Đề nghị Ngân hàng nhà nước cần có giải pháp tác động để thị trường mua bán nợ hoạt động có hiệu quả, thông suốt hơn tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng thương mại, nhất là Ngân hàng Thương mại cơ sở (chi nhánh) giảm bớt được rủi ro và nâng cao năng lực tài chính.
c/ Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
-Đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam giải quyết kịp thời việc quyết định duyệt cấp rủi ro tín dụng mà chi nhánh gửi lên hàng năm để kịp thời giảm thiểu rủi ro cho các chi nhánh, tăng vốn hoạt động .
- Đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam sớm bù đắp những khoản tồn đọng từ trước những năm 2001 dứt điểm không nên kéo dài găm vốn Ngân hàng cơ sở, ảnh hưởng đến kinh doanh.
Việt Nam đã và đang hội nhập quốc tế, nhất là sau khi đã gia nhập WTO, hoạt động Ngân hàng Thương mại phải vượt qua những khó khăn, vươn lên đủ sức cạnh tranh trong nước và quốc tế - điều đó phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức tốt nhất hoạt động quản lý rủi ro tín dụng. Vì vậy, thực hiện tốt Quyết định số 493 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày càng có ý nghĩa trước mắt và lâu dài của toàn bộ hệ thống các Tổ chức tín dụng hiện nay./.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3245 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình huống nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực đồng bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể hiểu Ngân hàng Thương mại theo một trong các khái niệm như sau :
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Trong đó chức năng chủ yếu là làm trung gian Tín dụng giữa các doanh nghiệp các cá nhân trong nền Kinh Tế.
Ngân hàng Thương mại là một Tổ chức kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
Ngân hàng Thương mại là Tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức Tín dụng quan trọng nhất trong các ngân hàng trung gian.
Điều 20: Luật các tổ chức Tín dụng (Luật số 02/1997/QH-10) chỉ rõ :
“ Ngân hàng Thương mại là một tổ chức Tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.”
Như vậy, có thể nói rằng Ngân hàng Thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn Tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
Từ đó có thể nói bản chất của Ngân hàng Thương mại thể hiện qua các điểm sau:
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh tế.
Ngân hàng Thương mại hoạt động mang tính chất kinh doanh.
Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực Tiền tệ Tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các Công ty, tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể và các cá nhân ... bằng việc nhận tiền hoặc gửi tiền tiết kiệm,… cho vay và cung cấp các dịch vụ Ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Sơ đồ : Hoạt động của Ngân hàng Thương mại
Cá nhân công ty, XN, tổ chức
NHTM
- Công ty, XN
- Hộ gia đình, cá nhân
- Các tổ chức
Nhận tiền gửi
Tiết kiệm
Cho vay
Cung cấp dịch vụ
ngân hàng
Vì hoạt động ngân hàng có mối quan hệ với đủ các loại kinh tế cho nên việc hoạt động kinh doanh Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt tiềm ẩn nhiều rủi ro. Như chúng ta đều biết quan trọng nền kinh tế thị trường các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh,… ngày càng phát huy tác dụng. Những rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại - những nhà cung ứng vốn và dịch vụ Ngân hàng. Bản thân hoạt động dịch vụ kinh doanh của ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong từng nghiệp vụ cụ thể của Ngân hàng nếu không được quản lý theo những qui trình chặt chẽ cũng có nhiều khả năng rủi ro.Ví dụ : các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tiền tệ kho quỹ, huy động và sử dụng vốn,…Vì vậy công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Mặt khác, hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Thương mại phụ thuộc vào mức độ rủi ro:
Ngân hàng Thương mại là một Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Cũng như các Doanh nghiệp khác, các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Chính vì vậy, hàng năm các Ngân hàng Thương mại được phép trích lập quỹ bù đắp rủi ro. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và khả năng rủi ro. Nếu rui ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như vậy hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Thương mại tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Khi rủi ro quá lớn đến mức Ngân hàng Thương mại mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Do đó việc quản trị xử lý Tín dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là rất quan trọng.
Sau gần 4 tháng theo học tại khóa “Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước, Chương trình Chuyên viên chính năm 2008 ” tại Học viện Hành Chính, được sự nhiệt tình giảng dạy, truyền thụ kiến thức của các Thầy, Cô trong Học Viện, tôi đã có được những kiến thức cơ bản, bổ ích và thiết thực phục vụ cho công tác quản lý đạt kết quả tốt. Trên cơ sở đó tôi lựa chọn đề tài “Tình huống nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ ” để thực hiện bài Tiểu luận này.
Ngoài phần mở đầu, Tiểu luận được bố cục thành ba phần chính :
Phần thứ nhất : Mô tả tình huống.
Phần thứ hai : Phân tích nguyên nhân, hậu quả, và
phương pháp xử lý tình huống.
Phần thứ ba : Kết luận và kiến nghị.
Quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng là lĩnh vực rộng lớn, nhất là trong bối cảnh nước ta đang quá trình hội nhập và trong xu thế toàn cầu hóa. Mặc dù tôi đã cố gắng vận dụng kiến thức để hoàn thành đề tài, song không tránh khỏi những hạn chế, xin được các Thầy, Cô đóng góp chỉ bảo thêm cho Tiểu luận được phong phú, có tác dụng thiết thực trong ứng dụng và thực tiễn.
Xin chân thành cảm ơn !
Phần thứ nhất
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1)– Hoàn cảnh ra đời vào mục tiêu xử lý tình huống.
Từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Sự vận động mạnh của các thành phần kinh tế kết hợp với các cơ chế điều hành về luật pháp và các cơ chế điều hành về luật pháp và các quy chế chưa đồng bộ nên thị trường hàng hóa, thị trường vốn diễn ra hết sức phức tạp. Bên cạnh đó nhiều địa phương, nhiều ngành nghề, nhiều loại hình doanh nghiệp, từ thành thị đến nông thôn chưa có kinh nghiệm, chưa có trình độ phù hợp để tiếp cận và vận hành sản xuất theo cơ chế mới. Mặt khác xét về cơ cấu sở hữu, Ngân hàng Thương mại thuộc sở hữu Nhà nước chiếm thị phần chủ yếu trong huy động vốn và cho nền kinh tế. Do vậy việc bỏ vốn đầu tư cho nền kinh tế dựa trên phong trào, cảm thức chủ quan, và thiếu trách nhiệm…Vì vậy rủi ro tín dụng là không tránh khỏi. Từ những năm cuối của thập kỷ 90 thế kỷ XX hoạt động tín dụng Việt Nam đã trải qua những khó khăn, diễn ra ở toàn hệ thống các Ngân hàng Thương mại cũng có thể gọi là khủng hoảng tín dụng. Đó là rủi ro tín dụng xẩy ra phổ biến, nợ khó đòi tăng cao. Trước tình hình đó Ngân hàng Thương mại thực hiện các giải pháp tình thế đi theo các giải pháp lâu dài, để đưa lại kết quả như thông qua kiểm tra xử lý bằng giảm nợ, khoanh nợ, cho vay mới, kể cả các biện pháp mạnh như sát nhập, giải thể hay cho phá sản những Ngân hàng Thương mại mất khả năng thanh toán như Ngân hàng Thương mại Việt Hoa, Ngân hàng Thương mại Châu Á Thái Bình Dương… như vậy việc quản lý và xử lý rủi ro tín dụng là mục tiêu trước mắt và lâu dài.
2) –Diễn biến tình huống.
Cho đến những năm đầu của thế kỷ 21 hoạt động Tín dụng của các Ngân hàng Thương mại được khôi phục và có bước phát triển mới. Cùng với đà tăng trưởng của nền kinh tế và dòng vốn nước ngoài đổ vào khá cao, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ đến chóng mặt nhất là những năm gần đây, đã báo hiệu tốc độ của lạm phát và hiện tượng kinh tế “ bong bóng ” dẫn đến rủi ro tín dụng ( xem biểu sau đây):
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tín Dụng
39.9
30.2
24.8
13.2
27.7
20.2
31.6
28.8
27.2
20.6
24.8
37.8
TPTTT
27.8
26.8
24.7
28.6
25.6
24.5
2.11
23.9
20.6
24.4
29.7
36.9
CPI
4.65
3.63
9.2
0.05
-0.6
0.79
4.04
3.01
9.5
8.4
6.6
12.63
Có nhiều cách phân loại rủi ro, tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, thì có thể tổng hợp thành 1 số loại rủi ro cơ bản sau :
- Rủi ro tín dụng : Rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác không thể thực hiện một nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với một Ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đấy là nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro này bao gồm cả rủi ro thanh toán khi một bên thứ ba ( ví dụ một Ngân hàng thanh toán ) không thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với Ngân hàng này.
- Rủi ro lãi suất: Thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của một Ngân hàng do các biến động lãi suất. Rủi ro lãi xuất có thể có một số hình thức khác nhau, như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
- Rủi ro thanh khoản: Phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền, đặc biệt như chúng ta đã thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
- Rủi ro giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị tài sản của một Ngân hàng có thể bị biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất động sản đến cổ phiếu hay trái phiếu…
- Rủi ro ngoại hối : Phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
- Rủi ro hoạt động : Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt động là rất nhiều như: việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh nguồn vốn, quản trị tồi các qui trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô, thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa…
- Rủi ro pháp lý : Thường tác động tới các Ngân hàng theo hai cách :
– Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng. Lý do của việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp lại hạn mức cho vay mà theo khách hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp này có thể phát sinh từ các lý do tách biệt khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng như việc tài trợ cho những khách hàng gây ô nhiễm môi trường có thể làm Ngân hàng bị các bên thứ ba kiện cáo…
– Khi các thu xếp pháp lý của một Ngân hàng, ví dụ: các hợp đồng cho vay và tài sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng đó có vấn đề, hoặc Nhà nước thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu tiên… điều này có thể dẫn tới rủi ro thua lỗ cho Ngân hàng.
- Rủi ro chiến lược : Phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các Ngân hàng. Ví dụ: việc xâm nhập vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các nguồn lực cần thiết để khai thác thị trường này có thể làm Ngân hàng gặp rủi ro thua lỗ.
- Rủi ro uy tín : là rủi ro dư luận đánh giá xấu về Ngân hàng, gây khó khăn nghiêm trọng cho Ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ Ngân hàng.
*. Thực trạng rủi ro tín dụng :
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các Tổ chức tín dụng, theo qui định tại điều 2 Qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của Tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Hiện nay, dịch vụ tín dụng cho vay của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất (trên 60 %) trong danh mục tài sản có, do đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống Ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng, như : xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, trong đó quy định chính sách tín dụng của Ngân hàng, chiến lược tăng trưởng tín dụng phân theo đối tượng khách hàng, khu vực, ngành và phát triển các chính sách khách hàng dựa vào việc đánh giá và phân loại khách hàng, quản trị lãi suất và thanh khoản nhằm đảm bảo tính hiệu quả và phát triển bền vững trong hoạt động tín dụng.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã đạt được những thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Các Ngân hàng Thương mại đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tập trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng của các Ngân hàng Thương mại tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế phi nhà nước ( tỷ trọng dư nợ tín dụng khu vực nhà nước chiếm khoảng 39 %/ tổng dư nợ vào 12/2002 và giảm xuống còn 34 % vào 12/2004 ). Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của Việt Nam và thế giới vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động, phát triển nhanh và ngày càng có chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vẫn còn ở mức cao hơn so với nhiều Ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Công tác cung cấp, khai thác sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều Ngân hàng Thương mại vẫn còn yếu, còn có tình trạng một khách hàng vay vốn tại nhiều Ngân hàng Thương mại nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức độ rủi ro. Việc phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng còn có nhiều bất cập, chưa hỗ trợ hiệu quả cho việc diễn ra quyết định cho vay và thu hồi nợ. Nguyên nhân của tình trạng này là do công tác quản trị rủi ro tín dụng chưa được tiến hành một cách bài bản, nghiêm ngặt. Rủi ro tín dụng chưa được xác định, đo lường, đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập.
Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn ,hiệu quả và bền vững, góp phần tăng trưởng, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu của Ủy ban Basel (Basel II) về quản trị rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, gần đây Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, như :
Chỉ thị số 02/2005/CT- NHNN ngày 20/4/2005 yêu cầu các Ngân hàng Thương mại tuân thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng, đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Quyết định 783/2005/QĐ – NHNN ngày 31/5/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của Ngân hàng Thương mại đối với khách hàng. Các nội dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết, hoặc tạo cơ sở Pháp lý cho Tổ chức tín dụng chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh – Ví dụ : việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do Ngân hàng Thương mại tự xem xét, quyết định trên cơ sở khả năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Trước tình hình đó những đảm bảo an toàn vốn và ngăn chặn rủi ro tín dụng có thể xảy ra mang tính hệ thống. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản điều hành và yêu cầu lãnh đạo các Ngân hàng Thương mại nâng cao năng lực quản lý rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng tồn đọng cũng như rủi ro tiềm ẩn :
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22-04-2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng mà công văn số 354/CV của NHNN ban hành ngày 10-07-2002.
Tuy nhiên quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại dưới các hiện tượng dưới đây:
+ Những năm 2005-2006 nhiều Ngân hàng Thương mại tập trung vốn cho vay các Công ty chứng khoán và môi giới chứng khoán tổng số dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản làm cho dư nợ tăng lên.
+ Về chất lượng tín dụng : Theo báo cáo của các Tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng tại các Tổ chức tín dụng vẫn là vấn đề cần quan tâm vì : (i) Tỷ lệ nợ xấu các Tổ chức tín dụng được thanh tra cao hơn số liệu báo cáo; (ii) Sai phạm trong hoạt động tín dụng vẫn xảy ra phổ biến tại hầu hết các Tổ chức tín dụng được thanh tra; (iii) Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao tại nhiều Tổ chức tín dụng chưa tương xứng với năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro ; (iv) Một số Tổ chức tín dụng tập trung cho vay kinh doanh các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản.
+ Một số Tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới nhưng thiếu cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, nhất là ở những vị trí chủ chốt nên khả năng quản trị, điều hành Ngân hàng còn hạn chế, kinh doanh kém hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
+ Một số Tổ chức tín dụng chưa ban hành các quy định nội bộ theo quy định, hoặc chậm sửa đổi, thay thế các văn bản không còn phù hợp; có trường hợp văn bản quy định nội bộ của các Tổ chức tín dụng còn vi phạm các quy định của pháp luật. Bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại một số Tổ chức tín dụng hoạt động kém hiệu quả, chậm phát hiện sai phạm của Tổ chức tín dụng. Có những lúc Tổ chức tín dụng còn chưa thành lập được bộ máy kiểm toán nội bộ chuyên trách theo qui định.
Để chấn chỉnh tình hình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước văn bản và kiên quyết điều hành, đó là :
Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về việc điều hành chỉ tiêu cho vay các Tổ chức chứng khoán xuống mức dư nợ khống chế là 3 %/ tổng dư nợ.
Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 4 năm 2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước về việc sửa đổi bổ xung một số điều của quy định về phân loại hỗ trợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng về xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Trên cơ sở 2 văn bản trên Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng ra văn bản hướng dẫn thực hiện các Quyết định của Ngân hàng Nhà nước.
* Quyết định số 234/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 9-6 năm 2005, của HĐQT-NHCT-VN về việc ban hành quy chế về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương.
Vào năm 2007 cũng có Quyết định tiếp theo đó là: Quyết định số 296/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 1-8-2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương.
3. Ngân hàng Công thương khu vực BĐ và nhiệm vụ xử lý rủi ro tín dụng theo Quyết định số 493 của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
a) Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công thương - Khu vực BĐ
- Tiền thân của Ngân hàng Công thương khu vực BĐ là Chi điếm Ngân hàng Nhà nước.
- Năm 1988 thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng Chi điếm Ngân hàng BĐ được chuyển đổi thành một Chi nhánh Ngân hàng Thương mại quốc doanh với tên gọi là Chi nhánh Ngân hàng Công thương quận BĐ trực thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội.
- Trước những khó khăn vướng mắc về mô hình, vào ngày 1-4-1993-NHCT-VN thực hiện thí điểm mô hình tổ chức ngân hàng công thương hai cấp (TW- quận), xoá bỏ cấp trung gian là Ngân hàng công thương Hà Nội cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ, chi nhánh Ngân hàng Công thương quận BĐ một lần nữa được nâng cấp quản lý và chuyển đổi thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ theo quyết định số 67-QĐ-NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b) Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương - Khu vực Hà Nội
Ngân hàng Công thương khu vực BĐ là chi nhánh loại lớn được Ngân hàng Công thương - Việt Nam uỷ quyền theo dõi và cho vay nhiều Tổng Công ty, Tập đoàn kinh tế, và hoạt động tín dụng với kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn, vì vậy trong cơ cấu bộ máy, có 3 Phòng Tín dụng là:
+ Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn.
+ Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Phòng khách hàng cá nhân.
Đáng lưu ý là từ khi có Quyết định số 493 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và xử lý nợ rủi ro thì Ngân hàng Công thương - khu vực BĐ đã thành lập thêm Phòng Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề.
Tình hình cho vay của Ngân hàng Công thương - Khu vực BĐ trước những năm chưa có văn bản xủ lý nợ, có số dư nợ khá lớn và tập trung vào các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty (thường chiếm trên 50% số dư nợ cho vay nền kinh tế của Ngân hàng Công thương - BĐ).
c) Số nợ xấu cần được giải quyết.
Chỉ tiêu
Nợ tồn đọng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
- Tổng dư nợ
2.816.000
2.360.000
2.643.000
+ Nợ xấu tồn đọng trước năm 2001
3.120 tỷ
+ Nợ xấu quá hạn cần xử lý
77.361
68.337
80.446
+ Dư nợ quá hạn
19.600
4.554
19.308
Như vậy Ngân hàng Công thương BĐ có số nợ xấu tiềm ẩn rủi ro qua các năm cần phải xử lý theo từng năm 2005-2006-2007 với số tương ứng là 77 tỷ - 68 tỷ vào 80 tỷ.
Đáng quan tâm hơn cả là phải quản lý và xử lý số nợ tồn đọng từ những năm trước 2001 lên tới 3000 tỷ. Năm 2005 mới xử lý được 103 triệu đồng bằng 3,3%.
Phần Thứ hai
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ
VÀ CÁC PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Nguyên nhân
Khi phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng chúng ta đã đưa ra hai loại nguyên nhân đó là nguyên nhân các khách hàng gây nên và loại nguyên nhân thuộc về phía Ngân hàng nhưng phần lớn nguyên nhân chủ yếu vẫn là các khách hàng vay vốn gây ra rủi ro.
a) Về phía doanh nghiệp.
+ Đó là một số doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, hoạt động kém hiệu quả, buông lỏng quản lý, lãng phí, kém sức cạnh tranh, dựa dẫm ỷ lại vào nhà nước và vô trách nhiệm của một số lãnh đạo các doanh nghiệp này dẫn đến thua lỗ, mất vốn không trả được nợ cho Ngân hàng.
+ Đó là các chủ dự án, các giám đốc doanh nghiệp ngoài quốc doanh do trình độ điều hành, trình độ nhận thức pháp luật còn rất hạn chế, không nắm vững chủ trương chính sách, hoạt động vi phạm pháp luật.
+ Đó là nhiều doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh có biểu hiện làm ăn chụp giật, lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh, tẩu tán tài sản dưới nhiều hình thức và vi phạm pháp luật.
+ Thiếu thông tin, hoặc không đủ trình độ để xử lý thông tin, không năng động trong điều hành để tìm hướng làm mới, thị trường không có vốn để nâng cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh.
+ Một số doanh nghiệp do trình độ, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh của chủ dự án yếu kém lỏng lẻo, lối sống buông thả dẫn tới nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.
+ Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền của Nhà nước còn nhiều nhũng nhiễu, công quyền, cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp.
b. Về phía Ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng đưa lại rủi ro thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là: Việc cho vay không tuân thủ đầy đủ cơ chế tín dụng do ngân hàng nhà nước ban hành.
Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là do vận hành của nhiều cơ chế điều chỉnh trong đó cơ chế tín dụng ngân hàng là một trong những cơ chế chủ yếu trực tiếp chi phối đến hoạt động kinh doanh của tổ chức này.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu cơ chế tín dụng Ngân hàng là phương thức kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong từng giai đoạn nhất định. Chính vì vậy nó có nhiều biện pháp thể chế khác nhau hình thành một hệ thống văn bản.
Từ năm 1990 thực hiện Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các cơ chế tín dụng, thường xuyên chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với hệ thống pháp luật của Nhà nước và sự phát triển của thị trường tiền tệ, cụ thể như sau:
Năm 1997, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các Quyết định chỉnh sửa, bổ sung một số điều của thể lệ tín dụng ngắn hạn theo Quyết định số 199/QĐ-NH1 và sửa đổi một số điều của thể lệ tín dụng trung và dài hạn theo Quyết định số 200/QĐ-NH ngày 28/6/1997 và Chỉ thị số 09CT-NH ngày 27-8-1997 về một số điều kiện và thủ tục tín dụng.
- Các cơ chế tín dụng đã thể chế hoá chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; về cơ bản cơ chế tín dụng phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân và Tổ chức tín dụng; cơ chế tín dụng được ban hành kịp thời cho đầu tư tín dụng theo mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế nhà nước.
Sau khi hai đạo luật về Ngân hàng ra đời đã trở thành lịch sử đầu tiên ở nước ta hoạt động Ngân hàng có cơ sở pháp lý cao nhất đầy đủ từ trước đến nay. Ngân hàng Nhà nước đã nhanh chóng tổ chức học hỏi nước ngoài và tập trung các cán bộ chuyên môn đầu ngành soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Các Ngân hàng Thương mại,các Tổ chức tín dụng cũng tiến hành cụ thể hóa các văn bản của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện phối hợp với từng bộ phận trực thuộc cụ thể là :
* Không tuân thủ quy chế cho vay
Ngày 30/09/1988, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước ban hành Quy chế cho vay Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 quy chế này đã thực hiện đã khắc phục được những hạn chế tồn tại do các quy chế trước đây chưa giải quyết được. Tuy nhiên, do thực tiễn của hoạt động kinh tế nước ta cũng như công cuộc Việt Nam chuẩn bị hội nhập đòi hỏi sự chuyển động nhiều hơn, nhanh hơn của các doanh nghiệp và hoạt động Ngân hàng do vậy việc thực hiện quy chế chưa được bao lâu những hạn chế tồn tại vẫn phát sinh và gây nhiều vướng mắc trong giải quyết. Vì vậy, Thống đốc NHNN lại tiếp tục ban hành quy chế 15/8/2000. Quy chế cho vay này thay thế cho Quy chế 324/1998/QĐ-NHNN1 nhằm nâng thêm một bước phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan mới được thi hành của nền kinh tế như Luật doanh nghiệp sửa đổi, Luật Nhà đất, Luật phá sản v.v..
Bối cảnh ra đời của hai Quy chế cho vay đối với khách hàng trên đây (số 324/1998 và số 284/2000) sau thời gian trong khu vực xảy ra khủng hoảng tài chính ở Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ đó là chất lượng tín dụng giảm sút vào những năm 1997-1998 nợ tín dụng xấu ở một số Ngân hàng Thương mại tăng cao nhiều doanh nghiệp thua lỗ dẫn đến phá sản kéo theo rủi ro tín dụng của các Ngân hàng Thương mại lên hàng ngàn tỉ đồng như Tamexco, Efco Minh Phụng. Quy chế cho vay số 284/2000/QĐ-NHNN bộc lộ nhiều thiếu sót.
Vì vậy, ngày 31/12/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 1267/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay cho Tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Luật Ngân hàng ra đời vào thời điểm Việt Nam bước vào thời kỳ tăng tốc xây dựng và hoàn thiện nhiều bộ luật của đất nước như: Luật kinh tế, một biến đổi và là động lực khác đó là việc Việt Nam cũng tăng tốc việc hội nhập khu vực và thế giới thể hiện đầy đủ nhất là một quá trình diễn ra việc đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) mà đầu năm 2006 đã thành công, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức này. Với sự kiện quan trọng này, pháp luật Việt Nam cũng cần được sửa đổi điều chỉnh từng bước vừa bảo đảm tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển vừa phù hợp cho thông lệ quốc tế. Chính vì lẽ đó, quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định số 627/2001/QĐ/NHNN cũng được nhiều lần tiếp tục sửa đổi và bổ sung những nội dung mới như:
- Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/2/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi bổ sung một số điểm của quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung khoản 6 điều 1 của Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN, ngày 03/05/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
* Không thực hiện tốt quy chế bảo đảm tiền vay.
Vậy khi đã có Luật Ngân hàng cần phải có văn bản pháp quy dưới Luật tạo lập tính đồng bộ trong hoạt động cho vay vốn, vốn cho vay của Ngân hàng Thương mại là vốn đi vay vốn huy động của đơn vị và của các tổ chức kinh tế khác tạm thời nhàn rỗi, nhằm đảm bảo an toàn vốn giảm bớt rủi ro thì khi Ngân hàng cho vay phải đưa những điều kiện cần thiết mà người vay vốn phải có đó chính là quy chế bảo đảm tiền vay.
Thực hiện đúng đắn quy chế bảo đảm quy chế tiền vay trước hết nó đưa lại sự an toàn vốn cho Ngân hàng mặt khác nó có tác dụng đòi hỏi người vay có trách nhiệm cao nhất đối với vốn vay, tạo tính năng sử dụng vốn tốt nhất tiết kiệm nhất.
Việc hình thành và triển khai quy chế đảm bảo tiền vay cũng có những giai đoạn được thực hiện theo những quy chế khác nhau và tuỳ thuộc vào năng lực sử dụng có hiệu quả vốn vay của người vay mà điều kiện đảm bảo an toàn vốn được đặt ra cho phù hợp. Điều đó được thể hiện như sau:
- Sau khi có pháp luật Ngân hàng trong điều kiện trong khu vực mới trải qua một giai đoạn suy thoái tài chính tiền tệ, trong khi đó hoạt động tín dụng ở nước ta cũng có những vấp váp, rủi ro khá lớn, chất lượng tín dụng yếu kém. Vì vậy quy chế bảo đảm tiền vay rất chặt chẽ cụ thể là:
+ Chính phủ ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày về bảo đảm tiền vay các Tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở Nghị định trên của Chính phủ ngày 23/04/2001 giữa NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục địa chính có Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng.
Có thể nói 2 văn bản pháp quy trên đây gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan thi hành cũng như thiếu tính chặt chẽ:
+ Hầu như các khoản vay Ngân hàng đều phải có tài sản thế chấp.
+ Việc đánh giá tài sản thế chấp thường thấp hơn so với thị trường.
+ Mức cho vay so với tài sản thế chấp (không quá lớn) có tình trạng trên bởi lẽ:
- Sau những đổ vỡ (rủi ro tín dụng) trong những năm 1985-1987 thì các cơ quan bảo vệ pháp luật vận dụng và áp dụng. Bộ luật hình sự vì vậy cán bộ tín dụng luôn phải đối phó, giữ độ an toàn tuyệt đối khi có bất trắc xảy ra.
- Ngân hàng thương mại chưa được tính quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp…
Tình hình trên đây còn gặp những cản trở bởi nạn rườm rà về thủ tục hành chính của các cơ quan công quyền về công chứng về chính quyền xác nhận về đòi hỏi giấy tờ… đã gây khó khăn ách tắc cho các đơn vị và cá nhân người vay vốn đến với Ngân hàng.
Trước tình trạng đó các văn bản chế tài dưới đây được ban hành:
- Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2005 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của Tổ chưc tín dụng.
- Nghị định số 1380/2002/QĐ-NHNN ngày 16/12/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc huỷ bỏ định mức cho vay không bảo đảm bằng tài sản của Tổ chức tín dụng.
- Quyết định số 138/2002/QĐ-NHNN ngày 16/12/2002 của Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Những nội dung của các văn bản pháp quy trên đây được chính thức hóa bằng quan điểm của Đảng và Nhà nước đó là :
- Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản.
- Thông tư số 03/2003/TT-NHNN ngày 24/02/2003 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về cho vay không phải đảm bảo bằng tài sản.
Tuy nhiên việc quy định mới và nội dung trong các văn bản trên chỉ là vận dụng việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản ở một số đối tượng vay vốn như các doanh nghiệp nhà nước các hộ nông dân nghèo cho vay sinh viên…trong thực tế vận dụng của các bộ tín dụng ngân hàng có nợ vẫn giữ vững sự chặt chẽ quá mức ,có nơi lại quá dễ dãi,bỏ qua hết các quy định cần thiết như bảo lãnh thế chấp…,dễ xảy ra rủi ro.Vì vậy NHNN phải tiếp tục điều chỉnh bằng các văn bản bổ sung và các Chỉ thị chỉ đạo và uốn nắn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Hai là: Nhiều Ngân hàng thương mại chưa tạo được đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi,nhất là năng lực điều động dự án còn hạn chế, dẫn đến phải giải quyết cho vay kém chất lượng.
Ba là: Cũng không lại trừ do sức ép của địa phương, tính cục bộ cho vay vốn và cho vay theo phong trào:các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án trọng điểm mà xa rời quy chế cho vay.
Cuối cùng là do phẩm chất đạo đức của cán bộ mà bất chấp quy chế,luồn lách quy chế … để cho vay vụ lợi.
2/-Hậu quả của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động của Ngân hàng thương mại,nó phản ánh tình huống bất bình thường xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng.Khi tổn thất xảy ra trước hết thu nhập của Ngân hàng giảm sút dẫn đến lợi tức và trị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm.Việc cổ phiếu ngân hàng giảm giá, nếu không được kịp thời chấn chỉnh sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập hoặc thay thế quản lý Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người gửi tiết kiệm rút tiền ra khỏi Ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Tổn thất (ở mức thấp ) làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của Ngân hàng.
Để đối phó với tình huống trên, Ngân hàng có thể phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động …dẫn đến các ảnh hưởng không tốt về nhân sự, về thị trường hoặc nguồn công nghệ…
3/- Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống
a/Phương án thứ nhất.
Trên cơ sở số liệu trên báo cáo thống kê và theo dải nợ xấu tồn đọng đến nay, giám đốc Ngân hàng công thương khu vực BĐ quyết định như sau:
- Tập trung lực lượng cán bộ tín dụng vào việc thu nợ tồn đọng
- Kiên quyết không cho vay tiếp theo đối với các đơn vị vay vốn có nợ xấu.
- Giảm dư nợ cho vay mới đến mức thấp nhất để bảo đảm an toàn vốn. Việc cho vay không phân biệt đối tượng khách hàng đều phải có tài sản thế chấp mức cho vay không quá 70% giá trị thế chấp. Hoặc phải có người đủ tư cách bảo lãnh mới cho vay.
Phương án này:
-Ưu điểm : Tích cực thu nợ tồn đọng nhằm giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng BĐ
- Nhược điểm: Phương án này còn nhưng tồn tại như sau:
+ Chưa thể hiện về chất của hoạt động ngân hàng thương mại vì lợi nhuận đã buông lỏng quản lí, cho vay không đảm bảo quy chế, chạy theo số dư nợ, thiếu kiểm tra, thẩm định không đầy đủ… Lúc gặp rủi ro lại chặt chẽ cực đoan, thiếu tin tưởng đội ngũ cán bộ tín dụng và đối phó với khách hàng không có phân biệt đối xử đúng sai…
+ Là một Ngân hàng giảm dư nợ đến cực đoan là Ngân hàng không vì nền kinh tế - gây khó khăn cho nền kinh tế, gây hoang mang tâm lí người gửi tiền và gây tâm lí bất ổn trong đội ngũ cán bộ trong đơn vị Ngân hàng .
+ Tác hại trước nhất là đối với Ngân hàng BĐ: thu nhập kém , đời sống khó khăn, dễ dẫn đến thua lỗ cũng dẫn đến rủi ro toàn diện hoạt động.
+ Cuối cùng là những đơn vị đang có nợ hiện hành ,sợ ngân hàng giảm thiểu cho vay nên sẽ đối phó bằng không tích cực trả nợ.
Chính hiện tượng này mà cấp uỷ chính quyền địa phương phải can thiệp nhằm đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn 1 cách bình thường, không xáo trộn dẫn đến khó khăn.
Ngân hàng cấp trên phải kịp thời uốn nắn chỉ đạo hoạt động bảo đảm chính sách chung nhất là uốn nắn quan điểm và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ngân hàng này.
b/ Phương án thứ hai:
Cũng trên cơ sở số liệu báo cáo thống kê và theo dõi nợ xấu tồn đọng, giám đốc Ngân hàng khu vực BĐ quyết định như sau:
- Tiếp tục xúc tiến việc tăng cường thu hồi nợ tồn đọng
- Đổi 100% cán bộ tín dụng từ chuyên cho vay đơn vị này sang cho vay đơn vị khác. Đồng thời,tiếp tục xiết chặt điều kiện chi vay một cách chặt chẽ
Phương án này:
-Ưu điểm là:
+ Phát huy tích cực trong thu nợ để giảm thiểu rủi ro
+ Việc chuyển đổi cán bộ tín dụng có ưu điểm là tránh được việc cán bộ thân quen với người vay, tạo hiện tượng nể nang thậm chí dễ thoả hiệp tiêu cực.
Tuy nhiên, phương pháp này bộc lộ những nhược điểm sau đây:
+ Một là: vẫn thể hiện sự đối phó cực đoan,chưa phải biện pháp tích cực của hoạt động ngân hàng hiện đại. Không có tính thuyết phục, thiếu tác dụng cho việc tháo gỡ khó khăn của Ngân hàng.
+ Hai là: thể hiện sự quan tâm đến nền kinh tế chưa đúng đắn, phương châm phải là mở rộng tín dụng an toàn,phát triển tín dụng vững chắc.
+ Ba là: Việc chuyển đổi cán bộ tuy có mặt ưu điểm nhưng vẫn đây vẫn là thực trạng đối phó không chuẩn mực.Việc cán bộ tín dụng chuyên quản đơn vị vay vốn là rất cần thiết và là điều kiện quan trọng để nắm vững kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Từ đó, cũng có điều kiện thẩm định những dự án vay vốn kinh doanh đúng nhất.Việc cán bộ chuyên quản doanh nghiệp cũng tạo điều kiện kịp thời nắm bắt và xử lý những khoản nợ tồn đọng phát sinh hay những biểu hiện dự báo nguy cơ rủi ro để sớm có biện pháp cùng đơn vị vay vốn tháo gỡ khó khăn.
c/Phương án thứ ba:
Để giải quyết tình huống trên đây nhất thiết phải tiến hành theo lộ trình mà quyết định số 493/QĐ-NHTM của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành, bao gồm hai nội dung:
-Xử lý nợ tồn đọng (có dấu hiệu dẫn đến rủi ro và các nợ xấu đã gây ra rủi ro).
-Nâng cao năng lực quản lý rủi ro tín dụng
a/Về xử lý nợ tồn đọng và nợ xấu cần theo các bước sau đây:
-Thứ nhất : Thành lập phòng quản lý rủi ro. Phòng này có hai chức năng.
+Quản lý rủi ro: phòng có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh; quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng.Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án ,phương án đề nghị cấp tín dụng; thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
+Quản lý nợ có vấn đề: Phòng chịu trách nhiệm về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề; quản lý,khai thác vã xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay; quản lý, theo dõi thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro.
Nhiệm vụ của phòng quản lý rủi ro và nợ có vấn đề bao gồm các hoạt động : thẩm định, tái thẩm định độc lập và đánh giá rủi ro các khoản vay, dự án vay vốn, các khoản bảo lãnh cấp tín dụng cho khách hàng; chấm điểm, xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng có quan hệ tín dụng với Chi nhánh; kiểm tra hoàn thiện hồ sơ của các nghiệp vụ tín dụng và tài trợ thương mại; thực hiện phân loại nợ và tính toán trích dự phòng rủi ro cho từng khách hàng; nhằm đảm bảo cho các hoạt động nghiệp vụ ,triển khai thực hiện các chính sách, quy trình, quy định về quản lý rủi ro tín dụng; rủi ro tác nghiệp, rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán… nhằm giúp cho hoạt động nghiệp vụ tại Chi nhánh ngăn ngừa và hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro.
- Thứ hai: Thành lập Hội đồng xử lý nợ do giám đốc làm Chủ tịch Hội đồng , cùng các thành viên do Giám đốc quyết định để xem xét và phân tích nguyên nhân đưa đến rủi ro để xử lý.
Đây chính là hướng tổ chức tín dụng vì như trên đã phân tích: có nguyên nhân thuộc về khách hàng ,có nguyên nhân thuộc về ngân hàng .
-Thứ ba: Sau khi đã phân tích nguyên nhân đưa đến rủi ro và tình hình phản ánh số lượng các loại nợ dưới đây để báo cáo Ngân hàng Trung ương (số phải tính vào dự kiến xử lý) quyết định cho phép xử lý cụ thể .
- Thứ tư: công việc vào cuối tháng 12 hàng năm là phải tiến hành phân loại nợ để kịp thời báo cáo. Phân loại nợ chia làm 5 nhóm :
- Nhóm 1 : Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm :
+ Các khoản nợ trong hạn có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày có khả năng thu hồi cả gốc và lãi.
Nhóm 2 : Nhóm nợ cần lưu ý, bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày
+ Các khoản nợ điều chỉnh kì hạn trả nợ lần đầu
+ Các khoản nợ được phân loại là kém chất lượng khác
Nhóm 3 : nhóm nợ dưới tiêu chuẩn ,bao gồm:
+ Các khoản nợ từ 91 ngày đến 180 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi
Nhóm 4 : nhóm nợ nghi ngờ, bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày.
Nhóm 5 : nhóm nợ có khả năng suất vốn , bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn lần thứ hai quá hạn theo thời hạn cơ cấu lại lần thứ hai
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý
Việc phân loại nợ vừa là để xử lý nợ, vừa là để Ngân hàng với người vay trong thời gian tới đó giải quyết thấu tình đạt lý.
b/Về nâng cao năng lực quản lý rủi ro tín dụng.
-Một là: Quán triệt tăng trưởng tín dụng với chính sách phát triển khách hàng dựa vào việc đánh giá và phân loại khách hàng theo chuẩn mực tiên tiến.
Ở mỗi Ngân hàng Thương mại cần thống nhất 1 số tiêu chí quan trọng để loại khách hàng và quyết định phương hướng ,mức độ phát triển đầu tư, như: khả năng tài chính, về tình hình lời lãi trong vòng 3 năm gần nhất, về tình hình trả nợ ngân hàng, tình hình thanh toán công nợ trong kinh doanh, về thương hiệu sản phẩm, về chiếm lĩnh thị trường và công nghệ trong sản xuất kinh doanh, về cung cấp thông tin báo cáo…
Làm tốt việc xếp loại khách hàng là cơ sở cho việc vay có hiệu quả và dự phòng tốt nhất rủi ro tín dụng.
- Hai là : Triển khai và thực hiện đúng đắn nghiêm minh quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế cho vay của Ngân hàng Thương mại (Tổ chưc tín dụng ) đối với khách hàng. Đây chính là giải pháp hữu hiệu nhất để quản lý rủi ro tín dụng .
Nâng cao năng lực quản lý rủi ro tín dụng đối với đội ngũ cán bộ quản lý điều hành các cấp.Trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại, năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo nên năng lực quản lý, điều hành của Ngân hàng Thương mại. Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành mạnh không chỉ đảm bảo hoạt dộng kinh doanh của Ngân hàng Thương mại có kỷ cương, thống nhất mà còn biết phát huy tính năng động ,sáng tạo của mỗi người thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kinh doanh của đơn vị và của cả Doanh nghiệp,tránh được nhũng rủi ro không đáng có trong kinh doanh. Để nâng cao năng lực quản lý rủi ro tín dụng đối với đội ngũ cán bộ quản lý các cấp, Ngân hàng Thương mại cần quan tâm đến công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, hiểu biết về pháp luật và kiến thức ,về quản lý rủi ro ngân hàng để bộ máy Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhân viên (CBNV) về chuyên môn ,nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và ý thức phòng ngừa rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở nước ta hầu hết đều bắt đầu từ việc thực hiện những nghiệp vụ cụ thể ,với những con người cụ thể. Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật còn bất cập hoặc do ý thức trách nhiệm không cao, hoặc do thiếu đạo đức nghề nghiệp… của Cán bộ nhân viên đã vi phạm các quy trình nghiệp vụ ,cơ chế ,chính sách, pháp luật dẫn đến những thất thoát tài sản của Ngân hàng. Bởi vậy, nếu đội ngũ Cán bộ nhân viên đáp ứng được nhũng yêu cầu hoạt động kinh doanh Ngân hàng chắc chắn sẽ giảm thiểu những rủi ro do chủ quan gây ra.
Đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ nghiệp vụ tín dụng quan trọng hàng đầu là năng lực và phẩm chất trong thẩm định dự án, nhu cầu vốn:
Nói về công tác thẩm định. Trừ 1 số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan như: thua lỗ ,công nợ khó đòi ,khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định hời hợt của cán bộ tín dụng. Do không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho vay và cách giám sát hợp lý.Cán bộ Ngân hàng đôi khi còn hời hợt trong phần kiểm tra sử dụng vốn ,dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng,khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa nhà, mua sắm vật dụng , thậm chí là tiêu xài cá nhân… Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ Ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng là quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
Tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Trong thời đại ngày nay, vai trò của thông tin không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng - một ngành kinh tế tổng hợp rất nhạy cảm trước các biến động về chính trị, kinh tế, xã hội. Thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin phòng ngừa rủi ro cần được cập nhật và khai thác triệt để trong quản trị kinh doanh Ngân hàng. Có như vậy mới giảm thiểu được những rủi ro khách quan và chủ quan do thiếu thông tin hoặc không khai thác.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, thực hiện nghiêm ngặt các quy trình kiểm tra nghiệp vụ phát hiện những sai sót có khả năng dẫn đến rủi ro ,có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.Các Ngân hàng Thương mại ở nước ta rất coi trọng hệ thống kiểm tra nội bộ. Hình thức và biện pháp kiểm tra ngày càng hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn trong từng nghiệp vụ .Hệ thống kiểm tra từng nghiệp vụ cụ thể, đặc biệt là các chứng từ tín dụng - nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro cao, giúp lãnh đạo Ngân hàng Thương mại kịp thời chấn chỉnh, hạn chế được những rủi ro chủ quan. Qua kết quả kiểm tra nghiệp vụ tại các Chi nhánh và đơn vị thành viên, Ngân hàng Thương mại tổng kết, rút kinh nghiệm trong toàn Ngân hàng tại các Hội nghị chuyên đề và Hội nghị sơ kết, tổng kết hoạt động kinh doanh hàng năm góp phần nâng cao năng lực quản trị rủi ro của Ngân hàng.
Phần thứ ba
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
a/ Kiến nghị với Chính phủ và các ngành liên quan.
-Các văn bản quy phạm pháp quy cần có sự đông bộ ,nhất là xử lý tài sản khi đã thế chấp cho ngân hàng để vay vốn mà không trả được nợ.
-Quan hệ vay nợ là có hợp đồng kinh tế giữa hai bên cần giải quyết theo luật dân sự không nên hình sự hoá.
b/ Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
Đề nghị Ngân hàng nhà nước cần có giải pháp tác động để thị trường mua bán nợ hoạt động có hiệu quả, thông suốt hơn tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng thương mại, nhất là Ngân hàng Thương mại cơ sở (chi nhánh) giảm bớt được rủi ro và nâng cao năng lực tài chính.
c/ Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
-Đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam giải quyết kịp thời việc quyết định duyệt cấp rủi ro tín dụng mà chi nhánh gửi lên hàng năm để kịp thời giảm thiểu rủi ro cho các chi nhánh, tăng vốn hoạt động .
- Đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam sớm bù đắp những khoản tồn đọng từ trước những năm 2001 dứt điểm không nên kéo dài găm vốn Ngân hàng cơ sở, ảnh hưởng đến kinh doanh.
Việt Nam đã và đang hội nhập quốc tế, nhất là sau khi đã gia nhập WTO, hoạt động Ngân hàng Thương mại phải vượt qua những khó khăn, vươn lên đủ sức cạnh tranh trong nước và quốc tế - điều đó phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức tốt nhất hoạt động quản lý rủi ro tín dụng. Vì vậy, thực hiện tốt Quyết định số 493 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày càng có ý nghĩa trước mắt và lâu dài của toàn bộ hệ thống các Tổ chức tín dụng hiện nay./.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần thứ nhất: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG 5
1)– Hoàn cảnh ra đời vào mục tiêu xử lý tình huống. 5
2) –Diễn biến tình huống. 6
Phần Thứ hai: PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ CÁC PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 15
1. Nguyên nhân 15
a) Về phía doanh nghiệp. 15
b. Về phía Ngân hàng. 16
2/-Hậu quả của rủi ro tín dụng 21
3/- Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống 22
a/Phương án thứ nhất. 22
b/ Phương án thứ hai: 23
c/Phương án thứ ba: 24
Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 30
a/ Kiến nghị với Chính phủ và các ngành liên quan. 30
b/ Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. 30
c/ Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam. 30
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình huống nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ.docx