban hành vào các chiều thứ 5 hàng tuần.
- Trong thời gian tới trong khi chờ ngân hàng Trung ương thiết lập và
triển khai hệ thống thông tin toàn ngành Ngân hàng Thanh hoá cần đặc biệt
chú ý tới công tác thông tin và công tác marketing Ngân hàng. Trong đó công
tác thông tin cần phải chú ý tới quá trình thu nhập thông tin, xử lý thông tin
(thông tin thực sự có chất lượng).
- 72 -
Kết luận
Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói
riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của
ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín
dụng trung, dài hạn là một vần đề đòi hỏi phaỉ thường xuyên và thực hiện
nghiêm túc.
Qua nghiên cứu về công tác tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Thanh Hoá trong giai đoạn 1996-2000 và để có cơ sở đánh giá
đúng hoạt động tín dụng trung, dài hạn, bản luận văn này đã nêu tóm tắt khái
quát về lý luận có liên quan đến hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế thị trưòng, đồng thời đánh giá thực trạng
tín dụng trung, dài hạn trong 5 năm qua và rút ra những mặt được, chưa được
tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá. Nội dung chủ yếu đi sâu phân
tích công tác thẩm định dự án, việc chấp hành qui trình tín dụng cho vay, thu
nợ đối với tín dụng trung, dài hạn.
Tuy nhiên mặt được rất nhiều, song cũng còn những tồn tại khó khăn
không chỉ do chi nhánh mà còn liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Với
kiến thức đã được trang bị ở trường và qua tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một
số giải pháp và đề xuất kiến nghị mong muốn sẽ góp phần giải quyết những
vấn đề đang đặt ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với
ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh
Hoá nói riêng.
- 73 -
Mục lục
Chương I:
Đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế
Trang
I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư: 3
1. Vai trò của đầu tư 3
2. Đặc trưng của đầu tư 4
II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền
kinh tế
5
1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 5
2. Tín dụng và các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của
các Ngân hàng thương mại
5
3. Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng TM đối với nền kinh tế 8
4. Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng 9
III/ Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại 10
1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của
ngân hàng thương mại
10
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của
NHTM
11
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn 13
IV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín
dụng trung, dài hạn.
15
1. Những quy định chung về cho vay trung, dài hạn 15
2. Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển
17
Chương II:
thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại ngân hàng
đầu tư và phát triển thanh hoá
I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá 20
1. Những thuận lợi trong thời gian tới 20
2. Khó khăn 20
II/ Về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát
triển Thanh Hoá.
21
1. Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá 21
2. Kết quả hoạt động kinh doanh 5 năm của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thanh hoá (từ 1996-2000)
22
III/ Thực trạng công tác tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá
25
1. Thực hiện qui trình thẩm định 25
- 74 -
2. Tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các dự án 39
IV/ Những kết quả và tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài
hạn tại Ngân hàng ĐT và PT Thanh Hoá
47
1. Những kết quả đạt được 47
2. Một số khó khăn tồn tại 50
Chương III:
GiảI pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dàI hạn tại ngân hàng đt và pt thanh
hoá
I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ĐT và PT về tín
dụng trung, dài hạn
55
II/ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn 56
1. Xác định tính chiến lược của chính sách tín dụng trung, dài hạn 56
2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án 57
3. Phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi cho vay 59
4. Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn 61
5. Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng 62
6. Phát triển hệ thống thông tin 64
III/ Kiến nghị 64
1. Đối với Nhà nước 65
2. Đối với địa phương 66
3. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam 66
4. Đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá 67
Kết luận 68
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp.pdf