Tình yêu đôi lứa qua một số tác phẩm văn học hiện đại!

MỤC LỤC 1. LỜI MỞ ĐẦU1 2. NỘI DUNG3 2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh.3 2.2. Tình yêu – Sợi chỉ xanh óng ánh giữa bom đạn.9 2.3. Sự hồi sinh.15 3. KẾT LUẬN22 TÀI LIỆU THAM KHẢO23 1. LỜI MỞ ĐẦU Nếu như nói đến chiến tranh là nói đến sự khốc liệt, sự mất mát, những đau khổ, những hy sinh lớn lao thì khi nói đến tình yêu ta nghĩ tới sự êm dịu, ngọt ngào hạnh , hạnh phúc. Tưởng như chiến tranh và tình yêu luôn đối lập nhau, trái ngược nhau, không khi nào đứng cạnh nhau, cùng tồn tại. Nhưng chiến tranh bên cạnh những đổ nát, hoang tàn mất mát còn là nơi để con người dựa vào nhau, khám phá ra nhau, phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn, để dành tình cảm cho nhau. Như thế, trong chiến tranh tình yêu luôn xuất hiện như một liều thuốc làm dịu những cơn đau, hóa giải những bạo lục, làm giảm bớt sự hy sinh và mất mát mà con người phải ghánh chịu. Chiến tranh tàn phá biết bao làng xóm, gia đình, tổ ấm hạnh phúc, nhưng chiến tranh cũng đã chứng kiến biết bao mối tình thật đẹp, thật chân thành và nên thơ. Tất cả những điều đó đã được các nhà văn, nhà thơ thâu tóm và đưa vào những trang viết của mình một cách rất sinh động và chân thực và gần gũi đối với mọi người. Chiến tranh có thể hủy diệt mọi thứ trên đường nó đi qua, song tình yêu như một sức mạnh không thể giập vùi, tình yêu ấy đã giúp bao anh lính bộ đội cụ Hồ đã chắc tay súng để bảo vệ tổ quốc và có niền tin vào một ngày mai đất nước độc lập thống nhất, tình yêu bị kìm nén ấy sẽ lại bùng cháy và thăng hoa cùng dân tộc. Tình yêu qua những trang viết của các tác giả có thể là sự chờ đợi của những người mẹ, người vợ, người em với tình cảm ở nơi chiến tuyến, sự chờ đợi của họ có thể đo bằng chiều dài của cuộc kháng chiến, nhưng họ vẫn chờ với một niềm tin son sắt thủy chung rằng “Ngày mai anh ấy sẽ về”. Cũng có thể tình yêu ấy là một mối tình đẹp nảy nở từ chiến trường đầy máu lửa của một cô thanh niên xung phong với một anh bộ đội cụ Hồ. Tình yêu ấy có thể là một lời hứa vội vã trước khi lên đường nhưng cũng gieo vào lòng họ niềm tin vào một ngày mai xum họp. Trải qua bao nhiêu sự gian nan vất vả gian nan cùng với sự thống nhất nước nhà thì tình yêu đã gặp lại tình yêu và có thể đâm trồi nảy lộc trên mảnh đất ngày trước là một chiến trường ác liệt Tất cả những điều đó qua cây bút của các nhà văn nhà thơ đã hiện lên là một mảng nhỏ của bức tranh nhiều màu sắc của cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Tác giả đã phần nào khẳng định: Chính trong chiến đấu gian khổ người ta lại càng hy vọng, càng cần tìm cho mình một niềm tin và niềm tin ấy có gì bằng vẻ đẹo, lòng tốt và tình cảm con người dành cho nhau và nhất là tình yêu.

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11857 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình yêu đôi lứa qua một số tác phẩm văn học hiện đại!, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tình yêu trong chiến tranh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Nếu như nói đến chiến tranh là nói đến sự khốc liệt, sự mất mát, những đau khổ, những hy sinh lớn lao thì khi nói đến tình yêu ta nghĩ tới sự êm dịu, ngọt ngào hạnh , hạnh phúc. Tưởng như chiến tranh và tình yêu luôn đối lập nhau, trái ngược nhau, không khi nào đứng cạnh nhau, cùng tồn tại. Nhưng chiến tranh bên cạnh những đổ nát, hoang tàn mất mát còn là nơi để con người dựa vào nhau, khám phá ra nhau, phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn, để dành tình cảm cho nhau. Như thế, trong chiến tranh tình yêu luôn xuất hiện như một liều thuốc làm dịu những cơn đau, hóa giải những bạo lục, làm giảm bớt sự hy sinh và mất mát mà con người phải ghánh chịu. Chiến tranh tàn phá biết bao làng xóm, gia đình, tổ ấm hạnh phúc, nhưng chiến tranh cũng đã chứng kiến biết bao mối tình thật đẹp, thật chân thành và nên thơ. Tất cả những điều đó đã được các nhà văn, nhà thơ thâu tóm và đưa vào những trang viết của mình một cách rất sinh động và chân thực và gần gũi đối với mọi người. Chiến tranh có thể hủy diệt mọi thứ trên đường nó đi qua, song tình yêu như một sức mạnh không thể giập vùi, tình yêu ấy đã giúp bao anh lính bộ đội cụ Hồ đã chắc tay súng để bảo vệ tổ quốc và có niền tin vào một ngày mai đất nước độc lập thống nhất, tình yêu bị kìm nén ấy sẽ lại bùng cháy và thăng hoa cùng dân tộc. Tình yêu qua những trang viết của các tác giả có thể là sự chờ đợi của những người mẹ, người vợ, người em với tình cảm ở nơi chiến tuyến, sự chờ đợi của họ có thể đo bằng chiều dài của cuộc kháng chiến, nhưng họ vẫn chờ với một niềm tin son sắt thủy chung rằng “Ngày mai anh ấy sẽ về”. Cũng có thể tình yêu ấy là một mối tình đẹp nảy nở từ chiến trường đầy máu lửa của một cô thanh niên xung phong với một anh bộ đội cụ Hồ. Tình yêu ấy có thể là một lời hứa vội vã trước khi lên đường nhưng cũng gieo vào lòng họ niềm tin vào một ngày mai xum họp. Trải qua bao nhiêu sự gian nan vất vả gian nan cùng với sự thống nhất nước nhà thì tình yêu đã gặp lại tình yêu và có thể đâm trồi nảy lộc trên mảnh đất ngày trước là một chiến trường ác liệt… Tất cả những điều đó qua cây bút của các nhà văn nhà thơ đã hiện lên là một mảng nhỏ của bức tranh nhiều màu sắc của cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Tác giả đã phần nào khẳng định: Chính trong chiến đấu gian khổ người ta lại càng hy vọng, càng cần tìm cho mình một niềm tin và niềm tin ấy có gì bằng vẻ đẹo, lòng tốt và tình cảm con người dành cho nhau và nhất là tình yêu. 2. NỘI DUNG 2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cánh lính trẻ chúng tôi thường chuyền tay nhau bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng. Trong các đêm liên hoan văn nghệ, anh tốt giọng lại nhảy lên sân khấu ngâm bai thơ ấy. Những lúc rỗi rãi, chúng tôi thường tranh luận với nhau "nhà thơ Quang Dũng đã có vợ hay chưa". Người bảo "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Ðêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" cũng có nghĩa là nhà thơ Quang Dũng mới "mơ" thôi chứ chưa cưới vợ, người lại lý sự đáng lẽ Kiều Thơm viết hoa mới đúng nhưng nha thơ Quang Dũng viết la "kiều thơm" (danh từ chung) để giữ bí mật. Một vị tướng về thị sát chiến trường ở đồng bằng Bắc Bộ thấy cánh lính tráng ngâm bài thơ “Tây tiến”, ông sai quân đi chép về xem lại sao lính đồng bằng lại mê “Tây tiến” đến thế. Ông lấy bút máy vạch đậm dưới những chữ "đoàn quân mỏi", "anh bạn dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng mũ bỏ quên đời", "rải rác biên cương mồ viễn xứ", và ông không quên dùng bút máy khoanh chung quanh câu "Ðêm mơ Ha Nội dáng kiều thơm", rồi phê phán la "chưa cắt được cái đuôi tiểu tư sản", người quân nhân cách mạng gì mà sợ chết, mê gái đến thế. Nhất là cô gái ấy lại là một nàng tạch tạch sè (tiểu tư sản) đầu xúp lơ, mặt trát phấn, môi quét son. Bây giờ, bài thơ “Tây tiến” đã được đưa vào sách giáo khoa lớp 12 chương trình trung học phổ thông. Cách đây ít ngày, một nhà nghiên cứu văn học đã lên màn hình rao giảng "kiều" trong bài thơ “Tây tiến” là cô gái xinh nhất trong bốn chị em cùng mang chữ đệm là Kiều ở một quán cà-phê trên phố Hàng Bông. Quang Dũng đã "trộm nhớ thầm thương" cô Kiều ấy, nhớ đến mức hình ảnh cô kiều ấy ám ảnh nhà thơ khi viết “Tây tiến” . Những ngày sống gần nhà thơ Quang Dũng, thằng em này không hề nghe thấy ông anh nhắc một lời về cô kiều ông anh "thầm yêu trộm nhớ" ở phố Hàng Bông. Trong ngày giỗ Quang Dũng, tôi gặp cụ Nguyễn Văn Chương, người bạn rất thân của nhà thơ Quang Dũng trong thời gian hai người còn học ở Trường tư thục Thăng Long. Trước Cách mạng Tháng Tám, sau khi ở Vân Nam (Trung Quốc) về, Quang Dũng lại ở cùng Nguyễn Văn Chương. Trong lúc vui chuyện, tôi cố lái sang gốc gác cô kiều của Quang Dũng ở quán cà-phê phố Hàng Bông thuở trước. Qua câu chuyện, tôi mới hiểu, nhà thơ Quang Dũng không yêu cô Kiều nào trong bốn cô gái có chữ đệm la Kiều cả và số nhà 68 phố Hàng Bông, nơi trú ngụ của bốn chị em Nguyễn Kiều Vinh, Nguyễn Kiều Dinh, Nguyễn Kiều Hinh, Nguyễn Kiều Hương, không phải quán cà-phê mà là ngôi nhà hai tầng ông chủ thầu giàu có trong Vinh mua cho bốn cô con gái đi học ở Ha Nội. Quang Dũng thời ấy đang ôm mộng giang hồ, rất ngại người đẹp làm vướng chân lữ khách, nên mỗi lần Nguyễn Văn Chương đến 68 Hàng Bông thăm Kiều Dinh, Quang Dũng thường đi hộ vệ, nói chuyện xã giao với ba Kiều kia, dành "khoảng trống" cho Nguyễn Văn Chương tâm sự cùng Kiều Dinh, bố của Kiều Dinh biết chuyện bèn mời Nguyễn Văn Chương đến giao "chỉ tiêu" nếu Nguyễn Văn Chương đỗ "đíp-lôm", tương đương trung học phổ thông bây giờ, cụ sẽ gả Kiều Dinh cho và sẽ xin cho chàng rể vào làm ở Tòa đốc lý, phủ thống sứ. Rủi thay, cả Quang Dũng và Nguyễn Văn Chương đều bị trượt trong kỳ thi năm ấy. Nguyễn Văn Chương bỏ vào Nam còn Quang Dũng thẳng đường lên Yên Bái rồi theo cánh đường sắt sang Vân Nam. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, Quang Dũng theo bộ đội chủ lực lên mặt trận miền Tây còn Nguyễn Văn Chương theo một công binh xưởng về Kim Bảng (Hà Nam). Sau khi viết xong bài thơ “Tây tiến”, Quang Dũng tìm đến công binh xưởng đọc thơ cho Nguyễn Văn Chương nghe rồi tủm tỉm cười: Cảm ơn cậu đã cho mình mượn chữ kiều danh từ riêng của cậu để mình biến nó thành chữ kiều danh từ chung trong thơ. Còn chữ thơm trong câu thơ là do mình nhớ đến mùi nước hoa Rê-vơ Ðo (loại nước hoa đắt tiền các cô gái nhà khá giả thường dùng thời Pháp thuộc) của cô Kiều Dinh, chứ không phải mùi "hương đồng gió nội" của ai đâu. Theo lệnh gia đình, Kiều Dinh đi lấy chồng, một kịch sĩ trong Ðoàn kịch Thế Lữ. Kiều Dinh thường theo chồng đi biểu diễn. Thấy Kiều Dinh có năng khiếu về kịch nói, nhà thơ Thế Lữ tuyển luôn Kiều Dinh vào đoàn kịch và giao cho thủ các vai phụ trong các vở kịch “Tục lụy”, “Kinh Kha”, “Kim tiền”, “Lôi Vũ”, “Bắc Sơn”... Một thời gian sau, Kiều Dinh chia tay với chàng kịch sĩ giang hồ rồi theo gia đình về nội thành. Năm 1950, Kiều Dinh lấy một viên chức cao cấp trong chính quyền Bảo Ðại. Năm 1953, Kiều Dinh theo chồng vào Nam và năm 1973, theo con trai sang định cư ở Mỹ. Hiện nay cả bốn Kiều vẫn còn sống: Kiều Vinh, Kiều Hương ở thành phố Hồ Chí Minh, Kiều Dinh và Kiều Hinh định cư ở Mỹ. Năm 1993, cụ Kiều Dinh đã đến tận làng Mơ Táo thuộc Ðộng Mơ (tức là làng Mai Ðộng, Hà Nội) thăm "ẩn sĩ" Nguyễn Văn Chương. Ngay từ thời trai trẻ, để ghi nhớ vị ngọt của mối tình đầu, mỗi lần nhớ Kiều Dinh, Nguyễn Văn Chương lại ghi những rung động của trái tim mình vào nhật ký Thơ Chiêu Dương. Tập thơ viết tay Thơ Chiêu Dương hiện nằm trên bàn viết của cụ Nguyễn Văn Chương. Cụ ông Nguyễn Văn Chương đang chờ cụ bà Nguyễn Kiều Dinh về Ðộng Mơ đọc lại bản thảo trước khi cụ đem in. Gần đây, cụ Nguyễn Văn Chương đã nhờ một ông bạn già, đạo diễn Phan Tại, đem máy ảnh đi chụp khung cửa sổ cùng cái ban công ngôi nhà 68 Hàng Bông. Ngày trước mỗi lần nghe Nguyễn Văn Chương đứng bên kia đường huýt sáo bài Cây đàn tình yêu, Kiều Dinh lại mở cửa, giơ tay qua hàng chấn song ra tín hiệu Hãy đợi em! Vũ Bão. Màu tím hoa sim  được xem là “một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20” (Báo Thanh niên, 14/12/2004) và cũng là bài thơ có số phận nghiệt ngã. Sau khi được công bố, bài thơ càng được người đọc đón nhận, yêu mến bao nhiêu thì tác giả của nó càng vướng vào bấy nhiêu hệ luỵ từ đấy, cuộc đời riêng và cuộc đời nghệ thuật của Hữu Loan bỗng rẽ sang một bước ngoặt khác. Trong một thời gian dài, dễ chừng cũng trên dưới 30 năm, ở Miền Bắc, “Màu tím hoa sim” không được phổ biến, nếu không muốn nói là cấm in, cấm đọc. Tác giả của bài thơ gần như không được nhắc đến, sống lặng lẽ âm thầm, lao động cật lực để nuôi sống gia đình. Và có lẽ, từ đấy, người đọc dường như bị đánh mất cơ hội được tiếp tục chiêm ngưỡng một hồn thơ hào sảng, bi tráng, mới mẻ nhưng đằm thắm của Hữu Loan - một hồn thơ có lúc đạt đến sự tổng hoà tinh anh giữa Phạm Huy Thông của Thơ mới, Hoàng Cầm và Quang Dũng trong những ngày đầu kháng chiến, một giọng thơ thô ráp mà tinh vi với kiểu bậc thang gân guốc mang dáng dấp Maiacovski. Lý do bài thơ không được phổ biến thật đơn giản: Đấy là thơ buồn, thơ mất mát, bi thương, không có lợi cho cuộc kháng chiến…Khi đã xem sự lợi hại cho cuộc kháng chiến là trên hết, trước hết, thì cái đẹp có lúc không thể thoát khỏi số phận bi kịch. Nhưng con đường thơ từ một người đến muôn người lại có quy luật riêng của nó - thứ quy luật phản quy luật. “Màu tím hoa sim” thay vì chìm vào quên lãng thì lại được cất giữ trong lòng người sâu kín hơn; thay vì công khai trên đài báo, trên sách giáo khoa thì nó lại “rút vào bí mật” để rồi băng qua con đường vốn là đại lộ của thi ca đích thực - lối đi của kẻ mang thông điệp từ một trái tim đến một trái tim, tưởng nhỏ bé mỏng manh lại hoá ra vàng đá. Cái gì còn sẽ còn nguyên - Cái gì tan ngỡ vững bền cũng tan…(Trần Đăng Khoa). Ở trường hợp này, không chỉ còn nguyên, mà bài thơ bỗng nhận thêm những giá trị, thêm những thử thách và thêm những che chở, thương yêu. Khi che khuất ánh sáng, hồng ngọc bỗng bất ngờ ánh chiếu một thứ màu sắc hư huyền...        Thử nghĩ ngược lại, nếu “Màu tím hoa sim” không có “vấn đề”, nghĩa là bình yên vô sự, thì chắc chắn, nó đã có một thân phận khác: êm đềm hơn, dễ chịu hơn; và biết đâu, nó có còn được người đời bảo bọc, nâng niu, bù đắp cho đến thế hay không?! Và trong trường hợp ấy, lại biết đâu, ta có một Hữu Loan khác chứ không phải một Hữu Loan của Đèo cả, “Những làng đi qua”, “Hoa lúa”… và nhất là, của “Màu tím hoa sim” như bây giờ... Đất nước Việt Nam ba mươi năm chiến tranh (1945-1975) – ba mươi năm khói bom, lửa đạn… lắm vinh quang, hào hùng; song cũng đầy mất mát, thương đau. Và dẫu biết rằng văn học luôn là tấm gương phản chiếu hiện thực, nhưng do đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà nội dung phản ánh đã không được trọn vẹn, đủ đầy. Tính chất ngợi ca, tuyên truyền, cổ động trở thành chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của các cây bút suốt cả một thời gian dài khi ấy. Tuy nhiên, nằm trong dòng chảy chung của bầu không khí thời kỳ kháng chiến đó, có một số nhà thơ đã tự mình vượt ra khỏi “quỹ đạo” như đã qui định để tìm ra một lối đi riêng. Và lạ kỳ thay, trong bước đường tìm tòi đầy gian nan, dũng cảm ấy, họ đã gặp được nhau, cùng nhau để lại cho hậu thế những bài thơ bất hủ. Đó là trường hợp của nhà thơ Hữu Loan với bài thơ “Màu tím hoa sim”, Vũ Cao với “Núi đôi” và Giang Nam với bài thơ “Quê hương”. Điểm gặp gỡ của ba nhà thơ trước hết là ở cấu tứ của mỗi bài thơ. Ba thi phẩm đều giống như một câu chuyện tự sự kể về sự “ra đi” đầy bất ngờ và chua xót của người thân yêu. Điều đáng nói ở đây là xưa nay, trong văn học viết về đề tài chiến tranh – sự hi sinh, mất mát (nếu có nhắc đến) thường là rơi vào những người lính – những người trực tiếp cầm súng ra chiến trường (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi – Xưa nay chinh chiến mấy ai về ). Song nghịch lý thay, ở cả “Màu tím hoa sim”, “Núi đôi” và “Quê hương” đều nhắc đến sự hy sinh của những người con gái, của người ở hậu phương. Nếu như ở bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan không nói nguyên do của sự “ra đi” ấy hoặc người đọc có thể “ngầm hiểu”; thì ngược lại ở Vũ Cao, Giang Nam, hai ông đều nói rất rõ. Với Vũ Cao là nỗi niềm chan chứa: “Giặc giết em rồi dưới gốc thông”, còn Giang Nam cũng bàng hoàng, thảng thốt: “Giặc bắn em rồi, quăng mất xác”. Và ta nghe trong câu thơ, không đơn thuần chỉ là nhắc lại một hiện thực phũ phàng của thời chiến nữa, mà đọng lại là cả một tấm tình, một tiếng lòng chua xót, một tiếng khóc nghẹn ngào… của mỗi nhà thơ trước sự ra đi của người mình yêu – và đau đớn hơn nữa lại ra đi dưới mũi tên, hòn đạn của giặc mà tưởng như ở quê nhà có thể bình yên. Một cách ngẫu nhiên, câu thơ không chỉ làm tê tái thương yêu tâm hồn thi sĩ về một thời kỳ đau thương của dân tộc, hơn thế, còn làm tím cả cõi lòng của những người đang sống hôm nay. Và chính bởi đi sâu vào “mặt trái” của cuộc chiến mà đã có một thời, có thi phẩm đã bị “cấm” không được tuyên truyền rộng rãi đối với bạn đọc và người yêu thơ, hay người ta ngại ngần nhắc đến (cùng với dáng kiều thơm của Quang Dũng). Lớp người say mê và yêu thích những bài thơ kiểu “Màu tím hoa sim” chỉ được lưu giữ và ghi chép chúng trong cuốn sổ tay cá nhân của mình rồi chuyền tay nhau mà ngậm ngùi chua xót. Trường hợp GS.Hoàng Như Mai giảng thi phẩm của Hữu Loan cho sinh viên Đại Học Tổng hợp những năm 1970 thật lắng đọng, âm vang … là rất hiếm. Có hiện tượng đó, âu cũng là một điều dễ hiểu. Bởi lẽ trong khi cả nước đang gồng mình lên để chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn… thì tất yếu những bài thơ buồn, uỷ mị như thế sẽ không có lợi cho cuộc chiến tranh cách mạng. Song do cả ba bài thơ đều nói được những điều đúng đắn, chân thành và sâu lắng nhất trong tận đời sống tâm linh con người…, nên sau khi cuộc chiến qua đi, chúng đã được trả lại giá trị đích thực. Cả ba thi phẩm được đánh giá là những bài thơ khá hay vì chúng là tiếng nói thành thực của người nghệ sĩ trước vòng quay của lịch sử, của một thời đã đi qua không bao giờ trở lại. Và người đọc hôm nay chợt hiểu ra rằng: thơ ca kháng chiến đâu chỉ có niềm vui. Bởi bên cạnh cái “hùng” trong phạm trù thẩm mỹ luôn có cái “bi” song song tồn tại. Cái “bi” chính là ở những đau thương, mất mát; ở hiện thực tàn khốc của cuộc chiến tranh không gì bù đắp nổi. Nhưng cái “bi” ấy không phải là cái buồn mơ hồ, luẩn quẩn, bế tắc của các thi nhân trong phong trào thơ mới – mà đó là cái buồn tích cực trong thời kỳ cách mạng. Họ hiểu rõ nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa, chứ không còn “vô cớ” như chàng Xuân Diệu ngày nào (Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn). Bởi vậy “nỗi buồn chiến tranh” ở cả ba nhà thơ của chúng ta đều không hề né tránh. Nhưng trong cái buồn chất chứa niềm đau, sự xa xót ấy, vẫn thấy ánh lên niềm tin yêu, hy vọng, sự sống và lòng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Chẳng thế mà trong đoạn kết bài “Núi đôi”, Vũ Cao viết: “Anh đi bộ đội sao trên mũ/Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”. Hay Giang Nam cũng hạ bút: “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/Có những ngày trốn học bị đòn, roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/Có một phần xương thịt của em tôi”. Đọc những câu thơ như thế liệu chúng ta còn thấy nó đơn thuần chỉ là đau thương uỷ mị? Hay chính đau thương, uỷ mị lại nâng cao “tầm vóc” con người? Dẫu biết rằng khi đặt bút kết thúc khép lại mỗi bài thơ, mỗi người đọc, người yêu thơ, chưa hẳn đã dứt ra khỏi nỗi buồn, niềm đau, nhưng dường như đằng sau mỗi câu chữ ấy, ta thấy nỗi buồn, niềm đau kia đã chuyển thành tinh thần quyết tâm chiến đấu với kẻ thù, nói theo ngôn từ ngày ấy, là biến đau thương thành hành động cách mạng. Và như vậy, cả ba bài thơ nói đến tình yêu chồng vợ, tình yêu đôi lứa – có vẻ rất riêng tư nhưng đã hoà chung trong tình yêu lớn – yêu quê hương đất nước, của cả một cộng đồng dân tộc. Cá nhân và dân tộc gặp nhau trên chiến trường. Trước đây có một thời kỳ do cực đoan, phiến diện, chúng ta cho rằng những bài thơ viết về nỗi đau, sự hi sinh, mất mát là bi lụy, làm hạn chế lại dòng vận động của lịch sử hào hùng. Nhưng vượt qua lớp bụi thử thách của thời gian, thực tế đã chỉ ra một điều hết sức ý nghĩa là: chiến tranh nếu không có hi sinh mất mát… thì làm sao người ta thấy hết được giá trị của những tháng ngày sống trong yên ấm, hoà bình ? Thế cho nên, ở một góc độ nào đó, ba bài thơ “Màu tím hoa sim”, “Núi đôi”, “Quê hương” chính là góc nhìn chân thực, không hề né tránh của tấm gương văn học trong việc phản ánh đời sống xã hội. Hiện thực chiến tranh khốc liệt như vậy đó. Và chúng ta phải vô cùng cảm ơn những con người đã hi sinh cả tuổi thanh xuân và tràn đầy ước vọng của mình để có được một đất nước trọn vẹn, thống nhất như ngày hôm nay. Với ý nghĩa như vậy, dù các nhà thơ không nói, nhưng chúng ta thấy như còn vang vọng đâu đây một lời nhắc nhở thầm về sự trân trọng và yêu mến các giá trị của cuộc sống thực tại – của những gì mà ta đã phải đánh đổi trong ngày hôm qua. Một hành trình qua thống khổ mới tới đầu mút bên kia của hạnh phúc… Quan niệm như thế nào là một bài thơ hay xem chừng đó vẫn còn là một câu hỏi lớn. Song nói gì thì nói thơ hay phải bắt nguồn từ những xúc cảm chân thành về cuộc đời và về số phận con người. Và đến với thơ ca, cũng nên tiếp nhận nó “bằng tình yêu thương con người chứ không phải vì chính trị hay vụ lợi riêng” (Hữu Loan – tâm sự ngày 05/03/1995 tại Nga Sơn, Thanh Hóa). Phải chăng vì thế mà khi cuộc chiến tranh đã lùi xa cách đây hơn ba mươi năm, nhưng cho đến tận bây giờ cả ba bài thơ “Màu tím hoa sim”, “Núi đôi”, “Quê hương”… vẫn là những bài thơ hay hấp dẫn và có sức lay động sâu xa trong lòng người đọc. 2.2. Tình yêu – Sợi chỉ xanh óng ánh giữa bom đạn. Vâng! Có một thời như thế, một thời tình yêu đôi lứa được coi là thứ tình cảm ủy mị, sướt mướt, mọi người không công nhận những tác phẩm chất chứ một tình yêu cao đẹp ấy, bởi một điều: nó làm giảm sút tinh thần người lính, khiến họ có thể gục ngã trên chiến trường ngày một ác liệt hơn. Thế nhưng ai đã từng dù chỉ một lần đọc “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu thì sẽ suy nghĩ khác.. bởi tình yêu và cuộc kiếm tìm tình yêu của hai nhân vật chính trong tác phẩm đã làm thay đổi ý nghĩ cũ đó. “Mảnh trăng cuối rừng” là một trong những tác phẩm in trong tập “những vùng trời khác nhau” của tác giả nguyễn minh châu năm 1970. Ngay từ nhan đề tác phẩm thôi cũng đã khiến độc giả tò mò và đặt nhiều nghi vấn. Tại sao lại là “mảnh trăng” mà không phải là “vầng trăng”. Có lẽ vì một lí do tuy giản đơn nhưng lại mang thật nhiều ý nghĩa, không chỉ gợi sự tò mò “mảnh trăng” còn thể hiện khoảng trống lấp đòi hỏi con người phải đi tìm chứ như vầng trăng thì đã quá viên mãn, tròn đầy quá. Một điều thú vị trong tác phẩm nữa là cách đặt tên nhân vật chính của tác phẩm. nhân vật chính tên Nguyệt- Nguyệt là trăng, trăng tinh khôi, sáng ngời giống như chính Nguyệt- người con gái bấy lâu nay Lãm vẫn ngóng chờ. Câu chuyện là cuộc hành trình tìm kiếm tình yêu của Lãm và Nguyệt. sống trong thời chiến tranh, khi bom đạn và cái chết luôn hiện hữu, con người ta cần biết bao sức mạnh, lòng dũng cảm và một ý chí luôn vươn lên. Và có thể vì điều đó chăng mà tình yêu thời kì này cũng rất cần niềm tin và lòng chung thủy. chiến tranh nguyên nhân gây ra những cuộc chia li và những tin tức về nhau luôn bặt vô âm tín. Vậy mà vẫn có thật nhiều tình yêu nảy nở từ mảnh đất bom đạn ác liệt này. Tình yêu của Lãm và Nguyệt có lẽ chỉ mới bắt đầu bằng sự cảm miến qua lời kể của chị Tính. Trong chiến tranh, tất cả mọi người đều trở thành người nhà và giành cho nhau tình yêu thương chân thành nhất. nguyệt cảm miến Lãm bởi tinh thần hăng say gia nhập quân ngũ, vì tinh thần “trốn nhà đi tuyển bộ đội”. Về phần Lãm, hình ảnh Nguyệt trong tâm trí anh là một cô gái ngoan ngoãn, tích cực. chỉ giữ những suy nghĩ tốt về nhau, nào có ai ngờ rằng niềm tin ấy đã trở thành chất keo gắn bó hai tâm hồn dù họ chưa một lần gặp gỡ. Tình yêu - nó như sợi chỉ màu xanh óng ánh không hề đứt dù mưa bom bão đạn, dù khó khăn và dù cả sự hi sinh đe dọa họ thì sợi chỉ xanh ấy vẫn mãi óng ánh, thách thức cùng thời gian. Có lẽ gọi chuyến công tác lần ấy của Lãm là chuyến công tác định mệnh, bởi sự ngẫu nhiên đã cho Lãm-Nguyệt không những được gặp nhau mà còn gần nhau và thêm những cảm nhận mới về nhau. Ý định ban đầu của Lãm là cố gắng lái xe giao hàng sớm, sau đó kịp giấu xe ở rừng săng lẻ và ghé thăm chị Tính. Nhưng những sự việc diễn ra suốt cuộc hành trình đó đã khiến Lãm không thực hiện được kế hoạch đó. Và đổi lại, Lãm đã có một chuyến đi lạ kì nhất trong cuộc đời lái xe của mình. Chuyến đi ấy có thêm một cô gái, một cô gái nhanh nhạy, xinh xắn với mái tóc dày “thơm mát và trẻ trung”, gót chân hồng sạch sẽ cùng cánh nón trắng nghiêng nghiêng. Hình ảnh của Nguyệt giữa đêm trăng sáng đã làm cho tâm hồn người con trai rạo rực và mê say. Anh đã chắc chắn rằng đây chính là người con gái tên Nguyệt mà anh mong mỏi gặp mặt bấy lâu nay. Tình yêu quả là mang trong mình sức mạnh thật bí ẩn, nó giúp cho những tâm hồn kiếm tìm nhau, gặp nhau và nhận ra nhau, gặp nhau và nhận ra nhau. Tuy Lãm không hỏi thẳng song có lẽ như vậy lại hay và cuộc tìm kiếm ấy mới có thể làm cho độc giả cảm thấy hồi hộp và tò mò hơn. “Mặt đất dưới bánh xe như đang nghiêng ngả, đảo lộn”, lòng Lãm rối bời như tơ vò khi anh nghe Nguyệt kể rằng trong đội đá Cầu Xanh của cô có một cô nguyệt mới hi sinh. Điều này đã khiến cho Lãm phân vân, sự phân vân ấy chính là một trong những biểu hiện tình yêu mà Lãm dành cho người con gái anh chưa hề biết mà chỉ là đang cảm nhận. Câu hỏi và xự lo lắng bủa vây trong long Lãm khiến anh vô cùng bối rối. Nhưng những điều ấy qua đi chóng vánh, trong đôi mắt và trái tim anh đang dành để nhìn và cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp cả về thể xác lẫn tâm hồn người con gái đang ngồi kề bên anh. Ngỡ là pháo sáng nhưng đó là là ánh trăng, ngay lúc này đây một vầng trăng đẹp hơn “mảnh trăng cuối rừng”: Nguyệt hết lòng giúp đỡ, nhanh nhẹn dẫn đường, lội phăng sang sông buộc tới đưa xe lên, xô Lãm vào tránh bom, nhường chỗ an toàn giành lấy phần gian khổ về mình. Cái “mảnh trăng” đẹp đẽ trên cao kia đã nhường chỗ cho “vầng trăng” con người Nguyệt tỏa sáng trong đêm tối đạn bom. Vầng trăng ấy làm mát dịu tâm hồn Lãm, khiến Lãm càng tin vào linh cảm về Nguyệt – người con gái mà anh đang đợi chờ. Chiến tranh luôn đi cung sự đổi thay, có lẽ không có nhiều thứ còn nguyên vẹn. Giống như cây cầu Đá xanh mà biết bao công sức của những thanh niên xung phong đã chọn lựa phiến đá đẹp nhất để xây cầu vậy mà chỉ một lần thả bom của quân thù, cây cầu đã gãy làm đôi. Vậy mà tình yêu giữa Lãm và Nguyệt tuy chưa nói thành lời, chưa hẹn hò, chư nguỵên ước nhưng họ vẫn dành cho nhau môt niềm yêu thương riêng trong khoảng trời riêng tâm họ. Đó là điều quý nhất của những con người nơi đây – sự sống luôn kề cận cái chết. Cuộc gặp gỡ của họ như mọt định mệnh trong suốt hành trình tìm kiếm này.Cuộc hành trình có tình yêu niềm tin và sự thủy chung. Tuy chỉ mới chớm nở nhưng đối với Nguyệt và Lãm tình yêu ày vẫn vẹn tròn và tinh khôi. Tình yêu giúp họ đi qua gian khổ, hướng về nhau và cùng tin vào cuộc sống “như ánh trăng kia soi đầy trên mái” Mảnh trăng cuối rừng sẽ có ngày tràn đầy, viên mãn và không còn xa xôi nữa. Giống như những mong đợi và hi vọng của tình yêu giữa Lãm và Nguyệt sẽ thành hiện thực. Còn nơi này đây, tình yêu làm cho người dũng cảm hơn, mạnh mẽ hơn và đứng dậy đấu tranh. Như cây xà nu trong cánh rừng thẳng tắp và vươn cao, những con người làng Xôman mang trong mình phẩm chất cao đẹp “ham ánh sáng và khí trời, yêu tự do”. Năm 1962, trên đường hành quân từ Bắc vào Nam, Nguyễn Trung Thành bắt gặp một khu rưng xà nu tít tắp tận chân trời “Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một thứ cây hùng vĩ và cao thượng, man dai và trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông tựa như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau. Từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận”. Năm 1965, đó là những ngày nghiêm trang, nghiêm trọng và quyết liệt, hào hứng và hào hùng. Dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc, một không khí hừng hực rất tráng ca, rất xà nu, không khí “hịch tướng sĩ” chống Mĩ đã ngấm vào Nguyễn Trung Thành, thôi thúc ông cầm bút “Rừng xà nu” chợt đến và tôi đã tạo được không khí và không gian ba chiều để cho ra đời truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm là một bản hùng ca ca ngợi tinh thần và ý chí đấu mãnh liệt của dân làng Xôman: cụ Mết, T;nú, Dít, Mai… Trong bản hùng ca ấy có nốt trầm xao xuyến dành tron cho tình yêu của Mai và T’nú. Chính tình yêu ấy giúp T’nú rắn rỏi và kiên cường hơn. Vết thương của T’nú như cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa khi chứng kiến cảnh giặc ác ôn tra tấn vợ và con mình. Đêm nay khi anh không còn Mai, bên ánh lửa bập bùng nghe cụ Mết kể truyện xưa, hình ảnh Mai hiện về trong anh thật rõ. Mai và T’nú cùng lớn lên, cùng uống chung dòng nước buôn làng. Từ những ngày đầu kháng chiến, Mai và T’nú đã học chữ chung, cùng làm liên lạc. Tình yêu từ ngày thơ ấu, bằng sự lo lắng khi T’nú bị địch bắt tra tân hỏi cộng sản là ai. Khi T’nú thoát ngục trở về, Mai ngồi trước mặt T’nú “đôi mắt có hai hàng lông mi đậm đến che tối cả tròng đen, có lẽ đôi mắt đó ít trang nghiêm hơn, chất chứa nhiều yêu thương hơn”. Tình cảm mà Mai danh cho T’nú trong mát như suối làng, nhưng cũng mạnh mẽ như cây xà nu làng Xôman Giặc Mĩ thực hiên “bắt cọp cái và cọp con để dụ cọp đực”, chúng đã tra tấn Mai, mỗi câu hỏi “chồng mày đâu con mọi cộng sản kia?” lại kèm theo những trận đòn ác liệt, cây sắt cứ thế đập vào Mai sau lưng, phía trước. Cứ mỗi lần như vậy, Mai lại ôm con tránh đòn. Tiếng khóc ré của đứa con vang lên rồi im bặt, không gian đắc quánh toàn những tiếng cây sắt nên xuống hừ hự. Lòng T’nú đau như cắt, hai con mắt anh giờ như hai ngọn lửa. Tình yêu anh dữ dội dâng trào, càng dâng trào bao nhiêu thì ngọn sóng lớn muốn nhấn chìm quân ác ôn kía càng tăng lên bấy nhiêu. Anh xông ra bằng sức mạnh, anh quật ngã tên to béo, trong tiếng đạn lách cách, bằng tình yêu anh đang rộng cánh tay ôm chắt mẹ con Mai. Nhưng anh không cứu sông được Mai, không cứu sống được con. T’nú cũng bị bắt, nhưng trong anh hình ảnh ngày hôm ấy vẫn mãi đọng trong tâm trí anh. Đó chính là động lục, là suối nguồn trong anh. Sự trả thù vô nhân tính của lũ giặc đã khiến mười đầu ngón tay của T’nú cháy như những đốm lửa, mười ngón tay cụt nhưng T’nú vẫn cầm súng, vân chiến đấu và luôn giữu hình ảnh Mai và con trong tim. T’nú lại ra đi… hút tầm mắt, không có gì khác ngoài những cánh rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời… Hình ảnh kết thúc tác phẩm gợi ra thật nhiều điều điều sâu sắc và xúc động lòng người. Vợ và con T’nú đã hy sinh nhưng tình yêu thì vẫn còn đó, bất diệt. T’nú mang theo trên đường chiến đấu của minhg tình yêu ấy để vững chắc hơn. Như những cây xà nu, dù có bom đạn dội xuống, dù có chịu nhiều đau thương, vẫn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm và rời rợi màu xanh dưới ánh sáng. Có những cuộc chia li như thế, cuộc chia li màu đỏ buồn đấy mà tràn trề sức sống. “Đó là cuộc chia li chói ngời sắc đỏ Tươi như cánh nhạn – lai – hồng” Bài thơ “Cuôc chia li màu đỏ” được tác giả Nguyễn Mỹ sáng tác 1965 trong cuộc kháng chiên chống Mĩ đanh bắt đầu bước vào giai đoạn ác liệt. “Cuộc chia li màu đỏ” là một tác phẩm tuyệt vời góp phần làm đẹp văn thơ cách mạng Viêt Nam. Màu đỏ của cuộc chia li phải chăng đó chính là lý tưởng, sự vĩnh hằng của tình yêu đôi lưa hòa trong tình yêu cao cả - tình yêu tổ quốc. Một cuộc chia li như bao cuộc chia li khác, nhưng ấn tượng và sáng hơn bởi sự “chói ngời” của “sắc đỏ”. Là cuộc chia li của đôi vợ chồng, sự xa cách khiến ho trở nên vội vàng, gấp gáp. Tuy nhiên, sự vội vàng ấy chẳng thể che dấu nổi hai trái tim đang thổn thức sau lồng ngực kia. ”Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy Không che nổi nước cô đã chảy Những giọt long lanh cháy bỏng sáng ngời” Cao đẹp cuộc chia li ấy là một tình yêu ngọt nagof và lãng mạn. Dịu dàng biết bao, êm ái biết bao khi không gian tình yêu đôi lứa mở ra. Thời gian ngưng đọng khiến câu thơ trở nên tuyệt vời “Chồng của cô sắp sửa đi xa Cùng với nhiều đồng chí nữa” Ra đi vì lí tưởng cao đẹp, ra đi cùng các đồng chí – hình ảnh thơ gợi bao nỗi niềm cho người đọc. Biết có còn hay không ngày hội ngộ, khi bom đạn mỗi ngày một nhiều, chiến tranh mỗi ngày một ác liệt. Thế nhưng tình yêu đã giúp họ vững dạ lên đường. Miền Nam- tuyến máu lửa chiến đấu cho độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Người chồng ra đi cũng như bao người con trong gia đình ra trận. Họ chiến đấu trong sục sôi nhiệt huyết và đón nhận sự hi sinh như một lẽ thường tình. Trong chiến tranh là thế, tình yêu luôn đi liền với mất mát và thương đau, cuộc sống thời chiến như bản nhạc luôn xô bồ nghiệt ngã, hiếm khi nào có phút lặng bình yên. Tình yêu ở bất cứ nơi nào cũng đẹp nhưng trong thời chiến tình yêu như được chắp thên đôi cánh của sự hi sinh, không còn là ích kỉ giận hờn. họ dám sống cho nhau vì nhau. Tình yêu cháy bỏng như ngọn lửa mãi bùng lên, tình yêu thật đẹp, son sắc và ở họ còn có tình yêu lớn hơn cao cả hơn đó là tình yêu quê hương đất nước. Họ đã biết đặt tình yêu riêng vào tình yêu chung, sống để chiến đấu và để yêu. “Và rạng đông đang bừng trên nét mặt. Một rạng đông với màu hồng ngọc Cây si xanh gọi họ đến ngồi Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai” Sẽ không còn những cuộc chia li như thế này nữa, bởi hòa bình sẽ đến với mảnh đất này, với nhưng con người yêu thương tha thiết tự do và hòa bình là món quà vô giá đánh đổi biết bao nhiêu máu và nước mắt. cuộc chia li hôm nay vẫn chói ngời màu đỏ. Tình yêu đã giúp họ nhìn về tương lai: một rạng đông đang lên, màu hồng ngọc đầy tin tưởng và như thế đấy, tình yêu không chỉ giúp họ vượt qua gian khổ trước mắt mà còn hướng họ có niềm tin- niềm tin bất diệt vào ngày mai. “Đã tỏa sáng những tâm hồn cao đẹp Nắng vẫn còn ngời trên những lá si” Người chồng đã ra đi, tình yêu sẽ luôn theo và sát cánh cùng họ. như hậu phương luôn chung sức cùng tiền tuyến. “Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp Một làng xa giũa đêm gió rét” Những người con trai ra trận sẽ không phải cô đơn bởi luôn có những trái tim thương yêu của những người mẹ người vợ người em ở hậu phương luôn hướng về tiền tuyến lửa, đôi mắt vẫn ngóng đợi tin yêu. Giữa không gian bốn bề gió rét, tình yêu như ánh lửa hồng ủ ấm, xua tan gió lạnh. Mỗi khi mỏi gối chùn chân bước, tình yêu như bông hoa đỏ tươi vẫy gọi khích lệ đoàn quân tiến bước. những câu thơ ánh lên niềm tin vào tương lai và một màu đỏ-cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy-sẽ đi cùng người chiến sĩ ra mặt trận. màu đỏ ấy là màu đỏ của chiếc áo thiếu phụ tiễn đưa chồng ra mặt trận hay chính là màu đỏ của tình yêu tươi đẹp, màu của niềm tin, màu của chiến thắng, của sự thủy chung son sắc: có lẽ là tất cả. nó theo mãi đến ngày chiến thắng. Tình yêu trong “cuộc chia li màu đỏ” là một tình yêu của lí tưởng cách mạng đầy nhân văn nhưng cũng không kém phần lãng mạn. tình yêu đi theo suốt những năm tháng đời lính, suốt chiều dài lịch sữ dân tộc và tồn tại cùng thời gian. 2.3. Sự hồi sinh. Có khi, vì cuộc sống vất vả, vì sự nghiệp cách mạng mà con người ta quên đi tình yêu của chính mình. Nhưng tình yêu là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, nó không dễ bị vùi dập, mất đi mà chỉ chờ cơ hội là tình yêu đó lại hồi sinh. khi tình yêu dược hồi sinh đó mới là niềm hạnh phúc tột bậc. có tác giả đi sâu vào sự hồi sinh của quê hương, đất sau chiến tranh: Nguyễn Đình Thi (Đất nước), Chế Lan Viên (Tiếng hát con tàu)… Nhưng lại có tác giả đi vào sự hồi sinh tình yêu của con người. Đây là một vấn đề rất khó. Có người đề cập ít, có người đề cập nhiều, nhưng dù chỉ là sự hồi sinh của tình yêu được miêu tả trong thoáng chốc cũng là ánh sáng cho toàn tác phẩm. Nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, vốn là người con gái đẹp, có tài thổi sáo, khát khao hạnh phúc, hiếu thảo,chăm chỉ. Cô là niềm ao ước của bao trai bản. Đáng ra cô gái ấy hoàn toàn có quyền được hưởng hạnh phúc, tình yêu nhưng vì nhà Mị nghèo, vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, vì tập tục cướp vợ của người H’mông mà cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà Thống lý Pátra. Lúc đầu bị bắt về nhà Thống lý Pátra có đến mấy tháng liền Mị khóc, khóc vị sự đau đớn tủi nhục, khóc vì khát khao sống bị trà đạp. Cô muốn có hạnh phúc cho riêng mình, không uốn làm nô lệ cho nhà giàu, cô đã phản kháng bằng cach định ăn lá ngón để tự tử, nhưng vì thương cha mẹ nên cô không thể chết, cô bằng sống một cuộc sống cơ cực của người con dâu gạt nợ. Ghánh nặng cường quyền, thần quyền, hủ tục miền núi đã đè lên vai Mị. Cô trở thành người “lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, cuộc đời cô đau khổ không bằng cuộc sống của loài vật : “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa, là con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì đi giặt đay, se đay, đến mùa thì lên nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc đêm nó còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”. Mị không có ý niệm về thời gian, không hy vọng mong đợi cái gì chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, cuộc đời cô thu hẹp trong căn buồng kín mít, có cửa sổ hình vuông to bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng thấy trăng trắng không biết sương hay nắng, cô ngồi trông ra lỗ vương ấy bao giờ chết thì thôi. Cái chế độ bất công ấy đã hành hạ cô cả về thể chất lẫn tâm hồn. Nhưng tưởng cái tăm tối, tù túng ấy sẽ giết chết một con người nhưng bằng trái tim nhạy cảm, tràn đầy tình thương của tác giả đã phát hiên ra rằng: Bên trong con rùa lùi lũi ấy là một con người, bên trong tâm hồn con người tưởng đã chai sạn, tê liệt vì đau khổ vẫn tiềm ẩn một sức sống khỏe khoắn, kỳ diệu, vẫn khát khao hạnh phúc, cái âm ỉ như đốm than hồng bị vùi nén để đến khi gặp “ngọn gió lành” thì nó sẽ bùng cháy thành ngọn lửa. Và cái đêm hội xuân ấy, anh chàng Aphủ chính là ngon gió lành thổi bùng khát khao âm ỉ đang bùng cháy trong cô. Mùa xuân đến với vùng núi rừng Tây bắc với sắc vàng của cỏ tranh, sự biến màu kỳ ảo của hoa Anh Túc, những chiếc váy hoa xòe sặc sỡ như những con bướm sặc sỡ phơi trên mỏm đá. Những âm thanh cười nói của đám trẻ, tiếng sáo đầu núi vọng lại thiết tha bồi hồi chưa đủ điều kiện để làm nên sự nổi loạn trong Mị, mà phải có tác nhân mạnh hơn khơi dậy sức sống ẩn chứa trong Mị. Theo giáo sư trần Đình Sửu “cách uống rượu của Mị như một hành động nổi loạn chống lại thân phận mà chính Mị chưa ý thức rõ rệt”, chính trong trạng thái dễ bị kích động ấy mà Mị đã thoát khỏi tâm trạng thờ ơ nguội lạnh bấy lâu nay mà dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những kỷ niệm đẹp đẽ “ngày trước Mị thổi sáo giỏi”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị nhớ những ngày xưa, nuối tiếc là minh chứng cho ý thức sống đã trở về trong cô. Tiếng sáo, chính tiếng sáo thiết tha, dùi dặt là tác nhân quan trọng nhất khơi lại khát khao hạnh phúc trong lòng cô sơn nữ. Lúc đầu, tiếng sáo xa xa xong dập dờn trong đầu Mị, nó trở thành tiếng lòng trong Mị, thôi thúc Mị đến với tiếng gọi tự do “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Tiếng sáo gọi bạn tình biểu tượng cho sự sống, tự do, yêu thương và tình yêu cứ ngân lên thôi thúc quyên rũ. “Anh ném Pao, em không bắt Em không yêu quả Pao rơi rồi” Sức sống trỗi dậy như những đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mị, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn. Mị đã đến hành động bất ngờ nhưng tất yếu : Thắp sáng ngon lửa đèn trong căn phòng âm u. Viếc thắp sáng căn phòng như Mị muốn soi rọi cuộc sống hiên tại của mình, mong tìm ra lối thoát cho tương lai. Bất chấp những ràng buộc, xiềng xính, Mị đã sửa lại tóc, rút váy hoa, sửa soạn đi chơi, những hành động của con người tự do đi theo tiếng gọi của mình. Tô Hoài đã trân trọng sức sống kgats khao của một con người bị chà đạp, vùi dập. Sức sống ấy da diết, ngân vang, bất diệt. Tuy nhiên sự nổi, sự hồi sinh về tình yêu, hạnh phúc chưa đủ dưa Mị dứt ra khỏi nhà thống lý Pátra. Chỉ đến khi gặp A phủ, Mị mới sẵn sàng bỏ đi mọi ràng buộc. Mị lúc đầu chứng kiến cảnh A phủ bị đánh, bị trói với thái độ thờ ơ “vẫn thản nhiên hơ tay sưởi lửa”. Không phải Mị ác mà chính cái xã hội phong kiến ấy đã biến một cô gái nhạy cảm, giàu khát khao yêu thương thành người có tâm hồn chai sạn. Đó chính là hậu quả của những tháng ngày sống kiếp sông nô lệ đau thương. Nhưng trong ánh lửa bập bùng dòng nước mát lấp lánh đã bò xuống hai hõm má đã xám đen của A phủ đã lay động tâm hồn Mị, Mị nhìn A phủ mà nhớ đến mình cũng đã bị A sử đối xử tệ bac. Từ thương mình đến thương người Mị đã cởi trói cho A phủ, Mị không thể dửng dưng được nữa, tình thương người lớn hơn nỗi thương thân. Hnahf động thật bất ngờ, bột phát, nhưng phù hợp với phép biên chứng tâm hồn của nhân vật: Từng giám chết vì không chấp nhận kiếp sống tủi nhục thì cũng giám hy sinh cứu người khác. Hình ảnh A phủ rời xuống để rời xa cái chết chính là “giọt nước làm tràn ly”, thúc đẩy khát khao tự do, lòng ham sống trong Mị, cô lao đi trong đêm, khi đưởi kịp A phủ cô nói “A phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất”. Một câu nói tự nhiên cho thấy sức sống của Mị, chạy theo A phủ là chạy theo tiếng gọi tự do. Từ sự hồi sinh mãnh liêt đó, Mị và a phủ đã vùng lên thoát ra khỏi xiềng xích của xã hội phong kiến thống trị, trở thành du kích hết lòng vì cách mạng. Không đau khổ cùng quẫn như Mị, không phải vượt lên xã hội như Mị. Các nhân vật trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có sự hồi sinh khá nhẹ nhàng trong tình yêu nhưng cũng đầy tính nhân văn. Tràng từ một người bình thường không có mơ ước gì trong cuộc sống bởi “những lo lắng trật vật hàng ngày đè xuống cái lưng rông như lưng gấu của hắn. Nhưng khi bất ngờ “nhặt” được vợ thì “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Hắn có vợ. Việc đó xảy ra nhanh như một giấc mơ khiến hắn chẳng giám tin vào sự thật. “Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả những đói khát đang đe dọa, quên cả những ngày tháng trước mắt”, “một cái gì mới mẻ lắm, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy, nố ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Cuộc đời lạ thật chẳng yêu đương, chẳng tìm hiểu, chỉ vì một câu trêu đùa và lòng thương hắn đã có vợ. Sáng đầu tiên khi hắn có vợ, hắn đã biết để ý đến nhà mình, chỉ với việc mẹ hắn nhổ cỏ, vợ hắn quét sân mà hắn sao mà thấm thía, cảm động thế. Hắn thấy yêu thương gia đình, nghĩ đến tương lai, hắn thấy hắn nên người “một niềm vui sướng, phấn trấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, sự hồi sinh tình yêu trong hắn thật đơn giản nhưng lại có sức mạnh vô cùng. Hắn yêu cuộc đời hơn, ngoan ngoãn với mẹ hắn hơn, khi nghe mẹ hắn nói chuyện sung sướng cho tương gia đình hắn. Tâm hồn hắn được hồi sinh mới mẻ và tràn ngập niềm vui và tình yêu. Vợ hắn cũng thay đổi hẳn, đã cùng chăm lo cho một gia đình, có người chồng tốt bụng thật thà, có người mẹ chông nhân từ bao dung. Thị sẽ gắn bó với gia đình này,người chồng này. Hai vợ chồng Tràng đều là những người nông dân nghèo, hiền lành, chấp nhận số phận. Tâm hồn họ được hồi sinh không mãnh liệt như Mị, nhung sự hồi sinh tình cảm trong họ đã làm cho cuộc đời họ thay đổi, ánh mắt họ với cuộc sống, cuộc đời, với cách mạng cũng thay đổi đó là hinh ảnh lá cờ đỏ ở cuối truyện. Khác với Tô Hoài, Kim Lân chỉ nói đến hồi sinh trong tình yêu trong các nhân vật của mình một cách nhẹ nhàng, kín đáo thì Nguyễn Khải lại thể hiện một cách trực diện, mạnh mẽ sự hồi sinh của nông trường Điện Biên, của nhân vật Đào trong “Mùa lạc”. Xuyên suốt tác phẩm là suy nghĩ “Sự sống bắt đầu từ trong cái chết, hạnh phúc hiên hình từ trong những gian khổ hy sinh,ở đời này không có những con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Trọng tâm của tác phẩm là sự chuyển biến tâm trạng, sự hồi sinh của nhân vật Đào. Đào là người phụ nữ không đẹp, hai con mắt hẹp dài, đưa đi, đưa lại rất nhanh,hai gò má cao và đầy tàn nhang, răng khểnh, cặp chân ngắn, bàn tay với ngón tay ngắn và thô, thân hình sồ sề và “gặp một lần có thể nhớ mãi”. Chỉ vì những nét thô, thiếu sự hài hòa, cân đối, duyên dáng. Chân dung chị cho ta thấy một tính cách rất sắc sảo, thông minh và đời sông tư tưởng không hề đơn giản của người phụ nữ tuổi 28. Chi đến nông trường Điện Biên với tâm lý chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm nơi hẻo lánh để quên đi những chuyện đã qua. Bởi lẽ quá khứ của chị là những chuỗi ngày dài bất hạnh: 17 tuổi lấy chồng, gặp phải người chông cờ bạc, phải trốn nợ, để tuổi xuân của chi phải trôi qua trong cảnh lạnh lùng, đơn chiếc, khi chồng trở về thì chẳng bao lâu sau thì chết, có đứa con cũng chết vì bệnh tật. Từ đây chị chẳng còn gia đình, không nơi nương tựa. Cuộc đời chị nay đây mai đó, đòn ghánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, cuộc đời đã làm chi phai tàn nhan sắc: mái tóc óng ả đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, chị sống mà không có hy vọng gì ở tương lai “muốn chết nhưng đời dài nên phải sống”. Từ “phải sống” chất chứa bao uất ức, cam chịu, bế tắc. Có người so sánh một cách hình ảnh rằng “Đào như người trèo cây đã bị nhiều mũi gai cào xé, nhung chưa hái được trái đời ngon ngọt, chẳng lẽ lại buông mình xuống gốc để hòa mình với cát bụi” Không phải tiếp tục đi lên nhưng đi bằng con đường nào đây? Không thể giẫm lên vết chân của một thời quá khứ đã qua phải mở cuộc đời ra một phương trời khác và đó là lý do để Đào lên nông trường Điên Biên. Khi đến nông trường Đào chấp nhận những thửu thách cuộc đời như định mệnh “quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế…” Môi trường ở Điện Biên tốt đẹp tạo điều kiện cho đức tính tốt đẹp của Đào bộc lộ. Các tiêu cực của cuộc sống liều lĩnh hay ghen tị với mọi người dần bị dẩy lùi, thay vào đó là sự hòa hợp với mọi người. Với vốn văn hóa phong phú sắc sảo của Đào được chi viết thơ, đối đáp với mọi người rất thông minh, nhưng có phần chua chát “trâu quá sá, mạ quá thì, hông nhan bỏ bị còn gì là xuân”. Tuy nhiên nó vẫn mang nỗi buồn, tự ti về bản thân mình. Trong cuộc sống ở nông trường chị đã tìm lại được niềm vui sống, lòng tin ở mỗi con người. Mỗi khi đứng sản xuất bên Huân chị lại “bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại mong cuộc đời mình chưa phải tắt hẳn, một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn” những ngày đã qua cứ lập lòe ở phía trước một ước mong rất trần thế, rất nhân bản sao ảnh chị, một câu hỏi vẫy gọi từ phía mà trước đó Đào không hề quan tâm, có phải đây là cuộc đời còn lại của chị chăng? 28 tuổi không phải là già, Đào chưa sống hết với thời thiếu nữ của mình nên trong chi còn rạo tực khao khát yêu thương. Bức thư tỏ tình của ông Dịu – trung đội trưởng già trách lò ghạch đã làm hồi sinh tinh yêu, niềm hạnh phúc trong con người chị. Lúc đầu chi bàng hoang giận giữ, giận đến mức đã đinh xé tab bức thư ấy ra làm trăm mảnh bởi chi nghĩ người ta coi thường xúc phạm chị. Nhưng khi gấp lá thư lại thì “một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mach nước ngọt rỉ thấm vào thớ đất khô cằn đi vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ, dào dạt, không thể nén lại nổi khiến người chị ngây ngất, muốn cười thật to một tiếng, nhưng trong mí mắt đã mọc đầy nước mắt đã trực trào ra”. Đã lâu rồi không có ai nói lời yêu thương với chị như thế, nay có người đã khơi lên những khát khao ấp ủ trong tâm hồn chị. Lá thư của ông Dịu đã khiến Đào nhận ra rằng cuộc đời có nhiều yêu thương đồng cảm và khiến chị thấy chị rất cần một người nào đó. Những dòng chữ những lời lẽ trong thư ấy “như tiếng nhạc ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khát khao yêu đương, khát khao hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực ngót chục năm trời”. Lá thư như làm chị sống lại khiến chị ngây ngất, xao xuyến, vui không tả. Chị đã bùng lên cái thời son trẻ, biết vui thích ngượng ngùng khi nghĩ đến cảnh đối xử tốt với con chồng. Chị vui lắm muốn san sẽ niềm vui của mình với mọi người. Rõ là chưa đâu vào đâu nhưng sao lá thư ấy nó êm đẹp thế. Có thể nói lá thư là hạt nhân tất yếu làm hồi sinh tình yêu trong chị. Sự hồi sinh ấy làm chị trẻ ra, vui ra đoàn kết và gắn bó với tập thể hơn. Chị tìm đến Huân người chị rất quý mến để tâm sự nhưng cũng là để san sẻ niềm vui “anh thấy anh Dịu như thế nào”. Hỏi là hỏi vậy thôi chứ xem chắc chị có ý định gắn đời mình với người thiếu úy lò gạch rồi “em xem ra anh ấy cũng thành thật”, “chăng ai ở vậy suốt đời, chăng ai muốn đi vất vưởng mãi”. Chị đã thật lòng nói lên cái ước muốn, cái quyết định của mình “em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh”. Thật là kì diệu thay hạnh phúc chị mất đi từ lâu, ai ngờ lại tìm thấy ở một nơi mà chiến tranh đã xẩy ra ác liệt nhất. Cuộc sống mới tuyệt vời làm sao, còn bao nhiêu điều tốt đẹp, chỉ cần ta mở rộng tấm lòng là có thể nắm bắt được ngay và chị đào đã làm được điều đó. Nhà văn Nguyễn Khải đã nói “con người không thể sống đơn độc, một đoạn đời Đào đã chứng minh điều ấy. Cuộc sống cộng đồng cần thiết đến mức người ta không thể ý thức được. Chỉ khi người ta bị ném ra khỏi cộng đồng, ném ra giữa cái hoang vắng, chỉ còn mình đối diện với mình. Khi ấy người ta mới hiểu được giá trị lớn lao của nó. Ở đây các cá tính được bổ sung cho nhau, các nhu cầu tình cảm được đáp ứng. Đào lên nông trường Điện Biên- môi trượng chỉ biết thêm cái tên mới, khuôn mặt mới, công việc mới. Đó là câu trả lời của tác giả cho sự hồi sinh cho nhân vật Đào. Cái nông trường thân thương ấy yêu thương, bao boc cho tất cả mọi người, mọi số phận. Chính nông trường này đã hồi sinh mãnh liệt trong chiến tranh, liệu có phải sự hồi sinh của thiên nhiên nơi đây cũng tác động đến sự hồi sinh các số phận nơi đây? Không chỉ Đào hồi sinh mà cả Huân – con người đáng yêu, đáng quý ấy cũng hồi sinh sau chiến tranh, năng nổ hoạt động vì nông trường Điện Biên. Ngay cả người thiếu úy già cũng hồi sinh tình yêu, minh chứng là lá thư tỏ tình với Đào. Được sống trên đời đã là hạnh phúc rồi, nhưng với con người mà “vì đời còn dài nên phải sống” như Đào hay “đến bao giờ chết thì thôi” như Mị thì khi tình yêu trong họ được hồi sinh thì đó chính là niềm hạnh phúc lớn lao, đẹp đẽ nhất. Vì họ đã tìm ra đươc cuộc sống của chính mình dựng lên. Sự hồi sinh dù mãnh liệt hay nhẹ nhàng đều mở ra một tương lai mới cho chính họ. 3. KẾT LUẬN Chiến trang đã qua đi những tình yêu của ngày xưa ấy giờ có lẽ đã ít nhiều đi về với cát bụi. Song, không bao giờ có thể phai nhạt trong trái tim những con người anh dũng ấy và cũng đã in rất sâu rất đậm trong trái tim những con người thế hệ mới. Tình yêu trong chiến tranh như viên ngọc sáng lấp lánh, như sợi chỉ xanh ánh bom đạn cũng không thể tàn phá nổi. Gia đình, người thân, tình yêu chính là quê hương, quê hương đã thúc dục họ lên đường say mê và cống hiến cho dân tộc dù phải hi sinh cho đến phút giây cuối cùng. Xin cảm ơn những tình yêu ấy, cảm ơn những người cầm bút đã chấp cánh cho những “Tây tiến”, “Mảnh trăng cuối rừng”, “Rừng xà nu”, “Cuộc chia li màu đỏ”, “Mùa lạc” và còn nhiều nữa nhưng tác phẩm nói về tình yêu thời chiến tranh. Không ai có thể ngừng xúc động trước những mối tình bất hủ ấy, mối tình đã nâng bước, chắp cánh bay đến vùng trời hòa bình của “những tâm hồn cao đẹp”. Để giờ đây sự hồi sinh có mặt ở khắp nơi người ta lại nhớ về một thời như thế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Quốc Ca, Văn học Việt Nam 1945 – 1975, (Lưu hành nội bộ), Trường đại học Đà Lạt. Lê Chí Dũng, Đại cuong văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2003 Nhiều tác giả, Truyện ngắn hay thời chiến tranh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2003. Nhiều tác giả, Vẻ đẹp văn học cách mạng, Nxb Giáo dục, 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình yêu đôi lứa qua một số tác phẩm văn học hiện đại!.doc