Tòa án nhân dân tỉnh Y trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của UBND tỉnh Y là đúng hay sai? Giải thích rõ?
Trả lời
Theo nhóm chúng em, việc toà án trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của UBND tỉnh Y là sai.
Trước tiên, chúng em muốn làm rõ quyền hạn của UBND tỉnh Y trong vấn đề này.Theo tình huống đưa ra, công ty Sông Hồng là một công ty nhà nước được thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Đến năm 2008, tức là thời điểm công ty Sông Hồng lâm vào tình trạng phá sản và UBND tỉnh Y nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì công ty vẫn đang là đối tượng điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Trước khi làm rõ vấn đề trên, ta cần xác định: Những đối tượng nào có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty nhà nước này?
13 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5042 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình huống về phá sản doanh nghiệp và một số nhận xét về luật doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
1. Tòa án nhân dân tỉnh Y trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của UBND tỉnh Y là đúng hay sai? Giải thích rõ?
Trả lời
Theo nhóm chúng em, việc toà án trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của UBND tỉnh Y là sai.
Trước tiên, chúng em muốn làm rõ quyền hạn của UBND tỉnh Y trong vấn đề này.Theo tình huống đưa ra, công ty Sông Hồng là một công ty nhà nước được thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Đến năm 2008, tức là thời điểm công ty Sông Hồng lâm vào tình trạng phá sản và UBND tỉnh Y nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì công ty vẫn đang là đối tượng điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Trước khi làm rõ vấn đề trên, ta cần xác định: Những đối tượng nào có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty nhà nước này?
Vì là đối tượng áp dụng của Luật phá sản 2004 nên theo quy định của pháp luật về phá sản, những đối tượng sau có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Thứ nhất, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ (bao gồm chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần) theo Điều 13 Luật phá sản 2004.
Thứ hai, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động theo quy định tại Điều 14 Luật phá sản 2004. Việc nộp đơn phải thông qua người đại diện do người lao động cử ra hoặc đại diện Công đoàn.
Thứ ba, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Đối với đối tượng là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, khoản 1 Điều 16 Luật phá sản 2004 quy định: “ Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó...’’. Như vậy, chủ sở hữu doanh nghiệp hay đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cũng theo quy định tại Điều 66 Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 về Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với công ty nhà nước do Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện thì: “Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là đại diện chủ sở hữu đối với các công ty nhà nước do Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc được uỷ quyền quyết định thành lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu như sau…”
Như theo tình huống, “công ty nhà nước Sông Hồng của UBND tỉnh Y” sẽ được hiểu là công ty Sông Hồng được UBND tỉnh Y quyết định thành lập vì vậy đương nhiên, UBND tỉnh Y là đại diện hợp pháp của công ty nhà nước Sông Hồng. Như vậy, rõ ràng UBND tỉnh Y có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy công ty Sông Hồng lâm vào tình trạng phá sản.
Hơn nữa, khoản 1 Điều 15 Luật phá sản 2004 quy định về Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản : ‘‘Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó...’’. Theo như quy định này thì việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các đối tượng là bắt buộc. Điều này được thể hiện bằng chế tài trong NĐ 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02/2009 về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Điều 9 Nghị định quy định về hành vi vi phạm quy định về nghĩa vụ nộp đơn:
“1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi của chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong thời hạn quy định tại Điều 15 của Luật Phá sản.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc chủ doanh nghiệp, người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn theo yêu cầu của Tòa án có thẩm quyền.”
Giám đốc của công ty sông Hồng là người quản lý trực tiếp công ty, còn Nhà nước là chủ sở hữu, quản lý gián tiếp các hoạt động của công ty, mà UBND tỉnh Y là đại diện của Nhà nước, thay mặt Nhà nước giám sát mọi hoạt động của công ty, báo cáo kết quả mọi mặt mà công ty đã đạt được hay chưa đạt được.
Tóm lại, với những căn cứ đã nêu, có thể khẳng định UBND tỉnh Y có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản công ty Sông Hồng lên Toà án nhân dân tỉnh Y.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp Nhà nước còn cần phải diễn ra theo một thủ tục. Chủ thể nộp đơn phải có một trình tự nhất định. Theo khoản 1 Điều 16- Luật phá sản năm 2004 đã trích dẫn ở trên, đồng thời căn cứ theo khoản 5 Điều 15 Luật phá sản 2004: “Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.” thì có thể hiểu rằng trong thời hạn 3 tháng, kể từ thời điểm phát hiện ra công ty Sông Hồng lâm vào tình trạng phá sản, nếu nhận thấy công ty Sông Hồng không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì UBND tỉnh Y có trách nhiệm gửi đơn yêu cầu đó ra Toà án.
Theo tình huống đưa ra, “Trong năm 2007, Công ty Sông Hồng gặp khó khăn và thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Và đầu năm 2008, nhận thấy công ty Sông Hồng lâm vào tình trạng phá sản, UBND tỉnh Y đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.”. Có thể suy đoán rằng, tại thời điểm 2008, sau khi phát hiện ra công ty lâm vào tình trạng phá sản thì như một động thái ngay sau đó, UBND tỉnh Y đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tới Toà án. Việc làm này đúng với trình tự, thủ tục luật định. Bởi vì ngay từ năm 2007, với tình trạng khó khăn và thua lỗ của mình, bản thân công ty Sông Hồng phải tự nhận thấy khả năng lâm vào tình trạng phá sản của công ty, lẽ ra họ phải có trách nhiệm nộp đơn xin mở thủ tục phá sản trước năm 2008, khi mà UBND tỉnh Y phát hiện. Như vậy, việc UBND tỉnh nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một việc làm kịp thời, cần thiết, đúng quy định của pháp luật, làm cho quan hệ thương mại giữa các bên với công ty cũng như quyền lợi của các bên được bảo đảm.
Như vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh Y trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của UBND tỉnh Y là không đúng pháp lý.
2. Để mở thủ tục phá sản đối với công ty Sông Hồng, Tòa án cần chuẩn bị đủ những chứng cứ pháp lý nào?
Theo đơn yêu cầu của đại diện hợp pháp của công ty sông Hồng, Toà án nhân dân tỉnh Y đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Để mở thủ tục phá sản một doanh nghiệp, Toà án có nghĩa vụ chuẩn bị những điều kiện theo Luật định. Và những điều kiện theo luật pháp quy định đó, chính là những chứng cứ pháp lý mà Toà án cần có.
Theo quy định của pháp luật về thủ tục phá sản doanh nghiệp, cụ thể là Khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản 2004:
“Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài liệu sau đây:
a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận;
b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;
c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được;
d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;
đ) Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;
e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp;
g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung cấp theo quy định của pháp luật.”
Dựa trên cơ sở của điều luật trên, theo nhận định của nhóm chúng em, khi công ty nhà nước Sông Hồng gửi đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến Toà án nhân dân tỉnh T, thì Toà án nhân dân tỉnh sẽ yêu cầu công ty, các chủ thể liên quan chuẩn bị những tài liệu cần thiết, và đây được coi là bằng chứng để Toà án mở thủ tục phá sản, bao gồm :
Thứ nhất là báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của công ty Sông Hồng, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
Thứ hai là báo cáo về các biện pháp mà công ty Sông Hồng đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Thứ ba là bảng kê chi tiết tài sản của công ty Sông Hồng và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được.
Thứ tư là danh sách các chủ nợ của công ty trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm.
Thứ năm là danh sách những người mắc nợ của công ty trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm.
Sở dĩ, Toà án lại cần có những chứng cứ này là để xác minh được rằng công ty Sông Hồng đã lâm vào tình trạng không còn đủ khả năng thanh toán các khoản nợ tới hạn để có thể tuyên bố phá sản. Ngoài ra, còn phải xác định được danh sách chủ nợ, danh sách những người mắc nợ để thực hiện quyền và nghĩa vụ có liên quan sau khi công ty phá sản.
3. Ngày 29/3/2008, Toà án nhân dân tỉnh Y đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với công ty Sông Hồng. trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản phát hiện:
– Ngày 22/04/2008, công ty Sông Hồng tiến hành thanh toán số nợ 293 triệu đồng (không có bảo đảm) cho công ty cổ phần Hoa Hồng.
Hỏi : xác định rõ tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các hành vi mà công ty Sông Hồng đã thực hiện.
Trả lời: Hành vi mà công ty Sông hồng đã tiến hành nêu trên là bất hợp pháp. Bởi:
Quyết định mở thủ tục phá sản đã kéo theo những hệ quả pháp lý nhất định, trong đó mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Sông Hồng sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và các chủ thể có liên quan, Luật Phá sản nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số hoạt động hoặc trước khi thực hiện phải có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán (bị hạn chế khi thực hiện).
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 31 Luật phá sản 2004:
“Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau đây:
Cất giấu, tẩu tán tài sản;
Thanh toán nợ không có bảo đảm;
Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp.”
Ngoài việc tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh bình thường doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản còn phải kiểm kê toàn bộ tài sản, xác định trị giá các tài sản đó theo bảng kê chi tiết đã nộp cho tòa án và phải gửi ngay cho thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản. Trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là không chính xác thì tổ quản lý, thanh lý tài sản, tổ chức kiểm kê xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê (Điều 50 Luật phá sản). Quy định này giúp cho thẩm phán cũng như tổ quản lý, thanh lý tài sản có thể nhanh chóng nắm bắt được một cách chính xác thực trạng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và có những giải pháp hợp lý, cần thiết trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
Hơn nữa, việc pháp luật phá sản nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán nợ không có bảo đảm khi mở thủ tục phá sản là phù hợp với những quy định về giao dịch bảo đảm trong pháp luật dân sự và cũng là để đảm bảo tính công bằng giữa các chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, chủ nợ không có bảo đảm và trong chính những chủ nợ không có bảo đảm của công ty nhà nước Sông Hồng. (Điều 323, Điều 325 Bộ luật dân sự năm 2005)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật phá sản năm 2004 quy định: Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì việc phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo thứ tự sau đây:
“a) Phí phá sản;
b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
c) Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.”
Như vậy, công ty Sông Hồng đã tiến hành thanh toán số nợ 293 triệu đồng (không có bảo đảm) cho công ty cổ phần Hoa Hồng sau khi đã có quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân tỉnh Y là hành vi bất hợp pháp.
3. Ngày 29/3/2008, Toà án nhân dân tỉnh Y đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với công ty Sông Hồng. trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản phát hiện :
– Ngày 29/4/2008, công ty Sông Hồng tự ý tiến hành trả lương tháng 4 cho người lai động làm việc tại công ty.
Hỏi : xác định rõ tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các hành vi mà công ty Sông Hồng đã thực hiện.
Trả lời: Hành vi trả lương tháng 4 cho người lao động của công ty nói trên là một hành vi bất hợp pháp. Bởi:
Điều 31 Luật phá sản năm 2004 quy định về những hoạt động của Doanh nghiệp bị cấm hoặc bị hạn chế. Theo đó thì tại khoản 2 của Điều luật quy định rõ những hành bị hạn chế, trước khi Doanh nghiệp muốn thực hiện những hành vi này, họ phải nhận được sự đồng ý bằng Văn bản của thẩm phán, bao gồm : “
a) Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;
b) Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
c) Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
d) Vay tiền;
đ) Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
e) Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.”
Như vậy, nếu muốn trả lương cho người lao động đang làm việc tại công ty, công ty Sông Hồng phải có Văn bản đề nghị thẩm phán của toà án mở thủ tục phá sản đồng ý, và khi thẩm phán ra Văn bản chấp thuận thì công ty mới được tiến hành. Nhưng ở đây, công ty đã tự ý làm việc này. Hành vi đó bị coi là bất hợp pháp.
Pháp luật quy định mặc dù đã có quyết định mở thủ tục phá sản, nhưng vẫn cho phép doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bình thường nhưng phải dưới sự kiểm tra, kiểm sát của Ban kiểm kê, thanh lý tài sản. Một điều dễ hiểu đó là người lao động trong doanh nghiệp ấy vẫn cần phải có thu nhập hàng tháng (tiền lương) để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hàng ngày, vì thế việc Công ty Sông Hồng thực hiện việc trả lương tháng 4 cho công nhân là một việc làm phù hợp với thực tiễn cũng như phù hợp với quy định của pháp luật lao động. Tuy nhiên, do đã có quyết định mở thủ tục phá sản, nên hành vi trả lương nhưng không có sự đồng ý của thẩm phán của công ty Sông Hồng bị coi là trái với trình tự và thủ tục mà pháp luật quy định, có nghĩa đó là một hành vi bất hợp pháp.
Theo nhóm chúng em, sở dĩ pháp luật quy định một số hành vi của doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm hoặc hạn chế tiến hành khi đã nhận được quyết định mở thủ tục phá sản như trên đó là vì một vài mục đích như sau :
Thứ nhất, giữ nguyên hiện trạng tình hình nền tài chính của công ty, không làm phức tạp thêm tình hình, đảm bảo cho những tài sản thuộc sở hữu của công ty tạm thời không bị dịch chuyển sang các chủ thế khác khi chưa có quyết định giải quyết của toà án, cũng như không để cho công ty tiếp tục trở thành một “con nợ” mới. Qua đó, mục đích cuối cùng là đảm bảo việc giải quyết thanh toán cho các chủ nợ sau này điễn ra đúng trình tự, công bằng.
Thứ hai, nhằm phục vụ cho hoạt động của ban kiểm tra thanh lý tài sản, và rộng hơn là phục vụ cho thủ tục phá sản được diễn ra thuận lợi. Bởi việc không cho phép hay hạn chế thực hiện một số hoạt động đó sẽ giúp cho các cơ quan chức năng nắm rõ nhất tình hình thực tế tài chính của doanh nghiệp (nắm được tình hình tổng số tài sản hiện tại thuộc sở hữu của công ty). Qua đó sẽ giúp cho các cơ quan này tiến hành mở thủ tục phá sản được thuận lợi, đảm bảo tính công minh của pháp luật.
Tuy nhiên, nhận định hai hành vi trên đây của Công ty Sông Hồng là hành vi bất hợp pháp chỉ đúng khi công ty trước đó đã nhận được quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31- Luật phá sản 2004), nếu như vì một lý do nào đó, mà công ty chưa nhận được quyết định này, thì những hành vi nói trên của Doanh nghiệp không bị coi là bất hợp pháp.
II. NHẬN XÉT CHUNG CỦA NHÓM:
Quy định của pháp luật về phá sản:
Phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước và Tòa án có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp với một cách nhìn hiện đại, năng động và hết sức mềm dẻo.
Vai trò của pháp luật phá sản là không thể phủ nhận, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng thì nó đã biểu hiện những thiếu xót và hạn chế nhất định, cần được quan tâm, xem xét và hoàn thiện.
Khái niệm phá sản.
Mặc dù khái niệm này có sự hoàn thiện hơn so với LPSDN 1993 nhưng vẫn còn hạn chế ở tính thiếu triệt để của nó. Điều 3 LPS 2004 không quy định rõ số nợ và thời gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con nợ chỉ cần mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 01 ngày sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ.
Về các loại chủ nợ
Luật chỉ phân biệt chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 6). Về nguyên tắc, LPS 2004 đã thể hiện tinh thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với chủ nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên một số quy định của LPS 2004 không phù hợp với tinh thần chủ đạo đó. Cụ thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ có bảo đảm đã bị hạn chế – bị tạm đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 27, Điều 35), trừ trường hợp được Tòa án cho phép. Trong khi đó, các chủ nợ không có bảo đảm vẫn có thể được thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.Việc thanh toán các khoản nợ không có bảo đảm chỉ bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31).
Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần còn một loại chủ nợ nữa mà Luật không đề cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ này trong thủ tục phá sản là hoàn toàn hiện thực và chủ nợ này có những quyền đặc trưng của mình. Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều 31, điểm e) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều này có nghĩa là doanh nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới – xuất hiện những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây là sự thiếu lôgic và không chặt chẽ của Luật.
- Về mối quan hệ giữa thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản
Thứ nhất, Theo luật phá sản doanh nghiệp thì phải tuyên bố phá sản với doanh nghiệp sau đó mới có lý do để thanh lý tài sản của nó- chuyển hóa khối tài sản thành tiền và thực hiện việc phân chia số tiền thu được theo thứ tự do luật định để bảo đảm sự công bằng. Nhưng Luật Phá Sản 2004 lại thừa nhận thủ tục thanh lý tài sản là thủ tục độc lập với thủ tục tuyên bố phá sản và đảo lộn thứ tự của chúng. Người ta tiến hành thủ tục thanh lý tài sản của con nợ trước sau đó mới tuyên bố nó bị phá sản. Thẩm phán ra quyết định tuyên bố con nợ bị phá sản đồng thời với việc sra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86). Rõ ràng trình tự như LPS 2004 là không ổn. Trình tự này cho người ta cảm tưởng rằng việc thanh lý tài sản của con nợ là nội dung quan trọng hơn việc tuyên bố phá sản. Trong khi đó về lý luận thì tuyên bố phá sản đối với con nợ là một cách thức pháp lý thu hồi nợ của các chủ nợ. Các chủ nợ thu hồi nợ bằng yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản với con nợ. Tuyên bố con nợ phá sản phải là cái có trước.
Thứ hai là với trình tự như vậy thì thủ tục phá sản trở nên rườm rà hơn. Có hai quyết định của Tòa án: quyết định mở thủ tục thanh lý và quyết định tuyên bố phá sản. Cả hai quyết định này đều có thể bị khiếu nại và kháng nghị, đòi hỏi thời gian giải quyết. Nếu chúng ta coi thanh lý tài sản chỉ là một nội dung của thủ tục tuyên bố phá sản, dựa trên quyết định tuyên bố phá sản thì thủ tục phá sản gọn nhẹ hơn và lôgic hơn. Thanh lý tài sản có thể có hoặc có thể không nhưng tuyên bố phá sản là một trong những mục tiêu chính của thủ tục phá sản (khi không thể phục hồi doanh nghiệp).
Đó là một trong những bất cập mà trong quá trình giải quyết vụ việc cũng như tham khảo các nguồn tài liệu, nhóm chúng em đã nhận thấy và xin đưa ra để tất cả chúng ta cùng xem xét, nhìn nhận và đánh giá.
Sự cần thiết của việc bãi bỏ Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003:
Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 quy định các vấn đề liên quan đến đặc thù của mô hình doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu hoặc có số vốn chi phối trong doanh nghiệp. Với sự ra đời của Luật này, doanh nghiệp Nhà nước có những địa vị pháp lý khác hẳn so với các mô hình doanh nghiệp khác được quy định trong Luật doanh nghiệp 2005.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, các doanh nghiệp cần phải có một “sân chơi” bình đẳng, quyền và nghĩa vụ của họ phải ngang nhau. Điều này lại càng cần thiết khi Việt Nam tham gia các tổ chức kinh tế thế giới. Mặt khác, việc tồn tại mô hình doanh nghiệp Nhà nước nói trên làm hạn chế sự phát triển của chính những doanh nghiệp này, do bị hạn chế việc huy động vốn từ bên ngoài và những đối tác kinh doanh. Thêm vào đó, việc tồn tại Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 cũng như các văn bản hướng dẫn liên quan dường như làm cho hệ thống pháp luật doanh nghiệp Việt Nam bị chồng chéo…
Với những căn cứ trên đây, việc bãi bỏ Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 là hoàn toàn cần thiết trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình huống về phá sản doanh nghiệp và một số nhận xét về luật doanh nghiệp.doc