PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm qua nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đó
không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên ngoài. Để đạt
được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn hạn chế, các
nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác
nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay
nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và
vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài
đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát triển và chuyển sang phát triển
bền vững.
Nợ nước ngoài phải được sử dụng một cách có hiệu quả để đáp ứng các nhu cầu
đầu tư, đồng thời phải thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn trả nợ,
đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, cũng có không ít quốc gia không
những không cải thiện được một cách đáng kể tình hình kinh tế mà còn lâm vào tình
trạng nợ nần, khủng hoảng nợ và kinh tế suy thoái. Nguyên nhân của những thất bại
trong việc vay nợ nước ngoài cũng có rất nhiều, trong đó phải kể đến buông lỏng quản
lý nợ nước ngoài. Chính vì vậy chính sách quản lý nợ nước ngoài là một bộ phận thiết
yếu trong chính sách tài chính quốc gia.
Vấn đề quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1993 khi
nước ta chính thức thiết lập lại quan hệ hợp tác đa phương với các tổ chức tín dụng lớn
trên thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) và Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB). Song, cũng từ đó các cam kết hỗ trợ vốn ODA của các nước
công nghiệp phát triển và các tổ chức tín dụng quốc tế cho nước ta ngày càng tăng dần
về số lượng vay, số khoản vay, tính đa dạng của hình thức vay và trả nợ, vì thế việc
theo dõi và quản lý nợ nước ngoài cũng trở nên ngày càng bức thiết.
Tính cấp thiết của việc đổi mới quản lý nợ nước ngoài cũng xuất phát từ việc tăng
cường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam và quá trình toàn cầu hoá. Năm 2006, nước
ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu một cột mốc
quan trọng vào quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng của nước ta. Tăng cường hội nhập
với nền kinh tế thị trường toàn cầu, đặc biệt là các cam kết mở cửa dịch vụ tài chính
của Chính phủ, sẽ đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam khả năng tiếp cận với các
nguồn tín dụng quốc tế.
Đối với hệ thống quản lý nợ nước ngoài, điều này cũng có ý nghĩa việc ứng dụng
các phương pháp, kỹ thuật và kỹ năng phân tích nợ trong nền kinh tế thị trường để cập
nhật, giám sát và kiểm tra được việc vay và trả nợ nước ngoài trở nên hết sức bức
thiết. Đặc biệt do kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị
trường của nước ta chưa có nhiều và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong
quá trình hoàn thiện, nên nhu cầu nghiên cứu và xây dựng năng lực về mặt này càng
lớn.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các
chuyên gia kinh tế, năm nay thế giới sẽ phải gánh lấy những hậu quả to lớn do tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Việt Nam là một thành phần trong
4
“guồng máy” kinh tế toàn cầu, do đó sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cuộc khủng hoảng
này gây ra.
Khủng hoảng là một đề tài rộng lớn và có nhiều tác động đến nhiều nước, không
chỉ ở mặt kinh tế mà ở các mặt xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục Có thể nói khủng
hoảng kinh tế là một mãng vấn đề được cấu thành bởi nhiều khía cạnh khác nhau. Và
khủng hoảng nợ là một trong nhiều bộ phần cấu thành nên khủng hoảng kinh tế.
Để đảm bảo không rơi vào khủng hoảng nợ như các Mỹ Latinh trong thập niên
những năm 80, đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp quản lý hiệu quả các nguồn
vốn vay nước ngoài. Chúng tôi nhận thấy rằng nợ nước ngoài có thể xem như là một
“con dao hai lưỡi”, vừa giúp các nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát
triển kinh tế, nhưng nếu các nước sử dụng không hợp lý “nguồn vốn ngoại sinh” đó sẽ
gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế bền vững.
Do đó, một vấn đề bức thiết đặt ra lúc này là đòi hỏi Chính phủ phải có những
“bước đi” hợp lý, đặc biệt trong việc vay, quản lý và trả nợ nước ngoài để tránh “bước
nhầm những vết xe đã đổ” của các nước đi trước. Với tính cấp thiết của vấn đề nên
chúng tôi đã chọn đề tài “Nợ nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm
công trình nghiên cứu khoa học sinh viên của chính mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song chúng tôi cũng
không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được được sự góp
ý chân thành của thầy cô và bạn đọc nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung vào việc nghiên cứu hệ thống quản lý nợ
hiện hành và phân tích thực trạng quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam thông qua các chỉ
số kinh tế và chỉ số nợ nước ngoài trên giác độ vĩ mô.
Mục đích nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài tập trung vào công
tác quản lý nợ nước ngoài, các biến số và các chính sách có ảnh hưởng đến tính bền
vững của nợ nước ngoài giai đoạn 1995-2008.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Thu nhập thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau.
Thống kê, tổng hợp những thông tin thu thập được.
Phân tích những thông tin thu thập được. Từ đó đưa ra những kết luận cụ thể
cho từng vấn đề ở mỗi thời kỳ.
Trong đó, phương pháp chính là thống kê: mô tả và phân tích phù hợp
mục tiêu nghiên cứu.
4. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoài ở
Việt Nam.
Đồng thời sau mỗi chương chúng tôi đều rút ra kết luận để giúp cho người đọc có
thể nắm được những vấn đề chung nhất ở mỗi chương.
1
MỤC LỤC
trang
PHẨN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .3
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .4
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
4. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở
VIỆT NAM 5
1.1. TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI .5
1.1.1. Định nghĩa về nợ nước ngoài 5
1.1.2. Phân loại nợ nước ngoài .6
1.1.3. Phân loại các nước theo mức độ nợ nước ngoài 7
1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài .8
1.1.5. Vai trò của nợ nước ngoài 9
1.2. KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI 10
1.2.1. Định nghĩa về khủng hoảng nợ .10
1.2.2. Việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam .11
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 14
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ nước ngoài .14
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho việc Việt Nam trong việc vay và quản lý nợ
quốc tế 16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở
VIỆT NAM 19
2.1. TÌNH HÌNH VAY NỢ VAY NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM .19
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam .19
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam .23
2.2. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 26
2.2.1. Cơ chế quản lý nợ 26
2.2.2. Đánh giá về tình hình nợ nước ngoài tại Việt Nam 27
2.2.3. Hiệu quả sử dụng nợ vay 29
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 31
2.3.1. Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 31
2.3.2. Một số tồn tại trong quản lý nợ nước ngoài 32
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 37
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT VÀ
QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 38
3.1. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NỢ VAY NƯỚC
NGOÀI 38
3.1.1. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững .38
3.1.2. Gia tăng dự trữ ngoại hối 38
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối 39
3.2. CÁC GIẢI PHÁP LÀM GIẢM CHI PHÍ VAY NỢ .40
3.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái 40
3.2.2. Ổn định lạm phát 40
3.2.3. Thay đổi hình ảnh Việt Nam trên thị trường thế giới 41
3.3. CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG VỐN VAY HIỆU QUẢ 43
3.3.1. Kiểm soát nợ nước ngoài 43
3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả 44
3.4. CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NỢ VAY NƯỚC NGOÀI .45
3.5. CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ 46
3.5.1. Ổn định môi trường thể chế 46
3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 47
KẾT LUẬN .48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
PHỤ LỤC
70 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3194 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g có thể biểu diễn mối quan hệ cung - cầu đảo ngược bằng cách phân tích
cung và cầu về đồng đôla Mỹ. Trong một thế giới buôn bán song phương đã đơn giản
hoá của chúng ta, cung về đồng bảng của người Anh sẽ được chuyển thành cầu về
đồng đôla, trong khi cầu về đồng bảng Anh của người Mỹ sẽ được thể hiện thành cung
về đồng đôla. Sau đó, chúng ta có thể vẽ cung và cầu về đồng đôla và điểm cân bằng
sẽ đặt tại £0,67/$, chứ không phải là $1,5/£.
Ngoài ra, chúng ta có thể tìm thấy cung và cầu về mọi đồng tiền khác. Trong một
thế giới đa quốc gia sẽ có trao đổi buôn bán đa phương, với cung và cầu đến từ tất cả
các miền và nó sẽ quyết định toàn bộ hệ thống tỷ giá hối đoái.
Tác động của sự thay đổi trong thương mại. Điều gì sẽ xảy ra nếu có sự thay đổi
trong kim ngạch thương mại quốc tế? Thí dụ, điều gì xảy ra nếu nước Mỹ quyết định
hạn chế nhập khẩu từ Anh, hoặc khi người Mỹ đi ra nước ngoài ít hơn?
Trong trường hợp này, cầu về ngoại tệ của Mỹ sẽ giảm. Kết quả được trình bày
trong hình 2.2 cho trường hợp thay đổi đó ảnh hưởng đến nước Anh. Sự sụt giảm trong
mua sắm hàng hoá, dịch vụ và đầu tư đã làm giảm cầu về đồng ngoại tệ. Kết quả là giá
đồng ngoại tệ giảm xuống, tức là đồng bảng sẽ giảm xuống còn đồng đôla lên giá. Tỷ
giá hối đoái sẽ là bao nhiêu? Chỉ vừa đủ sao cho xuất khẩu và luồng vốn từ Anh vào
Mỹ tăng lên, nhập khẩu và luồng vốn từ Mỹ sang Anh giảm xuống cho đến khi cung
cầu lại cân bằng với nhau. Trong ví dụ mô tả ở hình 2.2, đồng bảng xuống giá từ 1,5
đôla, còn 1,2 đôla ăn 1 bảng.
Giả sử người Mỹ đi du lịch ít đi hoặc quyết định rút quân đội khỏi châu Âu. Điều
này sẽ làm giảm nhập khẩu từ Anh và giảm cầu về đồng bảng Anh. Dịch chuyển
đường cầu về đồng bảng D dịch chuyển sang trái tới D’. Tỷ giá của đồng bảng xuống
giá, còn đồng đôla lên giá. Tại sao tỷ giá lên lại khuyến khích người Mỹ mua hàng hoá
Anh và không khuyến khích người Mỹ xuất khẩu sang Anh?
54
Ngang giá sức mua và tỷ giá
Trong ngắn hạn, tỷ giá do thị trường xác định có xu hướng dao động lớn theo sự
vận động của lãi suất, các sự kiện chính trị và thay đổi trong kỳ vọng. Nhưng trong dài
hạn, các nhà kinh tế tin rằng, tỷ giá được quyết định chủ yếu bởi giá tương đối của
hàng hoá trong các nước khác nhau. Trường hợp đặc biệt là quy luật một giá cho
rằng, khi không tính đến chi phí chuyên chở và các hàng rào thương mại, các hàng hoá
như nhau phải được bán với cùng một giá trên tất cả các thị trường. Điều này có nghĩa
là, trong một thị trường tự do, tỷ giá của một nước có xu hướng làm cho chi phí mua
các hàng hoá trao đổi trong nước bằng với chi phí mua các hàng hoá đó ở nước ngoài.
Quan sát này dẫn đến lý thuyết ngang giá sức mua (Purchasing Power Purity – PPP)
của tỷ giá hối đoái.
Lý thuyết ngang giá sức mua có thể được minh họa bằng một ví dụ đơn giản. Giả
sử, giá thị trường của một lô hàng (ôtô, đồ kim hoàn, xăng dầu…) là 1000 đôla ở Mỹ
và 10000 pêsô ở Mexico. Với tỷ giá 100 pêsô ăn 1 đôla, lô hàng này trị giá 100 đôla ở
Mexico. Với giá tương đối như vậy và trong điều kiên thương mại tự do giữa hai
nước,chúng ta sẽ dự kiến được chứng kiến các hãng và người tiêu dùng Mỹ lũ lượt
vượt biên giới để mua hàng thấp hơn tại Mexico. Kết quả là nhập khẩu từ Mexico tăng
cao và cầu về đồng pêsô Mexico tăng. Điều này làm cho tỷ giá của đồng pêsô Mexico
tăng so với đồng đôla Mỹ, vì vậy bạn cần nhiều đôla hơn để mua một lượng tiền pêsô
như cũ. Kết quả là, giá hàng hoá Mexico tính bằng đồng đôla sẽ tăng mặc dù giá tính
bằng đồng pêsô vẫn không thay đổi.
Quá trình này bao giờ sẽ kết thúc? Chỉ khi nào tỷ giá tăng lên đến 10 pêsô ăn 1
đôla thì quy luật một giá mới được duy trì: chỉ tại tỷ giá đó thì giá lô hàng này tại hai
thị trường mới bằng nhau. Với 10 pêsô ăn 1 đôla, chúng ta nói rằng hai đồng tiền đã có
sức mua ngang nhau xét về lượng hàng hoá mua được.
Học thuyết ngang giá sức mua cũng được phát biểu rằng, những nước có tốc độ
lạm phát cao sẽ có xu hướng xuống giá đồng tiền. Chính xác hơn, nếu lạm phát ở nước
A là 10% một năm, trong khi lạm phát ở nước B là 2% một năm, thì đồng tiền nước A
có xu hướng xuống giá so với đồng tiền nước B 8% một năm, đúng bằng chênh lệch tỷ
lệ lạm phát giữa hai nước. Thí dụ, lạm phát phi mã đã làm giá cả ở Argentina tăng lên
gấp đôi trong vòng một năm, trong khi giá hàng ở Mỹ và tỷ giá giữa Argentina và Mỹ
55
không đổi. Khi đó, giá hàng ở Argentina gấp đôi giá hàng Mỹ nhập khẩu tương ứng.
Kết quả là cầu về đồng pêsô Argentina sẽ giảm và cầu về đồng đôla Mỹ sẽ tăng, vì
xuất khẩu của Mỹ sang Argentina được khuyến khích.
Chúng ta nên luu ý rằng lý thuyết ngang giá sức mua (PPP) chỉ nói đến xu hướng
chứ không cào bằng tuyệt đối các mức giá tương đối. Sự biến động trong lý thuyết
PPP có thể thấy được trong mối quan hệ giữa đồng đôla Mỹ và đồng yên Nhật trong
thập kỷ qua; tỷ giá này đã từng cao tới 220 yên ăn 1 đôla và thấp xuống tới 100 yên ăn
1 đôla, mặc dù các nhà kinh tế của hai nước đã tính mức độ ngang giá sức mua là
khoảng 150 yên ăn 1 đôla. Hàng rào thương mại và chi phí chuyên chở cho phép giá
cả được phân hoá đáng kể giữa hai nước. Hơn nữa, các luồng tài chính có thể chế ngự
được các luồng thương mại trong ngắn hạn. Vì thế, tuy lý thuyết PPP là một định
hướng hữu ích cho tỷ giá trong dài hạn nhưng trên thực tế, tỷ giá vẫn có thể lệch khỏi
mức độ ngang giá sức mua của chúng trong nhiều năm.
Phụ lục 2: CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
2.1. CÁC TÀI KHOẢN CÁN CÂN THANH TOÁN
Phần lớn các quốc gia đều quan tâm rất lớn đến luồng thương mại và nợ nước
ngoài của họ. Báo chí đăng đầy những câu chuyện về thâm hụt thương mại và tình
trạng nợ nần ngày càng chồng chất ở nước Mỹ, hay sự cần thiết phải điều chỉnh cán
cân thanh toán ở các nước châu Mỹ Latinh. Để nắm vững các thành phần của thương
mại quốc tế, cần phải có sự hiểu biết chung về hạch toán cán cân thanh toán. Cũng
giống như trao đổi trong nước, thương mại quốc tế có thể diễn ra thông qua phương
tiện tiền tệ và luồng tiền tệ chảy vào hay chảy ra khỏi một nước đo bằng cán cân thanh
toán của quốc gia đó.
Cán cân thanh toán quốc tế của một nước là những báo cáo có hệ thống về tất cả
các giao dịch kinh tế giữa các nước đó và phần còn lại của thế giới. Các cấu thành
chính là tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Cơ cấu cơ bản của cán cân thanh toán
được trình bày trong bảng 2.1 sau:
Bảng 2.1: Các cấu thành cơ bản của cán cân thanh toán
I. Tài khoản vãng lai
Tư nhân:
Thương phẩm (hay “cán cân thương mại”)
Vô hình (dịch vụ và thu nhập đầu tư ròng)
Xuất nhập khẩu và viện trợ của Chính phủ
II. Tài khoản vốn
Tư nhân
Chính phủ
III. Sai số thống kê
IV. Cân đối chính thức
56
Khoản nợ và khoản có
Giống như mọi tài khoản khác, cán cân thanh toán ghi nhận mọi giao dịch, bất kể
là với dấu dương hay dấu âm. Quy tắc chung của hạch toán cán cân thanh toán như
sau:
− Nếu một giao dịch mang lại ngoại tệ cho quốc gia, nó được gọi là khoản có và
được ghi chép như một khoản dương. Nếu một giao dịch phải chi tiêu ngoại tệ, đó là
khoản nợ và được ghi chép như là một khoản âm. Nhìn chung xuất khẩu là khoản có
và nhập khẩu là khoản nợ.
− Xuất khẩu có thể thu được ngoại tệ, nên nó là khoản có. Nhập khẩu đòi hỏi phải
chi tiêu ngoại tệ nên nó là khoản nợ. Việc Mỹ nhập khẩu máy quay camera từ Nhật
Bản nên được ghi chép như thế nào? Vì chiếc máy quay camera trước sau cũng được
thanh toán bằng đồng yên, nên rõ ràng nó là một khoản nợ. Chúng ta nên xử lý thu
nhập từ tiền lãi và cổ tức trên những khoản đầu tư mà người Mỹ nhận được từ nước
ngoài ra sao? Hiển nhiên chúng là khoản có giống như xuất khẩu chì chúng mang lại
cho người Mỹ ngoại tệ.
Chi tiết về cán cân thanh toán
Cán cân tài khoản vãng lai. Tổng cộng tất cả các khoản trong phần I của bảng 2.1
thường được gọi là cán cân tài khoản vãng lai. Phần này tổng kết tất cả các khoản
chênh lệch giữa tổng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của một nước. Nó
gần như đồng nhất với phần xuất khẩu ròng trong tài khoản sản phẩm quốc dân.
Trước đây, nhiều người chỉ tập trung vào cán cân thương mại: bao gồm các
khoản xuất nhập khẩu thương phẩm. Cấu thành của nhập khẩu và xuất khẩu thương
phẩm được trình bày trong bảng 2.1, nó bao gồm chủ yếu lá các hàng sơ cấp (như thực
phẩm và nhiên liệu) và các hàng chế tạo. Trong những thời kỳ đầu, những người trọng
thương cố gắng mang về thặng dư thương mại (phần xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu) và
được gọi là “cán cân thanh toán có lợi”. Họ hy vọng tránh được “cán cân thanh toán
bất lợi” mà họ hàm ý chỉ thâm hụt thương mại (phần nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu).
Việc lựa chọn các thuật ngữ vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay khi nhiều quốc gia tìm
cách có được thặng dư thương mại. Tuy nhiên, kinh tế học lại cho rằng, thâm hụt
thương mại đôi khi lại là một lợi thế kinh tế cho các nước, khi sự thâm hụt đó phản
ánh việc nhập khẩu các thiết bị vốn hoặc các khoản đầu tư dưới những hình thức khác
mà chúng có thể được dùng để nâng cao năng suất và sản lượng.
Ngoài cán cân thương mại ra, chúng ta không được quên vai trò ngày càng quan
trọng của các khoản vô hình, bao gồm dịch vụ và thu nhập từ đầu tư. Dịch vụ bao gồm
như các khoản vận tải đường biển, dịch vụ tài chính và du lịch ra nước ngoài. Thu
nhập từ đầu tư bao gồm thu nhập ròng trên các khoản đầu tư ra nước ngoài (tức là, thu
nhập trên các tài sản của Mỹ ở nước ngoài trừ đi thanh toán cho các tài sản của nước
ngoài ở Mỹ). Một trong những tiến bộ lớn của thập kỷ trước là sự tăng trưởng của một
bộ phận dịch vụ trong tài khoản vãng lai của Mỹ.
Bảng 2.2 trình bày tóm tắt cán cân thanh toán quốc tế của Mỹ năm 1993. Hãy chú
ý đến 4 thành phần chính: tài khoản vãng lai, tài khoản vốn, sai số thống kê và cân đối
chính thức. Mỗi khoản mục được nêu tên trong cột (a). Cột (b) liệt kê các khoản có,
còn cột (c) trình bày các khoản nợ. Cột (d) nêu các khoản có ròng hoặc nợ ròng, nó thể
hiện là khoản có nếu trong cán cân khoản mục đó bổ sung thêm vào dự trữ ngoại tệ
của chúng ta và thể hiện khoản nợ nếu nó rút bớt từ nguồn cung ngoại tệ của chúng ta.
57
Bảng 2.2: Cán cân thanh toán của Mỹ năm 1993 (tỷ đôla)
(a) (b) (c) (d)
STT Khoản mục Khoản có
(+)
Khoản nợ
(-)
Khoản có (+)
hoặc nợ (-)
ròng
I. Tài khoản vãng lai
1. Cán cân thương mại thương phẩm 457 -589 -132
2. Vô hình 30
3. Cân đối TK vãng lai -102
II. Tài khoản vốn
[cho vay (-) hoặc đi vay (+)] 231 -146
4. Các luồng vốn
5. Cân đối TK vốn
III. Sai số thống kê 21
6.Tổng mức cần điều chỉnh
IV. Cân đối chính thức
7. Cán cân đối chính thức -1
8. Tổng mức ròng chung chính thức 0
(Nguồn: Bộ Thương mại Hoa Kỳ)
Tài khoản vốn. Đến đây, chúng ta hoàn tất việc phân tích về tài khoản vãng lai.
Nhưng nước Mỹ làm thế nào để trang trải thâm hụt tài khoản vãng lai 102 tỷ USD năm
1993? Nước Mỹ phải vay hoặc giảm bớt các tài sản của nó ở nước ngoài, với nguyên
tắc chắc chắn rằng cái mà bạn mua thì bạn phải chi trả hoặc phải nợ. Điều này có
nghĩa xét về tổng thể, cán cân thanh toán quốc tế theo định nghĩa phải thể hiện cân đối
cuối cùng bằng 0. Sự vận động của vốn là các khoản vay mà tư nhân và chính phủ cho
vay hoặc đi vay từ cư dân và chính phủ nước ngoài. Thí dụ, sự vận động của vốn diễn
ra khi quỹ hưu trí Nhật Bản mua trái phiếu của Chính phủ Mỹ hoặc khi người Mỹ mua
cổ phiếu của một hãng ở Anh.
Cân đối chính thức. Khi nước Mỹ theo đuổi nghiêm túc chính sách buông lỏng và
không can thiệp đối với các giao dịch bên ngoài của nó thì rất khó có giá trị 0 ở dòng
thứ 6 của bảng 2.2. Các nước có can thiệp vào thị trường trao đổi đã cân đối sổ sách
của họ với các khoản thu chi ngoại tệ của chính phủ. Những luồng cân đối này do
chính phủ đưa ra gọi là cân đối chính thức. Cách thông dụng nhất để đưa ra cân đối
chính thức hiện nay là cân đối với các nước mua hoặc bán trái phiếu chính phủ Hoa
Kỳ. Lưu ý rằng, trong dòng 7 có sự thay đổi chút ít (âm 1 tỷ đôla được trừ khỏi tài sản
chính thức của Mỹ năm 1993). Nếu bạn so sánh sự thay đổi cân đối chính thức với các
nguồn vào khác, bạn sẽ thấy các luồng tư nhân chiếm ưu thế trong cán cân thanh toán
đối với các nền kinh tế thị trường như Mỹ.
Tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán
Đến đây, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và những
điều chỉnh trong cán cân thanh toán. Trong tình huống đơn giản nhất, giả sử tỷ giá
được xác định bởi cung và cầu. Giả sử rằng, nước Đức xuất phát điểm ở cân bằng và
sau đó phải chịu một cú sốc trong cán cân thanh toán. Thí dụ, sau khi thống nhất nước
Đức, Ngân hàng Trung ương Đức có thể tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát và do đó
làm tăng cầu của nước ngoài đối với các tài sản của Đức. Hoặc phục hồi kinh tế ở Mỹ
58
có thể dẫn đến việc tăng cầu về đồng mác Đức vì người Mỹ cần nhiều đồng mác Đức
để mua hàng của nước Đức.
Trong trường hợp nào thì cũng gây ra dư cầu về đồng mác Đức tại tỷ giá hối đoái
cũ. Tại tỷ giá cũ này, Đức có xu hướng được hưởng thặng dư trong cả tài khoản vãng
lai và tài khoản vốn khi nhiều đồng mác Đức rời khỏi nước Mỹ và chảy vào nước Đức.
Đây là lúc tỷ giá đóng vai trò làm đối trọng của mình. Khi cầu về đồng mác Đức
tăng, tình trạng này sẽ làm đồng mác Đức lên giá và đồng đôla xuống giá. Sự vận động
này của tỷ giá tiếp diễn cho đến khi tài khoản vãng lai và tài khoản vốn trở lại cân
bằng. Thiết lập thế cân bằng cho tài khoản vãng lai. Ở đây, sự lên giá của đồng mác đã
làm cho hàng hoá của Đức đắt hơn và khiến cho xuất khẩu của Đức giảm xuống, nhập
khẩu của Đức tăng lên, điều này có xu hướng làm giảm tài khoản vãng lai của Đức.
Sự vận động của tỷ giá hoạt động như một con lăn thăng bằng để triệt tiêu tất cả
thặng dư hay thâm hụt trong cán cân thanh toán.
2.2. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA CÁN CÂN THANH TOÁN
Nhìn lại lịch sử kinh tế của các nước công nghiệp tiên tiến cho thấy, các nước này
trải qua 4 giai đoạn trong cán cân thanh toán khi chuyển từ những con nợ non trẻ thành
những chủ nợ trưởng thành. Trình tự này được diễn ra, với những khác biệt nhất định
liên quan đến đặc thù lịch sử của từng nước, trong nền kinh tế tiên tiến của Bắc Mỹ,
châu Âu và Đông Nam Á. Chúng ta có thể minh họa0 các giai đoạn này bằng cách
điểm lại tóm tắt lịch sử cán cân thanh toán của Mỹ:
Một quốc gia là con nợ non trẻ đang trưởng thành. Từ cuộc Chiến tranh
Độc lập cho đến sau cuộc Nội chiến, Mỹ đã nhập khẩu vào tài khoản vãng lai nhiều
hơn xuất khẩu. châu Âu đã góp phần vào sự chênh lệch đó, nó cho phép nước Mỹ
được nguồn dữ trự vốn của mình. Mỹ là một quốc gia con nợ non trẻ đang tăng trưởng
điển hình.
Quốc gia con nợ trưởng thành. Từ khoảng năm 1873 đến 1914, cán cân
thương mại của Mỹ đã chuyển thành thặng dư. Nhưng sụ tăng lên trong cổ tức và lãi
vay trả cho nước ngoài trong các khoản nợ cũ đã giữ cho tài khoản vãng lai ít nhiều ở
trạng thái cân bằng. Sự vận động của vốn cũng gần như cân bằng vì cho vay vừa đủ bù
đắp khoản đi vay.
Quốc gia chủ nợ mới. Trong Chiến tranh Thế giới lần II, nước Mỹ đã
bành trướng xuất khẩu của mình rất mạnh. Công dân Mỹ và Chính phủ đã cho các
nước đồng minh Anh và Pháp vay tiền để trang trải các nhu cầu về khí tài chiến tranh
và hàn gắn sau chiến tranh. Từ cuộc chiến này, nước Mỹ đã nổi lên thành một quốc gia
chủ nợ.
Quốc gia chủ nợ trưởng thành. Trong giai đoạn thứ tư, thu nhập từ vốn
và đầu tư ra nước ngoài đã mang lại một thặng dư lớn trên các khoản vô hình, mà
thặng dư này đủ để bù đắp thâm hụt trong buôn bán hàng thương phẩm. Hình thái này
diễn ra ở Mỹ cho đến đầu những năm 1980. Ngày nay, các nước như Nhật Bản đã
đóng vai trò một quốc gia chủ nợ trưởng thành vì họ đã được hưởng thặng dư tài
khoản vãng lai lớn, và đến lượt mình họ lại đầu tư nước ngoài.
Thật ngạc nhiên, khi nước Mỹ đã bước ra khỏi giai đoạn là quốc gia chủ nợ trưởng
thành, như các số liệu về cán cân thanh toán trong bảng 2.1 đã cho thấy. Một lần nữa
Mỹ trở thành một quốc gia con nợ, vay rất nhiều từ những nước đang trong giai đoạn
59
4. Sự khác nhau giữa tình trạng mới này và giai đoạn 1 là ở chỗ: vay ngày nay là để
tiêu dùng chứ không phải để đầu tư.
Một số nhà kinh tế lo ngại liệu nước Mỹ có bước vào giai đoạn thứ 5, trở thành
quốc gia con nợ già cỗi hay không. Họ lưu ý rằng, sự phối hợp chính sách kinh tế vĩ
mô thắt chặt tiền tệ và thâm hụt ngân sách lớn trong những năm 1980 đã làm giảm tiết
kiệm quốc gia. Ngày nay, Mỹ không thể tạo ra một khối lượng tiết kiệm đủ để đáp ứng
các nhu cầu cầu về vốn của nó và phải quay sang các nước thắt lưng buộc bụng hơn để
tạo nguồn tiết kiệm. Đối tác của tình trạng tiết kiệm âm của Mỹ là người nước ngoài,
đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản, đang mua rất nhiều tài sản của Mỹ để bổ sung vào
cơ cấu đầu tư của họ.
Phụ lục 3: HỆ THỐNG CẢNH BÁO VÀ GIÁM SÁT TỪ XA: CÔNG
CỤ ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ - TÀI CHÍNH
Với quyết tâm thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập,
qua hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng khá cao,
ngày càng vững chắc, khẳng định là một bộ phận không thể tách rời của kinh tế thế
giới. Quá trình chuyển đổi toàn diện nền kinh tế, kể cả trong ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn là quá trình nới lỏng và từng bước tự do hoá cơ chế quản lý kinh tế - tài chính,
từ chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng biện pháp mệnh lệnh hành chính là chủ yếu
chuyển sang quản lý và điều hành bằng luật pháp và biện pháp kinh tế, bằng cơ chế,
chính sách.
Với quyết tâm thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập, qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng khá
cao, ngày càng vững chắc, khẳng định là một bộ phận không thể tách rời của kinh tế
thế giới. Quá trình chuyển đổi toàn diện nền kinh tế, kể cả trong ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn là quá trình nới lỏng và từng bước tự do hoá cơ chế quản lý kinh tế - tài
chính, từ chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế bằng biện pháp mệnh lệnh hành chính là
chủ yếu chuyển sang quản lý và điều hành bằng luật pháp và biện pháp kinh tế, bằng
cơ chế, chính sách. Vấn đề thực sự cấp bách đối với nền kinh tế - xã hội là phải có
chính sách và chiến lược kinh tế, chiến lược tài chính phù hợp, hiệu quả để duy trì sự
phát triển nhanh, ổn định và ngăn chặn, phát hiện, phòng ngừa có hiệu quả và ứng phó
kịp thời các mất cân đối kinh tế tài chính vĩ mô và các cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính có thể xảy ra trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cần phải nhìn nhận những điều kiện có thể tạo nguy cơ gây mất ổn định, mất an
ninh cho nền kinh tế - tài chính. Cần chủ động tạo lập hệ thống kiểm soát và cảnh báo
từ xa để chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và đặc biệt là chủ động có giải
pháp đối phó, ứng phó, hạn chế tối đa những bất lợi cho nền kinh tế - tài chính.
3.1. YÊU CẦU PHẢI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CẢNH BÁO VÀ GIÁM SÁT
TỪ XA
Duy trì nền kinh tế - tài chính ổn định là cần thiết, nhưng phải hiểu ổn định trong sự
vận động và phát triển. An toàn và an ninh cho nền kinh tế - tài chính là trạng thái
không bị nguy hiểm từ phía các tác động bất lợi từ bên trong và bên ngoài nền kinh tế.
60
Giữ an toàn và an ninh cho nền kinh tế - tài chính là không tự mình gây hại cho mình,
đồng thời ngăn chặn, hạn chế và ứng phó với những tác động bất lợi từ bên ngoài.
Vì vậy, cần phải tạo lập và duy trì một hệ thống cảnh báo, hệ thống giám sát từ xa
để kiểm soát và hạn chế những tác động bất lợi từ bên trong nền kinh tế, phòng ngừa,
phát hiện và chủ động có giải pháp ứng phó với những biến động gây tác động bất lợi
đối với nền kinh tế. Cần phải thấy hết những rủi ro tiềm ẩn ngay trong nền kinh tế và
những chính sách cũng như sự vận hành chính sách gây nên. Yêu cầu đặt ra với hệ
thống cảnh báo, hệ thống giám sát từ xa là:
- Cần có hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ an toàn, an ninh của nền kinh tế - tài
chính. Đó phải là một hệ thống tiêu chí có tính hệ thống, toàn diện, tính phân nhóm,
tính điển hình, tính khả thi, tính phát triển và tính quốc tế. Đồng thời phải phù hợp đặc
điểm và trình độ phát triển của Việt Nam.
- Phải lường hết và thấy được những rủi ro tiềm ẩn của bản thân nền kinh tế. Đặc
biệt là các tiềm ẩn trong bản thân các chính sách, bản thân hệ thống hành chính, hệ
thống quản lý. Từ đó có sự chủ động trong đề ra và thực hiện các biện pháp ngăn chặn,
phòng ngừa từ xa. Đồng thời, chuẩn bị sẵn các giải pháp ứng phó trong những hoàn
cảnh cụ thể.
- Phân tích và đánh giá đúng mức những yếu kém, tồn tại trong nền kinh tế, trong
hoạt động tài chính, đặc biệt là trong hoạt động đầu tư, huy động vốn đầu tư, trong
hoạt động của thị trường tài chính và hoạt động ngân hàng, tín dụng, hoạt động của
doanh nghiệp... Không chỉ thấy thực chất của những yếu kém mà phải thấy được
nguyên nhân, căn nguyên của nguyên nhân để ngăn ngừa các tác động bất lợi và có
giải pháp sớm hạn chế tác động bất lợi đối với nền kinh tế.
- Đánh giá và có sự nhìn nhận đúng mức những biến động bên ngoài và những bất
ổn trong quan hệ kinh tế quốc tế, kể cả kinh tế đối ngoại, tài chính đối ngoại, cả trong
vay và sử dụng vốn vay, trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,
trong huy động vốn đầu tư gián tiếp, trong thị trường tài chính mở... Từ đánh giá để
thiết lập hệ thống kiểm soát trong nước và biện pháp ngăn chặn, ứng phó.
- Nhận thức và đánh giá đúng mức các nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế - tài chính do
tăng trưởng nóng, thiếu bền vững, trong các hoạt động đầu tư, tín dụng, ngân hàng,
trong hoạt động thương mại và cán cân thanh toán quốc tế.
- Thiết lập và vận hành có hiệu quả hệ thống công cụ bảo đảm an ninh kinh tế, an
ninh tài chính trong nước, bao gồm hệ thống theo dõi và cảnh báo sớm, thiết lập hệ
thống dự phòng để bù đắp những tổn thất trong hoạt động kinh tế - tài chính (nếu xảy
ra), xây dựng hệ thống các chính sách, cơ chế quy định quản lý và kiểm soát các hoạt
động kinh tế, đặc biệt là các thiết chế tài chính và thị trường tài chính, tăng cường hiệu
quả và hiệu lực của các công cụ quy hoạch, kế hoạch, công cụ tài chính: thuế phí, lệ
phí, phân bổ ngân sách và công cụ tiền tệ; tạo dựng và duy trì hệ thống giám sát kinh
tế, giám sát tài chính.
- Cần duy trì an ninh an toàn kinh tế, tài chính cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả an ninh
về các cân đối vĩ mô, an ninh về ngân sách nhà nước, về nợ quốc gia, nợ chính phủ,
trong khu vực kinh tế doanh nghiệp và kinh tế dân doanh.
61
3.2. MÔ HÌNH VÀ CÔNG CỤ CỦA HỆ THỐNG CẢNH BÁO SỚM
Thứ nhất, thiết lập mô hình phân tích, dự báo tác động và ảnh hưởng của các chính
sách đã ban hành và sẽ ban hành tác động đến nền kinh tế cả trước mắt và lâu dài
Mỗi chính sách kinh tế, mỗi chính sách tài chính đều có độ trễ nhất định. Vì vậy,
cần có sự phân tích mang tính định lượng và dự báo tác động của từng chính sách đến
đời sống kinh tế - xã hội, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến sự ổn định phát triển, đến
ngân sách nhà nước, đến từng nhóm lợi ích, từng tầng lớp dân cư và giai tầng xã hội.
Thứ hai, thiết lập và vận hành mô hình phân tích dự báo tác động của kinh tế thế
giới đến kinh tế Việt Nam.
Mô hình dự báo tạo lập mối liên hệ giữa các biến số kinh tế, kể cả biến số ngoại
sinh và biến số nội sinh. Mô hình phân tích dự báo phải đảm bảo tính đồng nhất, tính
vững chắc và khả năng dự báo tốt. Mô hình phân tích và dự báo phải bao gồm cả khối
cân đối kinh tế vĩ mô, khối sản xuất, khối đầu tư, khối kinh tế ngoại thương, khối tài
chính quốc gia và ngân sách nhà nước. Mô hình phân tích dự báo phải đưa ra được các
phương án khác nhau để từ đó chủ động trong chính sách kinh tế đối với tăng trưởng,
đối với hoạt động thương mại quốc tế và chính sách huy động vốn đầu tư nước ngoài
trong từng thời kỳ phát triển. Đồng thời, về mặt tài chính cần chủ động trong chính
sách thu chi ngân sách, chính sách nâng cao tiềm lực nền tài chính quốc gia.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tiêu thức, chuẩn mực để đánh giá và đảm bảo sự an toàn
của nền kinh tế và an ninh tài chính
Các chỉ tiêu và tiêu thức phải vừa mang tính định tính, vừa định lượng. Các chỉ tiêu
cần đạt được độ chính xác tương đối phụ thuộc chất lượng của thông tin hạch toán kế
toán và thống kê. Việc thiết lập các tiêu chí và chỉ tiêu phụ thuộc khá nhiều vào bản
chất kinh tế của các chỉ tiêu, cơ sở thu thập xử lý thông tin và độ tin cậy của thông tin
thu nhận được. Sự phát triển của công nghệ thông tin và xu hướng công khai hoá,
minh bạch hoá sẽ tạo ra cơ hội và những thuận lợi rất căn bản cho hình thành các tiêu
chí và tiêu thức này. Nhìn chung các tiêu chí và tiêu thức hình thành từ tổng kết thực
tiễn còn ít cơ sở khoa học và diễn biến khá phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố đa
dạng nên không ít chỉ tiêu được hình thành từ kết quả thực chứng.
Hệ thống tiêu chí đánh giá sự an toàn, an ninh của nền kinh tế, an ninh tài chính
quốc gia cần phải thoả mãn các yêu cầu về tính hệ thống, toàn diện, phân nhóm, điển
hình, tính khả thi, tính quốc tế và tính phát triển.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính nhà nước
Cho đến nay, đã có khá nhiều luật về kinh tế - tài chính được ban hành, trong đó có
nhiều luật đã và đang phát huy tác dụng trong đời sống kinh tế và xã hội như Luật Đầu
tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Ngân hàng, Luật Chứng
khoán, Luật Kế toán, Luật Thống kê, các luật thuế và quản lý thuế... Nhưng vẫn chưa
có luật điều chỉnh toàn bộ tài chính quốc gia, tài chính nhà nước. Các quỹ ngoài ngân
sách nhà nước, các hoạt động vay nợ, sử dụng vốn vay và trả nợ của Chính phủ, quản
lý và sử dụng tài sản của nhà nước... chưa được điều chỉnh bằng luật. Do vậy, cần sớm
ban hành Luật Tài chính Nhà nước hoặc Luật Quản lý Ngân quỹ Nhà nước với những
quy định cụ thể, rõ ràng, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ và có tính khả thi cao. Để
phù hợp và đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế, quản lý tài chính ngày càng đa dạng,
62
phức tạp và thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi luật pháp tài chính phải có hiệu lực
pháp lý cao, rõ ràng, minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế.
Thứ năm, thiết lập hệ thống và phương tiện kiểm soát kinh tế - tài chính của nhà
nước
Giám sát kinh tế - tài chính ngày càng đóng vai trò quan trọng trong khi các cuộc
khủng hoảng kinh tế, tài chính - tiền tệ xảy ra liên tục, có quy mô và mức độ nguy
hiểm ngày càng lớn. Các nước phát triển cũng như đang phát triển đều chú trọng xây
dựng và hoàn thiện các thể chế giám sát kinh tế, giám sát tài chính có hiệu quả thông
qua tăng cường kỷ luật thị trường, thiết lập các cơ chế báo cáo bắt buộc một cách
chính xác, trung thực, nâng cao độ tin cậy của các thông tin tài chính, kế toán, mở rộng
công khai hoá và minh bạch hoá tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp.
- Cần thiết lập hệ thống giám sát và kiểm soát đối với các doanh nghiệp có vốn của
nhà nước trên cơ sở hệ thống thông tin và khai báo công khai các thông tin tài chính
của doanh nghiệp. Cần bảo vệ và phát triển vốn của nhà nước tại các công ty nhà
nước, công ty cổ phần có vốn của nhà nước. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của đại
diện tài chính nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần và công ty đầu tư, kinh doanh
vốn nhà nước.
- Thiết lập hệ thống và phương tiện kiểm soát và thực hiện việc kiểm tra giám sát
thông qua hệ thống khai báo thông tin bắt buộc. Tuỳ theo quy mô, tính chất và lĩnh
vực hoạt động của công ty để có quy định về các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu kinh
tế - tài chính bắt buộc phải gửi cho cơ quan thuế và xuất trình cho các cơ quan thanh
tra, kiểm tra. Đối với các công ty cổ phần, cần thực hiện chế độ công khai hoá thông
tin tài chính và thông tin về kết quả kinh doanh định kỳ cho các cổ đông và cơ quan
quản lý nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về kế toán, về chuẩn mực kế toán. Thực hiện việc
đăng ký sổ kế toán tại toà án, mở rộng hình thức công khai hoá và minh bạch hoá các
thông tin tài chính của doanh nghiệp, kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm tình trạng sử
dụng hai hoặc nhiều hệ thống sổ kế toán.
- Thực hiện kiểm toán bắt buộc với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp hoạt
động trong những ngành nghề kinh doanh nhạy cảm, các tổ chức tín dụng, ngân hàng,
các quỹ, các công ty tài chính, chứng khoán và tất cả các đơn vị có sử dụng ngân sách
nhà nước. Khuyến khích thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán hoạt động
đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Yêu cầu thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ và bộ máy kiểm toán nội bộ trong các
đơn vị, cơ quan quản lý và sử dụng ngân quỹ nhà nước, các doanh nghiệp có vốn của
nhà nước. Trong hoàn cảnh phức tạp, kiểm soát từ bên ngoài đối với nền kinh tế, đối
với hệ thống tài chính là chưa đủ, các cơ quan cấp trên cần chuyển hướng sang hình
thức đánh giá chất lượng quản lý của các tổ chức, cơ quan, các doanh nghiệp, đặc biệt
là các cơ quan, tổ chức tài chính - ngân hàng đặt trọng tâm vào kiểm soát từ bên trong,
khuyến khích các tổ chức tài chính - ngân hàng tự kiểm soát các giao dịch bằng cả quy
trình nghiệp vụ, quy chế tổ chức và các quy định mang tính hành chính.
- Cần tổ chức lại hệ thống thanh tra, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động
thanh tra, đặc biệt là các hệ thống thanh tra chuyên ngành.
63
Toàn cầu hoá đã và đang thách thức tất cả hệ thống kinh tế - tài chính, hệ thống
giám sát, kể cả các nước phát triển, các nước đang phát triển và các tổ chức tài chính
quốc tế. Vấn đề kiện toàn hệ thống giám sát, hệ thống cảnh báo sớm được các nước
đặc biệt quan tâm, xem đó là chìa khoá đảm bảo sự ổn định trong phát triển và an ninh
tài chính, lá chắn cho phép phát hiện, phòng ngừa nguy cơ khủng hoảng, nguy cơ tạo
ra các bất ổn của nền kinh tế. Kinh tế thị trường nhấn mạnh và coi trọng tính chủ động,
độc lập của các tổ chức kinh tế, coi trọng vai trò kiểm soát, kiểm tra từ bên trong,
nhưng cũng nhấn mạnh tính chủ động trong cảnh báo, kiểm tra, giám sát từ phía nhà
nước, lá chắn không thể thiếu cho một nền kinh tế ổn định và phát triển, một nền tài
chính quốc gia tiềm lực cao và lành mạnh. Nhà nước có vai trò quan trọng trong thiết
lập hệ thống cảnh báo sớm, hệ thống giám sát từ xa cho nền kinh tế. Từng doanh
nghiệp, từng tổ chức kinh tế cần quan tâm xây dựng hệ thống phân tích dự báo và
giám sát từ xa cho hoạt động của mình.
Phụ lục 4: ĐÁNH GIÁ TÍNH HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM
Hiệu quả quản lý nợ công về tổng thể trước hết được đánh giá tính ổn định của
nợ công, tiếp đến đánh giá tính công bằng về gánh nặng nợ giữa các thế hệ hiện tại và
thế hệ tương lai. Sự quyết định gia tăng hay giảm nợ của quốc gia đều có liên hệ đến
khiá cạnh đó.
4.1. VỀ TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA NỢ CÔNG
Xác định mức độ ổn định nợ và dịch vụ nợ có ý nghĩa rất quan trọng trong quyết
định xem xét nên tăng thêm hay giảm nợ, hoặc lựa chọn nguồn vốn nào tài trợ thích
hợp.
4.1.1. Đánh giá tính ổn định nợ nước ngoài của Việt Nam theo ngưởng của
HIPCs13
Đánh giá tính bền vững của nợ công được thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ
nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu.
Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện
giá thuần của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ
Tuy nhiên chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: (i) tỷ
lệ xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30% và (ii) tỷ lệ thu ngân sách nhà
nước/GDP (DBR/GDP) phải lớn hơn 15%. Một quốc gia được xem là an toàn nếu như
NPV/GDP nhỏ hơn 150%, NPV/DBR nhỏ hơn 250%.
Cuối năm 2005, chỉ tiêu NPV/X của Việt Nam là 39% sau khí áp dụng cơ chế
giảm nợ truyền thống, thấp hơn nhiều so với nguỡng của HIPCs là 150%. Bởi vì đáp
ứng được hai điều kiện: X/GDP bằng 59,2% và DBR/GDP là 21,3%. Việt Nam đạt
được chất lượng tài khoá. Cuối năm 2005, chỉ tiêu NPV/DBR là 95%, thấp hơn nhiều
ngưỡng của HIPCs đưa ra là 250%. tổng hợp cả hai chỉ tiêu trên đều thấp hơn ngưỡng
của HIPCs, Việt Nam đáp ứng yêu cầu nợ bền vững.
Có nhiều lý do giải thích lý luận trên. Thứ nhất, tỷ phần lớn nhất của cấu trúc nợ
nước ngoài của Việt Nam là nợ song phương. Áp dụng giảm nợ truyền thống sẽ có ảnh
13 Các nước nghèo gánh nặng nợ cao.
64
hưởng đến tính bền vững nợ của Việt Nam so với các nước HIPCs mà cấu trúc nợ của
các nước này chủ yếu là đa phương. Thứ hai, tái cơ cấu nợ của Nga - quốc gia chủ nợ
lớn nhất của Việt Nam - cho phép Việt Nam giảm đến 85% nợ. Cuối cùng, tái cấu trúc
nợ khác nhau được thực hơn hơn thập kỷ qua đã làm giảm thêm tỷ lệ nợ chủ nợ song
phương và gánh nặng nợ của Việt Nam. Trong bối cảnh của sang kiến HIPCs mở rộng
(Enhanced HIPC Initiated), Việt Nam được chứng minh thành công cho chiến lược tái
cấu trúc nợ.
Bảng 4.1: Ngưỡng nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn của HIPCs
Tỷ lệ nợ Mức ngưỡng Việt Nam
NPV của nợ/xuất khẩu 150% 36%
NPV của nợ/thu ngân sách trừ các khoản hỗ trợ 250% 95%
Dịch vụ nợ/xuất khẩu 15% 2%
Dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách trừ các khoản hỗ trợ 10% 6%
Nguồn: Tạp chí Phát triển Kinh tế tháng 9/2008
Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/trên nguồn thu ngân sách
(TDS/DBR) là những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được Ngân hàng Thế giới (WB) và
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa vào để đánh giá mức độ bền vững của nợ công.
TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ nguồn thu xuất khẩu. Còn
TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ thu ngân sách nhà nước. Một
quốc gia đảm bảo tính lỏng, TDS/X phải thấp hơn 15% và TDS/DBR thấp hơn 10%.
Cuối năm 2005, TDS/X của Việt Nam là 2% và TDS/DBR là 6%. Như vậy theo
ngưỡng của tổ chức Brettonwoods thì các tỷ lệ tính lỏng nợ nước ngoài của Việt Nam
là ổn định. Tỷ lệ tính lỏng thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế, về cơ bản do Việt Nam đẩy
mạnh kim ngạch xuất khẩu và duy trì mức thu ngân sách ổn định.
4.1.2. Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ
nước ngoài
Sự ổn định nợ được đánh giá dựa trên ngưỡng chỉ tiêu nợ được tính toán dựa vào
kinh nghiệm lịch sử của các nước HIPCs, nhằm hướng đến ngăn ngừa các cú sốc liên
quan đến nợ. Tuy vậy, trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận mới mà WB đưa vào
để đánh giá chất lượng quản lý nợ công đó là dựa vào chất lượng chính sách và thể
chế. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao
hơn so với mức ổn định nợ cơ bản.
Bảng 4.2: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế
Mức ngưỡng (%)
Đánh giá sức mạnh
thế chế và chất lượng
chính sách
Kém
CPIA 3
Vừa
3<CPIA<3,9
Mạnh
CPIA 3,9
NPV của nợ/GDP 30% 45% 60%
NPV của nợ/xuất khẩu 100% 200% 300%
NPV của nợ/thu ngân sách
trừ đi các khoản hỗ trợ 200% 275% 350%
Dịch vụ nợ/GDP 15% 25% 35%
Dịch vụ nợ/thu ngân sách
trừ các khoản hỗ trợ 20% 30%
40%
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB )(Trích lại từ Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 9/2008)
65
Cách tiếp cận này đưa ra mức ngưỡng dựa vào tỷ lệ nợ truyền thống để làm cơ sở
đánh giá thể chế và chính sách của quốc gia. Dựa vào giá trị ngưỡng, WB phân loại 3
mức thực hiện chính sách: kém, vừa và mạnh. Trong quá trình đánh giá chính sách,
quản lý được xem là trọng số lớn nhất. Bảng này cho thấy, quốc gia thực hiện chính
sách mạnh có chỉ số CPIA3,9 được xem là có gánh nặng nợ ổn định nếu như tỷ lệ
NPV của nợ/GDP ở dưới mức thấp hơn 60%, tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu thấp hơn
300%, tỷ lệ NPV/thu ngân sách (trừ đi các khoản hỗ trợ) thấp hơn 350%, tỷ lệ dịch vụ
nợ/xuất khẩu thấp hơn 35%, tỷ lệ dịch vụ nợ/thu ngân sách (trừ đi các khoản hỗ trợ)
thấp hơn 40%.
Theo cách tiếp cận mới và với số liệu của Việt Nam về NPV của nợ ở bảng 4.1,
cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ của Việt Nam xếp vào chỉ số CPIA3, tức
là ở mức kém.
4.1.3. Đánh giá nợ trong nước
Bảng 4.3: Ngưỡng nợ trong nước
Tỷ lệ nợ Mức ngưỡng Việt Nam
Nợ/GDP 20% - 25% 9%
Nợ/thu ngân sách 92% - 167% 32%
NPV nợ/thu ngân sách 88% - 127% -
Dịch vụ nợ/thu ngân sách 28% - 63% 11%
Lãi suất/thu ngân sách 4,6% - 6,8% 1,6%
Nguồn: UNDP, Dự án VIE/01/010 (Trích lại từ Tạp chí Phát triển Kinh tế tháng 9/2008)
Nợ công trong nước có ý nghĩa kinh tế rất khác nhau. Điều naỳ liên hệ đến cả
những lợi ích tiềm năng trong quá trình phát triển thị trường tài chính lẫn ảnh hưởng
ngược đến lãi suất và đầu tư hoặc hậu quả vỡ nợ. Theo mức ngưỡng mà WB đưa ra ở
bảng 4.3, nợ trong của Việt Nam ở mức khá an toàn. Từ chỉ tiêu: nợ/GDP đến lãi
suất/thu ngân sách, chỉ số nợ trong nước của Việt Nam năm 2005 thấp khá so với mức
ngưỡng của WB. Trong trường hợp này, Việt Nam vẫn có khả năng gia tăng nợ công
trong nước mà không làm ảnh hưởng đến tính bền vững của nợ.
4.2. ĐÁNH GIÁ TÍNH CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THẾ HỆ
Theo quan điểm của Lerner (1948), nợ trong nước không tạo gánh nặng nợ cho thế
hệ tương lai. Khi thanh toán nợ, có sự chuyển giao thu nhập từ nhóm người không nắm
giữ trái phiếu chính phủ sang nhóm người nhắm giữ trái phiếu chính phủ. Vì vậy, xét
về tổng thể thì thế hệ tương lai không bị thiệt hơn trên quan điểm mức tiêu dùng vẫn
giữ nguyên như là nó có thể có. Trong khi đó, lý thuyết tân cổ điển cho rằng vay nợ
gây chèn lấn đầu tư của khu vực tư. Khi Chính phủ thực hiện dự án, cho dù được tài
trợ bằng thuế hay vay nợ, thì những nguồn lực đều lấy từ khu vực tư. Như vậy, nợ có
ảnh hưởng đến vốn đầu tư của khu vực tư và tạo ra gánh nặng nợ cho thế hệ tương lai.
Để khắc phục điều đó, yêu cầu của các dư án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để
thu hút lại sự đầu tư của khu vực tư.
Thời gian qua, để hướng đến chính sách công bằng thế hệ, Chính phủ Việt Nam đã
cố gắng để duy trì trong cơ cấu nợ công của Việt Nam với tỷ lệ nợ trong nước cao hơn
so với nợ nước ngoài. Nợ nước ngoài chủ yếu là ODA và quy mô của nó vẫn nằm
trong tầm khống chế của Chính phủ. Đồng thời, thông qua các chương trình đầu tư
công, nợ công của Việt nam được chuyển tải vào các dự án đầu tư, cải thiện cơ sở hạ
66
tầng tạo nền cho sự phát triển kinh tế bền vững. Điều này thể hiện qua chi tiêu công
cho bốn khu vực như giáo dục, y tế, giao thông và nông nghiệp đã tăng đáng kể hơn
thập kỷ qua, đặc biệt là giáo dục và vận tải.
Xét về tổng thể là như vậy, tuy nhiên hiệu quả của các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng
không cao. Việt Nam phải mất hơn 6 USD mới thu hút được 1 USD tăng sản lượng
đầu ra và tỷ lệ này rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Rainer và Klump (2003) cho rằng
tác động của đầu tư tư nhân là dương, còn đầu tư công là âm. Các dự án, chương trình
đầu tư công (CTĐTC) giai đoạn 1996-2000 là một tập họp các dự án với nhiều dự án
đầu tư tính chắc chắn rất thấp và WB đánh giá tác động của các CTĐTC đến giảm
nghèo chỉ vào mức 1,3%/năm. Những dự án kém không chỉ gây thất thoát nguồn lực
mà còn làm giảm cơ hội tiếp tục giảm nghèo.
Tóm lại, về quản lý công, có thể khẳng định rằng Việt Nam đang lựa chọn chiến
lược phòng thủ nợ, cố gắng đưa các chỉ số nợ nằm trong giới hạn an toàn theo ngưỡng
của các nước HIPCs, chứ chưa hướng đến xây dựng một chiến lược thích nghi với tình
hình mới trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế. Các dự án đầu tư từ nguồn vốn khu
vực công, trong đó có nợ, mặc dù có sự đóng góp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế
trong thời gian qua. Song, nếu tính đến bài toán công bằng giữa các thế hệ thì quản lý
nợ công của Việt Nam còn kém hiệu quả, cần được cải thiện trong thời gian tới.
Phụ lục 5: HỆ SỐ ICOR VÀ VẬN DỤNG TRONG LẬP KẾ
HOẠCH, ĐÁNH GIÁ MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang được
các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là những chỉ tiêu
phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh tranh về kinh tế
cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác động tới tăng
trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ,…) ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân tố quan trọng nhất. Do
vậy trong bài viết này chúng tôi xin tập bàn về hiệu quả của yếu tố vốn và tác
động của nó đối với tăng trưởng kinh tế nói chung. Một trong những chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả của vốn đó là hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số
vốn /sản lượng tăng thêm).
5.1. PHƯƠNG PHÁP TÍNH HỆ SỐ ICOR
Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư (mô hình Harrod
- Domar). Tính hệ số này dựa trên các giả định chủ yếu sau:
- Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy động
được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
- Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện theo
một hệ số cố định.
Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định
theo công thức:
67
Y
K
k
Δ
Δ
Trong đó:
K mức thay đổi vốn sản xuất
(K = Kt – Kt-1)
Y là mức thay đổi về kết quả sản xuất và Y = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm
nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
Ý nghĩa của k là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần tăng thêm
bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả thêm cho việc tạo
thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả
tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất
của công nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước
đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên, tức là khi
kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về
nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản lượng thực
tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm năng. Điều này ví như một học sinh trung
bình phấn đấu trở thành học sinh khá thì dễ hơn một học sinh khá phấn đấu trở thành
học sinh giỏi hay gọi là lao động phức tạp bằng bội số của lao động giản đơn.
Công thức tính rất đơn giản nhưng thành phần cấu tạo công thức thì rất khó xác
định. Yếu tố Y thì có trong số liệu niên giám, vấn đề là xác định được mức tăng lên
của vốn sản xuất.
Để tính được K chúng ta phải hiểu rõ nội dung của chỉ tiêu vốn sản xuất. Vốn
sản xuất là giá trị các tư liệu vật chất tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và dịch
vụ của nền kinh tế, bao gồm vốn cố định (công xưởng, nhà máy, trụ sở cơ quan, trang
thiết bị, cơ sở hạ tầng) và vốn lưu động (có cả hàng tồn kho) và các vốn đầu tư khác.
Vốn sản xuất được đánh giá ở góc độ hiện vật, thể hiện năng lực sản xuất, chỉ tính
phần hiện còn tức là phần được tích luỹ lại và chỉ tính những tài sản có liên quan trực
tiếp đến sản xuất và dịch vụ.
Như vậy K là phần tăng thêm trong năm bằng số vốn có đến cuối năm trừ đi số
vốn có đầu năm hay bằng phần đầu tư mới, sửa chữa, đưa thiết bị vào sản xuất,.... trừ
đi phần giảm trong năm bao gồm khấu hao tài sản cố định, hư hỏng,...
Trong thực tế việc xác định vốn có đến cuối mỗi năm là rất khó khăn (bởi phải
kiểm kê đánh giá lại tài sản hàng năm) hoặc xác định số tăng và giảm trong năm rất
khó đặc biệt là phần tài sản đưa vào sản xuất hoặc hư hỏng, cho nên người ta thay K
bằng chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển được xem đó là số vốn tăng lên trong năm (chỉ tiêu
vốn đầu tư phát triển trong năm có trong hệ thống số liệu thống kê hàng năm).
5.2. VẬN DỤNG CHỈ TIÊU ICOR XÁC ĐỊNH NHU CẦU VỐN VÀ MỤC
TIÊU TĂNG TRƯỞNG
Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và
mức tiết kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư.
68
Ta có: g =
Y
Y , (trong đó Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu
GDP), nếu gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là: s =
Y
S
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết
kiệm (S = I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = K)
Từ công thức hệ số ICOR ta có:
Y
I
Y
K
k
Vì
Y
I
:
Y
I
Y.I
Y.I
Y
Y
g
hay g =
k
s
Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:
Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định
được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế
hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo
đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được
mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra.
Phục lục 6: VẤN ĐỀ TÁI CƠ CẤU NỢ Ở CÁC NƯỚC CHÂU Á SAU
CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ CHÂU Á NĂM 1997-1998
Vào năm 1998 là lúc cuộc khủng hoảng châu Á diễn ra sâu sắc nhất, Cơ quan Tái
cơ cấu Ngân hàng Indonesia (IBRA) được thành lập nhằm thu hồi lại những gì còn lại
trong hệ thống ngân hàng của Indonesia. IBRA đã phải nhận khoảng 373000 khoản
nợ khê đọng với mệnh giá 341000 tỷ Rupiah (khoảng 39 tỷ USD). Sáu năm sau, cuối
tháng 4/2004, IBRA đã đóng cửa với 95% các khoản nợ xấu này được giải quyết
thành công.
Thái Lan, Malaysia và Hàn Quốc cũng đã thành lập các cơ quan để giải quyết các
vấn đề về nợ xấu của nước mình và đều hy vọng quá trình nhượng lại này sắp kết
thúc: Ngân hàng Thái Lan có kế hoạch đóng cửa Tập đoàn Tái cơ cấu nợ của mình
trong năm 2005, Công ty Quản lý Tài sản Quốc gia của Malaysia – Danaharta (còn
gọi là AMC) hy vọng sẽ dấm dứt hoàn toàn hoạt động trong năm 2005; Công ty Quản
lý Tài sản Hàn Quốc Kamco đang dần chấm dứt hoạt động.
Việc đóng cửa các cơ quan này chưa kết thúc vấn đề nợ xấu ở châu Á, vì tuy đến
nay các nước bị khủng hoảng trong năm 1997 đã giải quyết được phần lớn các khoản
69
nợ còn khê đọng tràn lan trong lĩnh vực ngân hàng nhưng vẫn chưa giải quyết được
các vấn đề khác.
Tại Ấn Độ, mới chuẩn bị để giải quyết “di sản” các khoản nợ xấu do nền kinh tế
để lại trong quá khứ. Tại Nhật Bản, quá trình tái cơ câu ngân hàng diễn ra với tốc độ
trì trệ. Vấn đề này trầm trọng nhất là ở Trung Quốc, là nơi mà các nhà phân tích ước
tính có thể có đến 45% tổng nợ tín dụng của ngân hàng là nợ khê đọng. Các nhà quan
sát còn lo là các khoản nợ xấu mới sẽ được tạo ra ở Trung Quốc do việc gia tăng tín
dụng bong bóng trong năm 2003.
Đến nay, các nước châu Á đã bán được gần 1000 tỷ USD nợ xấu, nhưng còn gần
1000 tỷ USD nữa cần phải bán đi.
Bảng 6.1: Tình hình nợ một số nước ở châu Á (ĐVT: tỷ USD)
Nợ khê đọng bán
được sau cuộc
khủng hoảng kinh
tế châu Á(*)
Nợ khê đọng chưa
giải quyết được
trong các công ty
quản lý tài sản của
Chính phủ
Nợ khê đọng trong
các tổ chức tài
chính
Nhật Bản 600 112 330
Trung Quốc 200 107 307(**)
Ấn Độ Không có số liệu Không có số liệu 29,9
Đài Loan 50 Không có số liệu 19,1
Thái Lan 95 5 18,8
Indonesia 37 5 16,9
Hàn Quốc 125 45 15
Philippine Không có số liệu Không có số liệu 9,0
Tổng số 1107 274 745,7
(*) Tái cơ cấu, phân loại lại, hoàn trả, chuyển nhượng hoặc xoá
(**) Số liệu ước tính, không kể các tổ chức tài chính nông thôn
(Nguồn: Công ty Ernest & Young)
Tốc độ là quan trọng nhất đối với việc tái cơ cấu hay bán các khoản nợ khê đọng
ở châu Á trong vài năm qua. Bài học của Indonesia là quá trình tái cơ cấu càng diễn ra
chậm thì tình hình sẽ càng trở nên xấu hơn. Đến tháng 4/2002, sau ba năm rưỡi, IBRA
chỉ mới bán được 1/5 số nợ trên sổ sách của mình. Để giải quyết khó khăn, IBRA đã
áp dụng một chương trình cấp tốc nhằm giải quyết các khoản nợ xấu còn lại và đã thu
hồi được khoảng 28% mệnh giá của các tài sản mình có tương đương với tỷ lệ mà
Kamco của Hàn Quốc đã đạt được.
Các quan chức và các nhà tài chính khu vực tư nhân đều nhất trí là các khoản nợ
khê đọng bán được càng sớm thì càng tốt cho hệ thống ngân hàng của châu Á cũng
như cho các nền kinh tế của khu vực này nói chung. Khi chưa thoát được các khoản
nợ khê đọng thì các ngân hàng sẽ không thể phục hồi được việc cấp tín dụng có hiệu
quả.
Mặc dù viêc giải quyết nhanh vấn đề nợ là sống còn, nhưng không thể thực hiện
được việc này mà không có sự ủng hộ chính trị vững chắc. Trong các năm 1997 và
1998, giải pháp được các Chính phủ châu Á ưa chuộng là thành lập cơ quan chính
thức thống nhất để quản lý quá trình này. Ông Syafruddin, vị chủ tịch thứ 7 của IBRA
trong chưa đầy 4 tháng, thừa nhận: “Đây có thể không phải là phương pháp tốt nhất vì
70
các cơ quan do Chính phủ điều hành quá dễ bị tổn thương trước sự vận động chính
trị”. Do IBRA chịu nhiều sự can thiệp chính trị nên tỷ lệ thu hồi đối với một số danh
mục nợ xấu chỉ thấp ở mức 6%.
Để giải quyết vấn đề nợ khê đọng, các Chính phủ nên yều cầu các ngân hàng bán
các tài sản xấu thông qua khu vực tư nhân. Ông Syafruddin nói: “Hãy để cho thị
trường làm việc và đừng bao giờ thành lập các thể chế lớn như IBRA”. Tuy nhiên, các
nhà đầu tư tư nhân chỉ mạo hiểm vốn của mình khi có một khuôn khổ pháp lý minh
bạch và hiệu lực để đảm bảo các quyền thương mại được tôn trọng và tiến trình tiếp
theo có thể dự báo được. Hơn nữa, các Chính phủ phải đảm bảo không để nợ xấu tái
diễn. Theo ông Tumnong Dasri, trưởng bộ phận tái cơ cấu doanh nghiệp của Ngân
hàng Thái Lan, điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách quản lý kinh tế vĩ mô
vững chắc và khuyến khích mạnh mẽ các tiêu chuẩn cao nhất về quản trị doanh
nghiệp. Hiện nay, Ngân hàng Thái Lan đang đôn đốc việc giám sát cấp tín dụng của
các ngân hàng thương mại để đảm bảo rằng một cuộc bùng nổ bất động sản ở Thái
Lan sẽ không dẫn đến một tình huống tương tự.
Chỉ có thể nâng cao hơn nữa năng lực quản trị doanh nghiệp thì mới có thể tránh
được tình trạng lạm dụng tương tự hệ thống ngân hàng của châu Á.
Hình: Danh sách năm 2008 mức độ cảm nhận về tham nhũng
được chấm từ điểm 0 (tham nhũng cao nhất) đến điểm 10
(được coi là “trong sạch” nhất)
Nguồn: www.vietnamnet.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf
- Tom tat.pdf