Tình hình sử dụng cây thuốc chữa bệnh của đồng bào dân tộc cao lan xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

Về vấn đề sử dụng các bộ phận của cây làm thuốc thì sử dụng 1 bộ phận là nhiều nhất, có 65 loài chiếm 48,15% trong tổng số loài thu được; số loài sử dụng 2 bộ phận là 46 loài chiếm 34,07% tổng số loài thu được; số loài được dùng cả cây vào làm thuốc là 19 loài chiếm 14,07% tổng số loài thu được; số loài sử dụng 3 bộ phận là ít nhất với 5 loài chiếm 3,70% tổng số loài thu được. Trong các bộ phận của cây thì lá là bộ phận được sử dụng nhiều nhất với 76 loài, thứ hai là thân: 63 loài, thứ ba là rễ: 17 loài, các bộ phận còn lại như: hoa, quả, hạt chiếm số lượng không đáng kể. Trong cách sử dụng cây thuốc thì cách sử dụng thuốc lúc còn tươi được bà con hay dùng nhất, theo các phương pháp như: giã nhỏ để bọc trực tiếp hoặc nấu nước xông hơi, tắm.

pdf6 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình sử dụng cây thuốc chữa bệnh của đồng bào dân tộc cao lan xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
---------- BÁO CÁO KHOA HỌC TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÂY THUỐC CHỮA BỆNH CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC CAO LAN XÃ DÂN TIẾN, HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN Lê Thị Thanh Hƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 68(6): 141 - 145 141 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÂY THUỐC CHỮA BỆNH CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC CAO LAN XÃ DÂN TIẾN, HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN Lê Thị Thanh Hương*, Nguyễn Thị Thuận Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Điều tra và khai thác kinh nghiệm sử dụng nguồn dƣợc liệu thiên nhiên của đồng bào các dân tộc thiểu số là công việc hết sức có ý nghĩa, đặc biệt là trong công tác bảo tồn và gìn giữ kho tri thức dân gian về dƣợc liệu học và y học cổ truyền của dân tộc. Trong đề tài này chúng tôi đã tiến hành điều tra, đánh giá tình hình sử dụng, chế biến cây thuốc của đồng bào dân tộc Cao Lan ở xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu, điều tra ban đầu cho thấy, ngƣời Cao Lan nơi đây có vốn kinh nghiệm dân gian vô cùng phong phú và đa dạng trong sử dụng các loài thực vật vào chữa trị nhiều nhóm bệnh khác nhau cũng nhƣ đa dạng trong cách chế biến cây thuốc. Chúng tôi đã thu đƣợc 82 bài thuốc dân gian gia truyền chữa trị cho 18 nhóm bệnh khác nhau (bệnh về thần kinh: 4 bài, bệnh về xƣơng: 5 bài, thận: 4 bài, tim mạch: 4 bài, gan: 2 bài…) trong đó có nhiều bài thuốc gia truyền chữa nhiều bệnh nguy hiểm nhƣ rắn độc cắn, sỏi thận, động kinh, thần kinh tọa. Từ khóa: bài thuốc dân gian, đa dạng, tài nguyên cây thuốc, Cao Lan, Dân Tiến.  ĐẶT VẤN ĐỀ Trên dải đất hình chữ S nhỏ bé của chúng ta có tới hơn 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Mỗi dân tộc lại có lịch sử và nét văn hóa riêng độc đáo và đặc trƣng. Trong đó phải kể đến kho tàng tri thức về thực vật dƣợc rất đa dạng và quý báu. Ngƣời dân tộc Cao Lan ở Dân Tiến – Võ Nhai cũng có những kinh nghệm sử dụng cây thuốc dân gian rất riêng, mang đậm bản sắc của dân tộc mình. Qua nghiên cứu, tìm hiểu cho thấy ngƣời Cao Lan có nhiều cách sử dụng và chế biến cây thuốc khác nhau chữa trị cho các bệnh khác nhau, tùy thuộc vào từng loại bệnh và tùy thuộc vào các ông lang, bà mế. Tuy nhiên, những kinh nghiệm quý báu đó mang tính gia truyền dòng họ và đang ngày bị mai một đi, đồng thời nguồn tài nguyên thuốc tự nhiên đang đứng trƣớc tình trạng suy giảm nghiêm trọng. Trƣớc tình hình trên, một công việc cần thiết phải đƣợc tiến hành đó là nghiên cứu, khai thác kinh nghiệm dân gian về vốn kiến thức y học dân tộc để qua đó làm cơ sở cho công tác bảo tồn sự đa dạng nguồn tài nguyên thuốc cũng nhƣ nguồn thực vật phong phú,  Tel: 0988 478975,E.mail: lehuonga1k52@yahoo.com góp phần gìn giữ kho tàng kinh nghiệm quý báu lƣu truyền trong nhân dân. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp điều tra, phân tích: Các vị thuốc và bài thuốc cũng nhƣ cách chế biến đƣợc khai thác từ các ông lang, bà mế trong 3 xóm ngƣời dân tộc Cao Lan ở xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai. Công tác khai thác đƣợc tiến hành song song với công tác dân vận để nắm đƣợc nếp sống, văn hóa và phong tục tập quán của đồng bào. Phương pháp thống kê mô tả KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Sự đa dạng về các bộ phận sử dụng TT Số lượng sử dụng Số loài tham gia Tỷ lệ (%) so với tổng số loài 1 1 bộ phận 65 48,15 2 2 bộ phận 46 34,07 3 3 bộ phận 5 3,7 4 Cả cây 19 14,07 Tổng cộng 135 100 Theo bảng 1, thống kê đƣợc nhƣ sau: Số loài sử dụng 1 bộ phận là 65 loài chiếm 48,15% tổng số loài. Số loài sử dụng 2 bộ phận là 46 loài chiếm 34,07% tổng số loài. Lê Thị Thanh Hƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 68(6): 141 - 145 142 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Số loài sử dụng 3 bộ phận là 5 loài chiếm 3,70% tổng số loài. Số loài sử dụng cả cây vào làm thuốc là 19 loài chiếm 14,07% tổng số loài. Nhƣ vậy, số loài có một bộ phận sử dụng làm thuốc chiếm số lƣợng nhiều nhất với 48,15%; các bộ phận thƣờng dùng là lá, thân, rễ, vỏ, hạt hoặc là hoa hay nụ hoa. Đứng thứ hai là số loài có hai bộ phận đƣợc sử dụng với 46/135 tổng số loài, chiếm 34,07%. Các bộ phận đƣợc lấy chủ yếu là lá – rễ, lá – thân, lá – vỏ, rễ - thân, rễ - vỏ, hạt – thân. Thứ ba là số loài có cả cây tham gia làm thuốc, với 19 loài chiếm 14,07% bao gồm cả thân, rễ, lá, vỏ. Ít nhất là số loài có ba bộ phận đƣợc sử dụng, với số loài là 5 chiếm tỷ lệ 3,70%. Đa số các bài thuốc đều là sự kết hợp nhiều bộ phận của các cây thuốc khác nhau, mỗi cây đóng góp một, hai hay nhiều bộ phận thậm chí là cả cây để tạo nên một bài thuốc hoàn chỉnh, có dƣợc tính cao. Sự đa dạng về tần số sử dụng các bộ phận khác nhau Để thấy rõ hơn sự phong phú và đa dạng trong sử dụng các bộ phận của cây thuốc, chúng tôi đã thống kê tần số sử dụng của các bộ phận trong bảng 2 dƣới đây: Bảng 2. Tần số sử dụng các bộ phận làm thuốc TT Bộ phận sử dụng Số loài Số lượng Tỷ lệ (%) so với tổng số loài 1 Lá 76 56,3 2 Thân 63 46,67 3 Rễ 17 12,59 4 Vỏ 8 5,93 5 Hạt 4 1,48 6 Hoa 2 0,74 7 Quả 1 2,96 Theo kết quả thống kê ở bảng 2, bộ phận lá đƣợc sử dụng nhiều nhất với 56,30 % so với tổng số loài. Lý do bộ phận này đƣợc sử dụng nhiều nhất cũng dễ hiểu vì lá là bộ phận dễ thu hái và không ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sinh trƣởng và phát triển của cây. Bộ phận này thƣờng đƣợc sử dụng tƣơi trong nấu nƣớc tắm, xông hay giã bọc. Bộ phận thứ hai đƣợc sử dụng nhiều là thân với 63 loài chiếm 46,67% so với tổng số loài. Hầu hết cây thuốc sử dụng thân đều có dạng sống là dây leo, thân cỏ hay cỏ cứng, chỉ một số ít là cây bụi và gỗ. Thân thƣờng đƣợc băm nhỏ, phơi khô để bớt mùi hăng của cây tƣơi và thuận tiện trong bảo quản, sau đó mới đƣợc sử dụng và cách sử dụng chủ yếu là sắc uống. Rễ xếp thứ ba về tần số sử dụng, với 17 loài tƣơng ứng 12,59% tổng số loài. Tần số sử dụng bộ phận này ít hơn hai loại trên. Bởi vì, rễ là bộ phận khó thu hái, để lấy đƣợc bộ phận này phải đào bới phức tạp và đặc biệt là sau đó cây sẽ bị chết, không còn để thu hái ở những đợt tiếp theo. Rễ thƣờng cũng đƣợc băm nhỏ phơi khô, sau đó sắc uống hoặc đƣợc dùng ngâm rƣợu hoặc dùng để ƣớp thuốc bắc. Vỏ với số loài sử dụng làm thuốc là 8 chiếm 5,93% so với tổng số loài, xếp thứ tƣ về tần số sử dụng. Đƣợc dùng ít nhất là bộ phận quả, với 1 loài chiếm 0,74%; còn hoa chiếm 1,48%; hạt chiếm 2,96%. Nhƣ vậy, trong việc sử dụng các bộ phận của cây làm thuốc cũng có những bộ phận có tần số sử dụng cao hoặc có bộ phận ít sử dụng đến. Trong đó, lá và thân là hai bộ phận chiếm ƣu thế hơn cả về mặt số lƣợng và tần số sử dụng. Tất cả điều này đều phù hợp với thực tiễn phát triển, lá và thân là những bộ phận ổn định nhất và dễ thu hái nhất; còn hoa, quả, hạt là các bộ phận mang tính thời vụ ngắn, khó tìm kiếm, thu hái và bảo quản, đặc biệt là đối với hoa quả trong rừng. Đa dạng về cách chế biến cây thuốc của dân tộc Cao Lan Không chỉ đa dạng về các bộ phận sử dụng, cây thuốc chữa bệnh của ngƣời dân tộc Cao Lan, xã Dân Tiến còn rất phong phú trong cách chế biến của các ông lang, bà mế. Để tiện theo dõi, chúng tôi tạm thời chia cách sử dụng thành hai kiểu nhƣ sau (bảng 3): Khô (Kh): Các bộ phận đem băm nhỏ, phơi khô hoặc sao vàng rồi sắc nƣớc uống hoặc hãm nhƣ pha trà. Tƣơi (T): Các bộ phận đƣợc dùng nấu nƣớc tắm, xông, giã bọc, vò nƣớc uống khi tƣơi. Bảng 3. Đa dạng về cách chế biến thuốc TT Cách Số loài Lê Thị Thanh Hƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 68(6): 141 - 145 143 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên dùng Số lượng Tỷ lệ (%) so với tổng số loài 1 Khô 80 59,26 2 Tƣơi 91 67,41 Qua số liệu bảng 3 cho thấy, cách chế biến tƣơi đƣợc ngƣời Cao Lan áp dụng nhiều nhất, với 91 lƣợt chiếm 67,41%. Cách chế biến tƣơi thƣờng áp dụng với hầu hết các nhóm cây thuốc chữa bệnh ngoài da nhƣ: đậu mùa, sởi, dị ứng, mẩn ngứa hoặc các bệnh về xƣơng khớp, đau đầu, đau bụng. Khu vực nghiên cứu là nơi có nhiều đồi núi, đƣờng đi ít bằng phẳng, bà con đi lại sinh hoạt lao động thƣờng xuyên phải trèo đèo, lội suối có thể do đó mà các bệnh về xƣơng khớp gia tăng. Đồng thời do điều kiện khí hậu hay thay đổi, cùng với nếp sinh hoạt còn có phần lạc hậu của bà con nên các bệnh ngoài da cũng dễ bị mắc phải. Cả cây thuốc hoặc bộ phận của cây sau khi thu hái đƣợc sử dụng ngay theo nhiều cách phù hợp với từng loại bệnh. Có bệnh phải đun nƣớc để xông hơi, tắm, có bệnh lại giã tƣơi cho thêm vài hạt muối với ít nƣớc vo gạo rồi vùi vào tro ấm xong mới đem bọc vào chỗ xƣng đau hoặc trật khớp, gãy xƣơng. Cách chế biến này không giữ thuốc đƣợc lâu sau thu hái, nhƣng chất lƣợng thuốc cao do vẫn còn tƣơi nguyên. Cách chế biến khô chỉ chiếm tỷ lệ 59,26% so với tổng số loài. Cách chế biến này thƣờng áp dụng với những cây thuốc chữa bệnh tim, liệt, gan, thận, dạ dày…, cách này hoàn toàn phù hợp với các loại bệnh vừa nêu. Do tính chất bệnh phải điều trị lâu mà không thể ngày nào cũng đi lấy thuốc, hơn nữa thời gian cũng nhƣ trữ lƣợng cây thuốc có hạn. Để chủ động, các ông lang – bà mế khi đi đƣờng hoặc lên nƣơng hễ gặp thuốc thƣờng thu hái ngay, về phơi khô để sẵn, phòng khi có bệnh nhân cần thì có luôn. Thuốc sau khi phơi hoặc sao khô đƣợc sắc đặc với nƣớc để uống. Thuốc chế biến theo cách này thƣờng giữ đƣợc lâu sau khi thu hái, nhƣng trong quá trình phơi và sao phải thực hiện một cách có khoa học, nếu không sẽ làm giảm phẩm chất của cây thuốc hoặc có thể dẫn tới mất dƣợc tính. Các nhóm bệnh được người Cao Lan chữa trị bằng thuốc nam Bảng 4. Sự đa dạng các nhóm bệnh đƣợc chữa trị bằng các bài thuốc truyền thống của ngƣời Cao Lan TT Nhóm bệnh chữa trị Số loài Tỷ lệ (%) 1 Bệnh về thận (Sỏi thận, viêm thận, tiết niệu…) 34 25,19 2 Bệnh về thần kinh (Dây thần kinh, thần kinh tọa…) 24 17,78 3 Bệnh thời tiết (Cảm cúm, đau đầu, sốt…) 24 17,78 4 Bệnh về gan (Viêm gan, xơ gan, vàng da…) 23 17,04 5 Bệnh ngoài da (Tổ đỉa, ghẻ lở, dị ứng, sƣng tấy) 22 16,3 6 Bệnh về xƣơng (Gãy xƣơng, đau xƣơng, bong gân…) 20 14,81 7 Bệnh về khớp (Thấp khớp, viêm khớp…) 18 13,33 8 Bệnh về tim (Tim mạch, huyết áp…) 11 8,15 9 Bệnh về tiêu hóa (Đau bụng, táo bón, kiết lỵ, trĩ…) 11 8,15 10 Bệnh về phụ nữ (Sinh sản, sinh dục…) 9 6,67 11 Bệnh trẻ em (Còi xƣơng, biếng ăn, giun sán, sài…) 7 5,19 12 Bệnh về hô hấp (Ho hen, viêm họng…) 5 3,7 13 Bệnh về răng (Đau răng, viêm lợi, sâu răng…) 4 2,96 14 Bệnh về động vật (Rắn cắn, sâu dóm…) 4 2,96 15 Bệnh về dạ dày (Đau dạ dày, đại tràng, tá tràng…) 4 2,96 16 Bổ (Máu, sức khỏe…) 3 2,22 17 Bệnh về ung bƣớu (Ung thƣ, các loài u bƣớu…) 2 1,48 18 Bệnh của vật nuôi (Trâu, bò, lợn…) 2 1,48 Theo kinh nghiệm cổ truyền dân gian thì một cây thuốc có thể có dƣợc tính với nhiều loại bệnh, ngƣợc lại một loại bệnh lại phải cần có nhiều cây thuốc kết hợp mới đủ dƣợc tính. Căn cứ vào tài liệu của Đỗ Tất Lợi, Võ Văn Chi và các bệnh đƣợc ngƣời Cao Lan chữa trị, chúng tôi tạm thời chia thành các nhóm bệnh nhƣ trong bảng 4. Chúng ta thấy những cây thuốc mà ngƣời Cao Lan xã Dân Tiến sử dụng rất đa dạng về mặt công dụng. Với 135 loài cây thuốc khác nhau nhƣng chữa tới 18 nhóm bệnh. Lê Thị Thanh Hƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 68(6): 141 - 145 144 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Các nhóm bệnh đƣợc ngƣời Cao Lan chữa trị nhiều nhất là bệnh về thận với 34 loài chiếm đến 25,19%, bệnh về thần kinh với 24 loài chiếm 17,78%, bệnh thời tiết có 24 loài chữa chiếm 17,78%; bệnh về gan có 23 loài chiếm 17,04%, bệnh về xƣơng là 20 loài chiếm 14,81%, các bệnh về khớp có số loài chiếm 8,15%, bệnh của phụ nữ số loài chữa bệnh chiếm 6,67%; các bệnh về hô hấp, răng miệng, động vật cắn, dạ dày có số loài chỉ chiếm từ 2 đến 4%, ít nhất là các loài chữa bệnh về ung thƣ, u bƣớu và bệnh của vật nuôi, chỉ có 2 loài chiếm 1,48%. Qua số liệu trên, chúng ta dễ nhận thấy nhóm bệnh về thận có số loài chữa trị nhiều nhất. Sở dĩ nhóm bệnh này ngƣời dân nơi đây hay mắc phải là do vùng núi cao, ngƣời dân sử dụng nguồn nƣớc ăn và sinh hoạt chủ yếu là nƣớc đá vôi nên các bệnh về thận đặc biệt là sỏi thận tăng cao. Điều kiện sống và nếp sinh hoạt cũng nhƣ đặc điểm địa hình, địa lý cũng quyết định một phần khi ngƣời dân nơi đây hay gặp nhiều các bệnh về gan, thời tiết, thần kinh, ngoài da, khớp nên theo đó số lƣợng các cây thuốc chữa các bệnh này cũng chiếm ƣu thế. Qua điều tra sơ bộ bƣớc đầu chúng tôi thấy rằng ngƣời Cao Lan có vốn kiến thức dân gian về cây thuốc rất phong phú và đa dạng. Đây là nguồn tài nguyên phi vật chất vô cùng giá trị và đáng quý. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên chúng tôi mới tiến hành nghiên cứu trên phạm vi hẹp, cần tiếp tục nghiên cứu sâu rộng hơn phục vụ cho công tác bảo tồn và lƣu truyền cho thế hệ mai sau. Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã tìm hiểu và thu thập đƣợc 82 bài thuốc dân gian gia truyền, chữa trị cho 18 nhóm bệnh khác nhau. Đây là những bài thuốc có giá trị thực tế cao, cụ thể nhƣ sau: Nhóm bệnh về thận: có 5 bài Nhóm bệnh về thần kinh: có 8 bài Nhóm bệnh về thời tiết: có 10 bài Nhóm bệnh về gan: có 3 bài Nhóm bệnh ngoài da: có 12 bài Nhóm bệnh về xƣơng: có 7 bài Nhóm bệnh về khớp: có 2 bài Nhóm bệnh về tim: có 5 bài Nhóm bệnh về tiêu hóa: có 3 bài Nhóm bệnh về phụ nữ, sinh sản: có 2 bài Nhóm bệnh về trẻ em: có 8 bài Nhóm bệnh về hô hấp: có 5 bài Nhóm bệnh về răng: có 3 bài Nhóm bệnh về động vật: có 4 bài Nhóm bệnh về dạ dày: có 2 bài Nhóm bệnh về vật nuôi: có 3 bài Qua tìm hiểu và sƣu tầm chúng tôi nhận thấy kinh nghiệm chữa bệnh của các ông lang, bà mế ngƣời dân tộc Cao Lan rất phong phú. Các bài thuốc sƣu tầm đã đƣợc ngƣời dân trong vùng cũng nhƣ nhiều nơi xa khác đánh giá rất cao và rất tín nhiệm. Qua khai thác các ông lang, bà mế chúng tôi đƣợc biết có những bệnh nhân khác tỉnh thậm chí cách xa hàng trăm cây số đã tìm về đây để xin thuốc cứu chữa. Điều này cho thấy, các bài thuốc có tính dƣợc học rất cao. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bƣớc đầu của nghiên cứu, số lƣợng loài làm thuốc còn nhiều cũng nhƣ còn nhiều bài thuốc chƣa đƣợc khai thác. Để thống kê đƣợc hết cần phải tiếp tục tiến hành đề tài và cần có những nghiên cứu sâu hơn để có những đánh giá sát thực về hiệu quả chữa bệnh của các bài thuốc này, từ đó phổ biến rộng rãi trong nhân dân. KẾT LUẬN Về vấn đề sử dụng các bộ phận của cây làm thuốc thì sử dụng 1 bộ phận là nhiều nhất, có 65 loài chiếm 48,15% trong tổng số loài thu đƣợc; số loài sử dụng 2 bộ phận là 46 loài chiếm 34,07% tổng số loài thu đƣợc; số loài đƣợc dùng cả cây vào làm thuốc là 19 loài chiếm 14,07% tổng số loài thu đƣợc; số loài sử dụng 3 bộ phận là ít nhất với 5 loài chiếm 3,70% tổng số loài thu đƣợc. Trong các bộ phận của cây thì lá là bộ phận đƣợc sử dụng nhiều nhất với 76 loài, thứ hai là thân: 63 loài, thứ ba là rễ: 17 loài, các bộ phận còn lại nhƣ: hoa, quả, hạt chiếm số lƣợng không đáng kể. Trong cách sử dụng cây thuốc thì cách sử dụng thuốc lúc còn tƣơi đƣợc bà con hay dùng nhất, theo các phƣơng pháp nhƣ: giã nhỏ để bọc trực tiếp hoặc nấu nƣớc xông hơi, tắm. Chế biến cây thuốc khô Lê Thị Thanh Hƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 68(6): 141 - 145 145 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên rồi sắc nƣớc uống cũng đƣợc bà con sử dụng khá phổ biến. Đã thống kê đƣợc 82 bài thuốc chữa trị cho 18 nhóm bệnh khác nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Andrew Chevallier Fnimh (2006), Dược thảo toàn thư (sách dịch), Nxb Tổng hợp, Tp. HCM. [2]. Võ Văn Chi (1996) Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. [3]. Nguyễn Tiến Bân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4]. Phạm Hoàng Hộ (1999 – 2000), Cây cỏ Việt Nam, tập 1 – 3, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh. [5]. Đỗ Tất Lợi (2005) Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, in lần thứ 13, Nxb Y học, Hà Nội. [6]. Nguyễn Nghĩa Thìn (2004), Hệ sinh thái rừng nhiệt đới, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [7]. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội. [8]. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trƣờng – Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (2001 – 2005), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 1 – 3, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. SUMMARY STUATION OF USING MEDICAL PLANT TO TREAT DESEASES OF CAO LAN ETHNIC AT DAN TIEN COMMUNE, VO NHAI DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE Le Thi Thanh Huong, Nguyen Thi Thuan College of Sciences – Thai Nguyen University Investigation and exploitation of using experience natural medical plant sources of the ethnic is the very meaningful action, especially to conservative and preserve folk knowledge about natural medical plant and traditional medicine of ethnic groups as well as use to treat different diseases. In this article, we investigated and evaluated the use and processing the plant medicine of Cao lan ethnic group at Dan Tien commune, Vo Nhai district, Thai Nguyen province. The results of initial study and investigation showed that Cao lan ehtnic have plentiful experience and diverse on using the plant form to treat different diseases as well as diversity in processing. We've collected 82 traditional folk remedies to treat 18 different diseases group (neurological diseases: 4 items, bone disease: 5 items, kidney disease: 4 items, heart disease: 4 items, liver: 2 items...) many of them are traditional folk remedies for many danger diseases such as: poisonous snake bites, kidney stones, seizures, sciatic nerves. Key words folk remedy, plentiful, medical plant resources, Cao lan, Dan tien  Tel: 0988 478975,E.mail: lehuonga1k52@yahoo.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftailieutonghop_com_doc_621__7738.pdf
Luận văn liên quan