Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước của bất kì quốc gia nào trên thế giới cũng là vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp. Điều đó do bản chất của chính đối tượng quản lí nhà nước quy định vì đời sống xã hội vô cùng đa dạng phong phú và vận động phát triển không ngừng, đòi hỏi luôn phải có những cải tiến, điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ quản lí hành chính và tổ chức bộ máy hành chính, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ cho phù hợp. Việt Nam và Lào là hai quốc có truyền thống đoàn kết và lòng yêu nước sâu sắc; nền hành chính của hai nhà nước Lào và Việt có quá trình lịch sử lâu dài với những bước phát triển thăng trầm. Hiện nay, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đang xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền theo đường lối của Đảng nhân dân cách mạng Lào; còn Việt Nam cũng tiến hành công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội chủ nghĩa. Có những điểm chung về xuất phát điểm, có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và một thời kì duy trì cơ chế quản lý kế hoạch, tập trung bao cấp. Trên nền tảng các giá trị truyền thống văn hoá dân tộc, những thành tựu trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước thời gian qua rất to lớn, đáng ghi nhận nhưng những khuyết điểm, tồn tại của cơ chế cũ vẫn còn nhiều biểu hiện phức tạp cần phải nỗ lực nghiên cứu khắc phục nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới đất nước của Lào và Việt Nam hiện nay. Thực tế cho thấy đời sống quốc tế, sự vận động phát triển của các quan hệ kinh tế-xã hội trong nền kinh tế thị trường diễn ra vô cùng sinh động, sự vận động của hệ thống thiết chế và thể chế nhà nước thường có sự lệch pha, chậm hơn sự phát triển của quá trình kinh tế-xã hội. Chính vì vậy, theo mỗi bước phát triển của đời sống kinh tế-xã hội hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước cần phải được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, không ngừng nghỉ. Dưới góc độ chuyên ngành Luật Hành chính, trên cơ sở những đòi hỏi của thực tiễn sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở Lào và Việt Nam, qua nghiên cứu đề tài có thể khẳng định được rằng việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước nói chung và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ là vấn đề rất bức thiết và có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của công cuộc đổi mới hệ thống chính trị và thể chế nhà nước đáp ứng những yêu cầu cho sự phát triển của Việt Nam và Lào trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy; tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào” làm luận văn tốt nghiệp. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN 1 KHÁI QUÁT VỀ LUẬN VĂN 2 MỤC LỤC 3 PHẦN MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG 1. 10 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ - CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CAO NHẤT 10 1.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước. 10 1.1.1.Quản lý hành chính Nhà nước. 10 1.1.2. Cơ quan hành chính Nhà nước. 13 1.2. Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất 15 1.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào. 18 1.3.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo. 18 1.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ. 19 1.3.3. Nguyên tắc pháp chế. 19 1.3.4. Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và theo lãnh thổ. 20 1.3.5. Nguyên tắc quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo chức năng và phối hợp quản lí liên ngành. 21 CHƯƠNG 2. 22 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VÀ LÀO 22 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chính phủ Việt Nam và Lào trước thời kỳ đổi mới . 22 2.1.1. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam trước năm 1992 22 2.1.2. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào trước năm 1991. 26 2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào theo pháp luật hiện hành. 30 2.2.2.Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào theo pháp luật hiện hành 33 + Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ. 34 + Thủ tướng Chính phủ. 35 + Cơ cấu tổ chức của Chính phủ. 36 2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào hiện nay. 39 2.3.1. Những ưu điểm 39 2.3.2. Một số vấn đề còn tồn tại. 43 2.3.3. Nguyên nhân. 45 CHƯƠNG 3. 47 PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VÀ LÀO 47 3.1 Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào hiện nay. 47 3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước Lào. 51 PHẦN KẾT LUẬN 54 DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

doc57 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4031 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân; 3. Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 4. Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; 5. Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình; bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường; 6. Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; 7. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ; 8. Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp do Chủ tịch nước ký với người đứng đầu Nhà nước khác; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; 9. Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; thống nhất quản lý công tác thi đua khen thưởng; 10. Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 11. Phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Ban chấp hành trung ương của đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. 2.2.2.Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào theo pháp luật hiện hành Ngày 15 tháng 8 năm 1991, Quốc hội nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã thông qua Hiến pháp mới - bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Lào. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1991 đánh dấu bước phát triển mới trong công cuộc xây dựng nước Lào độc lập, thống nhất, dân chủ nhân dân và giàu mạnh. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1991, Quốc hội cũng đã ban hành hàng loạt các đạo luật quan trọng khác, tạo cơ sở pháp lí cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước Lào nói riêng. Theo quy định của Hiến pháp, hệ thống tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Lào gồm Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. * Chính phủ Chính phủ nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của toàn quốc. Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. Chính phủ do Quốc hội thành lập, nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội. Trong trường hợp Quốc hội hết nhiệm kì, Chính phủ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình cho đến khi Quốc hội bầu ra Chính phủ khoá mới. Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ chủ quyền đất nước; bảo vệ tổ quốc; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ tài sản của Nhà nước và của nhân dân; bảo đảm tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân. Chính phủ hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động của Chính phủ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào. Trong hoạt động của mình, Chính phủ phải phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng nhân dân. + Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ Chính phủ nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Thống nhất quản lí việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; bảo đảm việc sử dụng tài sản của Nhà nước có hiệu quả nhất; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân; - Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước để đề nghị Quốc hội xem xét thông qua; - Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong cả nước; tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật, giáo dục công dân ý thức tôn trọng Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; - Trình dự án luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội; ban hành nghị quyết, nghị định về hoạt động quản lí hành chính nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng và hoạt động đối ngoại; - Tăng cường và củng cố nền quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; thực hiện các biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; - Đình chỉ thi hành và bãi bỏ quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ, uỷ ban nhà nước, quyết định của chính quyền địa phương trái với Hiến pháp, pháp luật và các văn bản pháp quy của Chính phủ; - Quyết định thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh; - Quản lí công tác đối ngoại của Nhà nước; trình Chủ tịch nước quyết định việc kí kết, phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; tổ chức kí kết, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào kí kết hoặc gia nhập; - Thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.[62] + Thủ tướng Chính phủ Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo công tác của các thành viên Chính phủ. Thủ tướng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Triệu tập và làm chủ toạ các phiên họp của Chính phủ. Chỉ đạo, kiểm tra các thành viên Chính phủ trong việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ; - Đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, chủ nhiệm uỷ ban nhà nước, đại sứ đặc mệnh toàn quyền ngoại giao của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ở nước ngoài, tỉnh trưởng, thị trưởng (đối với thành phố), trưởng khu hành chính đặc biệt; - Đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm các chức vụ cao cấp trong các lực lượng vũ trang; - Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thứ trưởng, phó chủ nhiệm uỷ ban nhà nước, phó tỉnh trưởng, phó thị trưởng, phó thủ trưởng khu vực đặc biệt và huyện trưởng; - Thay mặt Chính phủ báo cáo công tác trước Quốc hội và chủ tịch nước; uỷ quyền cho Phó Thủ tướng khi đi vắng; - Thực hiện nhiệm và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. + Cơ cấu tổ chức của Chính phủ Theo quy định của Hiến pháp năm 1991, Chính phủ gồm có các bộ và các uỷ ban nhà nước. Cụ thể hoá quy định đó của Hiến pháp, Sắc lệnh số 31 của Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ra ngày 26/3/1993 quy định Chính phủ có 14 bộ và 4 cơ quan ngang bộ, gồm: Bộ quốc phòng, Bộ nội vụ; Bộ giáo dục và đào tạo; Bộ thương nghiệp; Bộ nông-lâm; Bộ y tế; Bộ công nghiệp và thủ công nghiệp; Bộ thông tin-văn hoá; Bộ lao động và phúc lợi xã hội; Bộ ngoại giao; Bộ giao thông vận tải; Bộ bưu điện và xây dựng; Bộ tư pháp; Bộ tài chính; Văn phòng Chính phủ; Ngân hàng nhà nước; Uỷ ban kế hoạch nhà nước; Ban tổ chức cán bộ Chính phủ. Theo tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, trên cơ sở kết quả thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước Lào, Hiến pháp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào năm 1991 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003 nhằm tạo nền tảng pháp lí vững chắc cho quá trình tiếp tục khắc phục những điểm yếu của bộ máy hành chính nhà nước. Hiến pháp sửa đổi năm 2003 khẳng định địa vị của Chính phủ là cơ quan hành pháp của Nhà nước nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (executive branch of state). Các nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được Hiến pháp quy định gồm 9 điểm như sau: - Thi hành Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh của Chủ tịch nước; - Trình dự thảo luật trước Quốc hội, dự thảo pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội; - Quy định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm trình Quốc hội xét và phê chuẩn; - Báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (khi Quốc hội không họp) và báo cáo trước Chủ tịch nước; - Ra các quyết định về quản lí kinh tế-xã hội, khoa học, kĩ thuật, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; - Tổ chức chỉ đạo và kiểm tra hoạt động của các ngành và chính quyền địa phương; - Tổ chức và kiểm tra hoạt động của các lực lượng quốc phòng, an ninh; - Kí hiệp ước, hiệp định với nước ngoài và chỉ đạo việc thi hành các hiệp ước, hiệp định đó; - Đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ các quyết định, chỉ thị của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chính quyền địa phương trái pháp luật. Ngoài 9 nhiệm vụ quyền hạn cụ thể nêu trên, Chính phủ còn thực hiện những quyền hạn, nhiệm vụ khác theo luật định. Điều 7 Luật tổ chức Chính phủ năm 2003 đã cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp hiện hành thành 15 quyền hạn và nhiệm vụ, đó là: - Thực hiện hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, sắc lệnh, pháp lệnh của Chủ tịch nước, tổ chức tuyên truyền pháp luật, giáo dục việc tôn trọng pháp luật, quy định các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; - Xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước đề nghị Quốc hội xem xét và phê chuẩn; - Quản lí thống nhất việc xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng cơ sở kinh tế, văn hoá - xã hội, khoa học và kĩ thuật, thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ, quản lí và đảm bảo việc sử dụng hiệu quả tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân theo quy định của hiến pháp và pháp luật; - Báo cáo hoạt động của mình trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; - Nghiên cứu xây dựng và trình dự thảo luật trước Quốc hội, dự thảo pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội; - Nghiên cứu và trình dự thảo sắc lệnh của Chủ tịch nước; - Ban hành nghị định và quyết định về quản lí nhà nước, quản lí kinh tế - xã hội, khoa học, kĩ thuật, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; an ninh quốc phòng và quan hệ đối ngoại; - Tổ chức, lãnh đạo, quản lí và giám sát mọi hoạt động của các ngành nghề và cơ quan chính quyền địa phương để bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả pháp luật; - Tổ chức và quản lí thống nhất về dân số trên phạm vi cả nước; - Củng cố và tăng cường kiểm tra việc bảo vệ quốc phòng, bảo vệ an ninh-trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện mệnh lệnh và kỷ luật quân đội cần thiết để bảo vệ an ninh quốc phòng; - Đình chỉ hoặc xoá bỏ các quyết định, chỉ thị, hướng dẫn và thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác trực thuộc trực tiếp Chính phủ và cơ quan chính quyền địa phương nếu các cơ quan này thực thi công việc trái với pháp luật. - Quyết định thành lập hoặc giải thể huyện và điều chỉnh địa giới giữa các huyện theo đề nghị của huyện trưởng và thị trưởng thành phố. - Tổ chức, thực hiện và giám sát việc thanh tra nhà nước nhằm phát hiện ra các vi phạm pháp luật, tham nhũng và các yếu kém khác; giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức và các cơ quan quản lí nhà nước ở mỗi cấp theo quy định của pháp luật. - Hợp tác, thương lượng, kí các hiệp định và thoả thuận với các quốc gia khác, quản lí và giám sát quan hệ đối ngoại và việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận đã kí. Về cơ cấu thành viên, Chính phủ gồm có Thủ tướng Chính phủ, các Phó thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Hiện nay, tổ chức Chính phủ gồm có Văn phòng Chính phủ, 12 bộ và 2 cơ quan ngang bộ. Cụ thể là: Bộ ngoại giao; Bộ nội vụ; Bộ tư pháp; Bộ lao động và phúc lợi xã hội; Bộ văn hoá-thông tin; Bộ y tế; Bộ giáo dục; Bộ thương mại và công nghiệp; Bộ tài chính; Bộ giao thông vận tải, bưu chính viễn thông và xây dựng; Bộ nông nghiệp và lâm nghiệp; Uỷ ban kế hoạch và đầu tư; Ngân hàng nhà nước; Bộ quốc phòng. Hiến pháp sửa đổi năm 2003 cũng dành một vị trí đặc biệt cho Thủ tướng Chính phủ trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương đáp ứng yêu cầu của quản lí hành chính nhà nước trong điều kiện mới của đất nước. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng đóng vai trò là người trực tiếp chỉ đạo điều hành công việc của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương. Thủ tướng Chính phủ có quyền bổ nhiệm, điều động và bãi nhiệm thứ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cục trưởng, phó tỉnh trưởng, phó thị trưởng; nâng ngạch bậc và tước vụ đại tá trong lực lượng vũ trang và các chức vụ khác theo luật định. 2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào hiện nay. 2.3.1. Những ưu điểm Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà Nước và nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Đời sống xã hội của nhân dân được nâng lên rõ rệt, nền hoà bình ổn định về Chính trị - quốc phòng được củng cố. Hoạt động quan hệ hợp tác, giao lưu quốc tế có những bước tiến lớn. Trong những yếu tố quyết định đến những thành tựu đó chúng ta dễ dàng có thể nhìn thấy những đóng góp to lớn từ sự điều hành hiệu quả của Chính phủ Việt Nam qua các thời kỳ. Hiến pháp năm 1992 và các văn bản pháp luật sau này đã tạo dựng một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của Chính phủ, để từ đó Chính phủ có thể phát huy được vai trò và vị trí của mình trong hoạt đồng điều hành nền kinh tế- xã hội của đất nước. Đánh giá thực trang tổ chức và hoạt động của Chính phủ, dưới góc độ của một lưu học sinh Lào được học tập và nghiên cứu tại Việt Nam tác giả nhận thấy: - Chính phủ Việt Nam đã thực sự trở thành một cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất theo tinh thần của Hiến Pháp Việt Nam và nguyện vong của nhân dân Việt Nam. - Chính phủ Việt Nam đã hoạt động rất hiệu quả trong việc điều hành nền kinh tế thoát khỏi khó khăn cũng như vươn lên đạt nhiều thành tựu trong giai đoạn mới. - Với đặc điểm đông về dân cư và nhiều về địa giới hành chính, nhưng Chính phủ Việt Nam đã quản lý thành công và thực hiện được những mục tiêu kinh tế- xã hội quan trọng mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra. Xuất phát từ góc độ và mục tiêu nghiên cứu đề tài của một lưu học sinh Lào tại Việt Nam, tác giả xin phép được tập trung những đánh giá của mình vào tổ chức và hoạt động của Chính Phủ Lào để đảm bảo tính tập trung trong nghiên cứu của luận văn. Trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, theo Hiến pháp sửa đổi năm 2003, tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào tiếp tục được củng cố và trở thành yếu tố đảm bảo cho công cuộc đổi mới đất nước đi vào chiều sâu. Nhìn một cách khái quát, có thể thấy những thành tựu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động Chính phủ Lào hiện nay được thể hiện trên một số điểm cơ bản sau: Từ chỗ quy định Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với tính chất là một tập thể lãnh đạo, quản lí, chuyển sang nền kinh tế thị trường, cơ quan đó được quy định là Chính phủ. Đây không chỉ là sự thay đổi tên gọi mà là sự thể hiện nguyên tắc mới trong việc tổ chức cơ quan hành pháp đồng thời là cơ quan đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước. Bước vào thời kì đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, yêu cầu về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng đã có sự thay đổi căn bản do có sự thay đổi về chức năng của nhà nước. Bộ máy hành chính nhà nước lúc này không phải phình ra tỉ lệ thuận với cơ cấu ngành kinh tế và sự phát triển phong phú của các ngành, các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh để quản lí cho xuể mà ngược lại, trong điều kiện nhà nước thực hiện vai trò quản lí vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói riêng cần phải gọn nhẹ, đa năng, hiệu lực và hiệu quả. Trước yêu cầu đó, với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của đất nước, thực hiện vai trò thống nhất quản lí nhà nước trên toàn lãnh thổ, những năm qua, Chính phủ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã trải qua các bước cải cách, điều chỉnh về cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, tập trung vào thực hiện chức năng nhiệm vụ thống nhất quản lí hành chính nhà nước trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động nhà nước và xã hội, đảm bảo tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật, đảm bảo các quyền của công dân và tổ chức. Đến nay, cơ cấu tổ chức Chính phủ đã được điều chỉnh, sắp xếp lại gọn nhẹ và hợp lí hơn, tạo điều kiện để Chính phủ tập trung năng lực vào việc thực hiện chức năng của cơ quan đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước. Về số lượng, hiện nay Chính phủ Lào có Văn phòng Chính phủ, 13 bộ, 2 cơ quan ngang bộ. Ngoài ra còn có 7 cơ quan tương đương cục trực thuộc Chính phủ. So với trước năm 1986, con số đầu mối tổ chức bộ máy của Chính phủ đã giảm, trên cơ sở đó, các chức năng, nhiệm vụ mới của Chính phủ được điều chỉnh sắp xếp lại cho phù hợp. Một số cơ quan mới đã được thành lập để thực hiện vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Về thành viên Chính phủ, Hiến pháp quy định rõ Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. - Củng cố lại một bước chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của các bộ, cơ quan ngang bộ. Trên cơ sở văn bản pháp luật của nhà nước, các bộ, cơ quan ngang bộ cũng đã tiến hành củng cố tổ chức bộ máy của mình (các cục, vụ, văn phòng…), sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ cấu đó; bố trí sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức cho phù hợp với khả năng, trình độ của mỗi người nhằm phát huy tối đa khả năng của họ. Chính phủ tiếp tục chỉ đạo, củng cố tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (được thành lập theo Nghị định của Chính phủ số 159 ngày 26/8/1996). Sau khi củng cố, Kiểm toán Nhà nước gồm các đơn vị: Cục kiểm toán các cơ quan nhà nước và các đơn vị kinh doanh; Cục kiểm toán dự án đầu tư và hợp tác đối ngoại; phòng quản lí hành chính. - Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh lại chức năng một số uỷ ban nhà nước, chuyển một số công việc do các uỷ ban này phụ trách cho Vụ tổ chức cán bộ, công chức thuộc Văn phòng Chính phủ. - Tiếp tục củng cố chức năng của Uỷ ban trung ương chỉ đạo hướng dẫn phát triển nông thôn theo hướng chuyển giao công tác nghiên cứu chỉ đạo thực hiện chính sách vĩ mô và công tác chỉ đạo hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nông thôn cho Bộ nông nghiệp-lâm nghiệp và địa phương thực hiện. - Nhìn chung, có được cơ cấu tổ chức Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào như hiện tại là kết quả của quá trình đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong 20 năm qua. + Về phát triển đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước Bước vào thời kì đổi mới đất nước, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào chú trọng đổi mới đội ngũ cán bộ công chức nhà nước nói chung, cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nói riêng theo yêu cầu của tình hình mới. Những thành tựu chủ yếu về công tác cán bộ công chức hành chính của Lào được thể hiện trên những nét cơ bản sau: - Đảng và Nhà nước Lào đã ban hành hàng loạt các nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Từ Hội nghị công tác cán bộ toàn quốc lần thứ 7 họp tại Viêng-chăn năm 1991, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã đề ra đường lối rõ ràng về công tác cán bộ công chức cũng như củng cố bộ máy hành chính nhà nước gọn nhẹ vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả. Ngày 11/11/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 171/TTg về quy chế viên chức nhà nước Lào. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến công tác cán bộ như Quyết định số 172/TTg ngày 11/11/1993 về cấp bậc, chức vụ cán bộ, Quyết định số 173/TTg ngày 11/11/1993 về chức vụ điều hành của cán bộ dân sự, Quyết định số 175/TTg ngày 25/11/1993 về chế độ lương mới, Quyết định số 176/TTg ngày 25/11/1993 về tiêu chuẩn nghỉ hưu và tiền trợ cấp. Các bộ, ngành như giáo dục, công nghiệp, tài chính… còn xây dựng các văn bản cụ thể hoá các quy định trên để áp dụng cho phù hợp với đặc điểm của ngành. Để tăng cường công tác cán bộ, gần đây Nhà nước Lào đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế cho Quyết định số 171/TTg ngày 11/11/1993, đó là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 82/TTg ngày 19/5/2003. Đây được coi là văn bản quan trọng nhất để Nhà nước Lào quản lí viên chức một cách thống nhất trên toàn quốc trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền. - Số lượng cán bộ công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước được tăng cường đáp ứng nhu cầu nhân lực quản lí đất nước trong tình hình mới. Bên cạnh đó, so với trước Hiến pháp năm 1991, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức hành chính đã được nâng lên một bước quan trọng. - Cơ chế tuyển chọn cán bộ cho các cơ quan hành chính nhà nước cũng được cải tiến một bước. Nhìn chung, từ khi thực hiện đổi mới, công tác quản lí cán bộ trong bộ máy hành chính nhà nước Lào đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Đó là Chính phủ đã quản lí được đội ngũ cán bộ và quỹ lương, các quy chế về cán bộ công chức tạo cơ sở pháp lí cho họ thực hiện chức trách và quyền hạn của mình một cách thuận lợi. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định và phát triển hệ thống hành chính nhà nước. Từ sau Đại hội IV của Đảng nhân dân cách mạng Lào năm 1986 đến nay, Đảng đã thực hiện chính sách đổi mới toàn diện mà một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đổi mới về kiện toàn đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, mạnh về chất lượng nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển đất nước. 2.3.2. Một số vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh những kết quả đã đạt được như trên, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức của Chính phủ Lào hiện vẫn còn những điểm hạn chế và bất cập như sau: - Hiệu quả hoạt động của Chính phủ vẫn còn nhiêu bất cập. Việc ban hành văn bản pháp quy còn gây ra sự chồng chéo, thiếu tính thực tế trong việc triển khai để các văn bản đi vào cuộc sống. - Sự phân công chức năng, nhiệm vụ quyền hạn giữa các bộ ngành, cơ quan tương đương chưa cụ thể và đồng bộ dẫn đến tình trạng trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan nhà nước gây ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước. - Số lượng bộ máy giúp việc của các bộ, cơ quan ngang bộ có xu hướng tăng nhanh. Con số thống kê cho thấy bộ máy cấp vụ tăng lên đáng kể trong khoảng thời gian từ năm 2000 (168 vụ) đến năm 2004 (190 vụ).[45] Điều này làm cho bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương vẫn cồng kềnh trong khi năng lực quản lí chưa được cải thiện một cách căn bản, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước nói chung. - Chức năng quản lí vĩ mô của các bộ, cơ quan ngang bộ đối với ngành hoặc lĩnh vực liên ngành trong phạm vi cả nước chưa được pháp luật quy định rõ ràng nên việc tổ chức thi hành trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn trên thực tế khó xác định công việc nào chịu sự quản lí trực tiếp của bộ hoặc địa phương và công việc nào phải được sự thống nhất thực hiện giữa trung ương và địa phương. - Việc quy định vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của một số bộ, cơ quan ngang bộ và bộ máy giúp việc vÉn chưa rõ ràng và thống nhất. Nội dung quản lí điều hành của một số bộ, cơ quan ngang bộ vÉn chưa được quy định một cách cụ thể hợp lí. - Trong cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ còn bộc lộ nhiều bất cập, chẳng hạn chưa có sự phân định rõ ràng giữa vụ và cục; quyền hạn và trách nhiệm của các cục cũng chưa được quy định rõ dẫn đến tình trạng lúng túng trong hoạt động hoặc hoạt động chồng chéo thẩm quyền. - Sự phân cấp giữa trung ương và địa phương trong quản lí hành chính nhà nước chưa hợp lí, làm cho địa phương chưa phát huy được vai trò chủ động sáng tạo trong điều hành công việc ở địa phương đồng thời làm cho hoạt động của bộ máy hành chính ở trung ương ôm đồm, sự vụ, kém hiệu quả. + Về đội ngũ cán bộ, công chức trong Chính phủ Bên cạnh những kết quả đã đạt được rất đáng trân trọng về đào tạo bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong Chính phủ nói riêng và bộ máy hành chính nói chung trong những năm qua, thực trạng đội ngũ cán bộ công chức ở Lào hiện nay còn những bất cập, biểu hiện chủ yếu trên những khía cạnh sau: - Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức đã tăng lên so với thời kì trước đổi mới nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lí hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay; - Một số cán bộ công chức thiếu bản lĩnh chính trị vững vàng, có hiện tượng quan liêu, tham nhũng; - Việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về cán bộ công chức chưa thống nhất, đồng bộ: Một số quy định của Chính phủ đã không được triển khai thực hiện nghiêm túc, dẫn đến tình trạng mỗi bộ, ngành làm theo cách riêng của mình. Điều này thể hiện trong công tác thi tuyển và thi nâng ngạch bậc cho cán bộ công chức, kỉ luật cán bộ công chức, giải quyết chế độ hưu trí và các chính sách xã hội cho cán bộ công chức; - Công tác đào tạo cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền hành chính hiện đại: Công tác này chưa thực sự mang lại những thay đổi căn bản về chất cho đội ngũ cán bộ công chức, việc quy hoạch chưa được thực hiện đồng bộ, thiếu định hướng; việc xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều bất cập, chưa sát với thực trạng của đội ngũ cán bộ, thiếu tính cập nhật về đời sống kinh tế-xã hội. Do vậy gây lãng phí về thời gian, ngân sách của nhà nước, trong khi đó chất lượng còn ở mức thấp. Việc quản lí chất lượng đào tạo chưa gắn với yêu cầu sử dụng, các quy định về quản lí chất lượng đào tạo còn chung chung, thiếu tính cụ thể; chương trình bồi dưỡng lí luận chính trị, quản lí nhà nước còn sơ sài, chủ yếu chỉ giới thiệu những khái niệm cơ bản, nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn bức thiết chưa được nhận thức và giải quyết. Việc phân cấp quản lí đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với phân cấp quản lí cán bộ, công chức. Do vậy, công tác đào tạo và quy hoạch cán bộ công chức hành chính vẫn chưa đồng bộ với nhau (nhiều trường hợp quy hoạch luân chuyển cán bộ công chức rồi mới cho đi đào tạo, bồi dưỡng, trong khi đó theo nguyên tắc chỉ những người đã có trong quy hoạch thì mới được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cho từng chức danh); - Việc nghiên cứu, cải cách các quy chế về quản lí cán bộ công chức còn chậm chạp, kéo dài; nhiều quy chế cần thiết chưa được ban hành dẫn đến việc quản lí gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn như các quy chế tuyển dụng, sắp xếp, nâng ngạch, bậc, cấp, chức vụ, khen thưởng, kỉ luật… Chế độ thi tuyển và thi nâng ngạch chưa thật sự đáp ứng mục đích, yêu cầu đặt ra là chọn người tài, đức và đảm bảo tính dân chủ, công khai, công bằng trong thi tuyển công chức; quy định trong tuyển dụng được áp dụng chung cho mọi đối tượng công chức mà không tính đến những đặc thù của từng bộ, ngành. Bên cạnh đó, còn có hiện tượng thực hiện đúng quy trình tuyển chọn cán bộ, công chức, vẫn thiếu nghiêm túc, minh bạch trong quá trình tuyển chọn; - Công tác thống kê về cán bộ công chức làm cơ sở cho quản lí đội ngũ cán bộ công chức chưa được thực hiện tốt. 2.3.3. Nguyên nhân - Những nguyên nhân khách quan Vốn cùng là nước nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển lại bị chiến tranh tàn phá, mấy chục năm bị chia cắt dưới chế độ thực dân và đế quốc xâm lược. Những hậu quả của chế độ cũ để lại trên nhiều mặt kinh tế, văn hoá, xã hội không thể khắc phục một sớm một chiều; việc phát triển nền kinh tế mới và trên cơ sở đó xây dựng hệ thống chính trị nói chung và bộ máy nhà nước kiểu mới nói riêng là cả quá trình lâu dài và rất phức tạp. Trình độ văn hoá, ý thức xã hội của nhân dân còn chưa cao, nhiều vùng, miền còn rất khó khăn về giao thông, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống người dân còn nghèo… Việt Nam và Lào đang xây dựng theo mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi trên thực tế hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã bị tan rã. Những kinh nghiệm xây dựng bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính ở các nước hiện nay nói chung không thể áp dụng một cách rập khuôn vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Do vậy, quá trình đổi mới ở Việt Nam và Lào hiện nay chủ yếu là quá trình Đảng, Nhà nước và nhân dân phải vừa tiến hành vừa rút kinh nghiệm tự chính bản thân đất nước mình mà không theo mô hình nào có trước. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng những kinh nghiệm đổi mới và cải cách nền hành chính ở Việt Nam - người bạn láng giềng gần gũi, thuỷ chung nhất của Lào cũng có sự ảnh hưởng lớn và rất tích cực đến công cuộc đổi mới và cải cách ở Lào xét trên bình diện những thành công và cả những tồn tại, thách thức. - Những nguyên nhân chủ quan Đây phải coi là những nguyên nhân chủ yếu cần nghiên cứu để khắc phục. Đó là những nguyên nhân sau: Một là hệ thống thể chế nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước Lào hiện nay chưa hoàn chỉnh. Việc xây dựng pháp luật, thể chế hoá đường lối chính sách đổi mới của Đảng còn chậm, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đồng bộ, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới; Hai là việc tổ chức thi và ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; Ba là nhận thức của cán bộ về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước chưa đồng đều, chưa thống nhất; Bốn là công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công chức hành chính hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Việc chỉ ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đây giúp cho việc nghiên cứu xác định phương hướng và những giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng bất cập và tồn tại trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước Lào hiện nay. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VÀ LÀO 3.1 Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào hiện nay Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ cần được nhận thức với những nội dung căn bản như sau: - Tổ chức và hoạt động của Chính phủ đảm bảo nguyên tắc phục vụ nhân dân, lấy sự phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc làm ăn, kinh doanh và sinh sống làm mục tiêu cao cả, niềm vinh quang của bộ máy chính quyền và mỗi cán bộ công chức; - Đảm bảo để nhân dân tham gia được nhiều nhất, tốt nhất vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước; các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều phải dựa trên các căn cứ pháp luật, đảm bảo tính công khai, minh bạch; - Xây dựng cơ chế pháp lí để nhân dân và các tổ chức xã hội góp ý, phản biện đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các đề án, chương trình phát triển kinh tế-xã hội của chính quyền từ trung ương đến cơ sở, nhất là những dự án, dự thảo, đề án có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các nhóm xã hội liên quan; - Tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải đảm bảo tính thân thiện với dân; người dân có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu biết; có cơ chế pháp lí cho nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, chống quan liêu tham nhũng. Người dân có quyền và có điều kiện thực tế để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện với các việc làm sai trái, vi phạm pháp luật và đạo đức của các cơ quan và người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính; - Tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải đảm bảo tính an toàn, tin tưởng và tốt nhất cho người dân: Điều này đòi hỏi các cơ quan và nhân viên hành chính nhà nước không chỉ biết hành động trên cơ sở công vụ mà còn phải dựa trên nền tảng đạo đức vì dân. Pháp luật không thể quy định một cách đầy đủ những nghĩa vụ pháp lí mà cơ quan và nhân viên hành chính nhà nước phải làm những điều tốt nhất cho dân. Đạo đức công vụ có vai trò ngày càng quan trọng trong nền hành chính hiện đại vì nó tạo nền tảng vững chắc, bổ sung và lấp đầy những chỗ trống của pháp luật. Một số định hướng trong tổ chức và dạot động của Chính phủ Lào: Xây dựng Chính phủ thích ứng với nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Nhà nước đóng vai trò là người trực tiếp tổ chức điều hành nền sản xuất xã hội. Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa là người nắm quyền lực công; vừa thực hiện vai trò quản lí kinh tế vừa là nhà kinh doanh. Mặt khác, Nhà nước còn đóng vai trò là người cung cấp hầu hết các dịch vụ công ích, người tổ chức và điều hành toàn bộ các hoạt động sự nghiệp. Trong điều kiện một nền hành chính trực tiếp như vậy, tổ chức của Chính phủ càng phải vươn ra, phình to theo sự phân chia các hoạt động kinh tế-xã hội thành nhiều ngành, nhiều cấp để quản lí, điều hành. Đó là lí do cho sự tồn tại một bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh và quan liêu trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò, chức năng của nhà nước đã thay đổi một cách căn bản. Bản chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hoạt động tự do, tự định đoạt trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể độc lập trong kinh doanh. Do vậy, Chính phủ với tư cách là người nắm quyền hành pháp phải đóng vai trò trọng tài, duy trì trật tự theo luật pháp để cho các hoạt động kinh tế-xã hội được vận hành một cách tự do, an toàn và đạt hiệu quả. Nhà nước quản lí ở tầm vĩ mô, đảm bảo môi trường thuận lợi và hỗ trợ khi cần thiết cho các hoạt động kinh tế-xã hội mà không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động tác nghiệp của các chủ thể kinh tế-xã hội Có thể nhận thức được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trên những nét chủ yếu như sau: Bộ máy Chính phủ cần phải tinh gọn Về nguyên tắc, bộ máy hành chính phải đáp ứng yêu cầu phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo các quyền con người, nó không thể trở thành gánh nặng hay sự cản trở phát triển kinh tế-xã hội. Yêu cầu tinh gọn là tất yếu khách quan của chính các quan hệ kinh tế-xã hội đối với tổ chức của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, như trên đã phân tích vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là quản lí ở tầm vĩ mô (vai trò gián tiếp so với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung) nên mỗi cơ quan trong Chính phủ cần phải thực hiện sự quản lí tổng hợp, đa năng đối với ngành, lĩnh vực được phân công ở phạm vi tất cả các thành phần kinh tế chứ không chỉ riêng đối với kinh tế nhà nước. Hoạt động của Chính phủ cần có hiệu lực và hiệu quả hơn Nền kinh tế thị trường đòi hỏi một bộ máy hành chính nhà nước thống nhất, mạnh mẽ, đó là điều có tính quy luật. Sự mạnh mẽ của quyền lực nhà nước trong thế giới hiện đại thể hiện chủ yếu ở quyền hành pháp và hệ thống hành chính nhà nước. Đây cũng chính là đặc điểm phổ biến của các nhà nước trên thế giới hiện nay. Bởi lẽ nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh một cách bình đẳng nhưng cũng với nhiều diễn biến rất phức tạp, mau lẹ, khó lường và trong nó cũng chứa đựng nhiều nguy cơ mất ổn định, mất trật tự và nhiều hành vi vi phạm, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể và của xã hội nói chung. Trong nền kinh tế thị trường, một trong những đòi hỏi khách quan đối với tổ chức và hoạt động của Chính phủ là phải tiết kiệm và hiệu quả. Không thể tổ chức và duy trì hoạt động một hệ thống hành chính không có hiệu quả, gây lãng phí cho nhà nước và cho xã hội. Nói cách khác, bộ máy nhà nước nói chung, Chính phủ nói riêng phải là tấm gương sáng cho sự tận tụy phục vụ xã hội, cho việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả những đồng tiền vốn mà xã hội và nhà nước đầu tư vào đây. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải dựa trên quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở hệ thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với các quy luật vận động mang tính khách quan của nền kinh tế-xã hội nhằm mục tiêu vì con người, cho con người. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động của toàn thể bộ máy nhà nước và các nhân viên nhà nước đều đặt trên cơ sở pháp luật, trong phạm vi được giới hạn bởi pháp luật. Trong khi đó, người dân có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, không trái với các quy tắc đạo đức xã hội hay quy tắc sinh hoạt cộng đồng. Nhà nước pháp quyền từ những ý niệm, quan điểm đơn lẻ, cục bộ về việc chế ngự quyền lực nhà nước để tránh sự lạm dụng nó, do một số nhà tư tưởng, nhà triết học đưa ra đã trở thành một học thuyết hoàn chỉnh, thể hiện niềm mơ ước và khát vọng về một nền dân chủ của hàng nghìn thế hệ con người. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải dựa trên quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, không thực hiện sự phân lập (phân chia, biệt lập) trong tổ chức và hoạt động giữa các cơ quan nắm các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào hiện nay không thể thoát li nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước bởi lẽ trong nhà nước pháp quyền, việc xây dựng hệ thống hành chính trong sạch, vững mạnh không thể không xuất phát từ việc xây dựng Chính phủ - cơ quan thực thi quyền hành pháp và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của đất nước - một trong ba đầu mối thực thi và đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước xét trong mối liên hệ giữa các cơ quan được phân công thực thi ba quyền đó. Quan điểm đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước đặt ra các yêu cầu sau đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước: - Chính phủ - cơ quan đứng đầu trong hệ thống hành chính nhà nước do Quốc hội lập ra, nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội; - Hoạt động của Chính phủ và cả bộ máy hành chính đảm bảo tính chấp hành đối với các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành; Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Quốc hội; - Hoạt động của Chính phủ được đặt dưới quyền giám sát tối cao của Quốc hội; - Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền trong các cơ quan đó được đặt dưới quyền phán xét của cơ quan tư pháp khi có khiếu kiện của công dân, tổ chức cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan và người có thẩm quyền trái pháp luật, xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của họ. 3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước Lào - Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ . Hệ thống thể chế hành chính của Chính Phủ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay vẫn chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Để đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ một cách căn bản nhất thì trước hết cần phải có quan điểm tổng thể, toàn diện, mang tầm chiến lược. Điều này chỉ có thể triển khai trên cơ sở việc nghiên cứu, xác định đầy đủ những nhu cầu quản lí hành chính nhà nước hiện nay, xây dựng hệ thống thể chế hành chính nhà nước một cách đồng bộ, trong đó có các quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ được thể chế hoá thành hệ thống các quy định chặt chẽ, trong đó đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phân công, phân cấp rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn từ trung ương đến cơ sở và đến mỗi chức vụ là điều kiện tiên quyết để bộ máy Chính phủ phát huy được vai trò, tác dụng trong quản lí đất nước, xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội theo những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước Lào đề ra. Trong thời gian tới, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào cần khẩn trương ban hành các đạo luật nhằm bổ sung và hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương như Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ dựa trên những chủ trương, định hướng có tính chiến lược, lâu dài về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước của Đảng. Vấn đề không phải đơn thuần chỉ là thu gọn số đầu mối các cơ quan của Chính phủ (bộ, cơ quan ngang bộ) mà phải cải cách bộ máy các cơ quan đó với một cơ cấu hợp lí theo các chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan trong điều kiện nền kinh tế thị trường; Trong việc quy định thẩm quyền của các cơ quan đó cần chú trọng chức năng quản lí vĩ mô của nhà nước, xoá bỏ chế độ chủ quản hành chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, xoá bỏ cơ chế xin cho, loại trừ các hành vi can thiệp có tính chất hành chính vào hoạt động nghiệp vụ của các cơ sở kinh tế, sự nghiệp; Nhà nước Lào thực hiện chủ trương xã hội hoá đối với hầu hết các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao và các loại hình dịch vụ công khác. Hoạt động chính của bộ máy hành chính nhà nước lúc này là nghiên cứu, tổng hợp, đề ra các chính sách, chiến lược, đề án phát triển kinh tế xã hội, ban hành các quy định luật pháp xác định trật tự quản lí hành chính, kiểm tra và xử lí những hành vi vi phạm, tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế-xã hội đạt được các mục tiêu phát triển của đất nước. - Thứ hai, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Bộ máy Chính phủ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong thời gian qua đã được điều chỉnh một bước, số lượng đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ giảm, cơ cấu của Chính phủ đã gọn nhẹ hơn trước. Tuy nhiên, để hoạt động của Chính phủ cũng như mỗi cơ quan của Chính phủ có hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu quản lí đất nước trong tình hình mới cần đẩy mạnh việc thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: + Cần xác định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ với tư cách cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của quốc gia và tư cách người lãnh đạo tập thể Chính phủ. Thực tế cho thấy số lượng công việc, văn bản do Thủ tướng ban hành nhiều gấp nhiều lần so với số lượng công việc, văn bản do Chính phủ ban hành; phương thức hoạt động tập thể của Chính phủ, họp 1 lần trong 1 tháng không bảo đảm cho Chính phủ có khả năng giải quyết toàn bộ những nhiệm vụ và quyền hạn mà Hiến pháp và luật trao cho. Vì vậy, cần tăng cường thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ, trao cho Thủ tướng thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức. + Cần phân định rõ ràng giữa nhiệm vụ, quyền hạn của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách thành viên của tập thể Chính phủ với nhiệm vụ và quyền hạn với tư cách người lãnh đạo, “tổng tư lệnh” của ngành, lĩnh vực, người đứng đầu cơ quan của Chính phủ; + Rà soát, điều chỉnh chức năng các bộ, cơ quan ngang bộ sao cho đảm bảo được tính thống nhất, toàn diện của quản lí hành chính, tránh sự chồng chéo trùng lắp; + Cần xác định rõ nguyên tắc tổ chức bộ trong luật tổ chức chính phủ, bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức của Chính phủ. Ví dụ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành đa lĩnh vực, nguyên tắc phân công phối hợp giữa các bộ ngành trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; + Sửa đổi, bổ sung nghị định quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ bảo đảm không chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn nhưng đồng thời không bỏ xót lĩnh vực quản lý nhà nước; + Củng cố tổ chức bộ máy và hoạt động đối với một số bộ thiết yếu trong việc quản lí nền kinh tế-xã hội như Bộ tài chính, Bộ giao thông vận tải, Bộ bưu chính, viễn thông và xây dựng, Bộ nông nghiệp và lâm nghiệp… + Phân định rõ phạm vi, chức năng, quyền hạn, cơ chế phối hợp, kiểm tra giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan của Chính phủ; + Phân định rõ chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nưỡc, Chính phủ và chức năng quản lí nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ; xác định cơ chế hợp lí phối, kết hợp giữa các chức danh lãnh đạo cấp uỷ Đảng (bí thư Đảng uỷ) và người đứng đầu cơ quan hành chính; + Trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan của Chính phủ, cần tích cực thực hiện việc xác định lại tổ chức bộ máy hợp lí đối với mỗi cơ quan đó. Trong mỗi cơ quan, cần dựa trên cơ sở khoa học thống nhất và có tính đến yếu tố đặc thù của mỗi bộ, cơ quan ngang bộ mà xác định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cục, vụ, văn phòng; khắc phục xu hướng tăng bất hợp lí số lượng đầu mối bộ máy giúp việc cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ như hiện nay. PHẦN KẾT LUẬN Thực tiễn cho thấy, thời gian qua tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào có những đổi mới nhất định, góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình chính trị, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, so với mục tiêu của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng nhân dân cách mạng Lào khởi xướng và lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào vẫn chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu. Cụ thể là tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở vẫn còn chưa hợp lí, bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả; chức năng của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước còn chồng chéo, chưa rõ ràng; văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ vừa thiếu vừa chưa đồng bộ, dẫn đến sự không thống nhất trong tổ chức và hoạt động của cơ quan này; đội ngũ cán bộ công chức tuy đã có bước phát triển lớn so với thời kì trước đổi mới nhưng nhìn chung số lượng vẫn còn thiếu và nhất là chất lượng còn thấp. Việc nghiên cứu tìm kiếm phương hướng và các giải pháp cụ thể để đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào hiện nay cần dựa trên cơ sở đúc kết thực tiễn, kinh nghiệm và truyền thống lịch sử dân tộc, nghiên cứu lí luận cơ bản cũng như tham khảo mô hình tổ chức, vận hành bộ máy Chính phủ của các nước tiên tiến trên thế giới, nhất là kinh nghiệm của Việt Nam - người bạn láng giềng gần gũi, nhất mực thuỷ chung của nhân dân các bộ tộc Lào DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU CỦA VIỆT NAM: Hiến pháp 1946; Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980; Hiến pháp 1992; Nghị định só 179/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ ban hành qui chế làm việc của Chính phủ; Quyết định số 1225/2007/QĐ-TG ngày 13/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh phân công người đứng đầu tổ chức phối hợp liên ngành do Thủ tướng Chính phủ thành lập; Nghị quyết liên tịch số 19/2008/NQLT-CP_UBMTTQVN ngày 22/08/2008 của Chính phủ, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam về việc ban hành qui chế phối hợp công tác của Chính phủ và UBMTTQVN; Sách: “Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 và hướng dẫn thi hành”, NXB.Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009; Sách: “Tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở một số nước trên thế giới”, PTS.Vũ Hồng Anh; Sách: “Luật Hiến pháp và chính trị học”, Nguyễn Văn Bằng, NXB Sài Gòn; Giáo trình Luật Hiến pháp, trường Đại học Luật Hà Nội; Quyết định số 119/2002/QĐ-TTg ngày 18/09/2002 ngày 17/09/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công công việc giữa Thủ tướng và các Phó Thủ tướng ; Nghị quyết số 23/2003/NĐ-CP ngày 12/03/2003 ngày 12/03/2003 của Chính phủ ban hành quy chế làm việc của Chính phủ ; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 và văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị quyết số 03/2002/QH11 ngày 08/08/2002 của Quốc hội về việc phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ và việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính Phủ; Nghị đinh số 23/2003/NĐ-CP ngày 12/03/2003 của Chính phủ về ban hành qui chế làm việc của Chính phủ; Quyết đinh số 165/2003/QĐ-TTg ngày 08/08/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành qui chế Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 210/2003/QĐ-TTg ngày 13/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc qui định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và qui chế hoạt động của Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 05/08/2002 của Quốc hội qui đinh danh sách các Bộ, Cơ quan ngang bộ của Chính phủ; Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ về việc qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, Cơ quan ngang Bộ. TÀI LIỆU CỦA LÀO: Dự án về tổ chức và hoạt động của Chính phủ nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, ngày 12 tháng 12 năm 1975. Dự án củng cố hành chính ở CHDCND Lào, báo cáo sự ra đời, vai trò quan hệ giữa Chính phủ và địa phương, lưu hành nội bộ, năm 1995, Viêng-chăn. Đảng nhân dân cách mạng Lào (1990), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI); Nxb. Quốc gia Lào; Viêng-chăn. Đảng nhân dân cách mạng Lào (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá IV); Nxb. Quốc gia Lào; Viêng-chăn. Đảng nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VIII; Nxb. Alun May, V; 2006. Hiến pháp của Vương quốc Lào; ngày 11 tháng 04 năm 1947. Hiến pháp Lào năm 1991, ngày 15/08/1991. Hiến pháp Lào sửa đổi năm 2003, số 32/QH ngày 06/05/2003, Nbx. Nhà nước, Viêng-chăn, 2003. Hai mươi lăm năm Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (2000), Nxb. Quốc gia Lào, Viêng-chăn. Học viện Chính trị và hành chính quốc gia Lào về công tác củng cố bộ máy tổ chức ở CHDCND Lào, lưu hành nội bộ, năm 1997, Viêng-chăn. Khăm Tay- XiPhănĐon (1995), Bài ý kiến trước cuộc họp cán bộ công chức toàn quốc (ngày 05/08/1995). Khăm Tay- XiPhănĐon (1988), Sự nghiệp giải phóng và xây dựng phát triển đất nước, Ủy ban tuyên truyền trung ương Đảng, Nbx: Quốc gia, Viêng-chăn. Lệnh của Chủ tịch nước Lào về những quy định cơ cấu tổ chức và bổ nhiệm các thành viên Chính phủ, số 31/CHDCND, ngày 26/02/1993. Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1978, số 100/CHDCND ngày 30/07/1978. Luật tổ chức Chính phủ năm 1995, số 02/QH, ngày 08/03/1995. Luật tổ chức Chính phủ năm 2003, số 02/QH ngày 06/05/2003,Cục hành chính và quản lý cán bộ-công chức, Nbx.Nhà nước, Viêng-chăn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào.doc
Luận văn liên quan