Lời mở đầu
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là không ít những tệ nạn xã hội như: ma túy , mại dâm, HIV/ASDI, cờ bạc , rượu chè .Buôn bán người cũng là một trong những vấn nạn đó. Nạn Buôn bán người đang diễn ra rất phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tệ nan này gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển xã hội nói chung và từng cá nhân nói riêng. Một số nước nạn buôn người đang hoành hành như : Ma Cao, Hồng Kong, Trung Quốc , Đài Loan Việt Nam đang trở thành điểm nóng của tệ nạn này. Ở Việt Nam Buôn bán người mới phát triển trong vài năm gần đây nhưng hậu quả của nó để lại thì vô cùng nặng nề. Nạn buôn bán người gia tăng nhanh chóng , diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống chính sách của nhà nước ta nhằm đảm bảo An sinh xã hội. Hiện nay nhiều người rất quan tâm đến vấn nạn này vì mọi người không ai nói trước được rằng liệu mình sẽ không phải là nạn nhân tiếp theo của nạn Buôn bán người. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm nhằm giảm thiểu tối đa nhất sự phát triển của tệ nạn đáng sợ này.
Bắc ninh là một vùng quê giàu truyền thống văn hóa ,mang đậm chất làng quê Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của guồng máy kinh tế kéo theo nhiều cái được của một xã hội phát triển làm thay da đổi thịt bộ mặt của tỉnh nhà, kéo theo đó cũng là những tệ nạn làm đau đàu nhà quản lý. Mấy năm gần đây , Bắc Ninh được đánh giá là một trong những tỉnh có thu nhập bình quân cao nhất cả nước. Nạn buôn bán người cũng theo đó mà ngày càng phát triển ngoài tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Vì vậy em chọn chủ đề
“ Tỉnh Bắc Ninh buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng . Thực trạng và giải pháp”
MỤC LỤC
Lời mở đầu. 1
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chuyên đề buôn bán người : “Tỉnh Bắc Ninh, buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng . Thực trạng và giải pháp”. 3
1. Cơ sở lý luận. 3
1.1. Khái niệm và khái niệm liên quan. 3
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề buôn bán người hiện nay 4
2. Cơ sở thực tiễn của nạn BBN “ Tỉnh Bắc Ninh buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng. Thực trạng và giải pháp”. 6
2.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội ảnh hưởng đến nạn buôn bán phụ nữ ở tỉnh Bắc Ninh. 6
2.2. Công tác đấu tranh phòng ngừa BBPN ở tỉnh Bắc Ninh. 9
II. Thực trạng BBPN và công tác đấu tranh phòng ngừa BBPN tỉnh Bắc Ninh 12
A. Tình hình BBPN trong cả nước. 12
B. Thực trạng BBPN và công tác phòng ngừa BBPN tỉnh Bắc Ninh. 17
1. Quy mô , mức độ nạn BBPN tỉnh Bắc Ninh. 17
1.1.Số lượng. 17
1.2. Đời sống vật chất tinh thần của những phụ nữ bị buôn bán trở về 20
2. Thực trạng công tác phòng chống nạn BBPN ở tỉnh Bắc Ninh. 22
2.1. Biện pháp đấu tranh chống BBPN ở tỉnh Bắc Ninh. 22
2.2. Công tác hỗ trợ PN bị buôn bán trở về ở tỉnh Bắc Ninh. 24
3. Đánh giá. 26
III. Một số biện pháp và khuyến nghị trong phòng chống BBPN ở tỉnh Bắc Ninh. 28
1. Một số biện pháp. 28
2. Khuyến nghị. 32
Kết luận. 34
Danh mục từ viết tắt 35
Danh mục tài liệu tham khảo. 36
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3514 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tỉnh Bắc Ninh buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là không ít những tệ nạn xã hội như: ma túy , mại dâm, HIV/ASDI, cờ bạc , rượu chè….Buôn bán người cũng là một trong những vấn nạn đó. Nạn Buôn bán người đang diễn ra rất phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tệ nan này gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển xã hội nói chung và từng cá nhân nói riêng. Một số nước nạn buôn người đang hoành hành như : Ma Cao, Hồng Kong, Trung Quốc , Đài Loan… Việt Nam đang trở thành điểm nóng của tệ nạn này. Ở Việt Nam Buôn bán người mới phát triển trong vài năm gần đây nhưng hậu quả của nó để lại thì vô cùng nặng nề. Nạn buôn bán người gia tăng nhanh chóng , diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống chính sách của nhà nước ta nhằm đảm bảo An sinh xã hội. Hiện nay nhiều người rất quan tâm đến vấn nạn này vì mọi người không ai nói trước được rằng liệu mình sẽ không phải là nạn nhân tiếp theo của nạn Buôn bán người. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm nhằm giảm thiểu tối đa nhất sự phát triển của tệ nạn đáng sợ này.
Bắc ninh là một vùng quê giàu truyền thống văn hóa ,mang đậm chất làng quê Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của guồng máy kinh tế kéo theo nhiều cái được của một xã hội phát triển làm thay da đổi thịt bộ mặt của tỉnh nhà, kéo theo đó cũng là những tệ nạn làm đau đàu nhà quản lý. Mấy năm gần đây , Bắc Ninh được đánh giá là một trong những tỉnh có thu nhập bình quân cao nhất cả nước. Nạn buôn bán người cũng theo đó mà ngày càng phát triển ngoài tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Vì vậy em chọn chủ đề
“ Tỉnh Bắc Ninh buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng . Thực trạng và giải pháp”
Em mong rằng bài viết này sẽ làm sáng rõ hơn tệ nạn buôn bán người trong cả nước. Vì thời gian có hạn nên bài viết của em còn nhiều hạn chế, em mong nhận được ý kiến đóng góp của cô cùng các bạn làm hoàn thiện hơn chuyên đề buôn bán người.
Em xin chân thành cảm ơn giảng viên khoa công tác xã hội Th.s Bùi Thị Chớm đã hướng dẫn em làm chuyên đề này.
Sinh viên thựchiện
Ngô Thị Thảo
Lớp Đ2CT2
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chuyên đề buôn bán người : “Tỉnh Bắc Ninh, buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng . Thực trạng và giải pháp”
Cơ sở lý luận
Khái niệm và khái niệm liên quan
* Buôn bán người
Theo Liên Hợp Quốc là các hành vi bao gồm : vận chuyển, tuyển dụng, che giấu hoặc gián tiếp nhận người bằng cách sử dụng, đe dọa bằng bạo lực hay bằng các hình thức khác nhau như : ép buộc, bắt cóc , lừa gạt bằng cách lợi dụng quyền lực hay lạm dụng hoàn cảnh của đối tượng , đưa hoặc nhận một khoản tiền hoặc lợi ích vật chất khác để đạt quyền kiểm soát người khác nhằm mục đích bóc lột
* Buôn lậu người
Là sự vận chuyển người với sự đồng ý của họ sang một nước khác, thông qua hình thức bất hợp pháp nhưng đạt được những khoản tiền và lợi ích vật chất khác
*Di cư
Là hình thức cá nhân di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nông thôn đến thành thị, nước giàu sang nước nghèo. Vì mục đích kinh tế - chính trị - xã hội - văn hóa. Có thể là bất hợp pháp hoặc hợp pháp
*Hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân có dấu hiệu sau : giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau nhưng thường chú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau nhưng thực hiện ở nước ngoài và liên quan đến luật pháp nước ngoài
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề buôn bán người hiện nay
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến nạn buôn bán người hiện nay, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nan là nhà nước pháp quyền của dân , do dân , vì dân. Vì thế cho nên việc buôn bán người là hành vi vi phạm nghiêm trọng vào quyền con người “ công dân Việt Nam bất khả xâm phạm , mọi người đều được tôn trọng. Nhà nước bảo vệ tính mạng , tài sản , danh dự cho mọi công dân”. Chính vì lý do trên nhà nước ta đã ban hành nhiều điều luật nhằm bảo vệ mọi người dân Việt Nam. Vấn đề phòng chống tội phạm buôn bán PNTE đã được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em ngày 14-7-2004, và đến nay đã bước vào giai đoạn 2 (2007-2010). Có thể nói chính phủ Việt Nam đã có những chương trình kịp thời nhằm ngăn chặn tệ nạn này trong cả nước. Ban chỉ đạo có những hành động thiết thực nhằm giảm thiểu nhất nạn buôn bán PNTE. Nhà nước đã nêu rõ “BBN là tội ác lớn thứ hai sau tội buôn bán ma túy”. Nói như vậy phải thấy rằng nhà nước ta vô cùng coi trọng phụ nữ và trẻ em, thể hiện quan điểm rõ ràng lên án nạn buôn bán PNTE nói riêng và buôn người nói chung.
Theo quan điểm của Đảng ta là “ Phòng hơn chống” , cũng như quan điểm “ Phòng bệnh hơn chữa bệnh” : phòng ngừa là biện pháp cơ bản nhất. Đây là quan điểm vô cùng đúng đắn của Đảng ta, nước ta còn nghèo, kinh tế còn khó khăn , việc chữa trị bệnh gì đó sẽ tốn kém hơn rất nhiều lần so với việc phòng bệnh. Một khi đã là nạn nhân của BBN thì hậu quả để lại là vô cùng nặng nề không chỉ đối với cá nhân người bị buôn bán mà ảnh hưởng tới toàn gia đình , trở thành gánh nặng cho xã hội. Thử lấy một ví dụ nhỏ như kinh phí bỏ ra để đưa một phụ nữ bị buôn bán trở lại cộng đồng sẽ là bao nhiêu so với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân không trở thành nạn nhân của bọn buôn người. Đây cũng là một trong những biện pháp được nhà nước ưu tiên sử dụng nhằm tiết kiệm chi phí và hiệu quả cao. Nhớ lại vài năm trước đây khi được hỏi người dân đa phần đều không biết BBN là gì hoặc chỉ mơ hồ hiểu thì hiện nay những trẻ em cũng đã hiểu và phòng tránh BBN. Như vậy mới thấy hiệu quả của tuyên truyền nâng cao nhận thức đạt hiệu quả đến đâu. Nhà nước ưu tiên việc làm này ngay từ cấp cơ sở nhằm hạn chế tối đa nguy cơ bị buôn bán của mọi công dân. Vì hơn ai hết các nhà lãnh đạo hiểu rằng nạn BBN ảnh hưởng tới nhân phẩm danh dự của người bị buôn bán.
Cụ thể hóa sự quan tâm của nhà nước là những văn bản luật quy định nghiêm ngặt việc xử phạt tội BBN
Điều 19 Bộ Luật Hình Sự quy định tội buôn bán phụ nữ và trẻ em phạt từ 5năm đến 20năm tù tùy vào mức độ tội phạm : như mua bán phụ nữ làm nghề mại dâm, BBN có tổ chức và vi phạm nhiều lần, BBN có tính chuyên nghiệp. Ngoài ra còn bị phạt từ 5 đến 20 triệu đồng. Như vậy là Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến quyền con người , tội phạm vi phạm tội này bị xử phạt rất nặng so với các tội phạm khác. Ngoài ra Đảng và Nhà nước còn có nhiều luật khác về tội BBN cho từng mức và từng loại tội phạm.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này gia tăng ở nước ta trong những năm gần đây là việc nhiều người phụ nữ thông qua những trung tâm ma môi gới hôn nhân trá hình thực chất là một dạng tinh vi của bọn BBN. Nắm bắt được điều này Đảng và Nhà nước đã kịp thời ban hành Nghị Định 62/ 2002 thành lập những trung tâm hỗ trợ kết hôn đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của đông đảo người dân . Nghị Định 62/ 2002 quy định rõ nguyên tắc hoạt động của trung tâm này : trung tâm hoạt động trên nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận , hỗ trợ người có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài… Ngoài ra còn nhiều các quy định khác liên quan đến việc nhận con nuôi, kết hôn…
Tại Hội nghị triển khai chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2007-2010, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã nêu rõ nguy cơ về tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề nghị các cấp chính quyền và các ngành chức năng tăng cường phối hợp để thực hiện tốt chương trình này trong 3 năm tới. Phó Thủ tướng cũng đề nghị 2 ngành Công an và Bộ đội biên phòng tăng cường công tác điều tra khảo sát , cập nhật, bổ sung đầy đủ thông tin vào dữ liệu có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em ở địa phương và tập trung điều tra, khám phá các vụ án phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng xuyên quốc gia thông qua việc tổ chức các đợt cao điểm tấn công tội phạm trên dọc các tuyến biên giới. Thượng tướng Lê Thế Tiệm, Thứ trưởng Bộ Công an, cơ quan được giao thường trực Ban Chỉ đạo 130CP, cho rằng cần thực hiện tốt 2 biện pháp chính: đó là đẩy mạnh công tác truyền thông và đấu tranh trấn áp tội phạm.
Như vậy là , mức độ nghiêm trọng của nạn BBN là vô cùng sâu sắc trong đời sống của người dân. Vì vậy , các ngành các cấp đều trung tay góp sức đẩy lùi tệ nạn BBN.
Nói tóm lại , Đảng và Nhà nước luôn đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu , bảo vệ quyền và lợi ích của mọi công dân Việt Nam. Chính vì vậy mà công tác phòng chống BBN là công tác trọng điểm nhằm đảm bảo sự phát triển của xã hội.
Cơ sở thực tiễn của nạn BBN “ Tỉnh Bắc Ninh buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng. Thực trạng và giải pháp”
Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội ảnh hưởng đến nạn buôn bán phụ nữ ở tỉnh Bắc Ninh.
Từ khi nước ta mở của , hội nhập với thế giới có thể nói bộ mặt đất nước đã được thay đổi. Sự phát triển của nền kinh tế : những khu kinh tế mọc lên , những đô thị phát triển với những nhà cao tầng mọc lên như nấm, đời sống của người dân từng bước được cải thiện. Nhưng bên cạnh đó là những tệ nạn xã hội nảy sinh, BBN là một trong những tệ nạn gia tăng nhanh nhất. Vì đây là hình thức buôn bán siêu lợi nhuận không một ngành nghề nào có thể so sánh được.
Bắc Ninh trong sự phát triển của nền kinh tế , những tệ nạn ngày càng nảy sinh nhiều. Trong đó những yếu tố về điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng không nhỏ tới sự gia tăng của tệ nạn này.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh.
Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế , sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà là vô cùng nhanh chóng , điều này kéo theo sự giao lưu kinh tế giũa các vùng trong khu vực, của khẩu Móng Cái là điểm chung chuyển của bon buôn người, ở đây nhiều ổ mại dâm ngay trong đất trung quốc là nơi những người bị buôn bán tập kết. Từ tỉnh Bắc Ninh sang cửa khẩu này rất gần và thuận lợi khiến cho hoạt động BBPN ngày càng gia tăng. Từ sự trao đổi kinh tế giữa tỉnh Bắc Ninh và những hoạt động văn hóa khác cùng các tỉnh lân cận tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của tệ nạn BBPN.
Tỉnh Bắc Ninh có đường giáp gianh với các tỉnh như :
- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội
- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương
- Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trọng điểm của nạn BBN hoành hành, mà tỉnh Bắc Ninh nằm liền kề cách vài chục km. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho nạn BBPN phát triển. Tuy nhiên, vì nằm liền kề với thủ đô Hà Nội nên thuận lợi cho công tác phòng chống nạn BBPN. Nhiều chính sách của Đảng và Nhà Nước được ưu tiên trong sự trợ giúp đỡ cùng với tỉnh Bắc Ninh
Với vị trí như thế, xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh:
- Nằm trên tuyến đường giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 18, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thuỷ như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá và du khách giao lưu với các tỉnh trong cả nước.
- Gần thủ đô Hà Nội được xem như là một thị trường rộng lớn hàng thứ hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị lịch sử văn hoá... đồng thời là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ... Bắc Ninh cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh sẽ có tác động trực tiếp đến hình thành cơ cấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh về mọi mặt, trong đó đặc biệt thuận lợi cho công tác phòng chống BBPN.
- Là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh là cầu nối giữa Hà Nội và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, trên đường bộ giao lưu chính với Trung Quốc và có vị trí quan trọng đối với an ninh quốc phòng.
Bắc Ninh là một tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi cho nạn BBPN phát triển nhanh chóng.
Bản đồ tự nhiên tỉnh Bắc Ninh
Công tác đấu tranh phòng ngừa BBPN ở tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh có nhiều chương trình hành động thực hiện đấu tranh phòng ngừa BBPN trên địa bàn .
Trước tiên, Đảng ủy và chính quyền tỉnh Bắc Ninh thực hiện có hiệu quả những chính sách nhà nước quy định .
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của nhà nước ta trong phòng chống BBPN đó là “ Phòng ngừa là biện pháp cơ bản nhất” . Có thể thấy rằng công tác tuyên truyền phòng ngừa BBPN là biện pháp đạt hiệu quả cao. Công tác tuyên truyền thông tin nhằm nâng cao nhận thức nhằm phòng ngừa nạn BBPN. Hàng năm tỉnh Bắc Ninh tổ chức những đột tuyên truyền cho mọi người dân thấy được chân dung của kẻ BBPN , các biện pháp tự vệ khi là nạn nhân của chúng. Bằng những tờ rơi , băng rôn khẩu hiệu, những biểu sinh hoạt tập thể đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Những cuộc thi đóng kịch , chiếu phim đã thu hút được rất nhiều chị em phụ nữ tham gia.
Buổi tuyên truyền phòng chống BBPN và TE huyện Khánh Bình tỉnh Bắc Ninh.
Bên cạnh đó công an tỉnh còn tổ chức những buổi hội thảo nói chuyện với người dân về những ảnh hưởng của người bị buôn bán khi trở về cộng đồng sinh sống. Đặc biệt những chị em phụ nữ bị buôn bán trở về bị xã hội khì thị , khó khăn trong việc nhập lại hộ khẩu (nếu đã tách khẩu ra khỏi tỉnh nhà). Hơn nữa , BBPN còn khiến cho gánh nặng xã hội thêm nặng khi mà người bị buôn bán trở về mang trong mình bệnh tật, xã hội phải bỏ ra khoản tiền khám chữa bệnh cũng như giải quyết hậu quả của nạn BBPN. Nhiều chị em khi trở về mang trong mình nỗi sợ hãi , tâm thần bất ổn, cần phải điều trị lâu ngày mà không khỏi. Nhiều chị em mang trong mình căn bệnh thế kỷ khi trở về địa phương được chính quyền hướng dẫn chăm sóc , bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chị em.
Đảng ủy và chính quyền tỉnh Bắc Ninh hướng dẫn việc phòng chống BBPN ngay từ cơ sở. Tất cả các huyện trong tỉnh đều có chi hội phụ nữ phát triển mạnh. Hàng tháng họp định kỳ thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, có tổ chức tìm hiểu về nạn BBPN . Nhiều chi hội tổ chức những cuộc thi về đề tài này thu hút nhiều hội viên tham gia. Từ đó chị em hiểu hơn ai hết tác hại cũng như hậu quả nghiêm trọng mà nạn BBPN để lại , các chị trao đổi học hỏi kinh nghiệm của nhau về phát triển kinh tế ngay tại địa phương mình nhằm hạn chế tối đa cơ hội bọn BBN có dịp tiếp cận . Nhiều làng thực hiện công tác kiểm tra nhân khẩu tam trú ,tạm vắng rất nghiêm ngặt , không tạo ra khe hở để bọn này có dịp lợi dụng.
Nhiều huyện có đội ngũ cộng tác viên làm nhiệm vụ tuyên truyền vận động , kiểm tra , phát hiện nạn BBPN.
Việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, được chính quyền địa phương kiểm duyệt theo đúng quy định của nhà nước. Việc kiểm duyệt nghiêm ngặt những hồ sơ của những chị em muốn kết hôn với người nước ngoài, tránh để kẻ xấu lợi dụng làm bậy. Phối hợp cùng với các ban ngành cấp trên trong việc xác định rõ nhân thân, điều kiện sống , hoàn cảnh của những ông chồng ngoại quốc , nhằm giảm thiểu những hồ sơ lừa .
Đảng ủy , UBND phối hợp với các ban ngành , cơ quan trên địa bàn tỉnh nhằm phối hợp một cách đồng bộ trên địa bàn toàn tỉnh Bắc Ninh, phòng chống BBPN tỉnh nhà.
Nói tóm lại công tác phòng chống BBPN ở tỉnh Bắc Ninh được đặc biệt chú trọng nhằm hạn chế tối đa vấn nạn này trên địa bàn tỉnh.
Thực trạng BBPN và công tác đấu tranh phòng ngừa BBPN tỉnh Bắc Ninh
Tình hình BBPN trong cả nước
Trong bối cảnh đất nước “mở cửa” hội nhập quốc tế, thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạch những mặt thuận lợi thì cũng còn nhiều khó khăn thách thức, nhất là vấn đề liên quan đến phụ nữ và trẻ em, ở đó có phụ nữ, trẻ em (PNTE) đã bị lừa gạt trở thành món hàng trong tay những kẻ trục lợi. Việt Nam hiện đang trở thành điểm nóng của tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em. Vào tháng 6 năm 2005, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa ra báo cáo rằng Việt Nam là một trong những nước cần chú ý vì có tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam sang Trung Quốc, Hongkong, Macao, Malaysia, Đài Loan và Cộng Hoà Czech để làm công việc mãi dâm. Cũng trong năm vừa qua, đã có rất nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức ở Đài Loan cùng những cam kết của các quốc gia trong vùng sông Mêkông để tìm cách ngăn chận nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em Việt nam
Những năm gần đây nạn BBPN diễn ra ngày càng nghiêm trọng, bởi phụ nữ bị buôn bán đa phần đều ở nông thôn ít học thức , nghèo khổ , dễ tin người chưa có những kỹ năng phòng ngừa rủi ro.
Những phụ nữ nạn nhân của nạn BBPN(ảnh minh họa)
Bên cạnh đó nhiều chị em còn chưa bao giờ ra khỏi lũy tre làng thì làm sao nhận ra chân dung của kẻ BBN.
Đa số PN bị lừa bán sang Campuchia là những người dân quê thật thà, chất phác ở vùng sâu, vùng xa, trình độ học vấn thấp, điều kiện kinh tế và hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu việc làm lại nhẹ dạ cả tin nên dễ bị lừa gạt. Phần lớn những vụ này đều do các tổ chức, cá nhân tội phạm trong nước và quốc tế câu kết thực hiện. Họ bị buôn bán, bị bóc lột lao động, xâm hại tình dục và dễ lây nhiễm HIV, sử dụng các chất gây nghiện nguy hiểm... không những thế, sau một thời gian dài bị hành hạ cả thể xác và tâm lý, nhiều người đã phát bệnh tâm thần.
Đây không chỉ là nguyên nhân của những cô gái bị lừa sang Camphuchia mà cũng là tình trạng chung trong cả nước.
Tại Việt Nam, vấn nạn này đang có chiều hướng gia tăng. Những phụ nữ trẻ chưa chồng, trình độ học vấn thấp và hầu như không có thông tin đều là những đối tượng có nguy cơ bị lừa gạt cao. Các nạn nhân thường bị lừa sang Trung Quốc, Campuchia, Đài Loan, Hong Kong, Malaysia và Thái Lan. Hành vi lừa gạt, câu móc của bọn tội phạm rất tinh vi. Ngoài thủ đoạn dụ dỗ phụ nữ đi làm xa, lấy chồng ngoại, bọn lừa đảo còn “sáng tạo” ra những chiêu thức mới như qua hình thức du học, lao động xuất khẩu, du lịch. Điển hình như một trường hợp ở Hải Dương. Nạn nhân được một nhóm người đến giới thiệu, mời chào đi du học. Em gái này không những phải mất hơn 10 triệu đồng để lo lót “thủ tục” mà còn bị bán cho một nhóm người ở Trung Quốc
Những cô gái trẻ nhẹ dạ cả tin , ước mơ được đổi đời là nạn nhân của bon buôn bán người. Phim ảnh về những chân trời mới được hiện ra như những bức tranh tuyệt đẹp thu hút những cô gái trẻ. Hơn thế nữa , nhà nước ta chưa thực sự có những chính sách quản lý chặt chẽ việc học sinh đi du học , pháp luật còn nhiều khe hở khiến bọn BBPN ngày càng phát triển. Lạng Sơn là một trong những điểm nóng của cả nước về tệ nạn này. Tỉnh có năm huyện tiếp giáp với Trung Quốc trên đường biên dài 253 km; với hai cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và Đồng Đăng, hai cửa khẩu quốc gia Chi Ma và Bình Nghi, cộng thêm vô số đường tiểu ngạch dọc vùng biên, là đặc điểm địa lý dẫn đến nguy cơ cao về tệ nạn buôn bán người, khiến Lạng Sơn trở thành tuyến đường trung chuyển buôn bán người sang Trung Quốc. Mặt khác, phần lớn dân số Lạng Sơn là dân tộc thiểu số (Nùng 43% và Tày 36%), có trình độ dân trí thấp nên dễ trở thành nạn nhân của bọn buôn bán người.
Trong 2 năm 2005-2006, cả nước phát hiện 568 vụ, 993 đối tượng phạm tội buôn bán phụ nữ, trẻ em. Trong số 1.518 nạn nhân, số phụ nữ bị lừa bán ở lứa tuổi từ 18 đến 35 chiếm 63(%), trẻ em 22(%), còn lại 15(%) là những đối tượng khác.
Đối tượng bị buôn bán
(%)
Phụ nữ từ 18 đến 35(tuổi)
63
Trẻ em
22
Đối tượng khác
15
Biểu đồ tỷ lệ đối tượng bị buôn bán trong cả nước
Như đã thấy ở biểu đồ trên đối tượng là phụ nữ chiếm tỷ lệ cao nhất sau đó đến trẻ em và những đối tượng khác. Vì sao phụ nữ lại là đối tượng chiếm tỷ lệ cao nhất? Trước tiên có thể kể đến phụ nữ là đối tượng làm nghề mại dâm thu được nhiều lợi nhuận nhất, bọn buôn người chủ yếu kiếm lợi từ những nguồn này. Nhiều phụ nữ tự đi làm rồi không may bị lừa bán, đây là lứa tuổi làm việc hết sức tốt, có sức khỏe , kinh nghiệm , biết chụi đựng …Còn trẻ em thì vận chuyển khó hơn , tốn kém tiền mua hơn , dễ bị cơ quan chức năng chú ý…
Những hình ảnh BBPN
So với năm 2005, số vụ buôn bán PNTE của năm 2006 được phát hiện nhiều hơn 72%; số đối tượng tăng 89% và số người bị hại tăng 138%”-“Từ năm 1998 đến nay (9 năm) cả nước xác định được 33 tuyến, 139 địa bàn trọng điểm thường diễn ra hoạt động buôn bán PNTE ra nước ngoài; đưa vào diện quản lý 2.048 đối tượngvới 654 đối tượng có liên quan, lập danh sách 5746 PNTE bị bán ra nước ngoài; 7940 PNTE vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi đã bị bán.”
Cho đến nay, theo thống kê, có 5746 PNTE được đưa vào danh sách chính thức bị bán ra nước ngoài là ; và 7940 PNTE vắng mặt lâu ngày tại địa phương bị nghi là đã bị bán. Như vậy trên 13.000 mảnh đời PNTE VN đã ghi nhận là nạn nhân của tội ác buôn bán PNTE, đã bị vùi chôn nghiệt ngã trong những địa ngục trần gian mà những người có lương tri không bao giờ có thể tưởng tượng được. Và trong đó bao nhiêu người hiện còn đang sống với nỗi đọa đày xác thân bị vùi dập ngày đêm làm trò tiêu khiển và mang lại lợi nhuận cho những loại người không còn nhân tính; bao nhiêu người đang rên siết trong bệnh hoạn, cô đơn, trong nỗi niềm tuyệt vọng, và bao nhiêu người đã chết dần mòn trong đớn đau tủi nhục….
Đây mới chỉ là những con số được kiểm soát còn nhiều người đang chụi tủi khổ . Trước vấn nạn này nhà nước ta đã có những chính sách nhằm hạn chế nạn BBN đang diễn ra hiện nay. Nạn BBN đang diễn ra ngày càng phức tạp , nguy hiểm, tinh vi ,khó phát hiện.
Ngày 14-7-2004 Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội phạm BBPNTE, Bộ Công an với chức năng là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo, đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ xây dựng và trình Thủ tướng ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình hành động, chống tội phạm buôn bán phụ nữ trẻ em (130/CP) và ban hành quy chế hoạt động, mở hội nghị trên toàn quốc;Thường trực BCĐ 103/CP phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí mở chuyên mục về phòng, chống loại tội phạm này. Qua vận động quần chúng bảo vệ ANTQ, lực lượng Công an và Bộ đội Biên phòng đã tổ chức nhiều buổi sinh hoạt tuyên truyền nâng cao tinh thần cảnh giác, tích cực tham gia phát hiện, tố giác tội phạm BBPNTE. Quần chúng đã cung cấp hàng nghìn nguồn tin giái trị, giúp đấu tranh triệt phá nhiều đường dây tội phạm BBPNTE xuyên quốc gia. Hai năm qua 2005-2006, Tp. Hồ Chí Minh cùng cả nước đã điều tra, khám phá 445 vụ, bắt giữ 790 đối tượng, lập cáo trạng và ra quyết định truy tố 271 vụ, với 468 bị can; xét xử 241 vụ, với 448 bị cáo (đạt 86% số vụ và 83% số bị cáo); trong đó có 58 bị cáo xử phạt tù trên 15 năm. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng chống tội phạm BBPNTE.
Thực trạng BBPN và công tác phòng ngừa BBPN tỉnh Bắc Ninh
Quy mô , mức độ nạn BBPN tỉnh Bắc Ninh.
1.1.Số lượng
Theo thống kê của Sở LĐTBXH tỉnh Bắc Ninh tại địa bàn tỉnh trong 5năm từ 2004- 2008 số lượng phụ nữ bị buôn bán là:
(số lượng : người)
Năm
Lý do bị buôn bán
2004
2005
2006
2007
2008
Đi làm ăn
267
378
256
947
885
Lấy chồng nước ngoài
204
75
947
324
318
Lý do khác
480
453
289
1271
1201
Biểu đồ thể hiện số phụ nữ bị buôn bán ở tỉnh Bắc Ninh từ năm (2004- 2008)
Từ số liệu trên ta nhận thấy số lượng phụ nữ bị buôn bán trong những năm gần đây ngày càng gia tăng nhanh chóng. Riêng năm 2008 số người di lấy chồng bị buôn bán là ít nhất do công tác xác minh hồ sơ cuả tỉnh nhà thực hiện tốt, làm giảm nguy cơ của vấn nạn này. Những chị em phụ nữ trốn đi theo những ngạch không chính quy bị buôn bán ngày càng gia tăng so với trước. Những nước mà phụ nữ trong tỉnh bị buôn bán nhiều nhất là Trung Quốc , Đài Loan,…
Tỷ lệ
Nước
%
Trung Quốc
65
Đài Loan
20
Nước khác
15
Bảng số liệu thống kê số phụ nữ bị buôn bán ở tỉnh Bắc Ninh
Trung Quốc là nước bạn láng giềng thân thiết và cũng là tụ điểm của bọn nhà chứa , vì từ tỉnh Bắc Ninh sang Trung Quốc quá dễ dàng , công tác thanh kiểm tra còn hạn chế . Từ đó mà số phụ nữ bị buôn bán sang nước này chiếm tỷ trọng cao nhất.Theo con số dự báo đây mới chỉ là những con số có thể kiểm soát được và trong những năm gần đây sẽ tăng lên rất nhanh chóng nếu không có sự kiểm soát đúng hướng của nhà nước.
Tình trạng BBPN diễn ra trên địa bàn toàn tỉnh , ở tất cả các huyện, thành phố. Diễn biến phức tạp nhất và tinh vi nhất là địa bàn huyên Từ Sơn, TP. Bắc ninh. Nhiều chị em bị người cùng làng rủ đi sang Trung Quốc làm ăn , nhưng không ngờ lại bị chính người chị em của mình bán cho ổ gái mại dâm . Chị Hoa tâm sự “ Lúc đầu cô ấy cho tôi vay mấy trăm nghìn chữa bệnh cho con trai tôi , không có tiền trả tôi cũng không biết làm cách nào. Thấy cô ấy bảo sang Trung Quốc buôn tóc rối cùng cô ấy thì cho tôi hết nợ. Ai ngờ khi đến ổ chứa gái mại dâm cô ấy nói đã bán tôi cho người đàn bà béo phì trước mặt tôi. Chưa hết choáng váng tôi phải sống cuộc đời tủi nhục”
Như vậy là những người rơi vào hoàn cảnh của chị không phải là hiếm mà là xu thế chung của những người bị buôn bán tại tỉnh nhà.
Đời sống vật chất tinh thần của những phụ nữ bị buôn bán trở về
* Vật chất
Đa phần những người phụ nữ bị lừa bán đều có hoàn cảnh nghèo khổ,mức thu nhập thấp . Phần lớn họ không được học hành có hiểu biết ít về xã hội . Những người này đa phần làm nông nghiệp quanh năm bên lũy tre làng . Họ tập trung nhiều ở những vùng kinh tế khó khăn, lạc hậu về kinh tế, sống nghèo khổ thu nhập Vì vậy họ mong muốn tìm kiếm sự thay đổi. Cụ thể thu nhập của họ như sau:
Mức sống
%
Nghèo khổ
45
Trung bình
35
Trên trung bình
15
Ngôi nhà hoang sơ cùng cảnh sống nghèo khổ của những người phụ nữ nông thôn
Thu nhập của những gia đình này chỉ trông mong vào ruộng đồng họ sống nghèo khổ quanh năm suốt tháng. Sự hỗ trợ của các cơ quan đối với họ dường như không hấp dẫn bằng việc tìm đến một nơi làm ăn mới để thử vận mệnh của mình.
Tóm lại những người phụ nữ bị buôn bán phần nhiều hộ là những người có thu nhập thấp.
* Tinh thần
Cùng với sự yếu kém về vật chất kéo theo là những hạn ché về mặt tinh thần . Dường như những phụ nữ này ít được tiếp xúc với những hoạt động vui chơi , giải trí . Đời sống tinh thần tẻ nhạt là một trong những nguyên nhân gây nên sự tìm kiếm những vùng đất mới. Và đây chính là điểm mà bọn buôn người lợi dụng những chị em nhẹ dạ cả tin , thiếu thông tin để lừa bán theo mục đích riêng . Nhiều chị em qua phim ảnh thấy những hình ảnh đẹp trên ti vi mơ ước những người chồng lý tưởng như trong phim Hàn Quốc , vội vàng bán đất , bán nhà ở quê sang lấy chồng ngoài vô hình dung trở thành nạn nhân của nạn BBPN.Có thể nói rằng việc tìm cho mình một cuộc sống mới tốt đẹp hơn là ước muốn của nhiều phụ nữ . Tuy nhiên hãy tìm hiểu thật kỹ thông tin và lựa chọn cho mình hướng đi thích hợp nhất.
Đời sống tinh thần tẻ nhạt(ảnh minh họa)
Thực trạng công tác phòng chống nạn BBPN ở tỉnh Bắc Ninh
Biện pháp đấu tranh chống BBPN ở tỉnh Bắc Ninh
BPN là một trong những vấn đề mà Đảng và chính quyền tỉnh Bắc Ninh ưu tiên thực hiện ngay , đồng bộ trên toàn địa bàn nhằm tiêu diệt tận gốc bon này. Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán PN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cần có sự vào cuộc đồng bộ, thường xuyên của các cấp, các ngành và toàn xã hội, phải coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của PN trong giai đoạn hiện nay. Công an tỉnh Bắc Ninh và các cấp cần tập trung lực lượng, đấu tranh quyết liệt với bọn tội phạm BBPN; chủ động đề xuất mở các đợt cao điểm tấn công tội phạm và xác lập các chuyên án, đi sâu điều tra, bóc gỡ các đường dây, ổ nhóm BBPN liên quan đến nhiều đối tượng ở nhiều địa phương. Cần tăng cường các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa ở những địa phương trọng điểm, các địa bàn có nguy cơ PN bị buôn bán ra nước ngoài ngày càng tăng, đặc biệt là sang Trung Quốc.
Bên cạnh đó, cần xác định phòng, chống tội phạm BBPN là vấn đề mang tính xã hộicao, lấy phòng ngừa là chính; các bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền với nhiều hình thức và nội dung phong phú, để mọi người thấy được thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm, trách nhiệm của các tổ chức, gia đình và của mọi người dân, từ đó chủ động phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn.
Đối với những vụ buôn bán PN đã điều tra, khám phá, cần nhanh chóng đưa ra xét xử công khai nghiêm khắc, nhằm răn đe tội phạm, nâng cao ý thức cảnh giác trong quần chúng nhân dân và tạo đà phát động quần chúng tham gia tố giác, đấu tranh với tội phạm này.
Thượng tướng Lê Thế Tiệm , Thứ trưởng Bộ Công An phát biểu trong buổi lễ phòng chống buôn bán người
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh luoonn thực hiện tốt công tác chống BBPN theo những quy định của nhà nước.
Công tác hỗ trợ PN bị buôn bán trở về ở tỉnh Bắc Ninh.
* Xóa đói giảm nghèo- Nâng cao trình độ dân trí
Theo kết quả nghiên cứu về thực trạng phụ nữ, bị lừa bán ra nước ngoài do Sở LĐTBXH tỉnh Bắc Ninh thực hiện, nguyên nhân chủ yếu để dẫn đến tình trạng trên ngày càng tăng là do đời sống kinh tế còn nghèo nàn, trình độ dân trí, sự hiểu biết còn thấp. Trong số trên 1.750 nạn nhân của những vụ “buôn người”, có hơn một nửa là người mù chữ hoặc chỉ dừng lại ở cấp tiểu học. Nghề nghiệp của các nạn nhân trước khi bị lừa bán ra nước ngoài chủ yếu là làm ruộng và thất nghiệp. Những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế về trình độ nhận thức đã “đẩy” họ trở thành “miếng mồi” ngon cho những tên “buôn người”.
Như vậy, phải giải quyết bài toán xã hội là sự đói nghèo cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, vì việc phòng chống tệ nạn buôn bán PNTE chỉ đạt được hiệu quả tích cực với sự tham gia của chính những đối tượng có nguy cơ trở thành nạn nhân. Nói một cách cụ thể, là làm sao cho tất cả người dân có đời sống kinh tế ổn định, có công ăn việc làm, có khả năng thu nhập để có thể thỏa mãn phần nào nhu cầu đời sống trong nền kinh tế thị trường có quá nhiều hàng hóa, tiện nghi. Thêm vào đó, người dân phải có nền tảng tri thức tối thiểu để không chỉ hiểu được những điều luật pháp cấm đoán mà còn phải nhận thức được giá trị nhân bản của chính mình mà không làm những điều đi ngược với đạo đức xã hội.
Để làm được điều này, cần có chính sách hỗ trợ tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập qua dạy nghề, cho vay vốn…cho đối tượng phụ nữ có nguy cơ cao ở những vùng khó khăn, song song với việc trang bị kiến thức cho họ về nguy cơ bị buôn bán với viễn ảnh tương lai đen tối nếu chẳng may bị sa vào tệ nạn này.
Tỉnh Bắc Ninh có khá nhiều làng nghề phát triển như : làng làm đồ mỹ nghệ Đồng Kỵ, Làng Tranh Đông Hồ, …Tỉnh Bắc Ninh luôn tạo điều kiện cho chị em phụ nữ được học nghề , tạo việc làm tăng thu nhập tại địa phương.
Dạy nghề cho phụ nữ bị buôn bán trở về(ảnh minh họa)
*Chăm sóc sức khỏe cho nạn PN bị buôn bán trở về
Tỉnh ta tạo điều kiện thuận lợi cho chị em phụ nữ bị buôn bán trở về . Tại các bệnh viện trong tỉnh khám bệnh miễn phí cho phụ nữ bị buôn bán trở về thuộc diện khó khăn. Nhiều chị em khi trở về mang trong mình những vết thương thể chất lẫn tinh thần. Những vết thương da thịt có thể chữa lành nhanh chóng . Còn những vết thương sâu trong tâm hồn các chị cũng được dần chữa trị bằng tình làng , nghĩa xóm.
* Tạo điều kiện thuận lợi cho chị em tại cơ quan hành chính.
Nhiều chị em khi đi lấy chồng ngoại đã tách hộ khẩu không còn là người của địa phương nữa . Tuy nhiên, tỉnh Bắc Ninh luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp chị em trở lại địa phương sinh sống. Nhiều chị em có mang theo con nhỏ về nươc nhưng không được chồng đồng ý , chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện cho trẻ đi học , đảm bảo quyền lợi của trẻ nhỏ.
Nói tóm lại , Đảng bộ và chính quyền địa phương luôn tạo những điều kiện tốt nhất giúp cho phụ nữ bị buôn bán trở về có những điều kiện tôt nhất để phát triển.
Đánh giá
Kết quả
Công tác đấu tranh phòng chống nạn buôn bán phụ nữ của tỉnh nhà đã thu được những thành tựu khá tốt
Trước tiên công tác tuyên truyền về nạn buôn bán người đã được đông đảo người dân cũng như chị em phụ nữ bị buôn bán trở về tham gia, (100%) người dân trong tỉnh hiểu và biết về nạn BBPN . So với trước đây đã hơn rất nhiều.
Công tác xóa đói giảm ngheò cho chị em bị buôn bán khi trở về bước đầu đã thu được những thành tựu như : nhiều chị em đã học được nghề phụ tạo thu nhập được cho gia đình cũng như cho toàn xã hội. Trong 5 năm vừa qua(2004-2008) thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo chị em phụ nữ bị buôn bán trở về đã có hơn (60%) thoát nghèo.
Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho chị em cũng đạt được hiệu quả đáng mừng. Hầu hết những chị em khi trở về bị ốm đau bệnh tật thì nay đã khỏe mạnh và làm việc tốt.
Nguyên nhân của kết quả
Có hai nguyên nhân chính sau đây:
* Nguyên nhân khách quan
Sự quan tâm chỉ đạo thực hiện có đồng bộ của chính quyền tỉnh Bắc Ninh trong việc phòng chống nạn BBPN .
Sự phối kết hợp của các doanh nghiệp nhận dạy nghề cho chị em bị buôn bán trở về.
Sự ủng hộ phối hợp đồng bộ của nhân dân địa phương, cán bộ và nhân dân một lòng quyết tâm xây dựng tỉnh Bắc Ninh giàu đẹp .
Cùng với những chính sách kịp thời của nhà nước trong việc phòng chống tệ nạn này.
* Nguyên nhân chủ quan
Sự cố gắng nỗ lực vô cùng to lớn của chính chị em phụ nữ bị buôn bán khi quay trở về quê hương.
Tồn tại
Nạn BBPN vẫn đang diễn ra phức tạp với những hình thức khác nhau. Nhiều nhóm tội phạm trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục sử dụng những hình thức tinh vi hơn để lừa bán phụ nữ .
Còn khá nhiều chị em vẫn nhẹ dạ cả tin , ham lợi mà trở thành nạn nhân của bọn buôn người
Việc hỗ trợ về thủ tục hành chính khi chị em trở lại địa phương còn chậm chạp , ảnh hưởng tới đời sống hàng ngày của phụ nữ và những quyền lợi công dân khác
Nhiều chính sách còn khá bất cập trong việc xử lý những hành vi buôn bán người trái pháp luật….
Nguyên nhân của tồn tại
Nguyên nhân chủ yếu của tồn tại này là do chính sách nhà nước còn chưa thật phù hợp với sự phát triển , quy mô của bon buôn người như hiện nay.
Trang thiết bị hỗ trợ cho công tác này có nhiều thứ rất lỗi thời mà thủ đoạn của chúng ngày càng tinh vi , hiện đại
Cán bộ địa phương trình độ còn hạn chế chưa đủ chuyên môn giải quyết những vướng mắc về mặt pháp lý với đơn thư khiếu nại , tố cáo.
Chưa có một cơ quan chuyên môn từ trung ương đến địa phương chụi trách nhiệm thực hiện công tác này . Những cán bộ xã phường làm việc thiếu chuyên môn kỹ thuật.
Sự kỳ thị của người dân với người bị buôn bán trở về đã gây cản trở cho công tác tái hòa nhập của chị em khi trở về.
Nói tóm lại bằng sự nỗ lực cán bộ địa phương cùng với sự giúp đỡ của các ngành các cấp đã phần nào giảm thiểu tệ nạn BBPN ở tỉnh nhà đóng góp vào công tác chống BBN trong cả nước.
Một số biện pháp và khuyến nghị trong phòng chống BBPN ở tỉnh Bắc Ninh.
Một số biện pháp
* Phải có sự phối hợp chặt chẽ về pháp luật với các tỉnh bạn,nước bạn
Để có thể kiểm soát ngăn chận việc buôn bán PN qua biên giới, tỉnh Bắc Ninh phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền các tỉnh bạn cũng như nước láng giềng có liên quan như Trung Quốc và Campuchia trong việc phòng, chống tội phạm này với việc hoàn chỉnh khung pháp lý phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước, và luật phải được thi hành nghiêm minh .
Nạn buôn bán khó được phát hiện như hiện nay có thể thấy rằng những quốc gia trong khu vực lân cận chúng ta chưa có sự phối hợp đồng bộ trong việc chống BBN. Hiện nay, tại Campuchia dù có luật về bài trừ nạn mua bán phụ nữ trẻ em có từ 1996 nhưng đến nay kết quả thực hiện cũng rất hạn chế, lại chỉ bắt được một vài vụ nhỏ xảy ra trong nội địa, những vụ buôn người xuyên biên giới thì chưa phát hiện được trong khi chưa có luật về mại dâm và chưa có luật về bằng chứng nên khó khăn trong xét xử loại tội phạm này. Thời gian đưa ra xét xử các vụ án liên quan tới mua bán phụ nữ, trẻ em cũng rất lâu, sơ thẩm từ 4 đến 6 tháng, phúc thẩm từ 1 đến 2 năm, làm cho nạn nhân chán nản không muốn tham gia tố tụng.. Đó là chưa kể đa số nạn nhân ra trước tòa đều lên tiếng bảo vệ chủ chứa, nói bị cảnh sát ép khai như vậy.
Như vậy thấy rõ một điều rằng ngay cả có nước đã ban hành luật rồi nhưng việc thực hiện lại vô cùng khó khăn. Vì vậy muốn đẩy lùi được nạn BBN cần có sự phối kết hợp chặt chẽ của nước bạn cũng như các tỉnh lân cận.
+ Xóa đói giảm nghèo- Nâng cao trình độ dân trí
Theo kết quả nghiên cứu về thực trạng phụ nữ, trẻ em bị lừa bán ra nước ngoài do Bộ Công an hợp tác với tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc) thực hiện, nguyên nhân chủ yếu để dẫn đến tình trạng trên ngày càng tăng là do đời sống kinh tế còn nghèo nàn, trình độ dân trí, sự hiểu biết còn thấp. Trong số trên 1.750 nạn nhân của những vụ “buôn người”, có hơn một nửa là người mù chữ hoặc chỉ dừng lại ở cấp tiểu học. Nghề nghiệp của các nạn nhân trước khi bị lừa bán ra nước ngoài chủ yếu là làm ruộng và thất nghiệp. Những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế về trình độ nhận thức đã “đẩy” họ trở thành “miếng mồi” ngon cho những tên “buôn người”.
Như vậy, phải giải quyết bài toán xã hội là sự đói nghèo cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, vì việc phòng chống tệ nạn buôn bán PNTE chỉ đạt được hiệu quả tích cực với sự tham gia của chính những đối tượng có nguy cơ trở thành nạn nhân. Nói một cách cụ thể, là làm sao cho tất cả người dân có đời sống kinh tế ổn định, có công ăn việc làm, có khả năng thu nhập để có thể thỏa mãn phần nào nhu cầu đời sống trong nền kinh tế thị trường có quá nhiều hàng hóa, tiện nghi. Thêm vào đó, người dân phải có nền tảng tri thức tối thiểu để không chỉ hiểu được những điều luật pháp cấm đoán mà còn phải nhận thức được giá trị nhân bản của chính mình mà không làm những điều đi ngược với đạo đức xã hội.
Để làm được điều này, cần có chính sách hỗ trợ tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập qua dạy nghề, cho vay vốn…cho đối tượng phụ nữ có nguy cơ cao ở những vùng khó khăn, song song với việc trang bị kiến thức cho họ về nguy cơ bị buôn bán với viễn ảnh tương lai đen tối nếu chẳng may bị sa vào. Thực tế hiện nay, chỉ mới tại thành phố Hồ Chí Minh, được Hội Liên Hiệp Phụ nữ các cấp triển khai có hiệu quả các chương trình hỗ trợ cho vay vốn, tìm việc làm….nhưng vẫn còn một số nơi còn ngại khó chưa thực sự tích cực, nên hiệu quả còn hạn chế. Công tác này tại tỉnh Bắc Ninh được thực hiện khá tốt và đem lại hiệu quả tốt.
Vấn đề thực sự xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cũng hết sức cần thiết cho những đối tượng có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm buôn bán PNTE, vì nhờ đó họ có thể tiếp cận với mọi thông tin từ các phương tiện truyền thông để tự bảo vệ mình. Đồng thời sự mở mang trí óc bằng kiến thức học hành căn bản cũng giúp rất nhiều cho con người nhận ra những điều phải trái.
Cần đưa vào chương trình giáo dục ở bậc Tiểu học và Trung học vấn đề buôn bán PNTE với những phương thức phòng ngừa trong môi trường xã hội phức tạp cũng như giúp cho các em thấy được tính chất phi nhân tội ác của để các em hình thành ý thức đạo đức ngay từ tuổi nhỏ. Do vậy, ngành giáo dục cũng phải dự phần tham gia chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE.
+Tăng cường hiệu quả của việc tuyên truyền phổ biến giáo dục
Mặt khác, phải triển khai rộng rãi chương trình hành động qua các cuộc tuyên truyền phổ biến giáo dục thường xuyên đến nhân dân, mà các đoàn thể địa phương, khu phố, tổ dân phố là lực lượng nòng cốt, để vừa giúp người dân cảnh giác đối với thủ đoạn của bọn tội phạm, vừa xây dựng họ thành lực lượng phòng, chống, phát hiện kịp thời bọn tội phạm ngay khi chúng manh nha tội ác. Đồng thời cũng cần có biện pháp đối với những loại người vô tình, thờ ơ trước tội ác. Nếu có sự góp tay của quần chúng thì không thể nào tồn tại những điểm tập kết phụ nữ, trẻ em như đã xảy ra rất nhiều trong thời gian qua tại tp.HCM. Ngoài ra cũng sẽ có tác động dối với thành phần phụ nữ lười lao động, có khuynh hướng thích sống thiên về bản năng hưởng thụ, sẵn sàng bán rẻ danh dự, thân xác mình, mà “chương trình 3 giảm” của thành phố đã có những biện pháp để nhằm đẩy lùi tệ nạn mãi dâm, nhưng vẫn còn tồn tại lén lút, và đây cũng chính là những đầu mối nguy cơ dẫn dắt cho việc buôn bán PNTE ra nước ngoài.
- Nâng cao năng lực nhận biết và phòng ngừa:
Đây là hoạt động cần chú trọng đầu tiên, trong đó bao gồm việc nâng cao năng lực phòng, chống loại tội phạm này cho chính quyền địa phương, đặc biệt là Hội phụ nữ tỉnh, huyện, các ban ngành liên quan, tình nguyện viên và nâng cao nhận thức cho các nhóm đối tượng có nguy cơ bị buôn bán. Thực hiện các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng ngừa cho người dân địa phương, nhất là những phụ nữ và trẻ em dễ bị lôi kéo, lừa gạt. Các hoạt động truyền thông cần được thực hiện thông qua các câu lạc bộ phòng chống buôn bán người, tư vấn cá nhân và các cuộc họp cộng đồng, nhất là nên được tiến hành ở các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Phối hợp triển khai các dự án về phòng, chống buôn bán phụ nữ.
- Tạo công ăn việc làm:
Đây là yếu tố có ý nghĩa then chốt của vấn đề. Khi có công ăn việc làm đầy đủ, không quá bị thúc bách về vấn đề thu nhập, con người sẽ không bị rơi vào tình trạng "nhắm mắt đưa chân". Hơn nữa, có việc làm không chỉ giúp con người có thu nhập mà còn tăng thêm cho họ nhận thức và sự hiểu biết về mọi mặt, trong đó có nhận thức về các hoạt động lừa đảo nói chung và lừa gạt phụ nữ, trẻ em nói riêng.
Khuyến nghị.
Cần có một giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao công tác phòng chống BBN. Tuy nhiên, công tác đấu tranh với tội phạm buôn bán PN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh còn gặp nhiều bất cập do thủ đoạn của bọn tội phạm buôn bán PN ngày càng tinh vi, chủ yếu lợi dụng PN ở các vùng nông thông nghèo, có trình độ văn hóa thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang cần việc làm, bằng những lời “đường mật” như hứa giúp tìm việc làm có thu nhập cao, sau đó tìm mọi cách đưa qua biên giới đẻ bán. Địa bàn hoạt động của bọn tội phạm rộng đối tượng đông, liên quan đến nhiều địa phương nên công tác nắm bắt tình hình, thu thập tài liệu rất khó khăn. Một số đối tượng lợi dụng sơ hở trong các quy định kết hôn với người nước ngoài, cho, nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài để lừa gạt đưa số PN ra nước ngoài bán…
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán PN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cần có sự vào cuộc đồng bộ, thường xuyên của các cấp, các ngành và toàn xã hội, phải coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của PN trong giai đoạn hiện nay. Công an thành phố và các cần tập trung lực lượng, đấu tranh quyết liệt với bọn tội phạm buôn bán PN; chủ động đề xuất mở các đợt cao điểm tấn công tội phạm và xác lập các chuyên án, đi sâu điều tra, bóc gỡ các đường dây, ổ nhóm buôn bán PN liên quan đến nhiều đối tượng ở nhiều địa phương. Chúng tôi đề nghị, cần tăng cường các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa ở những địa phương trọng điểm, các địa bàn có nguy cơ PNTE bị buôn bán ra nước ngoài ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, cần xác định phòng, chống tội phạm BBPNTE là vấn đề mang tính xã hội cao, lấy phòng ngừa là chính; các bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền với nhiều hình thức và nội dung phong phú, để mọi người thấy được thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm, trách nhiệm của các tổ chức, gia đình và của mọi người dân, từ đó chủ động phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn. Cần có một chế tài thật nghiêm trong việc xử lý tội BBPN nói riêng và BBN nói chung.
Kết luận
Buôn bán PN không chỉ là vấn đề xã hội đơn thuần, mà là sự biểu hiện của tình trạng suy đồi đạo đức đến mức phi nhân và đã trở thành vấn nạn trong cộng đồng thế giới loài người mà nếu không giải quyết được, đó chính là những gam màu xám đen làm lem luốc, phá hỏng toàn cảnh bức tranh văn minh nhân loại cho dù về phương diện khoa học kỹ thuật vật chất, con người có tiến bộ đến đâu đi nữa. Bởi lẽ đó, việc phòng chống ngăn chặn tội phạm mua bán phụ nữ là trách nhiệm chung của tất cả những ai còn lương tri, còn biết suy nghĩ về lẽ phải, về sự công bình, về tình người, để cùng góp phần vào sự ổn định của xã hội mà cũng là sự bình an cuộc sống của chính mình.
Việc đấu tranh với tội phạm sẽ vô cùng khó khăn; chừng nào con người vẫn còn đặt nhu cầu tình dục lên trên nhân cách đạo đức thì vấn đề buôn bán PN vẫn còn xảy ra. Cho nên, việc phòng, chống loại tội phạm này đòi hỏi sự nỗ lực tham gia của toàn xã hội, chứ không phải chỉ là trách nhiệm của chính quyền hay các tổ chức, đoàn thể nào đã được phân công.
Trong xu thế hiện nay , chúng ta lại phải đối mặt với nạn BBN ở mức độ nghiêm trọng hơn nữa. Hi vọng tệ nạn này sớm được giảm thiểu đem lại bình yên cho người dân.
Danh mục từ viết tắt
1, BBN : buôn bán người
2, BBPN : buôn bán phụ nữ
3, BBPNTE : buôn bán phụ nữ trẻ em.
4, PNVN : phụ nữ Việt Nam
5, LĐTBXH : Lao Động Thương Binh Xã Hội
6, ANND : an ninh nhân dân
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình giảng chuyên đề BBN
Báo PNVN
Báo ANND
Tài liệu của Sở LĐTBXH tỉnh Bắc Ninh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tỉnh Bắc Ninh buôn bán phụ nữ ngày càng gia tăng Thực trạng và giải pháp.doc