MỤC LỤC
MỤC LỤC 5
MỞ ĐẦU 9
CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 11
I.1. Tỉnh Vĩnh Phúc. 11
I.1.1. Điều kiện tự nhiên. 11
I.1.1.1. Vị trí địa lí 11
I.1.1.2. Địa hình. 11
I.1.1.3. Địa chất 18
I.1.1.4. Thực vật và động vật 18
I.1.1.5. Khí hậu. 20
I.1.2. Tình hình dân sinh kinh tế. 21
I.1.2.1. Bản đồ hành chính. 21
I.1.2.3. Dân cư dân tộc. 22
I.1.2.4. Kinh tế. 31
I.2. Huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc. 31
I.2.1. Địa lý. 31
I.2.2. Hành chính. 32
I.2.3. Giao thông. 32
I.3. Hồ Xạ Hương. 32
CHƯƠNG II: TÍNH TOÁN CÁC ĐẶC TRƯNG KHÍ TƯỢNG 33
II.1. Nhiệt độ. 33
II.2. Nắng. 33
II.3. Gió. 33
II.4. Độ ẩm . 34
II.5. Bốc hơi 34
II.6. Mưa. 34
II.6.1. Quy luật biến đổi mưa theo thời gian. 36
II.6.1.1. Xác định lượng tổn thất ổn định. 36
II.6.1.2. Phân mùa mưa. 37
II.6.2. Tính lượng mưa năm trung bình nhiều năm 37
II.6.3. Tính lượng mưa năm thiết kế. 38
II.6.4. Phân phối mưa năm 38
II.6.4.1. Phân phối mưa năm trung bình. 38
II.6.4.2. Phân phối mưa năm thiết kế. 40
II.6.5. Mưa vụ. 44
II.6.5.1. Tính toán mưa vụ thiết kế. 44
II.6.5.2. Xác định mô hình mưa vụ thiết kế. 45
II.6.6. Mưa lũ. 47
CHƯƠNG III: TÍNH TOÁN THỦY VĂN THIẾT KẾ 48
III.1. Đặt Vấn Đề. 48
III.1.1. Giới thiệu về mô hình toán. 48
III.1.2. Giới thiệu mô hình TANK 52
III.1.2.1. Cấu trúc mô hình TANK đơn. 52
III.1.2.2. Bộ thông số của mô hình. 61
III.1.2.3. Nguyên lý của mô hình Tank. 62
III.1.3. Ứng dụng mô hình Tank để tính toán dòng chảy đến hồ. 62
III.1.3.1. Tài liệu dùng cho mô hình. 63
III.1.3.2. Xác định bộ thông số mô hình. 63
III.1.3.3. Tính toán dòng chảy đến hồ Xạ Hương. 65
III.2. Tính toán dòng chảy. 65
III.2.1. Tính toán dòng chảy năm 65
III.2.1.1. Dòng chảy năm 65
III.2.1.2. Lượng dòng chảy năm thiết kế. 68
III.2.2. Phân phối dòng chảy năm 69
III.2.2.1. Phân mùa dòng chảy. 69
III.2.2.2. Mô hình phân phối dòng chảy trung bình. 70
III.2.2.3. Mô hình phân phối dòng chảy theo phương pháp năm đại biểu. 71
III.2.3. Tính toán dòng chảy lũ. 75
III.2.3.1. Tính toán lưu lượng đỉnh lũ thiết kế. 76
III.2.3.2. Xác định tổng lượng lũ lớn nhất thiết kế. 79
III.2.3.3. Xác định đường quá trình lũ thiết 79
III.2.4. Dòng chảy bùn cát 81
III.2.4.1. Bùn cát lơ lửng. 81
III.2.4.2. Bùn cát di đáy. 82
III.2.4.3. Tổng dung tích bùn cát 82
CHƯƠNG IV: ĐIỀU TIẾT DÒNG CHẢY 83
IV.1. Hồ chứa và điều tiết dòng chảy bằng hồ chứa. 83
IV.1.1. Khái niệm về điều tiết dòng chảy và phân loại 83
IV1.1.1. Khái niệm về điều tiết dòng chảy. 83
IV1.1.2. Phân loại điều tiết dòng chảy. 83
IV.1.2. Các thành phần dung tích và mực nước của hồ chứa. 84
IV.1.2.1. Mực nước chết Hc và dung tích chết Vc. 84
IV.1.2.2. Mực nước bình thường Hbt và dung tích hiệu dụng Vh. 84
IV.1.2.3. Mực nước siêu cao Hsc và dung tích siêu cao Vsc 85
IV.1.2.4. Mực nước trước lũ HTL với dung tích kết hợp VKH. 85
IV.1.3. Tài liệu cơ bản dung trong tính toán hồ chứa. 86
IV.1.3.1. Tài liệu khí tượng thủy văn. 86
IV.1.3.2. Tài liệu về dân sinh kinh tế. 86
IV.1.3.4. Tài liệu về địa hình hồ chứa. 87
IV.1.3.5. Tài liệu về bùn cát 88
IV.2. Tính toán điều tiết cấp nước. 88
IV.2.1. Khái niệm chung. 88
IV.2.2. Xác định hình thức điều tiết của hồ. 90
IV.2.3. Tính toán điều tiết năm bằng phương pháp lập bảng. 91
IV.2.3.1. Nguyên lý tính toán điều tiết 91
IV.2.3.2. Trình tự tính toán. 92
IV.2.3.3. Xác định dung tích hiệu dụng của hồ. 93
IV.2.3.4. Nhận xét phương pháp. 104
IV.2.4. Kết luận. 104
IV.3. Tính toán Điều tiết lũ. 105
IV.3.1. Khái quát chung. 105
IV.3.2. Tính toán điều tiết lũ bằng phương pháp giản hóa của Kô-trê-rin. 106
IV.3.3. Kết luận. 110
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 111
I. Kết luận. 111
II.Kiến nghị 113
PHỤ LỤC 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đều biết, nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành, phát triển của xã hội loài người. Bên cạnh vai trò quan trọng đó nước cũng là một trong những tác nhân gây ra các hiểm hoạ như lũ lụt, hạn hán và sa mạc hoá, tác động trực tiếp đến đời sống của con người. Thậm chí ở một số nơi trên thế giới, việc giành quyền sở hữu nguồn nước là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những cuộc xung đột đẫm máu giữa một số quốc gia.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hệ thống sông, hồ, kênh rạch phong phú và lượng mưa trung bình hàng năm tương đối lớn, từ 1.200 đến 3.000 mm. Là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú, thuộc loại cao trên thế giới và có trữ lượng nước dồi dào ở khu vực Châu Á Chính sự ưu đãi to lớn về tài nguyên thiên nhiên như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, sự phân bố rất không đều giữa các mùa trong năm và giữa các vùng, các lưu vực sông trong cả nước, gây ra lũ lụt vào mùa mưa và hạn hán, thiếu nước về mùa khô. Cùng với quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, những vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm dòng chảy sông hồ, sự cạn kiệt nguồn nước đã và đang gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và an sinh xã hội.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang phải từng ngày, từng giờ hứng chịu những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu như hiện tượng trái đất nóng lên, hiện tượng El Nino, La Nina mà Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhiều vùng đất đai màu mỡ của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị biến mất trên bản đồ trong vòng vài chục năm tới.
Để tăng cường điều hòa dòng chảy, nhiều công trình thủy lợi, đặc biệt là công trình hồ chứa đã được xây dựng nhằm phục vụ đời sống và sản xuất cũng như phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai. Các công trình này đã góp phần quan trọng trong việc đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian qua. Với mong muốn vận dụng các kiến thức đã học về nghành Thủy văn, đặc biệt là chuyên ngành Tính toán Thủy văn, em đã chọn đề tài: “Tính toán Thủy văn và Điều tiết hồ chứa Xạ Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc ” để làm đồ án tốt nghiệp. Nội dung chủ yếu của đồ án là nghiên cứu và tính toán một số đặc trưng Khí tượng - Thủy văn thiết kế cho lưu vực để phục vụ bài toán quy hoạch, tính toán điều tiết hồ chứa phục vụ cấp nước tưới cho nông nghiệp.
Với mục tiêu đề ra như trên, đồ án đã sử dụng những phương pháp sau để phân tích tính toán:
- Phương pháp điều tra và thu thập số liệu.
- Phương pháp thống kê xác suất.
- Phương pháp sử dụng mô hình toán.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đồ án được trình bày trong 4 chương, bao gồm:
Chương 1: Điều kiện địa lý tự nhiên khu vực nghiên cứu : Chương này trình bày khái quát một số đặc điểm địa lý, địa hình của lưu vực và khái quát về tình hình dân sinh kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc và huyện Bình Xuyên.
Chương 2: Tính toán các yếu tố khí tượng: Chương này phân tích và tính toán một số đặc trưng bao gồm: Lượng mưa bình quân trên lưu vực; lượng mưa năm thiết kế; phân mùa mưa, tính toán phân phối mưa năm.
Chương 3: Tính toán thủy văn thiết kế: Chương này phân tích tính toán dòng chảy năm; tính toán dòng chảy lũ; tính toán dòng chảy bùn cát.
Chương 4: Điều tiết dòng chảy : Chương này tính toán điều tiết để xác định dung tích hiệu dụng của hồ Xạ Hương từ đó phục vụ thiết kế xây dựng hồ chứa và điều tiết cấp nước cho khu vực Bình Xuyên. Ngoài ra tính toán điều tiết lũ nhằm phòng lũ cho công trình.
Với những nội dung đó, đồ án giúp Sinh Viên biết cách vận dụng các các kiến thức đã học vào việc tính toán thủy văn phục vụ thiết kế xây dựng các công trình thủy lợi. Ngoài ra đồ án còn giúp sinh viên biết phân tích lựa chọn những phương pháp tính toán phù hợp, phân tích được tính quy luật của các yếu tố thủy văn từ kết quả tính toán.
125 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7175 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tính toán Thủy văn và Điều tiết hồ chứa Xạ Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC 5
MỞ ĐẦU 9
CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 11
I.1. Tỉnh Vĩnh Phúc 11
I.1.1. Điều kiện tự nhiên 11
I.1.1.1. Vị trí địa lí 11
I.1.1.2. Địa hình 11
I.1.1.3. Địa chất 18
I.1.1.4. Thực vật và động vật 18
I.1.1.5. Khí hậu 20
I.1.2. Tình hình dân sinh kinh tế 21
I.1.2.1. Bản đồ hành chính 21
I.1.2.3. Dân cư dân tộc 22
I.1.2.4. Kinh tế 31
I.2. Huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc 31
I.2.1. Địa lý 31
I.2.2. Hành chính 32
I.2.3. Giao thông 32
I.3. Hồ Xạ Hương 32
CHƯƠNG II: TÍNH TOÁN CÁC ĐẶC TRƯNG KHÍ TƯỢNG 33
II.1. Nhiệt độ 33
II.2. Nắng 33
II.3. Gió 33
II.4. Độ ẩm 34
II.5. Bốc hơi 34
II.6. Mưa 34
II.6.1. Quy luật biến đổi mưa theo thời gian 36
II.6.1.1. Xác định lượng tổn thất ổn định 36
II.6.1.2. Phân mùa mưa 37
II.6.2. Tính lượng mưa năm trung bình nhiều năm 37
II.6.3. Tính lượng mưa năm thiết kế 38
II.6.4. Phân phối mưa năm 38
II.6.4.1. Phân phối mưa năm trung bình 38
II.6.4.2. Phân phối mưa năm thiết kế 40
II.6.5. Mưa vụ 44
II.6.5.1. Tính toán mưa vụ thiết kế 44
II.6.5.2. Xác định mô hình mưa vụ thiết kế 45
II.6.6. Mưa lũ 47
CHƯƠNG III: TÍNH TOÁN THỦY VĂN THIẾT KẾ 48
III.1. Đặt Vấn Đề 48
III.1.1. Giới thiệu về mô hình toán 48
III.1.2. Giới thiệu mô hình TANK 52
III.1.2.1. Cấu trúc mô hình TANK đơn 52
III.1.2.2. Bộ thông số của mô hình 61
III.1.2.3. Nguyên lý của mô hình Tank 62
III.1.3. Ứng dụng mô hình Tank để tính toán dòng chảy đến hồ 62
III.1.3.1. Tài liệu dùng cho mô hình 63
III.1.3.2. Xác định bộ thông số mô hình 63
III.1.3.3. Tính toán dòng chảy đến hồ Xạ Hương 65
III.2. Tính toán dòng chảy 65
III.2.1. Tính toán dòng chảy năm 65
III.2.1.1. Dòng chảy năm 65
III.2.1.2. Lượng dòng chảy năm thiết kế 68
III.2.2. Phân phối dòng chảy năm 69
III.2.2.1. Phân mùa dòng chảy 69
III.2.2.2. Mô hình phân phối dòng chảy trung bình 70
III.2.2.3. Mô hình phân phối dòng chảy theo phương pháp năm đại biểu 71
III.2.3. Tính toán dòng chảy lũ 75
III.2.3.1. Tính toán lưu lượng đỉnh lũ thiết kế 76
III.2.3.2. Xác định tổng lượng lũ lớn nhất thiết kế 79
III.2.3.3. Xác định đường quá trình lũ thiết 79
III.2.4. Dòng chảy bùn cát 81
III.2.4.1. Bùn cát lơ lửng 81
III.2.4.2. Bùn cát di đáy 82
III.2.4.3. Tổng dung tích bùn cát 82
CHƯƠNG IV: ĐIỀU TIẾT DÒNG CHẢY 83
IV.1. Hồ chứa và điều tiết dòng chảy bằng hồ chứa 83
IV.1.1. Khái niệm về điều tiết dòng chảy và phân loại 83
IV1.1.1. Khái niệm về điều tiết dòng chảy 83
IV1.1.2. Phân loại điều tiết dòng chảy 83
IV.1.2. Các thành phần dung tích và mực nước của hồ chứa 84
IV.1.2.1. Mực nước chết Hc và dung tích chết Vc 84
IV.1.2.2. Mực nước bình thường Hbt và dung tích hiệu dụng Vh 84
IV.1.2.3. Mực nước siêu cao Hsc và dung tích siêu cao Vsc 85
IV.1.2.4. Mực nước trước lũ HTL với dung tích kết hợp VKH 85
IV.1.3. Tài liệu cơ bản dung trong tính toán hồ chứa 86
IV.1.3.1. Tài liệu khí tượng thủy văn 86
IV.1.3.2. Tài liệu về dân sinh kinh tế 86
IV.1.3.4. Tài liệu về địa hình hồ chứa 87
IV.1.3.5. Tài liệu về bùn cát 88
IV.2. Tính toán điều tiết cấp nước 88
IV.2.1. Khái niệm chung 88
IV.2.2. Xác định hình thức điều tiết của hồ 90
IV.2.3. Tính toán điều tiết năm bằng phương pháp lập bảng 91
IV.2.3.1. Nguyên lý tính toán điều tiết 91
IV.2.3.2. Trình tự tính toán 92
IV.2.3.3. Xác định dung tích hiệu dụng của hồ 93
IV.2.3.4. Nhận xét phương pháp 104
IV.2.4. Kết luận 104
IV.3. Tính toán Điều tiết lũ 105
IV.3.1. Khái quát chung 105
IV.3.2. Tính toán điều tiết lũ bằng phương pháp giản hóa của Kô-trê-rin 106
IV.3.3. Kết luận 110
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 111
I. Kết luận 111
II.Kiến nghị 113
PHỤ LỤC 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO 129
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đều biết, nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành, phát triển của xã hội loài người. Bên cạnh vai trò quan trọng đó nước cũng là một trong những tác nhân gây ra các hiểm hoạ như lũ lụt, hạn hán và sa mạc hoá, tác động trực tiếp đến đời sống của con người. Thậm chí ở một số nơi trên thế giới, việc giành quyền sở hữu nguồn nước là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những cuộc xung đột đẫm máu giữa một số quốc gia.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hệ thống sông, hồ, kênh rạch phong phú và lượng mưa trung bình hàng năm tương đối lớn, từ 1.200 đến 3.000 mm. Là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú, thuộc loại cao trên thế giới và có trữ lượng nước dồi dào ở khu vực Châu Á Chính sự ưu đãi to lớn về tài nguyên thiên nhiên như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, sự phân bố rất không đều giữa các mùa trong năm và giữa các vùng, các lưu vực sông trong cả nước, gây ra lũ lụt vào mùa mưa và hạn hán, thiếu nước về mùa khô. Cùng với quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, những vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm dòng chảy sông hồ, sự cạn kiệt nguồn nước… đã và đang gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và an sinh xã hội.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang phải từng ngày, từng giờ hứng chịu những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu như hiện tượng trái đất nóng lên, hiện tượng El Nino, La Nina…mà Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhiều vùng đất đai màu mỡ của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị biến mất trên bản đồ trong vòng vài chục năm tới.
Để tăng cường điều hòa dòng chảy, nhiều công trình thủy lợi, đặc biệt là công trình hồ chứa đã được xây dựng nhằm phục vụ đời sống và sản xuất cũng như phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai. Các công trình này đã góp phần quan trọng trong việc đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian qua. Với mong muốn vận dụng các kiến thức đã học về nghành Thủy văn, đặc biệt là chuyên ngành Tính toán Thủy văn, em đã chọn đề tài: “Tính toán Thủy văn và Điều tiết hồ chứa Xạ Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc ” để làm đồ án tốt nghiệp. Nội dung chủ yếu của đồ án là nghiên cứu và tính toán một số đặc trưng Khí tượng - Thủy văn thiết kế cho lưu vực để phục vụ bài toán quy hoạch, tính toán điều tiết hồ chứa phục vụ cấp nước tưới cho nông nghiệp.
Với mục tiêu đề ra như trên, đồ án đã sử dụng những phương pháp sau để phân tích tính toán:
- Phương pháp điều tra và thu thập số liệu.
- Phương pháp thống kê xác suất.
- Phương pháp sử dụng mô hình toán.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đồ án được trình bày trong 4 chương, bao gồm:
Chương 1: Điều kiện địa lý tự nhiên khu vực nghiên cứu : Chương này trình bày khái quát một số đặc điểm địa lý, địa hình của lưu vực và khái quát về tình hình dân sinh kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc và huyện Bình Xuyên.
Chương 2: Tính toán các yếu tố khí tượng: Chương này phân tích và tính toán một số đặc trưng bao gồm: Lượng mưa bình quân trên lưu vực; lượng mưa năm thiết kế; phân mùa mưa, tính toán phân phối mưa năm.
Chương 3: Tính toán thủy văn thiết kế: Chương này phân tích tính toán dòng chảy năm; tính toán dòng chảy lũ; tính toán dòng chảy bùn cát.
Chương 4: Điều tiết dòng chảy : Chương này tính toán điều tiết để xác định dung tích hiệu dụng của hồ Xạ Hương từ đó phục vụ thiết kế xây dựng hồ chứa và điều tiết cấp nước cho khu vực Bình Xuyên. Ngoài ra tính toán điều tiết lũ nhằm phòng lũ cho công trình.
Với những nội dung đó, đồ án giúp Sinh Viên biết cách vận dụng các các kiến thức đã học vào việc tính toán thủy văn phục vụ thiết kế xây dựng các công trình thủy lợi. Ngoài ra đồ án còn giúp sinh viên biết phân tích lựa chọn những phương pháp tính toán phù hợp, phân tích được tính quy luật của các yếu tố thủy văn từ kết quả tính toán.
CHƯƠNG I
ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
I.1. Tỉnh Vĩnh Phúc
I.1.1. Điều kiện tự nhiên
I.1.1.1. Vị trí địa lí
Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong khu vực châu thổ sông Hồng thuộc trung du và miền núi phía bắc. Vĩnh Phúc là một tỉnh ở vùng đỉnh của châu thổ Sông Hồng, thuộc khu vực chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng vì vậy có ba vùng sinh thái: Đồng bằng ở phía Nam tỉnh, Trung du ở phía Bắc tỉnh, vùng núi ở huyện Tam Đảo. Diện tích tự nhiên, tính đến 31/12/2008 là 1.231,76 km2
Tỉnh Vĩnh Phúc có các điểm cực:
Điểm cực bắc ở 210,35 vĩ bắc (Đạo Trù - Tam Đảo)
Điểm cực nam ở 210,06 vĩ bắc (Tráng Việt - Mê Linh)
Điểm cực đông ở 1060,48 kinh đông (Ngọc Thanh TX Phúc Yên)
Điểm cực tây ở 1060,19 kinh đông (Bạch Lưu – Lập Thạch)
Tỉnh Vĩnh Phúc tiếp giáp với các tỉnh:
Phía bắc giáp hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, đường ranh giới là dãy núi Tam Đảo, Sáng Sơn.
Phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới tự nhiên là Sông Lô
Phía nam giáp Hà Nội, ranh giới tự nhiên là sông Hồng.
Phía đông giáp hai huyện Sóc Sơn, Đông Anh – Hà Nội.
(Nguồn: www.vi.wikipedia.org)
I.1.1.2. Địa hình
Địa hình Vĩnh Phúc kéo dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam, là phương chung của địa hình ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc bộ Việt Nam. Phía bắc của tỉnh có dãy núi Tam Đảo với đỉnh Đạo Trù cao 1.592m, phía tây Nam được bao bọc bởi 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Lô, tạo nên dạng địa hình thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và chia ra 3 vùng có địa hình đặc trưng: đồng bằng, gò đồi, núi thấp và trung bình.
Địa hình đồng bằng: gồm 76 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 46.800 ha. Vùng đồng bằng bao gồm vùng phù sa cũ và phù sa mới, chủ yếu do phù sa của các hệ thống sông lớn như: Sông Hồng, sông Lô, sông Đáy bồi đắp nên vùng phù sa cũ chiếm diện tích khá rộng, gồm phía bắc của thị xã Phúc Yên, các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường và phía nam của các huyện Tam Dương, Bình Xuyên, được hình thành cùng thời kì hình thành châu thổ sông Hồng. Vùng phù sa mới dọc theo các con sông thuộc các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, nam Bình Xuyên, được hình thành vào thời kì Đệ tứ - Thống Holoxen. Đất đai vùng đồng bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp nên rất màu mỡ, là điều kiện lí tưởng cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp thâm canh.
Địa hình đồi: gồm 33 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 24.900 ha, đây là vùng đồi thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa màu kết hợp với chăn nuôi gia súc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chăn nuôi theo hướng tăng sản xuất hàng hoá thực phẩm. Vùng đồi núi Bình Xuyên là vùng được thành tạo vào thời kì Trung Trias giữa Đệ Tam, gồm các lớp trầm tích bể cạn, gồm các phiến thạch, sa thạch, phiến sa và một số loại đá khác xen kẽ.
Địa hình núi thấp và trung bình: Có diện tích tự nhiên là 56.300 ha, chiếm 46,3% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình vùng núi phức tạp bị chia cắt, có nhiều sông suối, đây là một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh quanh Hà Nội, vì nó sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp tập trung và các khu du lịch sinh thái. Vùng núi Tam Đảo có diện tích rừng quốc gia là 15.753ha.
a. Vùng núi Lập Thạch, Sông Lô, Tam Đảo
Vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm mưa mùa vùng núi. Lượng mưa ở đai cao của núi Tam Đảo khá lớn (2.600 mm) vì ở đây có thêm lượng mưa địa hình. Mùa mưa từ tháng 4 đến cuối tháng 10 chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm. Mưa nhiều vào các tháng 6, 7, 8 và 9, cao nhất vào tháng 8 dương lịch, thường gây xói mòn và lũ lớn. Số ngày mưa khá nhiều trong năm (trên 140 ngày). Nhiệt độ trung bình của vùng núi cao trung bình là 19-200C. Còn khu vực chân núi nhiệt độ cao hơn, khoảng từ 22-230C, tháng lạnh nhất là tháng 1 (11-150C), tháng nóng nhất là khoảng tháng 7 (26-280C). Riêng vùng đỉnh núi có nền nhiệt độ thấp hơn cả, bình quân từ 18 - 190C, nhiệt độ xuống thấp nhất là tháng 1 (10,80C), nhiệt độ cao nhất vào tháng 6 (khoảng 230C). Nhiệt độ khu nghỉ mát Tam Đảo thấp hơn nhiệt độ ở thành phố Vĩnh Yên khoảng 60C. Khí hậu vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch chia thành 2 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu núi cao Tam Đảo quanh năm mát mẻ, thuận tiện cho việc phát triển du lịch, hình thành các khu nghỉ mát, du lịch vui chơi giải trí. Khu vực còn lại thuộc tiểu vùng mang đặc điểm của khí hậu gió mùa chí tuyến Đông Bắc Bắc Bộ. Độ ẩm bình quân là 84- 85%, vào mùa mưa, nhất là khi có mưa phùn độ ẩm có thể lên tới 90%, nhưng vào mùa khô độ ẩm giảm xuống có khi chỉ còn 70-75%.
Do lượng mưa vùng khá lớn nên tạo ra mạng lưới sông suối trong vùng ngắn và dốc, có dạng chân rết, cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân núi, lưu lượng nước lớn, chảy vào các hồ trong vùng, thuộc lưu vực sông Đáy. Chia làm hai mùa rõ rệt: mùa lũ (xảy ra vào tháng 8) lũ tập trung nhanh và cũng rút nhanh; mùa kiệt (tháng 2). Vùng có hệ thống hồ lớn nhỏ, lớn nhất là hồ Vân Trục nằm ở phía Nam vùng, hồ Bò Lạc, hồ Suối Sải, hồ Đá Ngang và nhiều hồ nhỏ khác.
Đất vùng này chủ yếu là các loại đất xám, bao gồm: Đất xám mùn đá nông: Phân bố ở độ cao trên 700m. Đất xám đỏ vàng đá nông: phân bố ở phần lớn diện tích vùng núi Tam Đảo, ở độ cao dưới 700m. Một phần nhỏ diện tích đất loang lổ chạy dọc theo thung lũng sông Bá. Phía Nam của vùng có đất xám đỏ vàng điển hình. Dọc theo sông Cà Lồ và các nhánh của nó tồn tại các loại đất xám điển hình và các loại đất xám loang lổ. Dọc theo các sông suối, thung lũng, các đứt gãy trong vùng có các loại đất cát chua và một số nơi có đất phù sa chua. Phía Nam của vùng có đất xám vàng đá nông, phía Tây có đất xám điển hình glay sâu.
Đối với vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô tính đặc thù của các nhân tố sinh thái phát sinh đã tạo nên đặc điểm đa dạng sinh học và tài nguyên sinh vật phong phú bao gồm các kiểu rừng:
Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp: Phân bố ở khu vực 700m, loại rừng này chiếm phần lớn dãy Tam Đảo với những loài cây có giá trị kinh tế cao như: Chò chỉ (Choera chinensis), Giổi (Michelia Ital), Re (Cinnamomum Ital)... Quần hệ thực vật kiểu rừng này gồm nhiều tầng, tán kín với những loài cây lá rộng thường xanh hợp thành. Kiểu rừng này đang bị tàn phá nặng nề.
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: Phân bố ở độ cao 800m trở lên (chỉ có ở dãy Tam Đảo). Quần hệ thực vật là các loài họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Re (Lauraceae). Dẻ (Fagceae), họ Chè (Theaceae), họ Mộc Lan (Magnoliaceae), họ Sau Sau (Hamamelidaceae). Ngoài ra, ở độ cao trên 1.000 m xuất hiện một số loài thuộc ngành hạt trần như: Thông (Dacrycarpus), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Thông yến tử (Podorcarpus pilgeri), Kim giao (Nageia fleuryi).
Rừng lùn trên đỉnh núi: Là một kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình, được hình thành trên các đỉnh dốc, hay các đỉnh núi cao đất xấu, nhiều nắng gió, mây mù. Vì vậy cây cối thường thấp, bé và phát triển chậm. Rừng tre nứa: Mọc xen kẽ trong các kiểu rừng khác. Các loại tiêu biểu là Vầu, Sặt gai ở độ cao trên 800m; Giang thường ở độ cao 500- 800m; Nứa thường ở độ cao dưới 500m.
Rừng phục hồi sau nương rẫy: Kiểu rừng này hình thành từ rừng bị khai thác gỗ nặng nề trước những năm 80, thường có ở vùng đệm của Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Rừng trồng: Gồm các loại rừng: Rừng thông, rừng Bạch đàn, rừng Keo và rừng lá rộng, được trồng ở độ cao khoảng từ 200-600m. Rừng trồng được bao phủ với diện tích khá lớn ở phần phía Tây Bắc của vùng (vùng Lập Thạch). Ngoài ra, những khu vực thung lũng, sông suối và phần phía Nam của vùng còn trồng cây lương thực, rau màu. Ngoài ra trong vùng còn có các kiểu trảng cây bụi, trảng cỏ thứ sinh sau khai thác.
b. Vùng trung du: Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương
Vùng này nằm trên nền đá biến chất cao, tạo thành dải kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, gồm các đá gnei giàu plagioclas, biotit, silimanit, có tuổi Proterozoi giữa (PR2- i1 sc), đôi chỗ gặp quarzit chứa mica hệ tầng Chiêm Hóa (PR3- € ch). Phía Tây của vùng có một vài khối đồi sót có tuổi Neogen sớm (N1) hệ tầng Na Dương, là khối xâm nhập còn sót lại sau quá trình biển thoái cuối cùng. Ngoài ra, phần lớn diện tích vùng đồi này được cấu tạo bởi trầm tích Đệ tứ có tuổi Pleistocen trung - thượng (QII-III), và tuổi Holocen trung - thượng (QIV2-3). Vùng đồi có độ cao từ 20 đến 238m, độ dốc trung bình 200, khu vực này các dãy đồi cao chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Các đồi gò khác tồn tại ở dạng khối, phần lớn là các bề mặt Pediment cao 20-60m với độ dốc trung bình cấp III (từ 8 đến 150). Dọc theo các sông suối có các bậc thềm tích tụ sông bậc 1 và các bề mặt đồng bằng tích tụ tầng thấp giữa vùng đồi thấp. Thấp hơn là những bãi bồi tuổi hiện đại bằng phẳng (< 30). Phần phía Đông của vùng có dạng địa hình đồi cao, nằm trên phần kéo dài của khối Tam Đảo, có tuổi Triat trung thuộc hệ tầng Nà Khuất và hệ tầng sông Hiến.
Đây là vùng đồi gò nên các chỉ tiêu khí hậu được đo tại trạm khí tượng Vĩnh Yên. Khí hậu thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa: Gió Đông Nam: thổi từ tháng 4 đến tháng 9; Gió Đông Bắc: thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Tạo ra 2 mùa rõ rệt: Mùa nóng ẩm, mưa nhiều: từ tháng 4 đến tháng 9; Mùa lạnh khô, mưa ít: từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23- 240C, lạnh nhất vào tháng 1 là 16,70C và tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình tháng là 30,2oC. Lượng mưa hàng năm là 1.166,6mm, tháng khô nhất là tháng 11 - 12 với lượng mưa chỉ vào khoảng 9,0 đến 9,5 mm, tháng mưa nhiều nhất là tháng 8 với lượng mưa lên tới 236,0 mm. Độ ẩm tương đối trung bình là 78 - 80%, trong đó tháng độ ẩm nhỏ nhất là tháng 2 (72%), và độ ấm lớn nhất vào tháng 8.
Mạng lưới thủy văn dày đặc, nhiều sông, suối, hồ, đầm. Hệ thống lớn nhất là hệ thống sông Đáy, với lưu lượng nước bình quân là 23 m3/s; lưu lượng cao nhất là 833m3/s; mùa khô kiệt, lưu lượng chỉ 4 m3/s, có quãng sông cạn có thể lội qua được. Hệ thống sông này cung cấp nước tưới cho đồng ruộng của các huyện Tam Dương, Bình Xuyên. Hệ thống kênh mương trong vùng tương đối dày, nhưng do nằm trong vùng hạ lưu các con sông chảy xuống từ Tam Đảo và do địa hình thoải, nên vào mùa mưa thoát nước kém, gây ngập úng, tạo ra nhiều hồ đầm trong vùng. Hệ thống hồ đầm có tác dụng tích nước cho mùa khô phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, trong đó đầm lớn nhất phải kể đến là Đầm Vạc nằm ở phía Nam và hồ Đại Lải ở phía Đông. Đầm Vạc có diện tích mặt thoáng về mùa kiệt là 250ha, về mùa lũ lên tới 500ha có tác dụng tưới tiêu nước cho khu vực. Hồ Đại Lải là hồ nhân tạo lớn nhất trong vùng với dung tích hữu ích là 25,4 triệu m3, diện tích tưới thiết kế là 2.700ha. Ngoài nhiệm vụ tưới nước và phòng lũ còn phục vụ du lịch sinh thái, tạo cảnh quan môi trường hồ nước vùng trung du. Ngoài ra, trong vùng còn có hệ thống kênh mương đào và các trạm bơm phục vụ công tác tưới, tiêu nước cho vùng.
Do phát triển trên các đá gneis giàu plagioclas, biotit, silimanit nên loại đất được hình thành chủ yếu là đất xám, gồm các loại đất xám điển hình và đất xám đỏ vàng. Đất phù sa chua điển hình phân bố dọc theo các sông suối như sông Đáy, sông Xạ Hương và các chi lưu của nó. Theo dải hẹp nhỏ dọc theo sông Đáy có đất phù sa trung tính ít chua, ngập úng vào mùa mưa; Đất glay phân bố ở phía Nam huyện Lập Thạch, chủ yếu là glay chua điển hình. Đất loang lổ có tồn tại ở khu vực phía Đông Nam và Tây Nam của vùng. Đất phù sa chua tồn tại phần lớn ở phía Tây và phần trung tâm của Yên Lạc; đất loang lổ phân bố ở phần phía Tây, phía Bắc và phía Đông Yên Lạc; đất gley có nhiều nhất ở phía Bắc Yên Lạc và một phần ở phía Nam thị trấn Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên. Đất phù sa trung tính ít chua có ở ven các con sông chảy trong vùng. Ngoài ra, còn có đất tầng mỏng trên vùng đồi cao thuộc thị trấn Xuân Hòa Phúc Yên. Sản phẩm trên bề mặt vùng đồi Vĩnh Phúc là sản phẩm phong hoá gồm các lớp đất sét nâu đỏ, laterit và các mũ sắt. Nhân dân thường dùng lớp đất sét có latarit này để làm gạch đá ong và gạch không nung.
Thực vật trong vùng chủ yếu là rừng trồng rải rác khắp vùng và trồng các loại cây ăn quả như vải, nhãn,… các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, lạc), cây lương thực được trồng ở những khu vực có địa hình thấp, độ dốc nhỏ.
c. Vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên Lạc, Nam Bình Xuyên
Vùng này phần lớn diện tích nằm trên trầm tích sông tuổi Holocen trung - thượng (aQIV2-3), phía Đông và Đông Nam có trầm tích biển tuổi Pleistocen (mQIII), trầm tích hồ - đầm tuổi Pleistocen (lbQIV2-3) và một khối sót có tuổi Neogen hạ thuộc hệ tầng Na Dương (N1 nd).
Đây là vùng đồng bằng ven sông có độ cao nhỏ hơn 30m. Gồm các khu vực ven sông Hồng, vùng này có độ dốc nhỏ, dưới 50.
Khí hậu vùng thuộc kiểu khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhiệt độ trung bình khoảng 230C, nhiệt độ trung bình tháng 7 là 280C, trung bình tháng 1 là 160C. Mùa nóng, nhiệt độ cực đại tuyệt đối có thể lên tới 400C. Vùng này có mưa phùn nhiều vào tháng 1 và tháng 2. Lượng mưa trung bình khoảng 1500 - 2.000 mm.
Do địa hình thấp nên vào mùa mưa thường gây ngập úng, tạo ra nhiều hồ đầm trong vùng. Nhiều hệ thống kênh mương dẫn nước, tưới tiêu nước cho khu vực như kênh Liễn Sơn kéo dài trên 7 huyện, thị từ miền núi, trung du tới vùng đồng bằng (Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường). Sông Cà Lồ chảy từ xã Vạn Yên, huyện Mê Linh theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, giữa hai huyện Bình Xuyên và Mê Linh, có chiều dài 86km. Nguồn nước sông Cà Lồ chủ yếu là tập trung nước các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam Đảo, núi Sóc Sơn. Lưu lượng bình quân chỉ 30 m3/s. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa là 286 m3/s. Tác dụng chính của sông là tiêu úng vào mùa mưa lũ. Riêng khúc sông đầu nguồn cũ từ Vạn Yên đến sông Cánh đã được đắp chặn lại ở gần thôn Đại Lợi (Mê Linh), dài gần 20km, biến thành một hồ chứa nước lớn tưới ruộng và nuôi cá. Đầm Rưng trải dài trên khu vực 3 xã: Tam Phúc, Tứ Trung, Ngũ Kiên (Vĩnh Tường) có diện tích mặt thoáng khoảng 205 ha, về mùa lũ có khi lên tới 500 ha, có tác dụng tưới tiêu cho khu vực xung quanh và nuôi trồng thủy sản.
Đất trong vùng chủ yếu là đất phù sa trung tính ít chua, trong đó có phù sa trung tính ít chua điển hình, phù sa trung tính ít chua glay nông và sâu, phù sa trung tính ít chua loang lổ nông và sâu, phù sa trung tính ít chua có kết von. Phù sa chua là dải nằm ở phía sau dải đất phù sa trung tính ít chua tính từ sông vào. Phía Đông của vùng là dải đất loang lổ chiếm diện tích khá lớn, có xen lẫn đất xám.
Thảm thực vật rừng trồng ít, do đây là vùng đồng bằng phù sa nên chủ yếu trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực. Ngoài ra, còn trồng các loại cây dược thảo, các loại hoa. Khu vực trong đê thường trồng lúa 1 vụ, 2 vụ; khu vực ngoài đê thường là đất được sử dụng chuyên trồng màu.
Như vậy, sự phân hóa về địa bàn của Vĩnh Phúc khá phức tạp. Dựa vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, sự phân hóa về địa hình, cấu trúc của lớp địa chất, thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu thủy văn, Vĩnh Phúc được chia thành 3 vùng địa lí tự nhiên, mỗi vùng có những đặc trưng riêng: vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô có khí hậu mát mẻ, có tiềm năng du lịch lớn; đồng thời phát triển các loại hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Vùng trung du Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương phát triển mạnh cả về công nghiệp lẫn nông nghiệp; vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên Lạc, Nam Bình Xuyên đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp tập trung, nông nghiệp hàng hóa. Đây là vùng có lợi thế phát triển nông nghiệp, các làng nghề và tiểu thủ công nghiệp.
I.1.1.3. Địa chất
Về đất, có thể nói tiềm năng to lớn nhất của Vĩnh Phúc là đất. Đất ở đây có nhiều loại. Không kể vùng núi cao Tam Đảo, Vĩnh Phúc chủ yếu là bán sơn địa, vùng trung du, vùng đồi đất thấp và đồng bằng.
Vùng đồi gò trung du Vĩnh Phúc kéo dài từ Lập Thạch qua Vĩnh Yên đến Mê Linh là vùng đất mở rộng từ chân núi Tam Đảo ra tới gần quốc lộ 2. Đây là vùng phù sa cổ được nâng lên, có tầng dày đất sét pha cát có lẫn một ít sỏi và cuội rất thích hợp để trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày và cây lương thực phụ.
Vùng đồng bằng châu thổ kéo dài từ vùng đồi gò ra tận thung lũng sông Hồng, sông Lô. Đây là vùng đất phù sa mới, được bồi tụ trong thời toàn tân, chứa nhiều khoáng chất và vi lượng nên rất phì nhiêu, mầu mỡ, sẵn nước cộng với khí hậu ôn hoà, rất thuận lợi cho việc thâm canh phát triển nền công nghiệp trồng lúa nước. Nhờ vậy, mà đất ở Vĩnh Phúc, kể cả vùng gò đồi lẫn đồng bằng châu thổ đã sớm được khai phá trồng trọt từ thời dựng nước đầu tiên của dân tộc.
I.1.1.4. Thực vật và động vật
Thảm thực vật ở đây thể hiện rõ trong nền cảnh chung của rừng nhiệt đới gió mùa. Vào cuối thời cảnh tân và thời toàn tân, trên đất Vĩnh Phúc rừng rậm không chỉ phủ kín dãy Tam Đảo với nhiều loại gỗ quý hiếm, mà vùng đồi gò nhấp nhô, thậm chí cả vùng đồng bằng bao suốt từ Lập Thạch, Tam Dương đến Bình Xuyên, Mê Linh cũng là những cánh rừng bạt ngàn.
Qua hàng ngàn, hàng vạn năm bị khai thác, tàn phá nghiệm trọng, đồng bằng đã trở thành những làng trù phú, những cánh đồng xanh mướt, gò đồi trở nên trơ trụi bạc màu, còn vùng núi cao rừng sâu Tam Đảo bị chặt phá thảm hại. Thế mà ngày nay, Tam Đảo vẫn được xem là vùng đa dạng sinh học lớn. Xem thế đủ biết, tiềm năng thực động vật thời tiền sơ sử phong phú biết bao.
Gần đây thôi và cũng chỉ mới qua khảo sát bước đầu các nhà thực vật học đã thống kê được trong vườn quốc gia Tam Đảo có tới 130 họ, 344 chi, 490 loài thực vật bậc cao. Trong đó, nhóm quyết thực vật có 21 họ, 32 chi, 53 loại, nhóm thực vật hạt kín có 102 họ, 305 chi, 426 loài. Xét về công dụng, có thể phân chia thực vật ở rừng Tam Đảo thành các nhóm sau. Nhóm cho gỗ có 83 loài, nhóm làm rau ăn có 54 loài, nhóm làm thuốc có 214 loài và nhóm cho quả ăn có 62 loài. Trong số đó, có nhiều loài có giá trị cao như Pơmu, La Hán, Kim Giao, Sam Pông, Trầm hương. Những loại thực vật quý hiếm này tập trung ở đỉnh Rùng Rinh và phân bố ở độ cao trên 800m. Các loại gỗ tứ thiết đinh, lim, sến, táu, lát hoa, nhiều cây thuốc quý như Sa nhân, Ngũ gia bì, Hà thủ ô, v.v.. và nhiều loại cây búng báng thường gặp trong rừng núi Tam Đảo.
Về động vật, thống kê cho thấy rừng Tam Đảo có tới 4 lớp, 26 bộ, 86 họ, 281 loài. Trong đó, lớp lưỡng cư có 19 loài, đặc biệt là loài cá lóc Tam Đảo được đưa vào sách đỏ những là động vật cực kỳ quý hiếm. Lớp bò sát có 46 loài, trong đó tắc kè, kỳ đà, thằn lằn là những loài có số lợng lớn. Lớp chim nhiều hơn cả, có tới 158 loài, trong đó có nhiều loại quý hiếm như gà lôi trắng, gà tiền. Lớp thú có 58 loài, các loài lớn nh gấu, hổ, báo, các loại nhỏ như cầy, sóc, chuột, hươu, nai, hoẵng ..., một số có giá trị khoa học cao như cheo cheo, voọc đen má trắng, voọc mũi hếch…
Trong số hàng mấy trăm loại động vật ở núi rừng Tam Đảo, có 47 loài được xem là động vật quý hiếm, trong đó có loài có nguy cơ bị tuyệt diệt. Hiện nay, vườn quốc gia Tam Đảo vẫn được xem là một bảo tàng thiên nhiên vô giá. Chắc hẳn vào thời cách tân và toàn tân, không chỉ rừng núi Tam Đảo mà cả Vĩnh Phúc là một quần thể động thực vật vô cùng phong phú, nguồn cung cấp lương thực quan trọng cho con ngời lúc bấy giờ, nhất là trong thời kỳ sinh sống bằng săn bắt và hái lượm.
Cũng cần nói thêm, Vĩnh Phúc có sông lớn bao quanh 3 mặt, có nhiều đầm hồ lớn nhỏ đều khắp các huyện, không những là nguồn cung cấp nước quan trọng mà còn là nơi cung cấp thực phẩm cần thiết cho cuộc sống con ngời. Đó là các loại thuỷ sản như cá, tôm, cua, ốc, hến…, trong đó có nhiều loại nổi tiếng cho mãi đến hôm nay, như cá Anh Vũ trong lòng sông Hồng, vùng Việt Trì - Bạch Hạc được xem là một đặc sản, một loại cá quý của Vĩnh Phúc. Hoặc như hến trong lòng sông Phan, đã trở thành một món ăn đặc sản của nhân dân vùng quê Yên Lạc hôm nay. Chắc hẳn từ thuở xa xưa, người dân nơi đây đã biết đến hến và khai thác hến làm thức ăn. Trong di chỉ Yên Lạc đã phát hiện được khá nhiều vỏ hến bị đốt cháy là minh chứng cụ thể sinh động về việc bắt hến chế làm thức ăn của ngời xa xưa.
I.1.1.5. Khí hậu
Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đầy đủ các đặc điểm khí hậu của vùng trung du miền núi phía Bắc.
Nhiệt độ trung bình năm là 23,5 – 250C, nhiệt độ cao nhất là 41.10C, nhiệt độ thấp nhất là 20C. Tổng số giờ nắng bình quân trong năm là 1.400 đến 1.800 giờ, Độ ẩm bình quân cả năm là 83%.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.400 đến 1.600 mm, trong đó, lượng mưa bình quân cả năm của vùng đồng bằng và trung du tại trạm Vĩnh Yên là 1.570,2 mm, vùng núi tại trạm Tam Đảo là 2.140 mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
Bảng 1-2: Lượng mưa trung bình các tháng tỉnh Vĩnh Phúc (mm)
Tháng
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Trạm
Vĩnh Yên
23.6
25.3
42.9
98.1
182.8
240.2
264.7
295.1
194.7
132.4
52.7
17.6
Trạm
Tam Đảo
10,7
79,5
78,9
112.6
107,8
227,4
167,2
185,5
310,3
117,9
26,6
38,0
I.1.2. Tình hình dân sinh kinh tế
I.1.2.1. Bản đồ hành chính
I.1.2.2. Các đơn vị hành chính
Vĩnh Phúc có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện
Thành phố Vĩnh Yên có 7 phường và 2 xã (được chuyển từ thị xã từ ngày 29 tháng 12 năm 2006)
Thị xã Phúc Yên có 6 phường và 4 xã
Huyện Bình Xuyên có 3 thị trấn và 10 xã
Huyện Lập Thạch có 2 thị trấn và 18 xã
Huyện Sông Lô có 1 thị trấn và 16 xã (tách ra từ huyện Lập Thạch cũ kể từ ngày 23-12-2008)
Huyện Tam Dương có 1 thị trấn và 12 xã
Huyện Tam Đảo có 1 thị trấn và 8 xã
Huyện Vĩnh Tường có 3 thị trấn và 26 xã
Huyện Yên Lạc có 1 thị trấn và 16 xã
(Nguồn: www.vi.wikipedia.org)
I.1.2.3. Dân cư dân tộc
a. Thành phần dân cư
Ngay từ thời dựng nước, người Việt cổ đã sinh sống tại địa bàn Vĩnh Phúc. Các cuộc khai quật khảo cổ học cho phép đoán định rằng người Việt cổ có mặt ở Vĩnh Phúc từ hơn 3.500 năm nay. Từ hơn 1.500 năm trước Công nguyên, người Việt cổ đã tiến ra chinh phục vùng đỉnh châu thổ sông Hồng, định cư tại các địa điểm mà người xưa gọi là chạ, trang, ké, làng v.v. Từ thế kỷ II, dân cư Vĩnh Phúc đã có những biến động do phiêu tán và nhập cư. Vào thế kỷ XVII-XVIII, một số tộc người ở miền nam Trung Quốc bị phong kiến nhà Minh, nhà Thanh chèn ép, bóc lột và bị thiên tai đã tìm đường sang Việt Nam sinh sống. Sau khi du canh, du cư ở nhiều nơi, một bộ phận người Cao Lan, người Dao, người Sán Dìu đã đến định cư ở Vĩnh Phúc. Thời kỳ thuộc Pháp, ở Vĩnh Phúc còn có một số ngoại kiều đến làm việc, buôn bán. Sách "Niên giám đại cương các nước Đông Dương" năm 1903 ghi: "Vĩnh Yên có 39 người Âu, 7 người Hoa. Người Âu là quan và lính Pháp, người Hoa là các nhà buôn", “Phù Lỗ có 18 người Âu và 4 người Hoa".
Năm 1930 tỉnh Vĩnh Yên có 208.282 người Kinh; 56 người Âu; 2.008 người Cao Lan và Sán Dìu; 45 người Thổ; 31 người Hoa. Tỉnh Phúc Yên có 174.467 người Kinh; 22 người Âu; 727 người Sán Dìu; 34 người Hoa.
Năm 1990 – 1996 tỉnh Vĩnh Phúc, không kể người Kinh và người nước ngoài, tòan tỉnh có 30 dân tộc thiểu số. Các dân tộc Sán Chay (nhóm Cao Lan), Sán Dìu, Dao (nhóm Dao Quần Chẹt) có dân số đông hơn cả so với các dân tộc thiểu số khác.
Tuy vậy, ở tỉnh Vĩnh Phúc, thành phần dân tộc chủ yếu chỉ bao gồm 8 dân tộc có từ 100 người trở lên là Kinh (1.055.390 người), Tày (870 người), Thái (155 người), Mường (347 người), Nùng (451 người), Dao (666 người), Sán Chay (nhóm Cao Lan, 1.281 người), Sán Dìu (32.495 người), trong đó người Kinh chiếm đa số (96,6%), còn lại là các dân tộc thiểu số (3,4%). Sán Dìu là dân tộc đông dân nhất trong các dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc, chiếm 88,63% tổng dân số các dân tộc thiểu số trong tỉnh.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 39 xã được công nhận là xã miền núi, trong đó 25 xã ở huyện Lập Thạch, 9 xã ở huyện Tam Đảo, 3 xã ở huyện Tam Dương, 1 xã ở huyện Bình Xuyên (xã Trung Mỹ) và 1 xã ở thị xã Phúc Yên (xã Ngọc Thanh). Tính đến thời điểm 31/ 12 / 2007, người dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh có 9.127 hộ với 43.056 khẩu (tăng 1,09% so với năm 2005), chiếm 3,58% dân số toàn tỉnh, bao gồm các dân tộc: Sán Dìu có 39.539 khẩu chiếm 91,82%; Sán Chay (nhóm Cao Lan) có 1.493 khẩu, chiếm 3,46%; Nùng có 752 khẩu, chiếm 1,75%; Dao có 723 khẩu chiếm 1,68%; Tày có 336 khẩu, chiếm 0,78%; Mường có 139 khẩu, chiếm 0,32%; Ngái có 20 khẩu, chiếm 0,05%; Lào có 17 khẩu, chiếm 0,04%; Hoa có 15 khẩu, chiếm 0,034%; Thái có 14 khẩu, chiếm 0,032%; các dân tộc thiểu số khác có 19 khẩu, chiếm 0,04%.
Các dân tộc thiểu số được phân bố trong các huyện, thị xã như sau:
- Huyện Tam Đảo: ở 9 xã, thị trấn với 6.455 hộ, 30.959 khẩu;
- Huyện Lập Thạch: ở 36 xã, thị trấn với 912 hộ, 3.512 khẩu;
- Huyện Bình Xuyên: ở 01 xã với 785 hộ, 3.345 khẩu;
- Thị xã Phúc Yên: ở 01 xã với 975 hộ, 4.981 khẩu.
Trừ dân tộc Kinh, các dân tộc thiểu số như Sán Chay (nhóm Cao Lan), Sán Dìu, Dao (nhóm Dao Quần Chẹt) đến định cư ở Vĩnh Phúc sớm và đông người hơn cả. Cả ba dân tộc này đều sinh sống tập trung ở ven phía nam chân núi Tam Đảo, thuộc địa bàn các huyện Tam Đảo, Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên và thị xã Phúc Yên.
Người Sán Dìu từ lâu vẫn tự nhận là Sán Dẻo Nhín (họ còn có những tên gọi khác là Trại Đất, Mán Quần Cộc, Mán Đất, Slản Dáo, v.v.) nhập cư vào tỉnh Vĩnh Phúc khoảng 300 năm trước. Do không chịu được sự áp bức, bóc lột, đàn áp thời kỳ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, người Sán Dìu từ Quảng Đông, Trung Quốc đã tìm đường sang Việt Nam sinh sống. Con đường di cư của họ trải qua Hoàng Chúc, Cao Sơn đến Hà Lôi, Tiên Yên rồi tỏa ra vùng ven biển Quảng Ninh, ngược lên Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang và xuống vùng chân núi Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Địa bàn cư trú của người Sán Dìu là vùng bán sơn địa, phía bắc các tỉnh trung du và phía nam các tỉnh miền núi phía Bắc. Ở Vĩnh Phúc họ sống rải rác theo chân núi phía sườn Tây - Nam của dãy Tam Đảo thuộc các huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Tam Dương, Bình Xuyên và thị xã Phúc Yên. Từ giữa thế kỷ XX, họ đã cư trú ổn định trên một dải đất dài hàng trăm km từ xã Ngọc Thanh (Phúc Yên) tới xã Quang Sơn và Yên Dương, huyện Lập Thạch, Sông Lô. Người Sán Dìu thích chọn nơi đất ở là vùng bán sơn địa, có đồi, núi, đất bằng ven sông suối để khai khẩn thành ruộng lúa nước. Vùng đất đầu tiên họ đến là ven chân núi Tam Đảo, nơi có rừng nguyên sinh rậm rạp, nhiều chim thú, đất đai mầu mỡ, có tầng đất mùn dày thích hợp trồng cấy các loại cây lương thực, lại có nguồn nước vô tận từ các dòng suối lớn nhỏ bắt nguồn từ núi Tam Đảo. Các xã Minh Quang, Tam Quan, Trung Mỹ, Hồ Sơn, Hợp Châu... tuy xưa kia là núi rừng rậm rạp nhưng đến nay đã là dải đất khá bằng phẳng, đã quy tụ nhiều người Sán Dìu sinh sống. Người Sán Dìu ở các xã Đạo Trù, Yên Dương, Bồ Lí, Quang Sơn, Bắc Bình. v.v. phía đông - bắc huyện Lập Thạch cũng có địa thế sinh tụ tương tự.
Hai nhóm người Cao Lan và Sán Chỉ có nguồn gốc ở Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc đến Việt Nam vào khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh, vượt qua biên giới Việt - Trung ở khu vực từ Móng Cái đến Lạng Sơn, sau đó chuyển dần về phía nam đến các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái. Theo tài liệu của Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Phú (1972), người Cao Lan có nguồn gốc ở Quảng Đông, Trung Quốc, bị nhà Minh đàn áp, bóc lột mới di cư sang Việt Nam vào khoảng những năm 1624. Người Cao Lan nhập cư vào Vĩnh Phúc trên 100 năm nay, họ chủ yếu cư trú tại xã Quang Yên, huyện Sông Lô. Nơi đây có thể coi là điểm chót của dải đất lớn mà người Cao Lan sinh sống vốn trải dài từ huyện Trấn Yên, Yên Bình, Lục Yên (tỉnh Yên Bái), huyện Đoan Hùng, Phù Ninh (tỉnh Phú Thọ), huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang). Trong xã Quang Yên, người Cao Lan cư trú tập trung trong 4 thôn bám vào chân núi Sáng, núi Bồ Thần và núi Thét, đó là: Đồng Dong, Đồng Dạ, Bản Mo (Xóm Mới) và bản Đồng Găng (hay Đồng Căng). Theo số liệu Ban dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc đến tháng 12 -2007, dân số người Cao Lan chiếm hơn 20% dân số toàn xã, phân bố trong các thôn như sau: Đồng Dạ (63 hộ, 251 khẩu), Đồng Găng (43 hộ, 205 khẩu), Xóm Mới (90 hộ, 407 khẩu) và Đồng Dong (94 hộ, 600 khẩu). Đồng Dong, Đồng Dạ và Đồng Găng ở chân núi, Xóm Mới ở đồng bằng. Thôn Đồng Dong và Xóm Mới thuộc diện thôn bản đặc biệt khó khăn (vùng 3).
Người Dao tự gọi mình là Dìu Miền hay Kìm Miền, ngoài ra trước đây họ còn các tên gọi khác là Mán, Trại, Động, Xá, v.v. Người Dao đến Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, sớm nhất có thể vào thế kỷ XI. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 30 nhóm Dao. Họ cư trú khá phân tán trên một địa bàn rộng lớn thuộc các tỉnh miền núi trung du Bắc Bộ và trải dài cho đến Ninh Bình, Thanh Hóa. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, người Dao còn đến làm ăn sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Theo Nguyễn Xuân Lân, người Dao từ Quảng Đông, Trung Quốc đến Việt Nam đã mấy trăm năm nay. Gia phả của họ Dương ở bản Thành Công, xã Lãng Công ghi rằng sau khi di cư qua các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hòa Bình, người Dao đã đến sinh cơ lập nghiệp ở bản Thành Công, xã Lãng Công, huyện Lập Thạch, lúc đó chỉ có 20 hộ với hơn 100 nhân khẩu. Từ đó đến trước năm 2000, người Dao ở bản Thành Công, xã Lãng Công đã được hơn 170 năm, qua 7 thế hệ con cháu, có 113 hộ với 585 khẩu. Ngoài bản Thành Công, người Dao còn 6 hộ ở xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên và 7 hộ ở xã Quang Yên, huyện Lập Thạch. Người Dao ở xã Lãng Công là Dao Quần Chẹt, thuộc nhóm Dao Đại Bản, còn được người dân ở đây gọi là Mán Sơn Đầu, Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng. Đến tháng 12 / 2007, bản Thành Công có 186 hộ, 834 khẩu người Dao.
b. Dân số
Quy mô dân số
Đến năm 1930, tỉnh Vĩnh Yên có 5 huyện (Tam Dương, Bình Xuyên, Lập Thạch, Yên Lạc và Vĩnh Tường), với 46 tổng, 302 làng, dân số 210.422 người (trong đó 208.282 người Kinh, 56 người Âu, 2.008 người Cao Lan, Sán Dìu, 45 người Thổ, 31 người Hoa). Tỉnh Phúc Yên có 4 huyện (Yên Lãng, Đa Phúc, Kim Anh, Đông Anh) với 34 tổng, 217 làng, dân số 175.250 người (174.467 người Kinh, 22 người Âu, 727 người Sán Dìu, 34 người Hoa). Tổng dân số Vĩnh Phúc lúc này là 385.672 người.
Năm 1950, khi hợp nhất tỉnh, Vĩnh Phúc có diện tích 1.715 km2 với dân số gần 47 vạn người, bao gồm 14 dân tộc, trong đó đông nhất là người Kinh (chiếm 98,38%). Đồng bào dân tộc thiểu số sống rải rác ở 17 xã dọc dãy núi Tam Đảo và núi Sáng thuộc 5 huyện (Tam Dương, Bình Xuyên, Lập Thạch, Kim Anh và Đa Phúc).
Theo bảng thống kê dân số năm 1956 của tỉnh Vĩnh Phúc đã được Bộ Nội vụ điều chỉnh số liệu thì tổng số hộ là 123.098 và số dân 541.038 người.
Tính đến 31/12/1985, toàn tỉnh có 841.390 người. Năm 1997, ngay sau khi tái lập tỉnh, dân số toàn tỉnh là 1.103.810 người. Năm 1999, theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở, toàn tỉnh có 1.091.973 người (trong đó có 560.077 nữ).
Từ năm 2000 đến năm 2007, dân số toàn tỉnh tương ứng đạt quy mô: 1.110.111; 1.125.415; 1.137.316; 1.148.731; 1.154.792; 1.168.889; 1.180.418 và 1.190.428. Bình quân mỗi năm dân số Vĩnh Phúc tăng thêm hơn 10 nghìn người; nhiều gấp 1,3 lần dân số một xã trung bình của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Với mức dân số 1.014.488 người, Vĩnh Phúc là tỉnh có quy mô dân số nhỏ hơn so với dân số trung bình của một tỉnh trong toàn quốc và thấp hơn nhiều so với dân số trung bình của một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng.
Bảng 1-7: Đơn vị hành chính, diện tích, dân số trung bình và mật độ dân số
tỉnh Vĩnh Phúc năm 2008
STT
Tên huyện, thị xã, thành phố
Số xã
Số phường, thị trấn
Diện tích(Km2)
Dân số trung bình (Người)
Mật độ dân số(Người/Km2)
1
Thành phố Vĩnh Yên
2
7
50,81
85.231
1.677
2
Thị xã Phúc Yên
4
6
120,13
88.657
738
3
Huyện Tam Dương
12
1
107,18
96.736
902
4
Huyện Tam Đảo
8
1
235,88
69.315
294
5
Huyện Bình Xuyên
10
3
145,67
108.944
748
6
Huyện Yên Lạc
16
1
106,77
149.387
1.399
7
Huyện Vĩnh Tường
27
2
141,90
198.918
1.402
8
Huyện Sông Lô
16
1
150,31
93.984
625
9
Huyện Lập Thạch
18
2
173,10
123.664
714
Tổng số
113
24
1.231,76
1.014.488
824
(Nguồn: www.vinhphuc.gov.vn)
Tốc độ tăng dân số
Từ ngày hòa bình lập lại (1954) cho đến sau này, dân số Vĩnh Phúc phát triển với tốc độ khá nhanh, chủ yếu do tăng cơ học. So sánh khái quát (trừ dân số các huyện Đông Anh, Đa Phúc, Kim Anh tách về Hà Nội), trong vòng 70 năm (1930-2000), dân số tỉnh Vĩnh Phúc tăng gấp 4 lần (hiện nay, mỗi năm dân số Việt Nam tăng trên 1 triệu người. Kết quả điều tra và thống kê dân số học cho thấy sau 85 năm, dân số nước ta tăng lên 5,3 lần, trong khi cùng thời gian này dân số thế giới chỉ tăng khoảng 3,6 lần).
Từ năm 1990 đến năm 2004, tuy tốc độ phát triển dân số ở Vĩnh Phúc có chiều hướng giảm nhưng quy mô dân số vẫn tiếp tục gia tăng bình quân 12.850 người/năm, lớn hơn 1,7 lần dân số một xã trung bình năm 2004 của tỉnh, do đó năm 1990 dân số trung bình toàn tỉnh mới có 962.003 người, nhưng sau 15 năm đã đạt 1.154.792 người (thấp hơn so với dự báo trong Chiến lược dân số giai đoạn 2001- 2010; dự báo năm 2004 đạt 1.164.400 người). Theo dự báo của Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, trong 10 năm từ 2001 đến 2010, mỗi năm dân số vẫn tăng trung bình 11.685 người, quy mô dân số sẽ đạt 1.241.000 người vào năm 2010.
Tốc độ tăng dân số tỉnh Vĩnh Phúc có xu hướng tăng, nhưng đến năm 2002 và 2003 mức tăng đã có biểu hiện giảm xuống. Nếu coi tốc độ tăng dân số năm 1990 là 100% thì năm 2001 đạt 101,38% và năm 2004 chỉ ở mức 100,53%. Dân số phát triển với tốc độ cao và chưa ổn định đã gây sức ép không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Quy mô dân số tăng lên kéo theo số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15- 49) cũng sẽ tăng trung bình 7.750 người/năm trong giai đoạn 2001-2010. Uớc tính bình quân trong giai đoạn 2001-2010, mỗi năm cứ có 1 phụ nữ bước ra khỏi tuổi sinh đẻ thì có 2,94 phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ. Tỷ lệ này cho thấy một tiềm năng sinh sản cao của dân số Vĩnh Phúc trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI.
Theo kết quả điều tra dân số 01/04/2009 dân số tỉnh Vĩnh Phúc là 1.000.838 người.
Phân bố dân số
Quy mô dân số tăng lên trên một diện tích tự nhiên vốn tương đối ổn định, dẫn đến mật độ dân số Vĩnh Phúc cũng tăng theo: từ 680 người/km2 năm 1989 đã tăng lên tới 867 người/km2 năm 2007, cao hơn 3 lần so với mật độ trung bình của nước ta (Việt Nam năm 2007: 257 người/km2). Để đảm bảo chất lượng cuộc sống, bình quân 1 km2 chỉ nên có 35 - 40 người sinh sống, tuy nhiên, mật độ dân số ở Vĩnh Phúc đã cao gấp nhiều lần so với mật độ dân số chuẩn. Do mật độ dân số cao lại là tỉnh trung du, miền núi nên bình quân đất canh tác trên đầu người ở Vĩnh Phúc rất thấp, chỉ có 0,04 ha/người trong khi bình quân toàn quốc là 0,09 ha/người.
Cũng giống như tình trạng chung của toàn quốc, mật độ dân số ở Vĩnh Phúc không đều, tập trung dày ở đô thị và thưa thớt ở nông thôn, miền núi. Ví dụ năm 2007 cao nhất ở thành phố Vĩnh Yên (1.663 người/km2) và các huyện đồng bằng như Yên Lạc (1.387 người/km2), Vĩnh Tường (1.390 người/km2), nhưng thấp ở các huyện miền núi, trung du như Tam Đảo (291 người/ km2), Lập Thạch (666 người/ km2). Điều bất hợp lí là vùng đồng bằng có đất đai màu mỡ, thuận lợi phát triển nông nghiệp, chỉ chiếm hơn 18% diện tích của tỉnh nhưng lại tập trung tới hơn 29% dân số.
Cơ cấu dân số
- Cơ cấu theo tuổi
Tháp dân số năm 1989 của tỉnh Vĩnh Phúc có đáy rộng, đặc trưng cho mô hình dân số ở các nước đang phát triển, biểu thị cơ cấu dân số có tỉ trọng trẻ em lớn nhất, là kết quả của mức sinh đẻ còn cao. Tuy vậy, chỉ sau một thập kỉ, năm 1999 tháp dân số của tỉnh đã có biến đổi rõ rệt theo chiều hướng giảm tỉ trọng trẻ em nhóm 0 - 4 và 5 - 9 tuổi. Kết quả này là do tác động của công tác dân số của tỉnh trong một thời gian lâu dài.
Tháp dân số năm 1999 tỉnh Vĩnh Phúc đã có biến đổi theo chiều hướng đáy tháp thu hẹp lại. Tỉ trọng trẻ em dưới 15 tuổi có xu hướng giảm từ 40% năm 1989 xuống còn 32,1% năm 2000 (tương đương với toàn quốc: 39,2% và 33,0% ) và dự kiến còn 28% năm 2010. Tuy vậy, tỉ trọng này cũng vẫn là thách thức lớn đối với việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ em và tạo việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó tình trạng già hóa dân số cũng diễn ra dù chậm chạp, với tỉ trọng nhóm người 60 tuổi trở lên tuy thấp nhưng đang tăng lên từ 7,5% năm 1989 đến 8,6% năm 2000 và dự kiến đạt 10% vào năm 2010, sẽ liên quan đến việc gia tăng các phúc lợi xã hội và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người già.
Tỉ trọng nhóm tuổi lao động (15 - 59) chiếm 50,5% năm 1989 (thấp hơn so với toàn quốc: 53,7%), tăng lên 60,6% năm 2000 (toàn quốc năm 1999: 59,0%) và dự kiến sẽ tăng lên 62% năm 2010. Sự tăng lên không ngừng của dân số trong tuổi lao động trong giai đoạn 2001- 2010 là lợi thế cho nguồn lao động nhưng cũng trở thành nguy cơ bùng nổ dân số nếu chính sách dân số không được thực hiện tốt.
Với cơ cấu tuổi như nêu trên, tỉ số phụ thuộc trong dân số Vĩnh Phúc cũng giống như của cả nước đã và sẽ không ngừng giảm xuống, mỗi người lao động sẽ nhẹ gánh người ăn theo hơn, tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế quốc dân, kinh tế gia đình có tiết kiệm để đầu tư và phát triển.
- Cơ cấu dân số theo giới
Từ năm 1990 đến năm 2007, những số liệu có được đã cho thấy ở tỉnh Vĩnh Phúc, số lượng nữ trong dân số luôn nhiều hơn so với số lượng nam. Tỉ lệ nam giới trong dân số ở Vĩnh Phúc năm 1990 chiếm 47,8%, năm 1997 là 48,6% và năm 2004 là 48,3% đều thấp hơn so với tỉ lệ nam trong dân số toàn quốc (tương ứng là 48,54%; 48,96% và 49,15%).
Đến hết 31/12/ 2006, theo số liệu thống kê chuyên ngành Dân số Gia đình Trẻ em, số trẻ sinh ra trong toàn tỉnh là 18.711 cháu, trong đó số trẻ là nữ có 8.632 cháu, tỉ lệ giới tính của trẻ khi sinh là 117 nam/100 nữ, báo hiệu sự mất cân bằng giới tính khi sinh.
- Cơ cấu dân số theo khu vực thành thị và nông thôn
Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ dân đô thi thấp so với thế giới và các nước đang phát triển. Tỉ lệ dân số thành thị của tỉnh Vĩnh Phúc còn rất thấp so với toàn quốc, tuy hàng năm có tăng dần, năm 1990 là 5,8%, nhưng đến năm 1999 mới đạt 10,17%, thấp xa so với mức của toàn quốc (23,48%) và của vùng đồng bằng sông Hồng (21,06%). Đến năm 2007, tỷ lệ dân số thành thị của tỉnh Vĩnh Phúc mới đạt 17,23%, trong khi mức của toàn quốc là 27,44%.
Tỉ lệ dân số thành thị ở Vĩnh Phúc không đều giữa các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh; năm 2007, đạt 83,9% ở thành phố Vĩnh Yên hoặc 70,2% ở thị xã Phúc Yên, nhưng rất thấp ở khu vực huyện, nhất là các huyện Tam Đảo (1,1%), Vĩnh Tường (2,6%), Lập Thạch (4%), v.v...
Cùng với quá trình đô thị hóa của cả nước, tỉ lệ dân số thành thị ở Vĩnh Phúc đã tăng dần hàng năm, đạt 13,9% năm 2004 và 17,23% năm 2007. Tuy nhiên, so với dự báo của Chiến lược dân số tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001- 2010 thì kết quả này không đạt (năm 2004: chỉ tiêu là 18,4% ) và không đạt được mức 25,7% vào năm 2005 cũng như rất khó đạt mức 28,9% vào năm 2010. Trong những năm gần đây, tỉ lệ dân đô thị ở Vĩnh Phúc tăng mạnh. Mặc dù so với một số tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng, vào năm 1999, tỉ lệ dân đô thị ở Vĩnh Phúc còn cao hơn Hà Tây (7,8%), Thái Bình (5,6%), Hà Nam (6%).
I.1.2.4. Kinh tế
Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh thuần nông đang chuyển đổi cơ cấu.
Năm 1997 cơ cấu kinh tế là nông nghiệp 52%, dịch vụ 36%, công nghiệp 12%, thu ngân sách đạt gần 100 tỷ đồng.
Năm 2004 có cơ cấu kinh tế là công nghiệp (49,7%); dịch vụ (26,2%); nông nghiệp (24,1%);
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 8 năm (1997-2004) là 16,6%.
Năm 2006, Vĩnh Phúc đã vươn lên đứng thứ 9 trong các tỉnh thành trên cả nước về thu ngân sách với 4.027 tỷ đồng. Với hàng trăm doanh nghiệp trong nước và nước ngoài với tổng mức vốn đầu tư khoảng gần 600 triệu USD và 15.600 tỷ đồng, được đầu tư ở 14 cụm, khu công nghiệp, khu vui chơi, giải trí, du lịch trên khắp địa bàn.
Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh liên tục đứng ở vị trí tốp đầu về chỉ só năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong bảng xếp hạng những năm gần đây.
I.2. Huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc
I.2.1. Địa lý
Bình Xuyên là một huyện bán sơn địa (trung du), phần phía bắc có địa hình gò đồi. Huyện Bình Xuyên có ranh giới phía Đông Nam giáp huyện Mê Linh, phía Đông giáp thị xã Phúc Yên, phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Tam Đảo, phía Tây Bắc giáp huyện Tam Dương, phía Tây giáp thành phố Vĩnh Yên, phía Tây Nam giáp huyện Yên Lạc.
Huyện Bình Xuyên có diện tích 145.67 km2.
I.2.2. Hành chính
Huyện Bình Xuyên có 3 thị trấn: Hương Canh (huyện lỵ và là một nơi làm ngói và sản phẩm đồ gốm nổi tiếng), Thanh Lãng, Gia Khánh. Có 10 xã: Đạo Đức, Tam Hợp, Hương Sơn, Trung Mỹ, Sơn Lôi, Quất Lưu, Phú Xuân, Bá Hiền, Tân Phong, Thiện Kế.
I.2.3. Giao thông
Đường bộ: có quốc lộ 2 chạy qua;
Đường sắt có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy dọc theo quốc lộ 2.
I.3. Hồ Xạ Hương
Hồ Xạ Hương nằm trong thung lũng núi con Trâu thuộc xã Minh Quang huyện Bình Xuyên. Hồ Xạ Hương có diện tích lưu vực 24km2 với nhiều ngách lớn xuyên vào các cánh rừng, có nhiệm vụ cung cấp nước tưới cho 850ha diện tích nông nghiệp của huyện Bình Xuyên.
Tình hình tài liệu sử dụng trong tính toán thủy văn và điều tiết hồ Xạ Hương
- Tài liệu bốc hơi tháng trạm Vĩnh Yên từ năm 1960 – 2004.
- Tài liệu mưa tháng trạm Vĩnh Yên từ năm 1960 – 2004.
- Tài liệu mưa ngày trạm Vĩnh Yên từ năm 1980 – 2004.
- Do khu vực hồ Xạ Hương không có tài liệu dòng chảy nên khi tính toán thủy văn cần mượn tài liệu dòng chảy trung bình tháng trạm thủy văn Ngọc Thanh – Sông Thanh Lộc với diện tích lưu vực là 19.5 km2 đo đạc dòng chảy từ năm 1967–1980 để tính toán.
CHƯƠNG II
TÍNH TOÁN CÁC ĐẶC TRƯNG KHÍ TƯỢNG
II.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm là 23,5 – 250C, nhiệt độ cao nhất là 41.10C, nhiệt độ thấp nhất là 20C. Tuy nhiên do ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên có sự chênh lệch khá lớn về nhiệt độ giữa vùng núi và vùng đồng bằng. Vùng Tam Đảo, ở độ cao 1.000 m so với mực nước biển có nhiệt độ trung bình năm là 18,40C.
Bảng 2-1: Đặc trưng nhiệt độ không khí đo tại trạm Vĩnh Yên
Tháng
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Năm
Trung bình
16.6
17.6
20.4
24.1
27.6
29.0
29.2
28.6
27.6
25.0
21.7
18.2
23.8
Cao nhất
31.4
33.1
35.1
37.9
41.1
40.2
39.2
38.1
36.7
34.4
33.9
31.5
41.1
II.2. Nắng
Số giờ nắng: Tổng số giờ nắng bình quân trong năm là 1.400 đến 1.800 giờ, trong đó, tháng có nhiều g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- do_an_nguyen_ba_huy__0846.doc