Lăm lượng có nghĩa là hát lăm (mỏ lăm). ỞLào, từ xưa đã ra đời những mỏlăm
hoặc những nhóm mỏlăm. Thoạt đầu, trong nhóm chỉcó một nam hát và một nam
thổi kèn, dần dần, cả phụ nữ cũng tham gia vào các nhóm mỏlăm, và xuất hiện
những cặp vợ chồng mỏlăm, đi khắp nơi để biểu diễn, chính những nghệ sĩ dân gian
này, họ đã giữ gìn, bảo vệvà còn làm phong phú thêm cho nghệ thuật ca múa dân
gian của dân tộc Lào. Quá trình hình thành của mỏ lăm ở Lào chừng nào thì đó cũng
giống với quá trình hình thành của sân khấu cải lương Việt Nam, cảhai bên đều bắt
nguồn từ ca nhạc dân tộc, và đều từ ca hát có nhạc đệm đơn thuần, rồi sau đó
chuyển dần thành ca hát trình diễn sân khấu.
156 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3180 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c cá biển. Người Khơ Me dùng mắm bò hóc
hàng ngày và thêm vào hầu hết các món ăn mặn. Ngoài ra, bò hóc còn được dùng
làm những món riêng như kho, chiên, chưng. Đặc biệt, người Khơ Me thích món
mắm bò hóc ăn sống trộn với sả ớt băm nhỏ chấm với đậu đũa (Ngô Văn Doanh,
1999: 350-351).
(2) Ngapi: có nghĩa là cá mắm, là món ăn truyền thống của mọi gia đình Mianma.
Nhưng trên thực tế, Ngapi mang nội dung rộng hơn nhiều, người ta có thể dùng cả
tôm làm Ngapi, dùng nước bã của Ngapi để chăn nuôi. Tùy loại cá tôm, nơi sản
xuất, và phương pháp sản xuất mà Ngapi được phân thành nhiều loại khác nhau, nổi
tiếng hơn trong các loại chính sau: Ngapi gaung, Taungtha Ngapi và Seinsa Ngapi
(Ngô Văn Doanh, 1999: 298).
(3) Batik: một trong những loại vải và nghề dệt vải truyền thống nổi tiếng của
Inđônêxia. Xưa kia, vải batik chỉ được dùng trong nội bộ các triều đình vua chúa
đảo Giava và có chất lượng rất cao. Thường thường một tấm vải batik được làm rất
công phu và đòi hỏi nhiều thời gian, đó là loại batik in tay. Việc đầu tiên là phải dệt
xong tấm vải, tấm vải được ngâm vào dung dịch tinh bột, sau đấy, tấm vải được đem
phơi khô, và, được đập nhẹ lên mặt vải bằng vồ gỗ. Người thợ dùng bút chì phác
ngoài nét ngoài của hoa văn rồi phết sáp ong các nét vẽ đó bằng một ống phun nhở
gọi canting. Bằng cách này, người thợ khéo léo phủ kín lên mặt vải các hình hoa
văn, cuối cùng, nhúng vải vào nước nhuộm màu, mỗi màu nhúng một lần, màu
nhuộm là các màu lấy từ các chất thiên nhiên, sau mỗi lần nhuộm một màu xong,
sáp ong lại được phủ lên từng đường nét của các hoa văn đã nhuộm màu. Việc phát
minh ra kỹ thuật in batik có làm cho quá trình làm vải batik ngắn hơn, nhưng chất
lượng thì không thể bằng được vải batik vẽ bằng tay (Ngô Văn Doanh, 1999: 64).
(4) Xà cạp: vải chéo dài quấn kín ống chân; hoặc ống vải hở 2 đầu may sẵn, bao lấy ống
chân hoặc ống quần cho gọn gàng để bảo vệ chân của nông dân làm ruộng nước, một
số dân tộc miền rừng núi, lính xưa. Có loại một màu, có loại 2 màu xen kẽ, xà cạp
bằng da có thể thay cho ghệt, ủng, có tác dụng tránh đỉa, vắt, bùn, gai, bảo vệ chân,
tạo dáng gọn, khỏe. Xà cạp bằng da bọc ngoài những thanh gỗ hay sắt đặt dọc trước
xương ống chân để tránh nguy hiểm khi giao đấu đối với cầu thủ bóng đá, khúc côn
cầu, xà cạp còn được dùng trong lĩnh vực chỉnh hình ống chân.
Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam. Đọc từ:
Zncm91cGlkPSZraW5kPXN0YXJ0JmtleXdvcmQ9eA==&page=1 (đọc ngày 12-4-
2010).
(5) Kain: đây là một tấm vải nhiều màu sắc được quấn hai vòng quanh người như cái váy
từ thắt lưng đến đầu gối hoặc chấm mắt cá chân. Kain cũng có thể được quấn như
cái áo choàng dài, thường dài 2.5m và rộng 0.5m đến 1m, ngắn để mặc khi làm việc
nặng, còn bình thường người Giava mặc kain dài gọi là kain panđong.
77
Chương III
“THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
VỀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
(1) Chữ Thăm là dạng chữ Lào hóa của từ dhamma (Pali) và dharma (Sanskrit) của Ấn
Độ, đây là chữ mà đọc theo âm Pali để ghi chép kinh sách Phật giáo (Nguyễn Tấn
Đắc, 2003: 77).
(2) Tơru là cái rọ đan dày, treo trên cột bếp, trong có những mảnh vải đẹp và có một cái
hộp nhỏ đựng thóc. Mỗi năm chọn một ít hạt thóc mới, đẹp và mẩy đặt vào hộp,
thay cho thóc cũ. Khi chuyển bản, dời nhà thì người ta mang theo hộp thóc thờ, và
làm Tơru mới.
(3) Tình hình tôn giáo ở các nước trong khu vực Đông Nam Á
NƯỚC QUỐC GIÁO TÔN GIÁO VÀ TỈ LỆ TÍN ĐỒ SO VỚI DÂN SỐ
1. Brunây Hồi giáo
Hồi giáo 64.2%, Phật giáo 13.1%, Kitô
giáo 8%, giáo phái Pakha 0.4%, các giáo
phái khác 14.3%.
2.Cămpuchia Không Phật giáo 88.4%, Hồi giáo 2.4%, ngoài ra 9.2% tôn giáo khác.
3. Đông Timo Không
Thiên Chúa 90%, Hồi giáo 5%, Tin
Lành 3%, Ấn Độ giáo 0.3%, Phật giáo
0.1% và còn lại là đạo duy linh truyền
thống 1.6%.
4. Inđônêxia Không
Hồi giáo 83.6%, Tin Lành 4.8%, Ấn Độ
giáo 2.1%, Phật giáo 1%, Nho giáo
0.7%, ngoài ra 8% tôn giáo khác.
5. Lào Không
Phật giáo 58%, tôn giáo bộ lạc 34%,
Kitô giáo 2%, không giáo phái 4%,
ngoài ra 2%.
6. Malaixia Hồi giáo
Hồi giáo 54%, tôn giáo Trung Quốc
24.7%, Ấn Độ giáo 7.4%, Phật giáo
6.4%, Công giáo 2.8%, Tin Lành 1.4%,
ngoài ra 2.9% tôn giáo khác.
7. Mianma Không
Phật giáo 87%, Kitô giáo 5.6%, Hồi giáo
3.6%, tôn giáo bộ lạc 1.9%, ngoài ra
1.7% tôn giáo khác.
8. Philippin Không Công giáo 84.1%, Agripei giáo 6.2%,
Phật giáo 0.1%, Tin Lành 3.5%, Giáo
78
hội Philippin 1.3%, ngoài ra 1.5% tôn
giáo khác.
9. Xingapo Không
Tôn giáo Trung Quốc 53.9%, Hồi giáo
17.4%, Phật giáo 8.6%, Ấn Độ giáo
5.7%, Công giáo 5.7%, ngoài ra 10%
tôn giáo khác.
10. Thái Lan Phật giáo
Phật giáo 92.1%, Hồi giáo 3.9%, tôn
giáo Trung Quốc 1.7%, Kitô giáo 1.1%,
ngoài ra 4% tôn giáo khác.
11. Việt Nam Không
Phật giáo 55.3%, Cơ Đốc giáo (bao gồm
Công giáo La Mã, Tin Lành) 7.4%, Hồi
giáo 1%, ngoài ra 36.6% tôn giáo khác.
(Ngô Văn Lệ, 2003: 285-286, sđd và Mai Ngọc Chừ, 1999: 133-135)
(4) Một vở kịch hấp dẫn của người Lisu sống ở vùng Tam giác vàng, mỗi nhân vật trong
“vở kịch” đều phải thủ vai hết mình, phải “diễn xuất” sao cho đạt.
“Màn” đầu tiên bắt đầu bằng việc chàng trai gửi tặng người yêu 30 đồng bạc trắng,
hành động này được gọi là “cài hoa mái tóc nàng”. Nếu cô nhận “quà”, thì có nghĩa
là cô đồng ý với chàng trai, và họ đã thỏa thuận với nhau ngày mà nàng để cho
chàng “bắt cóc”. Vào tối hôm đã thỏa thuận, nàng lén khỏi nhà, tới kho thóc, rồi
cùng chàng đến một túp lều coi nương nào đó trong rừng, họ phải trốn sao cho gia
đình cô gái không phát hiện ra dấu tích, nếu bị phát hiện, chàng trai phải nộp thêm
đồ dẫn cưới sau này.
Sáng hôm sau, chàng trai “phái” một người, thường là ông bác hay chú, làm người
trung gian, đến nhà cô gái, vừa tới ngõ nhà gái, người này nói to: “Con gái của ông
bà không còn là của ông bà nữa”. Rồi ông nói để trấn an mọi người: “Con gái của
ông bà bị người bắt đi, chứ không phải bị cọp bắt”. Bố cô gái phải trả công cho
người báo tin, nhưng vẫn phải tỏ ra không tin, ông ta có thể đáp lại bằng câu: “Bọn
trai trẻ hay lừa con gái lắm”. Người trung gian rút ra một chiếc lá làm hiệu rồi định
thời gian cho gia đình cô gái mời họ hàng và đại diện của dòng tộc tới, sau đó ít
hôm, người trung gian lại nhà cô gái, đem theo một mâm trên đó đặt hai chai rượu
và một gói chè, đưa cho bố cô gái và họ hàng nhà gái mâm lễ vật xong, người trung
gian mới nói cho họ mình biết mình thuộc dòng tộc nào và giải thích rằng ông chờ
đợi “những lời vàng bạc” vì dòng tộc của ông đã chấp nhận cô gái làm thành viên
của mình. Mặc dầu biết mọi việc đã diễn ra đúng như người trung gian nói, nhưng
bố cô gái vẫn tiếp tục khẳng định là không có chuyện như vậy xảy ra, trong suốt
buổi nói chuyện, người trung gian luôn ca ngợi về dòng tộc mình và khẳng định
rằng nếu hai dòng tộc mà thông gia với nhau thì thế lực của hai bên sẽ mạnh thêm.
Khi bố cô gái nhận chè, tức là đã nhận làm thông gia, đến đây, “vỡ kịch” bước sang
“màn” mới: thỏa thuận giá của cô dâu.
Thoạt đầu, hai bên bàn về số lượng vải đen (một loại vải thường dùng làm áo “vét
tông” cho đàn ông và thắt lưng cho phụ nữ) mà nhà trai phải nộp cho nhà gái. Bố cô
gái yêu cầu hai mảnh: một cho “hổ ngoạm”, và một cho “tiếng sấm”. Mảnh “hổ
ngoạm” trả giá cho nỗi lo lắng của nhà gái khi con gái của họ bị bắt cóc, còn mảnh
79
“tiếng sấm” trả giá cho sự rầy la mà bố cô gái phải cố chịu đựng từ phía họ hàng khi
mọi người biết chuyện.
Vài ngày sau, người trung gian lại tới, đem theo mâm lễ vật gồm chai rượu và gói
muối nhỏ. Ông giải bày với bố cô gái là gia đình nhà trai khó có thể chạy đủ số tiền
để nộp “giá cô dâu”, bố cô gái tiếp tục “đòi hỏi”, nhưng cuối cùng, cũng đồng ý với
một giá “thấp” hơn yêu cầu đó. Ít hôm sau, người trung gian đem số tiền “giá cô
dâu” đã thỏa thuận cùng một chai rượu tới, bố cô gái không nhận lễ và đòi thêm 7
đồng bạc trắng để trả “giá sữa mẹ” cho mẹ cô gái, người trung gian đồng ý, nộp
thêm “giá sữa mẹ” rồi hai bên thỏa thuận ngày làm lễ “cộc đầu”. Theo phong tục
của người Lisu, dù đôi trai gái đã sống với nhau, nhưng họ chỉ thật sự trở thành vợ
chồng với nhau sau khi đã làm xong lễ “cộc đầu” theo nghi lễ.
Vào ngày đã định, một chiếc chiếu được trải ra trước bàn thờ tổ tiên nhà cô gái,
chàng trai cùng cô gái bước vào chiếu, quỳ trước mặt bố mẹ cô gái, chàng trai phải
cúi đầu, cộc đầu xuống nền nhà trước mặt bố mẹ vợ vài lần. Khi hai ông bà gật đầu
chấp nhận, một người họ hàng có tuổi bước vào chiếu ban phước lành cho đôi vợ
chồng trẻ, đôi vợ chồng trẻ cùng uống nước, cùng ăn cơm trước sự chứng kiến của
mọi người, đến đây, nghi lễ kết thúc.
Sau nghi lễ “cộc đầu”, đám cưới vui vẻ bắt đầu, một chậu nước to được đặt ngay
bên cửa ra vào để khách đến ném tiền vào, thông thường, một người bên họ nhà trai
đứng bên chậu nước giục và khích thích mọi người ném tiền. Đến chiều tối, khi
cuộc vui kết thúc, người trung gian đổ chậu nước cùng những đồng tiền vào vốc tay
chú rể, sau đó chú rể đặt tiền vào túi áo cô dâu. Theo quan niệm của người Lusi, số
tiền này làm nguồn “nuôi dưỡng” ban đầu và làm “sinh sôi” thêm tài sản sau này
của cặp vợ chồng đó.
(Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện, 1997: 87-90)
(5) Con lợn dạm ngõ của người Papua (Inđônêxia): đối với người Papua, trước ngày
đón dâu ít hôm, nhà trai phải gửi một con lợn làm lễ dạm ngõ sang nhà gái. Ngày
đón dâu, chú rể bày cho dân làng xem tất cả những vật mà mình sẽ nộp cho bố mẹ
vợ tương lai: mười bảy chiếc rìu đá đẹp, sắc, bốn chiếc bát xà cừ bóng sáng, chiếc
vòng đeo cổ có ba cái vỏ ốc biển to màu trắng hình ôvan.
Khi mặt trời đứng bóng, họ hàng nhà trai đem đồ dẫn cưới sang nhà gái, còn chú rể
ở nhà. Trong khi đó, tại nhà gái, các bà các cô trang điểm cho cô dâu, họ lấy mỡ lợn
bôi lên người cô dâu, làm cho nước da nâu của cô bóng lên, chiếc dây thắt lưng giữ
tấm khố nhiều tua của cô dâu cũng được bôi bóng bằng mỡ lợn. Người đầu tiên xuất
hiện ở nhà gái là ông mối, tay phải ông cầm chiếc rìu nghi lễ, trên ngực đeo đầy
những chiếc vòng bằng vỏ ốc. Đang tíu tít, vui vẻ, mọi ngươi đều êm lặng khi đoàn
đón dâu trải chiếu và bày những đồ dẫn cưới ra nhà, lúc đó ông mối nói: “Nhà
chúng tôi nghèo nên chỉ có chút này làm đồ dẫn cưới”. Một người đại diện nhà gái
liền nói đỡ lời: “Ngần này là đủ lắm rồi! Các ông các bà đem quá nhiều đồ quý giá
cho gia đình chúng tôi”, và mọi người vừa cầm các đồ dẫn cưới xem, vừa trầm trồ
khen ngợi, ông bố cầm chiếc rìu, đưa cho con gái và cô gái cầm rìu, thổn thức khóc
vì sắp phải rời nhà mình để về nhà chồng. Người cậu của cô cầm tay cô đặt vào tay
ông bố chồng tương lai nói: “Xin ông hãy nhớ, cháu nó còn trẻ người non dạ, mong
ông thương mến và dạy bảo cháu”. Ông bố chồng cầm tay con dâu, đưa con dâu tới
giao cho vợ.
80
Khi đoàn rước dâu chuẩn bị ra về, nhà gái dùng dao tre cắt thịt lợn chia cho tất cả
mọi người, gọi là chút quà cưới, mọi người nhận quà rồi chào nhà gái ra về, trên
đường về nhà chồng, cô dâu đi cạnh mẹ chồng và luôn được bà hỏi han, an ủi.
Những người đàn ông, cảm thấy hài lòng, im lặng đi, vừa tới làng, đoàn rước dâu đã
được phụ nữ trong làng ra đón, họ ôm lấy cô và chúc cô hạnh phúc, tuy chú rể được
sống bên cô dâu, đám cưới vẫn chưa được tổ chức.
Suốt mấy tháng trước ngày cưới, cô gái ngày ngày giúp mẹ chồng tương lai làm mọi
việc trong nhà, ngoài nương. Khi gần đến ngày cưới, cô thịt một con lợn mà mình
đã nuôi để khao những người đã giúp chồng tương lai của mình có những vật làm đồ
dẫn cưới. Đến ngày cưới, đôi trai gái ăn mặc đẹp cùng chủ hôn ra sông, theo sau là
bà con họ hàng. Chú rể cầm gậy nện thật mạnh để giết chết con lợn mà hai chàng
trai trẻ kiêng tới. Trong lúc mọi người làm thịt lợn, ông chủ hôn lấy trong gùi ra một
chiếc khố của phụ nữ rồi nhúng vào máu con lợn vừa bị giết, xong, ông ta treo cái
khố đó lên rễ cây đa cổ thụ, bên cạnh vật tế cho các hồn ma. Mọi người đắp lò,
nhóm bếp rồi nướng thịt, ông chủ hôn vào bụi cây kiếm một số loại lá cây thiêng, và
chính chú rể phải dùng dao tre xẻ thịt con lợn ra từng miếng to để mọi người đem
nướng. Đột nhiên, ông chủ hôn đến cầm tay cô dâu và chú rể, xong, ông đưa hai
người trở về đóng lửa, đó là thời điểm vui nhất với tất cả mọi người. Ai nấy đua
nhau ăn thịt nướng, chọn ra một củ khoai nướng, ông chủ hôn đọc mấy câu thần chú
rồi đặt củ khoai vào miệng cô dâu và chú rể, nói: “Hãy ăn đi! Giờ thì hãy ăn và sống
cùng nhau”, từ thời điểm đó, chàng trai, cô gái chính thức thành vợ chồng và được
sống với nhau.
(Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện, 1997: 92-94)
(6) Rượu cưới cầu thần của người Khasi (Mianma): đối với ngươi Khasi, con trai từ 18
đến 25 tuổi được coi là thích hợp để lấy vợ, con gái có thể kém vài ba tuổi. Khi ưng
một cô gái, người con trai “giãi bày tâm sự” cùng cha mẹ, cô dì, chú bác để mọi
người lo các việc tiếp theo. Đôi khi các bậc cha mẹ chủ động tìm tới nhau dàn xếp
hôn nhân cho con, mặc dù vậy, rất hiếm có chuyện ép duyên trong người Khasi. Nếu
mọi việc đã ổn thỏa, nghĩa là gia đình và bản thân cô gái đã nhận lời và không
vướng những điều cấm kỵ theo tục lệ, thì một thủ tục mới được tiến hành. Gia đình
nhà gái đoán lành, dữ bằng cách đập trứng và xem xét lòng gà, thấy điềm xấu thì
việc hôn lễ bị từ bỏ, còn nếu thấy điềm xấu mà vẫn tiến hành hôn lễ, thì theo quan
niệm của người Khasi, đôi vợ chồng tương lai sẽ gặp các tai ương như không con,
người vợ chết bất đắc kỳ tử, hoặc nghèo đói suốt đời và chỉ khi thấy điềm lành, họ
mới có thể tiếp tục bàn việc cưới. Thông thường, trước ngày cưới, chú rể và cô dâu
phải chuẩn bị trước mỗi người một chiếc nhẫn: nhẫn bạc hoặc nhẫn vàng (nếu như
giàu có), để trao tặng cho nhau trong ngày cưới của họ.
Nhà trai nhờ một người trung gian - gần như ông mối, gọi là Ksiang - cùng chú rể
trong bộ quần áo đẹp với bông hoa trên tay tới nhà cô dâu. Tại nhà cô dâu, có đông
đủ mọi người, từ mẹ, dì, phù dâu, vị Ksiang của nhà gái, đến các thành viên khác,
phụ nữ ăn vận đẹp, mang những đồ trang sức quý, và đầu để trần. Trong lễ cưới,
trùm lên đầu một thứ gì đó là điều không nên, khi đoàn nhà trai tới, vài đại diện nhà
gái ra đón tiếp một cách lịch sự, trân trọng, Ksiang của nhà trai bước vào trước, kế
tới chú rể, rồi các thành viên khác. Ksiang giao chú rể cho ông cậu (hoặc cha) cô
dâu, ông này dẫn chú rể tới ngồi cạnh cô dâu, chú rể đeo nhẫn cưới vào tay nhau,
khi đó, hai Ksiang đọc bản “đăng ký kết hôn” dài.
81
Xong việc, mỗi Ksiang cầm một bầu rượu do “phía bên kia” trao cho, rồi đưa cho
một ông già, vốn là người thành thạo trong các nghi thức cúng thần - trịnh trọng hòa
rượu hai bình đó với nhau. Ba con cá khô được bày trên nền nhà, ông già bắt đầu
cầu khấn các thần linh: “Hởi các thần linh bên trên, hởi các thần từ bên dưới, hởi
đấng sáng tạo ra loài người! Vì các ngài dàn xếp đám cưới này, chiếc nhẫn cưới
được trao ngày hôm nay…, các ngài sẽ ban phúc lành cho họ, các ngài sẽ ban cho
họ sự thịnh vượng, các ngài sẽ đưa đường chỉ lối cho họ, các ngài sẽ chỉ họ con
đường để họ đi tới hạnh phúc, có nơi ăn chốn ở, có thóc, có cá, có hàng trăm hàng
ngàn của cải. Ôi, các thần linh…!”
Sau ba lần rót rượu khỏi bình, đồng thời đếm “một, hai, ba”, ông già lại tiếp tục cầu
khấn tổ tiên: “Hỡi mẹ, hỡi bà, hỡi cậu, hỡi cha, hỡi bà dì, bà bác, hỡi ông chú, ông
bác…! Thịt đã rơi (nghĩa là đã bày trên nền nhà), nhẫn đã đeo, ba miếng tươi (nghĩa
là ba con cá khô) đã sẵn sàng. Xin các vị hãy lắng nghe và hãy tiếp tục ban sức
mạnh và tinh thần (cho họ)”.
Kế đó, ông già mời rượu: thủ lĩnh, người nhà, cũng như mời tất cả những người
không thuộc hai thị tộc, rồi sau đó, lại ba lần rót rượu. Ba con cá khô được đặt trên
cái giá cao phía trên bếp lửa. Rồi chúng được chuyển và buộc vào thượng lương của
ngôi nhà giữa nhưng tiếng la hét lớn “hoi, hoi, hoi!”. Sau đó, tùy gia cảnh, người ta
tổ chức hiến tế cho hồn ông bà tổ tiên một con gà hoặc một con lợn “không một vết
nhơ”, cũng như dâng cúng các miếng cá. Đôi vợ chồng ở luôn nhà mẹ vợ, trong thời
gian sống chung, mọi thứ họ làm ra đều thuộc quyền mẹ vợ. Khi họ có hai hay ba
con, miếng cá khô được mang từ nóc nhà xuống, một lễ tế thần được tổ chức, với
hai con lợn - một nhân danh chồng, một nhân danh vợ, từ đây, nếu xét thấy đủ cơ sở
cần thiết, đôi vợ chồng được phép ra ở riêng.
(Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện, 1997: 100-103)
(7) Sợi chỉ linh thiêng của người Thái (Thái Lan): việc cưới xin của người Thái ở Thái
Lan thường được tiến hành theo thời vụ: ăn hỏi - trước khi gieo cấy, cưới - sau khi
gặt. Lễ cưới được tổ chức tại nhà trai, nhưng khi kết thúc thì ở nhà gái, và không ít
những trường hợp, sau khi cưới, đôi vợ chồng trẻ ở lại nhà ba mẹ vợ một thời gian,
thậm chí, có những đôi ở lại hẳn với nhà ba mẹ vợ.
Sáng hôm cưới, sáng, họ hàng, bạn bè, khách quý và các sư được mời tới nhà trai dự
bữa tiệc cưới. Sau đấy, chú rể hoặc gia đình nhà trai rước lễ sang biếu bố mẹ cô dâu,
lễ đó gọi là khanôm hay “giá sữa mẹ”. Từ trong nội dung của nó, khanôm vừa là
hình thức trả công nuôi nấng của bố mẹ cô gái, vừa hàm ý nghĩa sâu xa về tính độc
lập của người vợ trong gia đình, và khanôm là biểu hiện của lòng kính trọng cha mẹ,
sự tôn trọng của người phụ nữ trong lối ứng xử truyền thống của người Thái.
Khi làm lễ, chú rể ngồi cạnh bên cô dâu, tới giờ thích hợp do vị sư hay nhà chiêm
tinh xác định, một vị đáng kính đặt lên đầu cô dâu, chú rể sợi chỉ trắng gọi là
Saimonkon. Saimonkon gồm hai vòng tròn nhỏ, một đặt lên đầu cô dâu, một đặt lên
đầu chú rể, và hai vòng đó nối với nhau bằng sợi dây, sợi chỉ trắng linh thiêng, được
dùng trong hầu hết các nghi lễ ở Thái Lan, có tác dụng bảo vệ con người, sợi dây
thiêng bao giờ cũng tạo thành một vòng khép kín mà thôi. Trong nghi lễ cưới, sợi
dây thiêng gồm hai vòng nhỏ độc lập được nối với nhau, điều này phản ánh triết lý
sống cực kỳ độc đáo: vợ chồng là sự ràng buộc giữa hai cá thể độc lập, và đây là
bằng chứng về địa vị đáng tự hào của người phụ nữ trong xã hội và gia đình. Đến
tối, cô dâu, chú rể được đưa vào phòng tân hôn, trong phòng có sẵn mọi thứ đồ ăn,
thức uống cần thiết để đôi vợ chồng trẻ ăn bữa cơm chung đầu tiên. Chỉ đến khi đứa
82
con đầu lòng của đôi vợ chồng ra đời, cuộc hôn nhân của họ, về mặt xã hội, mới thật
sự coi là bền vững và có hiệu lực.
(Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện, 1997: 109-110)
(8) Nghệ thuật sân khấu rối bóng là sự kết hợp của ba khâu: người điều khiển hình rối,
bản thân hình rối, và hình bóng in lên tấm màn vải, chất liệu sử dụng làm rối bóng
thường là da thú, nhất là da trâu bò.
Vì hình ảnh đến với người xem là những bóng in lên tấm màn vải nên muốn rõ nét
mặt từng nhân vật, hình rối luôn luôn phải được tạo theo góc độ nhìn nghiêng. Bản
thân hình rối bóng đã là một tác phẩm nghệ thuật, những hình rối bóng thường
không cử động hoặc rất ít cử động, riêng chỉ có một tay cử động được, hoặc là hai
tay cử động được mà thôi (những bộ phận khác đều cố định). Vì vậy, tính sinh động
của hình rối bóng chủ yếu là ở nghệ thuật tạo hình và tạo bóng, chứ không phải ở
khả năng thể biện bằng cử động của hình rối, quan trọng ở đây là tài năng điều khiển
rối của người nghệ sĩ, nó cũng góp phần làm cho hình bóng in lên tấm màn vải thêm
sinh động, và tất nhiên bên cạnh còn có âm nhạc phụ họa, tạo không khí âm thanh,
làm cho buổi biểu diễn thêm phần hấp dẫn, cuốn hút người xem.
(9) Wayang: nghĩa hẹp là con rối của các cuộc trình diễn rối bóng của người Giava, còn
với nghĩa mang tính tập hợp thì Wayang là thuật ngữ chỉ các dạng nghệ thuật rối
khác nhau của đảo Giava và Bali cũng như chỉ buổi trình diễn. Bên cạnh Wayang
Golek (con rối điều khiển bằng que), Wayang Wong hay Orang (kịch múa, thay các
con rối bằng diễn viên thật), và nhiều loại Wayang khác, Wayang Kulit (rối bóng) là
dạng Wayang phổ biến hơn cả. Diễn Wayang Kulit là một đalang, ông đưa các con
rối da mỏng đến trước một cái đèn để tạo ra bóng của các con rối trên màn ảnh, rất
nhiều kịch bản của Wayang đã được lấy ra từ hai sử thi lớn của Ấn Độ: Ramayana
và Mahabharata (Ngô Văn Doanh, 1999: 519).
(10) Kịch múa: Trên sân khấu múa, các diễn viên tả vai của mình bằng những động tác
hình thể cách điệu có âm nhạc đệm theo. Họ hầu như không nói hoặc hát, còn diễn
biến của hành động kịch thì do một đội đồng ca xướng đọc. Phần văn học này tuy
cũng rất quan trọng, nhưng nó chỉ làm nhiệm vụ dẫn truyện, nó có thể có một đời
sống tương đồng đối với sân khấu, vì vậy, các kịch bản sân khấu thường viết bằng
văn vần, tồn tại như những truyện thơ, và trở thành những tác phẩm văn học tiêu
biểu của một nước.
(11) Wayang Topeng: Topeng có nghĩa là mặt nạ hay múa mặt nạ, Wayang Topeng là
một loại vũ kịch hóa trang rất được ưa chuộng và phổ biến rộng rãi ở Giava và Bali
(Inđônêxia). Xưa kia, Topeng được diễn trong các buổi tế thần, khi cúng bái các linh
hồn… Nay loại hình này trở thành phổ biến và được diễn ở mọi hội lễ, khi diễn, hai
hay ba diễn viên đeo mặt nạ và múa diễn các tích kể về các chiến công của các
hoàng tử, các chiến binh Giava và Bali. Diễn viên giữ mặt nạ bằng cách dùng răng
cắn vào cái mấu ở phía sau mặt nạ, trong đó cốt truyện được người dẫn chuyện hoặc
vai hề kể, mặt nạ topeng được làm bằng gỗ và được tô vẽ đẹp như một tác phẩm
nghệ thuật. Do có mặt nạ, nên chỉ cần vài diễn viên là có thể đóng được rất nhiều vai
khác nhau. Wayang Topeng từng là sân khấu kịch cổ điển đầu tiên của Giava và dần
dần phổ biến rộng rãi ra các đảo Sunđa, Bali… (Ngô Văn Doanh, 1999: 512).
(12) Wayang Orang (Wong): nghĩa là vở diễn do người diễn, hay còn có tên là Wayang
Wong - nghĩa là con rối sống, đây là một trong những loại hình sân khấu truyền
thống của đảo Giava và Bali (Inđônêxia). Bao giờ buổi diễn cũng phải có dàn nhạc
83
gamelan đi theo, thường là dàn nhạc gần với dàn Genđe Wayang đi theo Wayang
Kulit, tiết mục của Wayang Orang là các tích lấy từ Ramayana. Những anh hề thỉnh
thoảng xuất hiện gây cười cho người xem, hầu như tất cả các nhân vật, trừ Rama và
vài nhân vật chủ chốt, đều đeo mặt nạ (Topeng) để người xem không nhận ra. Các
nhân vật đối thoại với nhau bằng tiếng kivi, nhiều đoạn cũng có những lời hát đệm
theo (Ngô Văn Doanh, 1999: 512).
(13) Khổn là loại hình sân khấu xưa nhất ở Thái Lan, đây là loại kịch múa mặt nạ, chuyên
diễn trong hoàng cung, phụ nữ không được diễn Khổn, và ngay các vai nữ cũng do
diễn viên người nam đóng. Một đoàn Khổn thường có bốn loại diễn viên: loại đóng
vai nam, loại đóng vai nữ, loại đóng vai quỷ, khỉ và các vai khác còn lại. Trong khi
trình diễn, các diễn viên Khổn đều mang mặt nạ, các mặt nạ muôn màu, muôn vẻ về
kích thước, hình dáng, màu sắc, phù hợp với tính chất quy ước cho từng nhân vật cụ
thể trong khi diễn. Bên cạnh mặt nạ, múa tạo ra sức hấp dẫn chính cho Khổn, động
tác múa của Khổn đẹp, hùng dũng, thiết tha, dứt khoát và gợi cảm. Trong khi diễn,
diễn viên chỉ múa chứ không nói hoặc hát, toàn bộ nội dung và lời thoại do ban
đồng ca hát vọng ra từ trong hậu trường, kịch bản của Khổn chủ yếu lấy từ các tác
phẩm Ramakiên (Ngô Văn Doanh, 1999: 199-120).
(14) Pu Nhơ Nha Nhơ có nghĩa là ông tổ Nhơ, bà tổ Nhơ, một truyền thuyết kể về những
vị tổ tiên thần thoại của người Lào. Pu Nhơ Nha Nhơ trong truyền thuyết vừa là
người trần đầu tiên, là cặp đàn ông, đàn bà đầu tiên đã sinh ra “loài người”; vừa là
những anh hùng văn hóa, là những người diệt trừ quái vật phá hoại bản mường, đẵn
cây to che lấp trời để trả lại ánh sáng mặt trời cho trái đất, tẩy sạch mường trần và
xác định địa giới cho một quốc gia sắp ra đời. Như vậy, theo truyền thuyết, Pu Nhơ
Nha Nhơ từ vị tổ của cộng đồng huyết thống rồi địa vực đã chuyển thành tổ tiên của
một quốc gia mới, rồi sau khi chết lại thành những vị thần (phi mường) bảo hộ đất
nước. Trong dịp tết năm mới người ta mang mặt nạ của ông Nhơ bà Nhơ ra múa để
tưởng nhớ tới công khai phá đất đai, xua đuổi tà ma quỷ quái, thành lập bản mường
đầu tiên của họ (Ngô Văn Doanh, 1999: 356).
(15) Nat (trong tiếng Mianma) là một thuật ngữ có nội dung rộng để gọi các thần linh, ma
quỷ, linh hồn… kể cả các thiên thần. Có thể phân các Nat thành hai loại: Nat dewa
hay dewa (thần linh) sống ở sáu tầng đầu của Menmyo, và các loại hồn ma đầy rẫy
trên mặt đất và trong vũ trụ. Việc tôn thờ Nat có từ trước khi Phật giáo du nhập vào
Mianma và mang tính chất tín ngưỡng vật linh, khi Phật giáo và các hình thức tôn
giáo Ấn Độ khác được người Mianma tiếp thu, việc tôn thờ Nat không hề mất đi, mà
càng phát triển và hòa nhập vào hệ thống mới, làm cho Phật giáo mất đi những giáo
lý cứng nhắc và được bản địa hóa.
Có Nat bảo vệ nhà gọi là Eing saung Nat, Nat bảo vệ làng hay thần hoàng gọi là
Ywa saung Nat, Nat cai quản cả một cum làng hay thậm chí một huyện gọi là
Asingya nghĩa là chúa tể vĩ đại. Núi Popa, một ngọn núi lửa đã tắt, xưa là nơi thờ
cúng Nat nổi tiếng toàn Mianma. Ngoài ra, còn có nhiều loại Nat khác như Upaka
hay lẫn mình trong các đám mây rình người để bắt, Akakago sống trên ngọn cây,
Shekkaso sống ở thân cây, Bunasa sống ở rễ cây, Hmin Nat thì ở trong rừng thường
làm cho người nào đó mất trí. (Ngô Văn Doanh, 1999: 292).
(16) Lakhon Khôn: một loại hình vũ kịch đặc biệt của Cămpuchia, Lakhon Khôn có
nghĩa là sân khấu của những diễn viên nam hay vũ kịch của các diễn viên nam. Loại
hình này có từ xưa, nhưng từ thế kỷ XIX, dưới triều vua Nôrôđôm, nó mới được
phục hồi đó là đoàn Lakhon Khôn của làng Svai Anđét thuộc tỉnh Kanđan, hàng
84
năm được mời vào trình diễn ở hoàng cung một lần. Còn chính tại Svai Anđét,
Lakhon Khôn được trình diễn hàng năm vào dịp năm mới, vào những ngày đó, hầu
như toàn bộ đàn ông của làng đều tham gia biểu diễn Lakhon Khôn. Các tiết mục
đều lấy từ Riêmkê nhưng đều mang tính chất của nghi thức nông nghiệp, đỉnh điểm
của Lakhon Khôn là nghi thức cầu mưa, tuy diễn các tính lấy từ Riêmkê, những các
điệu múa chính của Lakhon Khôn lại nhằm cầu an, làm vui lòng các hồn ma. Trước
khi trình diễn, tất cả dân làng đều phải làm lễ để có thể tiếp xúc được với các linh
hồn, sau đấy mới bắt đầu diễn Riêmkê bằng những động tác múa dân gian gắn liền
với các công việc lao động thường ngày. Màn chủ yếu của buổi trình diễn là múa
“giải phóng nước”. Điều lý thú là các tình tiết của Riêmkê được cải biên phù hợp
với nội dung của điệu múa. Ngày hôm sau, khi Lakhon Khôn kết thúc, các nhà sư
lên sân khấu đọc kinh, sau đấy, họ làm một chiếc thuyền bằng các thân cây chuối,
các vị sư đặt thức ăn lên thuyền rồi đem ra sông Mê Kông thả. Công việc đó có ý
nghĩa biểu trưng, đó là sự ra đi khỏi làng của tất cả những bất hạnh, bệnh tật (Ngô
Văn Doanh, 1999: 233-234).
(17) Lakhon Nok: một loại hình sân khấu ngoài trời hay sân khấu phương nam rất được
ưa chuộng trong dân chúng Thái Lan vì các vở diễn của nó được bổ sung thêm
nhiều tích truyện mới vui nhộn. Để phù hợp với nội dung diễn, các bản nhạc, điệu
múa cũng trở nên phong phú, đa dạng, ít điệu buồn, song có nhiều điệu vui nhộn, dí
dỏm, và các diễn viên của Lakhon Nok đều là nam (Ngô Văn Doanh, 1999: 217).
(18) Lakhon Nay: một loại hình sân khấu xuất hiện ở Thái Lan vào thế kỷ XVII - XVIII
trên cơ sở kết hợp giữa Lakhon Khổn và rabăm. Cũng như Khổn, Lakhon Nay là
của riêng cung đình, khác Khổn, các vai của Lakhon Nay đều do nữ đóng và không
đeo mặt nạ, các vũ nữ của Lakhon Nay hầu hết đều là tỳ, thiếp của Vua, họ bị cấm
ngặt và không giao tiếp với đàn ông. Các vở diễn của Lakhon Nay rất ít, chỉ là
những tích lấy từ Ramakiên… Trang phục diễn viên cầu kỳ, lời thơ do ban nhạc
đồng ca hát thật trau chuốt, mượt mà (Ngô Văn Doanh, 1999: 216-217).
(19) Wayang Kulit: một loại hình sân khấu đã có từ lâu đời ở Inđônêxia, thư tịch cổ thế
kỷ XI - XII có nói tới việc trình diễn Wayang Kulit (rối bóng) tại các vương triều
Giava. Khi trình diễn, những con rối dẹt cắt bằng da có tô màu được đưa lên sân
khấu, thường là người ta điều khiển các con rối phía sau một cái phông bằng vải
trắng, mỏng. Khán giả ngồi phía trước xem những chiếc bóng của các con rối hiện
lên màn ảnh, phía sau màn ảnh, một chiếc đèn dầu chiếu vào các con rối để cho
bóng của chúng hiện lên màn ảnh, một người điều khiển (đalang) ngồi sau màn ảnh
chỉ huy tất cả. Ông ta vừa điều khiển các con rối, vừa dẫn chuyện, vừa chỉ huy dàn
nhạc. Mỗi con rối (Wayang) có một cái trục bằng xương và hai tay đòn nhỏ cũng
bằng xương gắn vào tay con rối. Nhờ cái trục mà đalang có thể cố định được con rối
bằng cách cắm nó vào thân cây chuối làm bệ ở bên dưới. Hai tay đòn nhỏ có tác
dụng để chỉnh cho con rối có tư thế cần thiết. Mặc dù, người xem chỉ được xem cái
bóng đen, nhưng bao giờ con rối cũng được tô vẽ, trang điểm lòe loẹt, sặc sỡ, những
con rối được thể hiện rất cách điệu, thường là: thân mảnh, chân ngắn, các chỗ gấp
của các bộ phận cơ thể được phóng đại, kéo dài; lỗ mắt dài, nhỏ… Mỗi con rối lại
có những đặc trưng riêng tùy thuộc vào nhân vật mà nó thể hiện, và buổi diễn bắt
đầu bằng sự xuất hiện trên màn ảnh một cái bóng lạ kỳ gần như một lùm cây, đó là
kaion - một hình trang trí nhằm mô tả núi, rừng. Tùy vị trí mà kaion có thể diễn tả
gió, lửa, nước… Sau sự xuất hiện của kaion, đalang lần lượt cho hiện lên màn ảnh
từng con rối một, bên phải của đalang là các con rối thể hiện các nhân vật chính
85
diện; bên trái - các nhân vật phản diện. Wayang Kulit thường diễn cách tích lấy từ
hai sử thi: Ramayana và Mahabharata (Ngô Văn Doanh, 1999: 520).
(20) Nội dung các vở moro - moro thường xoay quanh chủ đề về cuộc xung đột giữa
những người Cơ Đốc giáo và những người theo đạo Hồi đang xảy ra gay gắt khi Tây
Ban Nha đang xâm chiếm Philippin vào thế kỷ XVI. Người Tây Ban Nha bắt đầu
truyền bá đạo Cơ Đốc giáo trên mảnh đất mà đạo Hồi đang bén rễ lâu đời, các vở
moro - moro do các thầy tu Cơ Đốc viết để ca ngợi sự chiến thắng của quân đội Cơ
Đốc đối với quân Hồi giáo, bên cạnh những cảnh tàn sát đẫm máu là những cảnh
yêu đương phóng đãng.
(21) Lăm lượng có nghĩa là hát lăm (mỏ lăm). Ở Lào, từ xưa đã ra đời những mỏ lăm
hoặc những nhóm mỏ lăm. Thoạt đầu, trong nhóm chỉ có một nam hát và một nam
thổi kèn, dần dần, cả phụ nữ cũng tham gia vào các nhóm mỏ lăm, và xuất hiện
những cặp vợ chồng mỏ lăm, đi khắp nơi để biểu diễn, chính những nghệ sĩ dân gian
này, họ đã giữ gìn, bảo vệ và còn làm phong phú thêm cho nghệ thuật ca múa dân
gian của dân tộc Lào. Quá trình hình thành của mỏ lăm ở Lào chừng nào thì đó cũng
giống với quá trình hình thành của sân khấu cải lương Việt Nam, cả hai bên đều bắt
nguồn từ ca nhạc dân tộc, và đều từ ca hát có nhạc đệm đơn thuần, rồi sau đó
chuyển dần thành ca hát trình diễn sân khấu.
(22) Likay: một loại hình sân khấu gần với nhạc kịch của châu Âu vừa mang tính dân
gian vừa mang tính phổ biến ở Thái Lan. Mọi người Thái Lan từ già đến trẻ đều mê
Likay, không có ngày hội chùa nào là không có diễn Likay. Du nhập vào Thái Lan
vào cuối thế kỷ XIX do người Mã Lai mang tới, thoạt đầu, Likay hoàn toàn là hình
thức tôn giáo: các thầy tu Hồi giáo cùng các môn đồ ngồi thành vòng tròn và hát
những câu cầu nguyện trong nhạc đệm của tiếng trống tomtom. Người Thái Lan đã
biến Likay từ một lễ thức tôn giáo thành một hình thức sân khấu dân gian, thoạt đầu,
các diễn viên chỉ là nam, nhưng về sau xuất hiện các diễn viên nữ, vở diễn của họ
không còn là các bài cầu nguyện nữa mà là các tích truyện dân gian. Dàn nhạc cũng
được bổ sung phong phú thêm. Vì là sân khấu dân gian nên các diễn viên không
được luyện tập chu đáo như các diễn viên Khổn. Chính vì vậy mà trong khi biểu
diễn, họ múa tùy hứng theo cảm xúc. Động tác múa của Likay chủ yếu là các động
tác tay. Vào những năm 20-30 của thế kỷ XX, Likay phát triển thành một trong
những loại hình kịch của cung đình và đã diễn thành công những vở dài như
Ramakiên, những năm này là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của Likay ở Thái Lan.
Nhưng, từ những năm 60-70 trở lại đây, loại hình sân khấu này bị phim ảnh, vô
tuyến lấn át, và đẩy lùi về những vùng quê hẻo lánh, xa xôi (Ngô Văn Doanh, 1999:
228).
(23) Makyong: là thể loại nghệ thuật múa được biết xưa nhất ở Malaixia. Các nhà ngiên
cứu phỏng đoán rằng nghệ thuật Makyong có nguồn gốc từ rất xưa và gắn liền với
các thần bản xứ như Mak Hiang hay Semangat Pati (thần lúa). Thế nhưng, như các
loại hình nghệ thuật sân khấu khác ở Malaixia, qua những giao tiếp với nước ngoài,
nghệ thuật Makyong đã tự làm mình phong phú hơn lên, nhất là từ khi Hồi giáo
thâm nhập vào đất nước Malaixia. Mayong thường được diễn trên Panggung hay
Bangsal (sân khấu) cao khoảng 1.5m, bốn mặt sân khấu đều mở tung, khán giả có
thể chọn chỗ xem từ cả bốn phía sân khấu, còn các diễn viên thì ngồi ở bên phải sân
khấu. Vào buổi diễn, mục giáo đầu hay nghi lễ Buka Paggung là nhất thiết phải có
trong mọi buổi biểu diễn, sau đấy là các điệu múa đầy hấp dẫn của Makyong (vai nữ
chính), dù đóng vai nữ hoặc nam, các diễn viên của Makyong bao giờ cũng là các vũ
86
nữ (được gọi là Jong Dondang) và các điệu múa của họ đều mang tính nhập thần
kiểu Shaman. Các vở diễn Makyong thì nhiều nhưng các vở diễn chính thường là:
Deva Muda (cái điều thần kỳ), Anak Raja Gondong (hoàng tử ốc), sau biểu diễn,
bao giờ cũng phải có tiết mục Tulup Panggung (hạ màn) rất long trọng (Ngô Văn
Doanh, 1999: 246-267).
(24) Jataca: tiếng Pali “chuyện sinh đẻ”, một phần của Khuddaka - Nikaya, chỉ riêng
phần này, 547 Jataca đã chiếm một phần quan trọng nhất của Sutra - Pitaka. Những
câu chuyện này kể lại những kiếp trước của đức Phật, của các môn đồ và địch thủ
của Ngài để qua đó nói lên vấn đề nhân quả của các đạo Phật, nghĩa là những ứng
xử trong các kiếp trước có ảnh hưởng tới cuộc đời hiện đại theo luật Karma
(nghiệp). Các Jataca đã trở thành những đề tài cho các nghệ sĩ thể hiện lên bằng điêu
khắc và hội họa tại các chùa tháp Phật giáo, ngoài bản Pali, các Jataca còn đến với
thế giới châu Á qua bản dịch tiếng Trung Quốc và qua những hợp tuyển cổ tích Phật
giáo (Ngô Văn Doanh, 1999: 176).
(25) Dù Kê (Cămpuchia: yikê hay likê), tên gọi loại kịch hát Cămpuchia (theo cách gọi
của Việt Nam), một loại hình sân khấu có hát, múa, đọc thơ theo phong cách dân
gian. Lúc đầu thiên về hài, gần đây đã có những vở diễn mang tính chất bi kịch.
Được diễn rộng rãi ở Cămpuchia và ở Miền Tây Nam Bộ Việt Nam. Dù Kê Việt
Nam có những nét khác yikê như vở diễn pha làn điệu cải lương; dàn nhạc dân tộc
có thêm ghita, viôlông; vẽ mặt theo kiểu mặt nạ thay cho việc đeo mặt nạ ở sân khấu
yikê. Nói chung, Dù Kê Việt Nam thiên về lối diễn của nghệ thuật cải lương. Vở Dù
Kê cũng như yikê nổi tiếng là “Tum Tiêu” kể về câu chuyện tình bi thảm của đôi
trai gái dưới chế độ phong kiến (Ngô Văn Doanh, 1999: 121).
87
PHỤ LỤC 2
***
THỐNG KÊ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt. Đọc từ:
(đọc ngày 14-3-2010).
TÊN NƯỚC MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.
VƯƠNG QUỐC HỒI
GIÁO BRUNÂY
_Diện tích: 5.765km2
_Dân số: 391.450 người (2007)
_Thể chế nhà nước: Quân chủ chuyên chế
_Người đứng đầu nhà nước: Quốc vương Hassanal Bolkiah
_Thủ đô: Banđa Xêri Bêgaoan
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Mã Lai và tiếng Anh
_Ngày Quốc khánh: ngày 23 tháng 02 (1984)
_Đơn vị tiền tệ: Ringgit Brunei (BND)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2005
+Tổng số: 6.842 tỷ USD
+Theo đầu người: 24.826 USD
_Khẩu hiệu: “Luôn phục vụ với sự dẫn dắt của Chúa”
2.
VƯƠNG QUỐC
CĂMPUCHIA
_Diện tích: 181.040km2
_Dân số: 13.971.000 người (2006)
_Thể chế nhà nước: Quân chủ lập hiến dân chủ
_Người đứng đầu nhà nước:
+Vua Nôrôđôm Sihamoni
+Thủ tướng Hun Sen
_Thủ đô: Phnôm Pênh
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Khơ Me
_Ngày Quốc khánh: ngày 09 tháng 11 (1953)
_Đơn vị tiền tệ: Riel (KHR)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2006
+Tổng số: 29,344 tỷ USD
+Theo đầu người: 2.600 USD
_Khẩu hiệu: “Quốc gia, Tôn giáo, Hoàng thượng”
3. _Diện tích: 15.410km2
88
CỘNG HÒA DÂN CHỦ
ĐÔNG TIMO
_Dân số: 1.115.000 người (2005)
_Thể chế nhà nước: Cộng hòa
_Người đứng đầu nhà nước:
+Tổng thống José Ramos-Horta
+Thủ tướng Xanana Guxmao
_Thủ đô: Đili
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tetum
_Ngày Quốc khánh: ngày 20 tháng 5 (2002)
_Đơn vị tiền tệ: Đô la Mỹ (USD)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2005
+Tổng số: 1,68 tỷ USD
+Theo đầu người: 800 USD
_Khẩu hiệu: “Thống nhất, Hành động, Phát triển”
4.
CỘNG HÒA
INĐÔNÊXIA
_Diện tích: 1.919.440km2
_Dân số: 241.973.879 người (2005)
_Thể chế nhà nước: Cộng hòa
_Người đứng đầu nhà nước: Tổng thống Susilo Bambang
Yudhoyono
_Thủ đô: Giacácta
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Inđônêxia
_Ngày Quốc khánh: ngày 17 tháng 8 (1945)
_Đơn vị tiền tệ: Rupiah Indonesia (IDR)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính 2004
+Tổng số: 827,4 tỷ USD
+Theo đầu người: 3.500 USD
_Khẩu hiệu: “Thống nhất trong đa dạng”
5.
CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO
_Diện tích: 236.800km2
_Dân số: 6.521.998 người (2007)
_Thể chế nhà nước: Xã hội chủ nghĩa một Đảng
_Người đứng đầu nhà nước:
+Chủ tịch Choummaly Sayasone
+Thủ tướng Bouasone Bouphavanh
_Thủ đô: Viêng Chăn
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Lào
89
_Ngày Quốc khánh: ngày 02 tháng 12 (1975)
_Đơn vị tiền tệ: Kíp (LAK)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính 2006
+Tổng số: 13,75 tỷ USD
+Theo đầu người: 2.200 USD
_Khẩu hiệu: “Hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và
thịnh vượng”
6.
LIÊN BANG
MALAIXIA
_Diện tích: 329.847km2
_Dân số: 27.496.000 người (2008)
_Thể chế nhà nước: Quân chủ lập hiến liên bang
_Người đứng đầu nhà nước:
+Vua Mizan Zainal Abidin
+Thủ tướng Mohd Najib bin Abdul Razak
_Thủ đô: Kuala Lămpơ
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Mã Lai
_Ngày Quốc khánh: ngày 31 tháng 8 (1957)
_Đơn vị tiền tệ: Ringgit Malaysia (RM) (MYR)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính 2005
+Tổng số: 290 tỷ USD
+Theo đầu người: 12.106 USD
_Khẩu hiệu: "Tiến bộ và thịnh vượng"
7.
LIÊN BANG MIANMA
_Diện tích: 667.552km2
_Dân số: 54.000.000 người (2004)
_Thể chế nhà nước: Độc tài quân phiệt
_Người đứng đầu nhà nước:
+Chủ tịch hội đồng Quốc gia Than Shwe
+Thủ tướng Soe Win
_Thủ đô: Naypyidaw
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Mianma
_Ngày Quốc khánh: ngày 04 tháng 01 (1948)
_Đơn vị tiền tệ: Kyat (MMK)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2003
+Tổng số: 74,53 tỷ USA
+Theo đầu người: 1.800 USD
90
_Khẩu hiệu: Không có
8.
CỘNG HÒA
PHILIPPIN
_Diện tích: 300.000km2
_Dân số: 87.857.473 người (2005)
_Thể chế nhà nước: Cộng hòa
_Người đứng đầu nhà nước: Tổng thống Gloria Macapagal
Arroyo
_Thủ đô: Manila
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Philippin (dựa trên tiếng
Tagalog) và tiếng Anh
_Ngày Quốc khánh: ngày 12 tháng 6 (1898)
_Đơn vị tiền tệ: Peso (PHP)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2005
+Tổng số: 451,3 tỷ USD
+Theo đầu người: 5.100 USD
_Khẩu hiệu: “Hướng về Chúa, Nhân dân, Thiên nhiên, và
Quốc gia”
9.
CỘNG HÒA XINGAPO
_Diện tích: 704km2
_Dân số: 4.680.600 người (2007)
_Thể chế nhà nước: Nghị viện cộng hòa
_Người đứng đầu nhà nước:
+Tổng thống Sellapan Ramanathan
+Thủ tướng Lee Hsien Loong (Lý Hiển Long)
_Thủ đô: Xingapo
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Mã Lai (quốc ngữ), Anh,
tiếng phổ thông (Trung Quốc)
_Ngày Quốc khánh: ngày 09 tháng 8 (1965)
_Đơn vị tiền tệ: Đôla Singapore (SGD)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2005
+Tổng số: 124 tỷ USD
+Theo đầu người: 28.228 USD
_Khẩu hiệu: “Tiến lên, Singapore”
10.
VƯƠNG QUỐC THÁI
LAN
_Diện tích: 514.000km2
_Dân số: 65.444.371 người (2005)
_Thể chế nhà nước: Quân chủ nghị viện dưới Chuyên chế
quân phiệt
91
92
_Người đứng đầu nhà nước:
+Quốc vương Bhumibol Adulyadej
+Thủ tướng Abhisit Vejjajiva
_Thủ đô: Băng Cốc
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Thái
_Ngày Quốc khánh: ngày 05 tháng 12 (1927)
_Đơn vị tiền tệ: Baht (THB)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2002
+Tổng số: 559,5 tỷ USD
+Theo đầu người: 8.542 đô la
_Khẩu hiệu: Không có
11.
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
_Diện tích: 331.690km2
_Dân số: 87.375.000 người (2007)
_Thể chế nhà nước: Xã hội chủ nghĩa một Đảng
_Người đứng đầu nhà nước:
+Chủ tịch Nguyễn Minh Triết
+Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
_Thủ đô: Hà Nội
_Ngôn ngữ chính thức: tiếng Việt
_Ngày Quốc khánh: ngày 02 tháng 9 (1945)
_Đơn vị tiền tệ: Đồng (VND)
_Thu nhập bình quân (GDP): ước tính năm 2006
+Tổng số: 265,5 tỷ USD
+Theo đầu người: 3.100 USD
_Khẩu hiệu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”
PHỤ LỤC 3
***
HÌNH ẢNH MINH HỌA
Hình 1: Lược đồ các quốc gia Đông Nam Á
Nguồn:
Political%20Map-CIA-2003.jpg (5.6.2010)
93
Hình 2: Lược đồ vương quốc Hồi giáo Brunây
Nguồn:
MAP.gif/80897159/BRUNEI-MAP.gif (5.6.2010)
Hình 3: Lược đồ vương quốc Cămpuchia
Nguồn:
3%B4ngtinchung/tabid/320/GroupID/2/Default.aspx (5.6.2010)
94
Hình 4: Lược đồ Cộng hòa Dân chủ Đông Timo
Nguồn:
(5.6.2010)
Hình 5: Lược đồ Cộng hòa Inđônêxia
Nguồn: (5.6.2010)
95
Hình 6: Lược đồ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Nguồn: (5.6.2010)
Hình 7: Lược đồ Liên bang Malaixia
Nguồn: (5.6.2010)
96
Hình 8: Lược đồ Liên bang Mianma
Nguồn: (5.6.2010)
Hình 9: Lược đồ Cộng hòa Philippin
Nguồn: (5.6.2010)
97
Hình 10: Lược đồ Cộng hòa Xingapo
Nguồn: (5.6.2010)
Hình 11: Lược đồ vương quốc Thái Lan
Nguồn: (5.6.2010)
98
Hình 12: Bản đồ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Nguồn: (5.6.2010)
Hình 13: Núi lửa ở Philippin
Nguồn:
flows_at_mayon_volcano.jpg (5.6.2010)
99
Hình 14: Ruộng bậc thang ở Sapa - Việt Nam
Nguồn:
1.jpg (5.6.2010)
Hình 15: Đoạn sông Mê Kông từ Cămpuchia chảy về Việt Nam
Nguồn:
River_237111527_Mekong%20River.jpg (5.6.2010)
100
Hình 16: Cánh đồng lúa chín ở Việt Nam
Nguồn: (5.6.2010)
Hình 17: Bờ biển của đất nước Đông Timo
Nguồn: (5.6.2010)
101
Hình 18: Bữa cơm truyền thống của gia đình người Việt (cơm - rau - cá)
Nguồn:
ly8/Grand%20Canyon/Food/1_CaChien-RauMuongLuoc.jpg (5.6.2010)
Hình 19: Cơm lam của người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam
Nguồn: (5.6.2010)
102
Hình 20: Nasi goreng (cơm rang) của tộc người Melayu
Nguồn:
Chinese_style.JPG (5.6.2010)
Hình 21: Nasi ulam (cơm rau sống) của tộc người Melayu
Nguồn:
(5.6.2010)
103
Hình 22: Mắm bò hóc của người Campuchia
Nguồn:
(5.6.2010)
Hình 23: Solok Cili (ớt xanh nhồi cá băm nhuyễn hấp) của người Mã Lai
Nguồn:
TmcyyC4jgaw/s320/Image046.jpg (5.6.2010)
104
Hình 24: Bánh Ketupat trong lễ hội - lễ tết của người Mã Lai
Nguồn:
001-small.jpg (5.6.2010)
Hình 25: Bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết của dân tộc Việt
và một số dân tộc Đông Nam Á khác
Nguồn:
phuong-thao-ne.jpg (5.6.2010)
105
Hình 26: Nam cởi trần đóng khố
Nguồn:
20120%20tuoi.jpg (5.6.2010)
Hình 27: Trang phục ngày Tết của phụ nữ H’mông
Nguồn: (5.6.2010)
106
Hình 28: Chiếc áo yếm của nhiều dân tộc Đông Nam Á
Nguồn:
d%E1%BA%ABn-c%E1%BB%A7a-nh%E1%BB%AFng-chi%E1%BA%BFc-
%C3%A1o-y%E1%BA%BFm-ng%C3%A0y-x%C3%BAa (5.6.2010)
Hình 29: Trang phục truyền thống của người Mianma
Nguồn:
(5.6.2010)
107
Hình 30: Trang phục truyền thống của người Việt Nam
Nguồn:
(5.6.2010)
Hình 31: Nhà sàn người Thái
Nguồn:
Can/80106277/149/ (6.6.2010)
108
Hình 32: Nhà dài của người Ê Đê
Nguồn: à%20dài-
1.jpg (6.6.2010)
Hình 33: Nhà hình thuyền
Nguồn: (6.6.2010)
109
Hình 34: Nhà đất
Nguồn:
(6.6.2010)
Hình 35: Nhà hiện đại
Nguồn:
magazine.com.vn/web/data/news/2007/8/997/Ngoinhamautim1.jpg (6.6.2010)
110
Hình 36: Thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam
Nguồn: (6.6.2010)
Hình 37: Ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
Nguồn:
Java,%20Indonesia.jpg (6.6.2010)
111
Hình 38: Đền Ăngco Vát ở Cămpuchia
Nguồn: (6.6.2010)
Hình 39: Đền Bayon của Angkor Thom ở Cămpuchia
Nguồn:
(6.6.2010)
112
Hình 40: Chùa tháp ở Mianma
Nguồn: (6.6.2010)
Hình 41: Cung điện Hoàng gia ở Băng Cốc - Thái Lan
Nguồn:
(6.6.2010)
113
Hình 42: Thạt Luổng ở Viên Chăn - Lào
Nguồn:
Vientiane%2C_Laos.jpg (6.6.2010)
Hình 43: Pho tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam - Việt Nam)
Nguồn: (6.6.2010)
114
Hình 44: Bức phù điêu về Đức Phật của ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
Nguồn:
(6.6.2010)
Hình 45: Nụ cười đền Bayon ở Ăngco Thom - Cămpuchia
Nguồn: (6.6.2010)
115
Hình 46: Vũ nữ Apsara ở đền Ăngco Vát
Nguồn: (8.6.2010)
Hình 47: Bức phù điêu ở đền Sukhôthay - cố đô Thái
Nguồn:
detail-9.jpg (8.6.2010)
116
Hình 48: Những chạm khắc hình lá bao quanh Thạt Luổng ở Lào
Nguồn: (8.6.2010)
Hình 49: Tượng phật bằng vàng tại chùa Mahamuni ở Mianma
Nguồn:
(8.6.2010)
117
Hình 50: Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương - Hà Nội
Nguồn:
A1ng (8.6.2010)
Hình 51: Bia Võ Cạnh (Khánh Hòa) xác định chữ Sanskrit và Pali vào Chăm Pa
Nguồn:
(8.6.2010)
118
Hình 52: Chữ Khơ Me (Sanskrit) được ghi ở đền Ăngco Vát của Cămpuchia
Nguồn:
(8.6.2010)
Hình 53: Bộ sách chữ Thái cổ
Nguồn:
Sach-Thai-co.jpg (8.6.2010)
119
Hình 54: Di sản chữ Nôm (tiếp thu từ chữ Hán) của người Việt
Nguồn: (8.6.2010)
Hình 55: Tục thờ sinh thực khí “nõ - nường” ở Phú Thọ - Việt Nam
Nguồn:
(8.6.2010)
120
Hình 56: Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện trên những bức tượng điêu khắc
Nguồn: (8.6.2010)
Hình 57: Tín ngưỡng phồn thực thể hiện ở Nhà mồ Tây Nguyên
Nguồn: (8.6.2010)
121
Hình 58: Tượng thờ Linga và Yoni ở Mỹ Sơn - Việt Nam
Nguồn: (8.6.2010)
Hình 59: Bàn thờ tổ tiên trong gia đình người Việt
Nguồn:
(8.6.2010)
122
Hình 60: Ấn Độ giáo thời ba vị thần Brama, Visnu và Siva
Nguồn: (8.6.2010)
Hình 61: Tượng của Đức Phật được rắn thần Naga bảo vệ
Nguồn: (8.6.2010)
123
Hình 62: Thứ trưởng Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng cũng tham
gia những đường cày đầu tiên trong Lễ hội xuống đồng ở Lào Cai - Việt Nam
Nguồn:
tch-nc-khai-m-ng-cay-u-xuan&catid=172:tng-hp&Itemid=185 (8.6.2010)
Hình 63: Lễ hội Té nước ở Thái Lan, Cămpuchia
Nguồn:
(8.6.2010)
124
Hình 64: Lễ hội Loi Krathồng (thả đèn trong một cái chén lá) ở Thái Lan
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 65: Hội đền Hai bà Trưng
Nguồn:
xuan.htm (9.6.2010)
125
Hình 66: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khơ Me
Nguồn:
(9.6.2010)
Hình 67: Tết cổ truyền người Lào
Nguồn:
pi-may-tet-co-truyen-o-lao.html (9.6.2010)
126
Hình 68: Hát quan họ trên thuyền quanh giếng Ngọc - Cổ Loa
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 69: Chơi đu - trò chơi dân gian không thể thiếu được trong ngày hội
Nguồn: (9.6.2010)
127
Hình 70: Cô gái duyên dáng trong thi thổi cơm
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 71: Tục cướp dâu của dân tộc H’mông ở Việt Nam
Nguồn:
(9.6.2010)
128
Hình 72: Đêm chợ tình ở Sa Pa - Lào Cai (Việt Nam)
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 73: Lễ cưới truyền thống ở Việt Nam
Nguồn: (9.6.2010)
129
Hình 74: Trầu để nhai
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 75: Trầu cau trong ngày cưới
Nguồn:
/Cam%20nang%20co%20dau/buong-cau1.jpg (9.6.2010)
130
Hình 76: Đua thuyền rồng tại Băng Cốc - Thái Lan
Nguồn:
44218632_thai_boat416ap.jpg (9.6.2010)
Hình 77: Chọi gà ở một làng quê Việt Nam
Nguồn:
827f4caThi%20Choi%20Ga.jpg (9.6.2010)
131
Hình 78: Thi thả diều quốc tế ở Việt Nam
Nguồn:
aspx?id=8237 (9.6.2010)
Hình 79: Bịt mắt bắt dê
Nguồn: (9.6.2010)
132
Hình 80: Kéo co
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 81: Ô lò cò
Nguồn: (9.6.2010)
133
Hình 82: Rối bóng ở Malaixia - Xingapo
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 83: Rối nước
Nguồn: (9.6.2010)
134
Hình 84: Wayang Topeng (múa mặt nạ) ở Giava - Inđônêxia
Nguồn:
/F1q1WhgkCU0/s400/topeng+malangan.JPG (9.6.2010)
Hình 85: Wayang Wong (múa mặt nạ) ở Bali - Inđônêxia
Nguồn:
wayang_wong_multimedia.jpg (9.6.2010)
135
Hình 86: Múa Lakhon của người Thái
Nguồn:
diu%20dang-31808-300a1.jpg (9.6.2010)
Hình 87: Sân khấu Mayong ở Malaixia
Nguồn: (9.6.2010)
136
Hình 88: Lakhon Basac của người Cămpuchia
Nguồn: (9.6.2010)
Hình 89: Hát Dù kê của người Khơ Me Nam Bộ Việt Nam
Nguồn:
4.jpg (9.6.2010)
137
Hình 90: Cờ ASEAN
Nguồn:
flag_of_asean.svg.png (10.6.2010)
Hình 91: Ban lãnh đạo các nước ASEAN
Nguồn: (10.6.2010)
138
Hình 92: Cờ biểu trưng ASEAN 2010
Nguồn:
(10.6.2010)
Hình 93: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt tay thân mật
với Quốc vương Brunây Haji Hassanal Bolkiah
Nguồn:
BAC0006.jpg (10.6.2010)
139
Hình 94: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Cămpuchia Hun Sen
duyệt đội danh dự Quân đội Nhân dân Việt Nam
Nguồn: (10.6.2010)
Hình 95: Tổng thống Inđônêxia Susilo Bambang Yudhoyono
tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Nguồn:
tiepL.JPG (10.6.2010)
140
Hình 96: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào Chummaly Sayason
Nguồn: (10.6.2010)
Hình 97: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaixia Abdul Razak
Nguồn:
JPG (10.6.2010)
141
Hình 98: Chủ tịch hội đồng quốc gia Mianma Than Shwe tiếp
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Nguồn:
(10.6.2010)
Hình 99: Tổng thống Philippines Gloria Arroyo tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Nguồn:
(10.6.2010)
142
Hình 100: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva
Nguồn:
(10.6.2010)
Hình 101: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
Nguồn:
(10.6.2010)
143
Hình 102: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp Bộ trưởng Công thương và Du lịch
Đông Ti-mo Gil da Costa AN.Alves
Nguồn: (10.6.2010)
Hình 103: Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ mà sẽ gắn kết trong tổ chức
ASEAN hội nhập vào quốc tế
Nguồn:
OVDM24R8AHasean4_3.jpg (10.6.2010)
144
Hình 104: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006
Nguồn:
DSBu4DmW5fY/s400/APEC2006-2.jpg (10.6.2010)
Hình 105: Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy nâng cốc chúc mừng vị thế thành viên
thứ 150 của Việt Nam
Nguồn:
DispForm.aspx?ID=4 (10.6.2010)
145
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tnh_thong_nhat_trong_da_dang_cua_van_hoa_truyen_thong_3882.pdf