Tình hình phạm tội, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội

PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã giành được nhiều thắng lợi to lớn và quan trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế, xã hội, từ đó tạo ra vị thế ổn định và phát triển đi lên. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường đã đem lại những yếu tố tiêu cực: làm cho sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, sự tha hoá trong lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội và tội phạm có điều kiện phát sinh và tồn tại. Trước tình hình mới, diễn biến tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội ở Hà Nội rất phức tạp, các vụ án nghiêm trọng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Trong đó tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn biến rất phức tạp, xu hướng ngày càng gia tăng với những thủ đoạn ngày càng đa dạng, tinh vi, táo bại. Chúng lợi dụng những sơ hở mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường để hoạt động phạm tội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã và đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, đồng thời tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự ở Hà Nội. Vì vậy việc đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng trở nên cấp thiết. Từ thực tế đó, trong thời gian thực tập tại Toà án thành phố Hà Nội em đã tập trung nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tìm hiểu tình hình phạm tội, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở sự phân tích, đánh giá những số liệu thực tiễn, em đã đưa ra những kiến nghị của cá nhân em nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội này. Do lần đầu tiếp xúc thực tế, thời gian nghiên cứu, thu thập thông tin và viết bài có hạn nên bài viết này khó tránh khỏi những thiếu xót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các thầy, cô và các độc giả. PHẦN 2: QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU THU THẬP THÔNG TIN 2.1. Thời gian thu thập thông tin. Đợt thực tập của em tại toà án nhân dân thành phố Hà Nội được bắt đầu từ ngày 7/1/2008 đến hết ngày 18/4/2008. Trong khoảng thời gian 2 tháng đầu, em thực tập tại Toà hình sự - Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. Tại đây em có cơ hội tiếp xúc thực tế, được tiếp cận với cách thức làm việc của một công chức toà án, được làm một số công việc thực tế như: nghiên cứu hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội chuyển sang, đánh máy đầu bản án Qua quá trình làm việc, em có cơ hội được nghiên cứu kĩ lưỡng hồ sơ rất nhiều vụ án , trong đó có các vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử, đang xét xử và chuẩn bị xét xử trong thời gian gần đây. Ngoài ra trong thời gian thực tập em còn có cơ hội tham dự rất nhiều phiên toà xét xử các vụ án hình sự và dân sự do Toà án nhân dân thành phố Hà Nội tiến hành. Điều này đã giúp em có những kiến thức thực tiễn quý báu, giúp em hiểu sâu hơn về các khía cạnh như tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội của các loại tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9563 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình phạm tội, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã giành được nhiều thắng lợi to lớn và quan trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế, xã hội, từ đó tạo ra vị thế ổn định và phát triển đi lên. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường đã đem lại những yếu tố tiêu cực: làm cho sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, sự tha hoá trong lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội và tội phạm có điều kiện phát sinh và tồn tại. Trước tình hình mới, diễn biến tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội ở Hà Nội rất phức tạp, các vụ án nghiêm trọng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Trong đó tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn biến rất phức tạp, xu hướng ngày càng gia tăng với những thủ đoạn ngày càng đa dạng, tinh vi, táo bại. Chúng lợi dụng những sơ hở mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường để hoạt động phạm tội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã và đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, đồng thời tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự ở Hà Nội. Vì vậy việc đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng trở nên cấp thiết. Từ thực tế đó, trong thời gian thực tập tại Toà án thành phố Hà Nội em đã tập trung nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tìm hiểu tình hình phạm tội, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở sự phân tích, đánh giá những số liệu thực tiễn, em đã đưa ra những kiến nghị của cá nhân em nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội này. Do lần đầu tiếp xúc thực tế, thời gian nghiên cứu, thu thập thông tin và viết bài có hạn nên bài viết này khó tránh khỏi những thiếu xót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các thầy, cô và các độc giả. PHẦN 2: QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU THU THẬP THÔNG TIN 2.1. Thời gian thu thập thông tin. Đợt thực tập của em tại toà án nhân dân thành phố Hà Nội được bắt đầu từ ngày 7/1/2008 đến hết ngày 18/4/2008. Trong khoảng thời gian 2 tháng đầu, em thực tập tại Toà hình sự - Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. Tại đây em có cơ hội tiếp xúc thực tế, được tiếp cận với cách thức làm việc của một công chức toà án, được làm một số công việc thực tế như: nghiên cứu hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội chuyển sang, đánh máy đầu bản án…Qua quá trình làm việc, em có cơ hội được nghiên cứu kĩ lưỡng hồ sơ rất nhiều vụ án , trong đó có các vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử, đang xét xử và chuẩn bị xét xử trong thời gian gần đây. Ngoài ra trong thời gian thực tập em còn có cơ hội tham dự rất nhiều phiên toà xét xử các vụ án hình sự và dân sự do Toà án nhân dân thành phố Hà Nội tiến hành. Điều này đã giúp em có những kiến thức thực tiễn quý báu, giúp em hiểu sâu hơn về các khía cạnh như tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội…của các loại tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. 2.2. Phương pháp thu thập thông tin. Dựa trên những kiến thức đã được trang bị trên ghế nhà trường, em hiểu rằng muốn nhận thức tình hình tội phạm một cách chính xác, toàn diện nhất cần phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự vận động …Vì vậy để có một cách nhìn toàn diện, bao quát, khách quan nhất về thực tiễn tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong quá trình thu thập thông tin, em đã sử dụng nhiều phương pháp cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Trong thời gian thực tập, em đã tiến hành thu thập thông tin trực tiếp bằng cách trực tiếp tham dự các phiên toà xét xử các vụ án hình sự do toàn án nhân dân thành phố Hà Nội tiến hành, ngoài ra em còn trực tiếp đi xác minh cùng cán bộ toà án. Bằng phương pháp này, em có thể hiểu rõ hơn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đường lối xử lý các vụ án này trên thực tế. Ngoài ra, để có được cái nhìn khái quát, toàn diện về tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, em đã sử dụng phương pháp thu thập thông tin gián tiếp thông qua việc nghiên cứu báo cáo thống kê các vụ án hình sự hàng năm để có được số liệu chính xác về tổng số các vụ án hình sự được toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết hàng năm, số lượng các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được giải quyết hàng năm, diễn biến của tình hình tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong những năm gần đây. Không chỉ như vậy, để hiểu vấn đề sâu sắc hơn, em còn tiến hành thu thập thông tin thông qua việc nghiên cứu hồ sơ các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội về các vụ án mà toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử trong những năm gần đây. Điều này sẽ giúp em có thể hiểu sâu sắc hơn về bản chất, nguyên nhân và điều kiện phát sinh và tồn tại của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 2.3. Nguồn thu thập tư liệu. Những thông tin em thu thập được trong thời gian thực tập tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xuất phát từ những nguồn cơ bản sau: - Bản án, quyết định của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ đầu năm 2003 đến hết quý I năm 2008. - Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội về những vụ án trong thời gian gần đây. - Thống kê kết quả xét xử hàng năm của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ đầu năm 2003 đến hết năm 2007. 2.4. Các thông tin thu thập được. 2.4.1. Số liệu thống kê tình hình phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bảng 1: bảng thống kê các vụ án hình sự sơ thẩm do Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử từ năm 2003 đến hết năm 2007 Năm Tổng số vụ án đã xét xử Số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét xử Tỉ lệ ( %) Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 2003 1183 2125 20 46 1,69 2,16 2004 821 1420 18 40 2,19 2,82 2005 496 1008 20 62 4,03 6,15 2006 466 991 27 66 5,79 6,66 2007 461 1221 40 56 8,68 4,59 Bảng 2: bảng thống kê kết quả xét xử sơ thẩm các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến hết năm 2007 Năm Tổng số bị cáo đã xét xử Hình phạt Đưa đi trường giáo dưỡng Phạt tiền Trục xuất Án treo Tù từ 3 năm trở xuống Tù từ trên 3năm đến 7 năm Tù từ trên 7năm đến 15năm Tù từ trên 15năm đến 20 năm Tổng hợp hình phạt trên 20năm Tù chung thân Tử hình 2003 46 1 0 0 3 0 23 16 2 1 0 0 2004 40 0 0 0 10 1 11 14 2 0 1 1 2005 62 0 0 2 8 8 15 21 4 0 4 0 2006 66 0 1 0 6 8 14 22 11 0 2 2 2007 56 0 0 0 10 4 11 15 10 0 6 0 Tổng số 270 1 1 2 37 21 74 88 29 1 13 3 Tỉ lệ (%) 100 0,37 0,37 0,74 13,7 7,78 27,4 32,6 10,74 0,37 4,8 1,11 Nguồn: số liệu thống kê của văn phòng Toà án nhân dân thành phố Hà Nội 2.4.2.Một số vụ án phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản điển hình: Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những diễn biến rất phức tạp, ngày càng xuất hiện nhiều thủ đoạn mới tinh vi hơn. Sau đây là một số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản với những thủ đoạn điển hình. */ Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn làm giả giấy tờ, tài liệu và cấu kết với các nhân viên trong công ty bảo hiểm để chiếm đoạt tiền bảo hiểm. Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Thái Phong (viết tắt là công ty Việt Thái Phong) do Phan Hồng T làm Giám đốc được thành lập theo quyết định số 548 ngày 13/3/1999. Ngày 9/10/2002, công ty trách nhiệm hữu hạn Sông Tiền (viết tắt là công ty Sông Tiền) do bà Nguyễn Thị Ánh giám đốc làm đại diện và công ty Pizoleag (Thụy Sỹ) do ông Nguyễn Thượng Hải làm đại diện ký 2 hợp đồng kinh tế số 02 và 03 bán 2 lô hàng tôm biển cho công ty Pizoleag với giá FOB thành phố Hồ Chí Minh, hàng vận chuyển từ cảng thành phố Hồ Chí Minh đến cảng Hamburg (Đức). Thực hiện hợp đồng đã ký, ngày 1/11/2002, công ty Sông Tiền đã giao lô hàng 15.840 kg tôm biển trị giá 144.340 USD do tàu Đaxim vận chuyển rời cảng thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 6/11/2002 lô hàng 14.209,4 kg tôm biển trị giá 130.000,48 USD do tàu Liliiem vận chuyển rời cảng thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó lô hàng 14.209,4 kg đến Hamburg an toàn. Còn lô hàng 15.840 kg đựng trong Container số HICU 69 được công ty trách nhiệm hữu hạn EMC Việt Nam cấp vận đơn số 1335 ngày 1/11/2002 cho công ty Sông Tiền, cước phí vận tải là 3.400 USD, khi đến Colombo bị cháy hoàn toàn lúc 8h30; giờ Việt Nam ngày 11/11/2002. Khoảng 14h ngày 11/11/2002, sau khi biết tin, Phan Hồng T nhờ anh Trần Văn Trí nhân viên công ty Sông Tiền đem theo 2 bộ hồ sơ, mỗi bộ gồm: 1 vận đơn của công ty EMC Việt Nam cấp cho công ty Sông Tiền. 1 hóa đơn thương mại. 1 bảng chi tiết hàng hóa của công ty Sông Tiền. Đến chi nhánh công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (viết tắt là PJICO Sài Gòn) để mua bảo hiểm cho 2 lô hàng trên. Nguyễn Thị Bích Hợp, nhân viên phòng bảo hiểm PJICO Sài Gòn nhận hồ sơ. Mặc dù biết hóa đơn thương mại của công ty Sông Tiền tính giá FOB thành phố Hồ Chí Minh, không đủ điều kiện cấp đơn bảo hiểm, nhưng Hợp vẫn tính giá trị hàng dựa trên khai khống do T điện thoại cung cấp theo giá CIF Hamburg Đức. Sau đó Hợp viết 2 giấy yêu cầu bảo hiểm và hóa đơn thu phí bảo hiểm ngày 11/11/2002 cho 2 lô hàng. Anh Trí nhận 2 đơn bảo hiểm kèm theo thông báo nhưng không nộp phí bảo hiểm ngay mà giao các tài liệu trên cho chị Lê Thị Thu Thủy nhân viên công ty Việt Thái Phong. Ngày 18/11/2002, Lê Thị thu Thủy nhân viên công ty Việt Thái Phong đã đến PJICO Sài Gòn nộp phí bảo hiểm. Thủy đã đề nghị trong hóa đơn thu phí bảo hiểm số 006759 thu 35.717.474 đồng, ghi lùi ngày là 11/11/2002. Ngày 25/11/2002 Phan Hồng T về Việt Nam, mặc dù đã nghe Lê Thị Thu Thủy cáo cáo việc tàu bị cháy cũng như phí bảo hiểm đến ngày 18/11/2002 mới nộp (tàu cháy trước ngày nộp phí bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm là vô hiệu). Nhưng ngày 26/11/2002 T đã ký công văn gửi PJICO Sài Gòn đề nghị được trả tiền bảo hiểm lô hàng bị tổn thất. Quá trình khiếu kiện, Phan Hồng T đã lập các tài liệu giả mạo để chứng minh công ty Việt Thái Phong có đủ tư cách mua, thụ hưởng bảo hiểm và giá trị hàng được bảo hiểm nhằm chiếm đoạt tiền bảo hiểm. Ngay sau khi công ty Việt Thái Phong có công văn đề nghị được bồi thường bảo hiểm, chi nhánh PJICO Sài Gòn đã báo cáo và Fax toàn bộ hồ sơ công ty Việt Thái Phong mua bảo hiểm ra Hà Nội cho Phòng giám định bồi thường của công ty PJICO giải quyết theo thẩm quyền.Tại tờ trình của phòng giám định bồi thường, Trần Nghĩa V và Hồ Mạnh Q đã có ý kiến chỉ đạo Phòng giám định bồi thường, với nội dung: “ Vụ này có nhiều dấu hiệu trục lợi bảo hiểm do đó ta không cam kết thanh toán bồi thường , mà ta sẽ chấp nhận ra tòa và có biện pháp điều tra nhờ công an kinh tế hỗ trợ…” Ngày 22/4/2004 và ngày 30/7/2004, Vũ Dương Quý nhân viên phòng giám định bồi thường soạn thảo công văn số 611 và 935 gửi công ty Việt Thái Phong chính thức từ chối trả tiền bảo hiểm với lý do: Công ty Việt Thái Phong mua bảo hiểm sau khi tổn thất đã xảy ra gần 6 tiếng. Ngày 22/2/2005, T ra Hà Nội gặp V và Q, các bên thống nhất T phải chi 1,9 tỷ đồng cho V và Q nếu muốn được nhận 3,8 tỷ đồng tiền bảo hiểm. Ngày 3/3/2005, tổng công ty PJICO thông báo chấp nhận bồi thường bảo hiểm cho công ty Việt Thái Phong. Sáng ngày 4/3/2005, tổng công ty PJICO chuyển khoản số tiền chi trả bảo hiểm là 1.901.938.336 đồng cho công ty Việt Thái Phong. Ngày 8/3/2005, tổng công ty PJICO chuyển tiếp số tiền 1.901.661.622 đồng cho công ty Việt Thái Phong. Như vậy tổng công ty PJICO đã chi trả bảo hiểm số tiền 3.803.599.958 đồng cho công ty Việt Thái Phong. Sau khi nhận được tiền bồi thường bảo hiểm, T đã sử dụng 1,9 tỷ đồng đưa cho Q, trả nợ công ty xuất nhập khẩu thủy sản Quảng Ninh 500.000.000 đồng, công ty Sông Tiền 100.000.000 đồng, số tiền còn lại T sử dụng trả nợ khác và chi tiêu cá nhân. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 34/2008/HSST ngày 23/1/2008, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên bố bị cáo Phan Hồng T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a, khoản 4 Điều 139, điểm b, p khoản 1 và khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phan Hồng T. Xử phạt: bị cáo Phan Hồng T 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2005. */ Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn hứa hẹn đưa người lao động đi xuất khẩu lao động mặc dù không có chức năng này. Tháng 5/2005, Hoàng Thị L đứng ra thành lập công ty cổ phần kinh tế quốc tế có trụ sở tại số 142/B4 khu đô thị mới Định Công, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội do Hoàng Thị L - Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc. Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103007745 mã số thuế 0101656292 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp với ngành nghề kinh doanh là đào tạo ngoại ngữ, môi giới xúc tiến việc làm… không có chức năng xuất khẩu lao động. Nhưng trong quá trình hoạt động từ tháng 10/2006, Hoàng Thị L đã trực tiếp thu tiền và hứa hẹn với người lao động sẽ cho họ đi xuất khẩu lao động tại các nước Đài Loan và Hàn Quốc. Cụ thể như sau: Anh Nguyễn Ngọc Tùng – sinh năm 1946. Trú quán: Hạ Hồi, Tàu Lập , Đan Phượng, Hà Nội. Ngày 30/10/2006 Hoàng Thị L nhận của anh Nguyễn Ngọc Tùng 10.000USD ≈ 160.790.000 đồng, đồng thời hứa một tháng sau khi nộp tiền sẽ cho con trai anh Tùng là Nguyễn Ngọc Tư đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Sau nhiều lần hứa hẹn, anh Nguyễn Ngọc Tùng thấy nghi ngờ nên đã gặp Hoàng Thị L đòi tiền. Hoàng Thị L đã trả cho anh Tùng là 2.800 USD còn lại 7.200 USD. Chị Nguyễn Thị Dung – sinh năm 1957. Trú quán: Khu 9 Phương Xá, Cẩm Khê, Phú Thọ. Ngày 6/3/2007 Hoàng Thị L đã nhận của chị Nguyễn Thị Dung là 5.000 USD ≈ 80.000.000 đồng tiền đặt cọc hứa cho con trai chị là Nguyễn Phi Hùng đến ngày 6/4/2007 sẽ được đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Sau nhiều lần hứa hẹn, chị Dung thấy nghi ngờ nên ngày 29/9/2007 đã ra công an quận Hoàng Mai tố cáo. Ngày 15/10/2007 Hoàng Thị L đến nhà chị Nguyễn Thị Dung trả lại 5.000 USD, hiện chị Dung không yêu cầu bồi thường. Chị Dương Thị Thanh Hương – sinh năm 1965. Trú quán: Xóm Chùa, Triều Khúc, Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội. Ngày 18/3/2007 và ngày 28/3/2007, Hoàng Thị L đã nhận của chị Dương Thị Thanh Hương tổng số 6.000 USD ≈ 96.136.000 đồng, hẹn đến tháng 6/2007 cho 2 lao động đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Sau nhiều lần thất hẹn, chị Dương Thị Thanh Hương thấy nghi ngờ nên đã viết đơn đến Công an quận Hoàng Mai tố cáo hành vi của Hoàng Thị L. Ngày 11/10/2007, Hoàng Thị L đã trả lại cho chị Dương Thị Thanh Hương 6.000 USD, chị Hương không yêu cầu bồi thường gì. Như vậy tổng số tiền Hoàng Thị L thu của 4 người lao động là 21.000 USD ≈ 336.924.000 đồng. Sau khi bị khởi tố bị can Hoàng Thị L đã nộp cho cơ quan cảnh sát điều tra 7.200 USD để trả lại cho anh Nguyễn Ngọc Tùng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Hoàng Thị L đã khai nhận: Hoàng Thị L thành lập Công ty cổ phần quốc tế mặc dù không có chức năng xuất khẩu lao động nhưng vẫn nhận tiền của người lao động để đi nhờ một số công ty khác có chức năng xuất khẩu lao động đưa người lao động đi xuất khẩu nhưng không được nên đã dùng tiền thu được của người lao động sử dụng vào mục đích cá nhân. Khi người lao động nhiều lần đòi tiền mới trả. Tại bản án số 08/2008/HSST ngày 08/01/2008, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên bố: bị cáo Hoàng Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a, khoản 3 Điều 139, điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 60 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Thị L. Xử phạt: bị cáo Hoàng Thị L 36 ( ba mươi sáu ) tháng tù . Cho khấu trừ thời gian đã tạm giam trước đây là 3 tháng 26 ngày. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 5 năm kể từ ngày tuyên án. PHẦN 3: KẾT QUẢ XỬ LÝ THÔNG TIN, TƯ LIỆU Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, trong khoảng thời gian từ đầu năm 2003 đến hết năm 2007, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội có những diễn biến rất phức tạp. Cụ thể theo bảng thống kê sau : B ảng 3: bảng thống kê các vụ án hình sự sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải xét xử từ năm 2003 đến hết năm 2007 Năm Tổng số vụ án phải giải quyết Số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải giải quyết Tỉ Lệ Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 2003 1366 2524 37 38 2,7 3,88 2004 936 1806 42 142 4,49 7,86 2005 668 1609 44 145 6,59 9,01 2006 565 1430 49 113 8,67 7,9 2007 655 1829 91 158 13,89 8,64 Nguồn: số liệu thống kê của văn phòng Toà án nhân dân thành phố Hà Nội Nhìn vào bảng số liệu thống kê kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ đầu năm 2003 đến hết năm 2007 ta nhận thấy: Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết có xu hướng ngày càng giảm đi. Cụ thể: Năm 2003, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết 1366 vụ án hình sự với tổng số 2524 bị cáo thì đến năm 2004, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội chỉ còn phải giải quyết 936 vụ án hình sự với tổng số 1806 bị cáo và đến năm 2007, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội chỉ còn phải giải quyết 655 vụ án với tổng số 1829 bị cáo. Như vậy so với năm 2003, số vụ án mà Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết năm 2007 đã giảm đi 711 vụ ( giảm 52% ), tuy nhiên so với năm 2003, số bị cáo mà Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải xét xử chỉ giảm đi có 695 bị cáo ( giảm 27,5% ). Qua sự phân tích trên ta có thể rút ra kết luận: Từ năm 2003 đến hết năm 2007 tổng số vụ án hình sự sơ thẩm mà toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết ngày càng giảm đi, số vụ án giảm 52%, số bị cáo giảm 27,5%. Kết qủa đó thể hiện tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng ổn định, các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan chức năng bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên số bị cáo phải đưa ra xét xử từ năm 2003 đến hết năm 2007 giảm chậm điều này thể hiện tích chất ngày càng tinh vi của các loại tội phạm, các đối tượng phạm tội đã không hoạt động đơn lẻ mà chúng có xu hướng liên kết với nhau tạo thành những băng nhóm, ổ nhóm tội phạm lớn, hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Các cơ quan chức năng cần chú ý xu thế này để tập trung nghiện cứu đề ra những giải pháp hữu ích kịp thời giải quyết triệt để vấn đề này. Trước những kết quả đáng mừng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, thì số vụ án phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản lại có xu thế trái ngược, có những diễn biến rất phức tạp, có chiều hướng ngày càng gia tăng về cả số vụ án lẫn số bị cáo. Cụ thể: Năm 2003, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết 37 vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tổng số 98 bị cáo thì đến năm 2004, số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết là 42 vụ án với tổng số bị cáo lên đến 142 người. So với năm 2003, năm 2004 số vụ án hình sự sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết tăng thêm 5 vụ án, tăng 44 bị cáo. Đến năm 2007 số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết là 91 vụ với tổng số 158 bị cáo. Như vậy so với năm 2003, số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản Toà án nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết đã tăng lên đáng kể: tăng 54 vụ (tăng 146%), tăng 60 bị cáo (tăng 61%). Điều này trái ngược với xu thế giảm mạnh của các loại tội phạm khác. Số lượng các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là các nguyên nhân như: nguyên nhân về điều kiện kinh tế - xã hội, nguyên nhân về giáo dục, nguyên nhân về sự sơ hở trong quản lý…Những nguyên nhân này sẽ được phân tích kỹ ở phần dưới đây. 3.1 Nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 3.1.1. Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế. Nền kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tích cực còn có những tác động tiêu cực, khiến cho một số người chỉ quan tâm tới lợi nhuận, lợi ích kinh tế là trên hết, nhiều người có thể làm bất xứ điều gì để duy trì sự tồn tại, để làm giàu bất chấp cả việc thực hiện hành vi phạm tội. Một số hành vi phạm tội trở nên phổ biến và ngày càng gia tăng như tội buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, trộm cắp tài sản, cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Do sự cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh, các nhà sản xuất kinh doanh hạn chế sử dụng lao động tới mức thấp nhất, với yêu cầu về trình độ tay nghề khắt khe. Từ đó phát sinh vấn đề dư thừa lao động. Đây vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện để tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phát triển. Nhiều người lao động trong nước không có việc làm đã tìm cách đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài với hy vọng đổi đời, những người lao động này thường là những người có dân trí thấp nên dễ trở thành những nạn nhân của các vụ lừa đảo. Trên thực tế ngày càng xuất hiện nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản với thủ đoạn hứa hẹn đưa người lao động đi lao động ở nước ngoài mặc dù không có chức năng xuất khẩu lao động, hoặc tuyển sinh đào tạo nghề mặc dù không đựoc phép. Ngoài ra những người thất nghiệp do thiếu việc làm nên họ có thể làm bất cứ vệc gì để tồn tại và khi vào đường cùng, họ dễ dàng phạm tội để đáp ứng nhu cầu sống của mình. Đây là nguồn bổ sung đầu vào của tội phạm khá lớn. Do tác động của kinh tế thị trường ngày càng xuất hiện nhiều ngành nghề và dịch vụ mới rất đa dạng như: dịch vụ cho thuê ô tô tự lái, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, thẻ tín dụng quốc tế dạng tín chấp ( khách hàng được sử dụng tiền mà không cần nộp tiền trước cho ngân hàng )… sự sơ hở, mất cảnh giác của những người làm nghề này đã tạo kẽ hở cho bọn tội phạm khai thác. Ngoài ra, do khả năng kinh tế còn hạn hẹp, tình trạng tiền lương, công tác phí chưa đáp ứng nhu cầu công tác, trang thiết bị cho lực lượng công an và các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn nên phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Như vậy những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội có nguồn gốc sâu xa về kinh tế - xã hội của thành phố và để giải quyết cơ bản tình hình tội này cần có những biện pháp kinh tế - xã hội thích hợp. 3.1.2. Nguyên nhân và điều kiện về giáo dục. Trong xã hội chúng ta hiện nay vấn đề nắm vững pháp luật và thực hiện pháp luật trong mỗi người dân còn hạn chế, chúng ta chưa thực sự quan tâm tới giáo dục pháp luật. Do vậy nhận thức về pháp luật còn rất hạn chế, tác dụng răn đe của pháp luật chưa được phát huy. Từ việc thiếu hiểu biết pháp luật mà dẫn đến vi phạm pháp luật. Có rất nhiều trường hợp người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ vì những mục đích rất tầm thường như lừa đảo để có tiền mua sắm, chi tiêu cá nhân… Ngoài ra, trong thực tế hiện nay ngày càng xuất hiện nhiều vụ lừa đảo người lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, khi chúng ta nghiên cứu sâu về nạn nhân của những vụ lừa đảo đó thì họ thường là những người có trình độ dân trí thấp, đặc biệt là ở những vùng ngoại thành ven đô và các tỉnh khác. Điều này đã tạo điều kiện cho bọn tội phạm dễ thực hiện được mục đích của mình, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó do hiểu biết pháp luật thấp, những người bị hại của những vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã sợ phiền hà hoặc không tin tưởng vào năng lực điều tra của các cơ quan, sợ bị liên luỵ (sợ ảnh hưởng tới uy tín cá nhân do quan hệ bất chính) nên họ đã không trình báo. Điều này đã khiến cho bon tội phạm nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và tiếp tục thực hiện các phi vụ lừa đảo tiếp theo. 3.1.3. Nguyên nhân và điều kiện về quản lý. Hiện nay công tác quản lý việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh do các cơ quan chức năng tiến hành còn chưa chặt chẽ, buông lỏng. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đã lợi dụng kẽ hở đó để thực hiện những công việc không có trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tiến hành lừa đảo. Điều này được minh chứng qua số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản người đi lao động nước ngoài của các cơ sở kinh doanh không có chức năng này ngày càng nhiều hoặc các vụ lừa đảo với thủ đoạn tuyển sinh dạy nghề mặc dù không có chức năng này ngày càng gia tăng… Bên cạnh đó, sự thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý nhân sự trong các doanh nghiệp cũng là một kẽ hở cho bọn tội phạm khai thác. Nhiều nhân viên trong doanh nghiệp đã lợi dụng danh nghĩa doanh nghiệp, hoặc cấu kết với nhưng đối tượng bên ngoài để lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại cho doanh nghiệp và khách hàng. 3.2. Các biện pháp phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong những năm qua, thành phố Hà Nội đã thực hiện các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách có hiệu quả, trong đó đã chủ động tiến hành những biện pháp phòng ngừa xã hội một cách tích cực, phát huy vai trò của nhân dân. Các cấp, các ngành đã chủ động bịt kín mọi sơ hở mà bọn tội phạm có thể lợi dụng. Công tác điều tra các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản đạt tỷ lệ cao. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại đã nêu ở phần nguyên nhân và điều kiện của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở Hà Nội, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải được tiến hành một cách tích cực và chủ động hơn. Chúng ta cần tiến hành đồng bộ và có hiệu quả những biện pháp sau: 3.2.1. Biện pháp kinh tế - xã hội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nguyên nhân và điều kiện từ chính những vấn đề kinh tế - xã hội. Do đó để phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước hết phải bắt đầu từ những biện pháp kinh tế - xã hội. Thành phố cần tập trung phát triển những ngành kinh tế thế mạnh, vừa phát triển kinh tế nhanh, vừa giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Giải quyết được những vấn đề bức xúc trong xã hội, tập trung vào việc tạo việc làm cho những người có tiền án, tiền sự, tạo cho họ cuộc sống ổn định. Những người này thường gặp phải sự kỳ thị, xa lánh của xã hội nên họ rất dễ quay trở lại con đường phạm tội. Giải quyết công ăn, việc làm cho người có tiền án, tiền sự chính là chủ động ngăn ngừa đầu vào của tội phạm. Thông qua việc thúc đẩy nền kinh tế thủ đô phát triển, đời sống nhân dân sẽ được nâng cao, khi tiềm năng kinh tế được nâng cao thì tất yếu giải quyết được những vấn đề chính sách xã hội. Khi đó các lực lượng chuyên trách trong đấu tranh phòng, chống tội phạm sẽ được hưởng chính sách tiền lương, phụ cấp và kinh phí thỏa đáng, chất lượng thông tin và trang thiết bị phục vụ cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm được nâng cao. Điều này sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật, có ý nghĩa lớn trong phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3.2.2. Biện pháp giáo dục. Để công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hiệu quả chúng ta cần tăng cường hiệu quả công tác giáo dục. Phải khắc phục ngay tình trạng hiện nay chỉ quan tâm đến giảng dạy văn hóa mà không chú ý đến dạy lối sống, các chuẩn mực đạo đức, quy tắc xử sự trong xã hội. Nhà trường phải quan tâm gắn việc dạy chữ với việc dạy người, phải coi việc giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho học sinh quan trọng không kém dạy văn hóa. Thành phố cần tổ chức các chương trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật sâu rộng trong nhân dân. Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật phải đa dạng có chiều sâu. Các cán bộ cảnh sát, công an phường cần phối hợp với các cụm dân phố, tổ dân cư tuyên truyền nâng cao tinh thần, ý thức cảnh giác, tố giác tội phạm trong nhân dân. Nếu nhận thức pháp luật được nâng cao sẽ tạo cho mỗi người dân ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn, số vi phạm pháp luật sẽ giảm đi. Ngoài ra, khi hiểu biết pháp luật của người dân được nâng cao, bọn tội phạm sẽ rất khó khăn khi thực hiện tội phạm. Chắc chắn số nạn nhân của các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ không còn nhiều như hiện nay. Như vậy, biện pháp giáo dục có vai trò rất quan trọng trong việc phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và tội phạm nói chung.Chúng ta cần tăng cường thực hiện có hiệu quả biện pháp này. 3.2.3. Biện pháp tăng cường công tác quản lý. Thực hiện chủ trương của nhà nước ta là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp nên hiện nay thủ tục thành lập mới một doanh nghiệp rất đơn giản và nhanh chóng, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều với những ngành nghề kinh doanh ngày càng phong phú và đa dạng. Trong tình hình hiện nay, các cơ quan chức năng cần tăng cường quản lý chặt chẽ việc đăng ký, thực hiện đúng ngành nghề của các cơ sở sản xuất kinh doanh, thường xuyên kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện những cơ sở vi phạm, khiến cho bon tội phạm không có cơ hội đưa ra những thông tin sai để lừa đảo người dân. Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tăng cường công tác quản lý đối với nhân viên trong công ty. Không để nhân viên trong công ty có cơ hội lợi dụng danh nghĩa công ty để thực hiện những vụ lừa đảo gây thiệt hại cho chính công ty và khách hàng. Ngoài ra, để công tác đấu tranh phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hiệu quả, các cơ quan chuyên môn đặc biệt là cơ quan công an cần tăng cường xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, thường xuyên trao đổi thông tin về tình hình an ninh trật tự tại các cơ quan, xí nghiệp, trường học, nắm chắc tình hình phạm tội trên địa bàn mình. Cần thường xuyên phát động các phong trào nhân dân phát hiện và tố giác tội phạm. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. PHẦN 4: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. Nhận Xét. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua diễn biến rất phức tạp có chiều hướng ngày càng gia tăng. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tuy chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số tội phạm nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội là rất lớn. Bọn tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoạt động với những thủ đoạn rất đa dạng, mang tính chuyên nghiệp, ngày càng xuất hiện nhiều thủ đoạn mới mang tính chất tinh vi hơn. Với đặc trưng là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường có tỷ lệ đồng phạm cao, có sự liên kết móc nối giữa các đối tượng trong nhóm tội phạm khá chặt chẽ, hiện nay đã hình thành một số tập đoàn lừa đảo. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ là người trong nước mà có rất nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài tiến hành, những người này thường là những người có trình độ cao vì vậy nên thủ đoạn phạm tội của chúng rất tinh vi. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nhu cầu cao hơn so với khả năng của mình, với lối sống ích kỷ, thực dụng, họ đã coi thường pháp luât và mọi quy tắc xử sự của xã hội. Lợi ích của họ trái ngược với lợi ích của cộng đồng vì vậy đã thúc đẩy họ đi vào con đường phạm tội. Hậu quả gây ra cho xã hội ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về tài sản của công dân và Nhà nước, gây tâm lý lo lắng cho nhân dân. Từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị, xã hội của thành phố. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội có nhiều nguyên nhân phát sinh và tồn tại nhưng chủ yếu gồm: nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường đã kéo theo những tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội; việc giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật cho các cá nhân trong cộng đồng chưa được thực hiện tốt do đó còn tồn tại một bộ phận những người có lối sống thực dụng, tha hóa, có ý thức coi thường pháp luật, coi thường lợi ích cộng đồng. Trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chúng và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng chúng ta chưa tạo được sức mạnh đồng bộ, tổng hợp của toàn xã hội. Trong công tác quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng còn có sự buông lỏng, hiệu lực quản lý còn hạn chế, tạo ra những lỗ hổng lớn mà bọn tội phạm có thể lợi dụng để phạm tội. Các cơ quan chính trong đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa phát huy hết hiệu quả trong hoạt động dẫn đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn chưa cao. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật của chúng ta còn chưa đồng bộ, nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế. Đó chính là những nguyên nhân và điều kiện chủ yếu để tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phát sinh và tồn tại trên địa bàn thủ đô. 4.2. Kiến nghị. - Trong thực tế hiện nay, một số tòa án khi tuyên án vẫn còn không phân biệt rõ giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999) với tội Đánh bạc (Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999). Đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đọat tài sản của người khác. Khi những người chơi bạc đã chuẩn bị trước phương tiện chơi một cách gian dối (như đánh dấu vào mặt sau quận bài…) khi đó họ luôn giữ thế chủ động trong việc giành phần thắng hay cố ý để thua, qua đó nhằm lấy tài sản của người chơi bạc khác thì đó phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi đó phải bị xét xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải tội đánh bạc. Trong thực tiễn xét xử đã có rất nhiều tòa án không quan tâm đến tình tiết này, đã xử không đúng tội. Vì vậy theo em các cơ quan xây dựng pháp luật cần ban hành văn bản pháp luật quy định rõ về trường hợp này, giúp tòa án xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm. - Để công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và tội phạm nói chung đạt hiệu quả cao, các cơ quan xây dựng pháp luật cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số luật như: Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự…thực tế hiện nay đã có nhiều vấn để bất hợp lý, không phù hợp với thực tế khách quan. Ngoài ra, theo em mô hình cơ cấu tổ chức của cơ quan điều tra Bộ công an cần phải được thay đổi theo hướng chuyên sâu hơn, tránh bị chia cắt như hiện nay. Như vậy mới phát huy được hiệu quả cao. - Hiện nay, có nhiều người Việt Nam sau khi phạm tội xong bỏ trốn ra nước ngoài hoặc đối tượng nước ngoài vào Việt Nam gây án sau đó bỏ trốn đi nước thứ ba. Việc dẫn giải những tên tội phạm này về xét xử là rất khó khăn nếu Việt Nam không có ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia đó. Vì vậy Việt Nam cần tính toán ký kết những hiệp định quốc tế liên quan đến việc hợp tác điều tra, bắt giữ, dẫn độ tội phạm với các quốc gia khác. Có như vậy mới tạo cơ sở pháp lý cho công tác điều tra, xử lý tội phạm trong khi tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất quốc tế nói riêng và tội phạm có tính chất quốc tế nói chung đang ngày càng có xu hướng phát triển. Trên đây là những phân tích, đánh giá và những kiến nghị của em về tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. Do không có điều kiện để thu thập một cách đầy đủ nhất các số liệu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở tất cả các cơ quan chuyên môn, do thời gian nghiên cứu về đề tài không có nhiều, chỉ có 3 tháng để tiếp xúc thực tế và thu thập thông tin nên bài viết này của em không tránh khỏi những thiếu xót. Mong rằng với sự góp ý chân thành của các thầy cô và độc giả, chuyên đề này sẽ trở thành một tài liệu tham khảo, giúp những người quan tâm đến vấn đề này có thể hiểu rõ hơn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô phụ trách, các cán bộ, nhân viên Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình phạm tội, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.doc
Luận văn liên quan