Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài Con người là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ, vì đó là điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Trong các khách thể nói trên tính mạng của con người là một trong những khách thể quan trọng nhất, vì lẽ đó không chỉ pháp luật của các quốc gia mà pháp luật quốc tế đều coi quyền sống con người là thiêng liêng không ai được xâm phạm. Luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều xác định hành vi xâm phạm tính mạng con người là hành vi có tính nguy hiểm rất cao và quy định những khung hình phạt rất nghiêm khắc. Tuy vậy, các hành vi xâm phạm tới tính mạng con người cũng có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Có những hành vi xâm phạm tính mạng con người có một số tình tiết làm giảm đi một cách đáng kể mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trong những trường hợp đó. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội danh mới được quy định tại Điều 95, BLHS 1999. Tuy tội phạm được thực hiện trong hoàn cảnh khả năng nhận thức và kiềm chế hành vi của người phạm tội bị hạn chế và chính nạn nhân cũng là người có lỗi nhưng vì tội phạm đã xâm hại đến khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ đó là tính mạng con người mà nguyên nhân xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân dẫn đến hành vi giết người của người phạm tội. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, phân tích rõ những dấu hiệu pháp lý, phát hiện, đồng thời đề xuất các kiến nghị giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn có liên quan đến tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh luôn luôn là vấn đề cần thiết và có nhiều ý nghĩa. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm để tài cho khóa luật tốt nghiệp của mình. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM . 3 1.1. Khái niệm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 3 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 5 1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 7 1.4. Đường lối xử lý tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 20 1.5. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội khác trong BLHS. 24 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH 31 2.1. Một số vấn đề lý luận. 31 2.2. Một số vấn đề thực tiễn . 36 2.3. Kiến nghị 42 KẾT LUẬN 46 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 47

doc50 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7733 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay đổi tính chất của tội phạm”(()Đinh Văn Quế , “TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm của con người”, Nxb chính trị - Quốc gia 1999 ) và nếu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được quy định là dấu hiệu định tội rồi thì không được coi là tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính tội đó nữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS, khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án không được tự ý xác định thêm những tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 nhưng Tòa án có thể coi các tình tiết khác chưa được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng phải được ghi rõ trong bản án. Vấn đề này được hướng dẫn tại Nghị quyết 01/HĐTP, ngày 19/04/1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Những tình tiết sau đây được coi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác: - Bị cáo hoặc vợ, chồng, cha, mẹ, con bị cáo là người có công có nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong những danh hiệu vinh dự như: Anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác; - Bị cáo là người có nhiều thành tích trong sản xuất, chiến đấu, công tác đã được nhận huân chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của chính phủ hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua; - Bị cáo là thương binh hoặc người thân thích như vợ, chồng, bố, mẹ hoặc con (con đẻ hoặc con nuôi) là liệt sĩ; - Bị cáo là người tàn tật bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác; - Bị cáo sau khi phạm tội đã lập công chuộc tội; - Người bị hại cũng có lỗi. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: khi xét xử phải xem xét đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm của tội; chỉ áp dụng hình phạt đối với người phạm một tội mà Bộ luật hình sự quy định; chỉ áp dụng những hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự; không xử phạt quá mức cao nhất của khung hình phạt; đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người không được áp dụng hình phạt tiền dù đó là hình phạt chính hay là hình phạt bổ sung vì hình phạt tiền sẽ gây tâm lý coi thường pháp luật, coi thường tính mạng con người, gây rồi loạn trật tự xã hội. Trên đây là đường lối xử lý chung được áp dụng trong quá trình xét xử tất cả các tội phạm, là cơ sở để chúng ta xác định đường lối xử lý cụ thể cho tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh một cách chính xác và đầy đủ. Điều 95 BLHS quy định hai khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cụ thể như sau: Khoản 1 Điều 95 quy định: “người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Khung hình phạt cơ bản của tội phạm áp dụng đối với trường hợp người phạm tội có hành vi giết một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm. Trong giới hạn của khung hình phạt này khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ Điều 45 BLHS cân nhắc để lượng hình chính xác. Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS Tòa án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn so với người phạm tội theo quy định tại Điều 47 BLHS. Khi có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 BLHS và không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể quyết định hình phạt cho người phạm tội đến ba năm tù và không được quá ba năm. Khoản 2 Điều 95 quy định: “giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm”. Giết nhiều người theo quy định của Điều luật là trường hợp giết từ hai người trở lên và giết nhiều người ở đây có thể là cùng một lần hoặc trong nhiều lần khác nhau và các lần phạm tội đó phải chưa bị xét xử bằng một bản án đã có hiệu lức pháp luật của Tòa án. Nếu hai người bị giết chỉ có một người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội còn những người khác không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc những người thân thích của người phạm tội thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 95 và tội giết người theo Điều 93 BLHS. Ví dụ sau sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn về vấn đề này: A đang ngồi uống rượu thì nghe hàng xóm báo là vợ A bị B đánh trọng thương, A liền chạy cầm dao chạy sang nhà B hỏi B tại sao đánh vợ mình thì nghe B nói với giọng thách thức, tức giận, A lao vào đòi chém B thì C là hàng xóm của B chạy ra can ngăn, sẵn dao trong tay, A đâm chết C rồi đâm liên tiếp nhiều nhát vào người B. C và B đều chết tại chỗ. Trong trường hợp này, B mới là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với vợ A chứ không phải C, C chỉ là người can ngăn hành vi phạm tội của A mà thôi. Nên A sẽ bị xử lý hai tội là tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) đối với hành vi giết B và tội giết người (Điều 93) đối với hành vi giết C. Tuy nhiên nếu có nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người bị giết chết, còn những người khác bị thương và có tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (khoản 1 Điều 95) và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo Điều 105 BLHS. Như vậy, theo quy định của Điều 95 BLHS thì cả hai khung hình phạt áp dụng đối với “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” là tù có thời hạn. Khi xử lý “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét và cân nhắc thật chính xác tinh thần của Điều luật để có quyết định đúng đắn, đảm bảo mục đích của hình phạt. 1.5. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội khác trong BLHS 1.5.1. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS) với tội giết người (Điều 93 BLHS) “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” và “Tội giết người” đều là tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng con người, hai tội phạm này có nhiều điểm giống nhau về các yếu tố cấu thành tội phạm. Về khách thể, hai tội này có khách thể trực tiếp giống nhau là đều xâm phạm đến quyền sống của con người và gây ra cái chết cho nạn nhân. Về mặt khách quan, hai tội đều là tội phạm có cấu thành vật chất, đều đòi hỏi hậu quả chết người xảy ra. Về mặt chủ quan, cả hai tội phạm đều có thể thực hiện với lỗi cố ý. Chủ thể của tội phạm đều là chủ thể thường. Tuy nhiên, về cơ bản hai tội này có sự khác nhau. Cụ thể: Thứ nhất, ở tội giết người trạng thái tinh thần của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trạng thái tinh thần của người phạm tội (đang bị kích động mạnh) lại là dấu hiệu bắt buộc Thứ hai, nếu nạn nhân của tội giết người là bất kỳ người nào thì nạn nhân của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải là người đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Ngoài hai đặc điểm cơ bản trên thì hai tội phạm này còn có sự khác nhau về độ tuổi của chủ thể, ở tội giết người tuổi của người phạm tội là từ đủ 14 tuổi trở lên còn ở tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tuổi của người phạm tội là từ đủ 16 tuổi trở lên và khác nhau về mục đích của người phạm tội, ở tội giết người thì mục đích phạm tội luôn được xác định còn ở tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mục đích tội phạm thường khó xác định. Tóm lại, nếu tội phạm thỏa mãn đồng thời cả hai dấu hiệu trên trong dấu hiệu pháp lý thì chúng ta có thể xác định được đó là tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Còn nếu tội phạm xảy ra chỉ có một trong hai đặc điểm trên thì chúng ta có thể xác định đó là tội giết người ( Điều 93 BLHS). Hai đặc điểm cơ bản của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội và hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có mối quan hệ nhân quả với nhau. Do vậy, khi xác định tội phạm chúng ta phải xem xét một cách chính xác để có kết luận đúng đắn tránh tình trạng xác định sai tội danh(() Xem thêm Đố Đức Hồng Hà, luận án tiến sĩ “Tội giết người trong Bộ luật hình sự Việt Nam”, tr53, 54. ). 1.5.2. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96) Căn cứ vào quy định tại Điều 96, Khoản 2 Điều 15 BLHS , từ khái niệm và các điều kiện của phòng vệ chính đáng cũng như khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chúng ta có thể phân biệt hai tội phạm này qua những đặc điểm cơ bản sau đây: - Thứ nhất, về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, trong tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là xuất phát từ người có hành vi nguy hiểm đang xâm hại đến lợi ích chính đáng của chính người phạm tội hoặc xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể vì họ muốn bảo vệ các lợi ích đó mà có hành vi chống trả một cách quá mức cần thiết và gây hậu quả chết người; với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì nguyên nhân dẫn đến việc giết người là do người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần do họ không tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình do nạn nhân đã có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Ở tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì lợi ích bị xâm hại còn có lợi ích của Nhà nước, của tập thể còn trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì lợi ích bị xâm hại chỉ là người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Người phạm tội theo Điều 96 có thể bị kích động hoặc không bị kích động nhưng người phạm tội theo Điêu 95 thì bắt buộc tinh thần phải bị kích động(() Xem thêm, Lê Văn Hoè, Luận văn tốt nghiệp đại học, năm 2002, tr38 ). - Thứ hai, về mục đích phát sinh hành vi phạm tội, trong trường hợp tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, mục đích của hành vi được thực hiện là tích cực chống trả lại sự xâm hại gây cho mình, cho Nhà nước hoặc cho người khác, gạt bỏ tinh sự đe dọa với lợi ích bảo vệ, đẩy lùi sự tấn công của nạn nhân còn trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chủ yếu do họ không tự chủ được bản thân, trong hoàn cảnh bị kích động họ không điều khiển được hành vi của mình và dẫn tới hành vi phạm tội. - Thứ ba, về cường độ tấn công của nạn nhân, trong trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi nguy hiểm của nạn nhân xâm hại lợi ích của người phạm tội nó phải “ngay tức khắc”, sự gây thiệt hại và đe dọa gây thiệt hại phải là thực sự, nhưng trong trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì hành vi trái pháp luật của nạn nhân có thể là một hành vi cụ thể và tức thì dẫn tới tình trạng tinh thần bị kích động mạnh nhưng cũng có trường hợp hành vi trái pháp luật của nạn nhân là chuỗi các hành vi khác nhau, diễn ra có tính lặp đi lặp lại… Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể bằng lời nói, có thể bằng hành động nhưng hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể là hành động xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác. - Thứ tư, về trách nhiệm hình sự, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người có hành vi giết người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi họ phòng vệ quá mức cần thiết; còn trường hợp tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chúng ta phải xem xét trạng thái tinh thần của người phạm tội có bị “kich động mạnh” hay chỉ bị “kích động” nếu giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 95 BLHS. - Thứ năm, động cơ của tội phạm, ở tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm và không được coi là dấu hiệu định tội nhưng ở tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng động cơ phạm tội được coi là dấu hiệu định tội, đó là động cơ phòng vệ. Ngoài ra, trong cả hai tội đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, nhưng ở trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì hành vi trái pháp luật đang xảy ra và chưa kết thúc; còn ở trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đã kết thúc(() Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, tập 1, Nxb TP.HCM, tr65 ). Trong thực tiễn, việc phân biệt giữa hai điều luật này có ý nghĩa rất thiết thực đối với việc định tội danh. Bởi hai tội phạm này có một số dấu hiệu giống nhau về chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan như đều là chủ thể thường, xâm phạm tính mạng con người, lỗi là cố ý… đều là trường hợp giảm nhẹ đặc biệt của tội giết người. 1.5.3. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 95 với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người (điểm b khoản 2 Điều 105 BLHS) Hai tội phạm này thuộc hai nhóm tội khác nhau là nhóm tội xâm phạm tính mạng và nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Tuy nhiên hai tội phạm này có một số điểm giống nhau. Về mặt chủ quan, hai trường hợp phạm tội này chủ thể của tội phạm đều thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và đều có hậu quả chết người xảy ra. Trong thực tiễn áp dụng việc phân biệt giữa hai tội này là rất khó khăn bởi đối với người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không thể hoặc khó xác định được mục đích của người phạm tội, họ hành động trong phút giây nóng giận, nên hậu quả đến đâu họ phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó. Trong khi họ phạm tội, họ không đủ bình tĩnh để giới hạn hành vi phạm tội ở mức gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người bị hại. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp sau khi bị đánh, nạn nhân chưa chết ngay mà phải sau một thời gian nhất định mới bị chết(() Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, tập 1, Nxb TP.HCM, tr66 ). Nếu như không ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người (khoản 3, 4 Điều 104 BLHS) nhưng vì người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần nên họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người theo điểm b khoản 2 Điều 105 BLHS. Còn nếu nạn nhân bị chết ngay hoặc sau một thời gian rất ngắn nạn nhân chết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS). Do vậy, chúng ta chỉ có thể phân biệt sự khác nhau của hai tội này căn cứ vào hậu quả chết người và khoảng thời gian giữa hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm và hậu quả của hành vi đó gây ra cho nạn nhân. Tuy nhiên trong thực tiễn việc xác định này không phải là vấn đề đơn giản vì chưa có sự thống nhất về cách hiểu như thế nào là sau một thời gian nhất định mới chết và xác định khoảng thời gian như thế nào là ngắn. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định tội danh cho tội phạm đã thực hiện. 1.5.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 95 BLHS với trường hợp giết người được áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS Căn cứ quy định của Điều 95 và điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS, chúng ta thấy cả hai trường hợp người phạm tội đều bị kích động về tinh thần di hành vi trái pháp luật của người khác gây nên nhưng sự khác nhau cơ bản là mức độ bị kích động và mức độ trái pháp luật của nạn nhân. - Thứ nhất, về mức độ kích động về tinh thần: nếu như ở trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS) người phạm tội phải bị kích động mạnh thì ở trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 thì người phạm tội tuy tinh thần có bị kích động nhưng chưa mạnh, chưa tới mức không nhận thức được hành vi của mình. - Thứ hai, về mức độ của hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra tình trạng kích động của người phạm tội: Nếu ở Điều 95 hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải là nghiêm trọng thì ở trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 hành vi trái pháp luật của nạn nhân chưa phải là nghiêm trọng, hành vi trái pháp luật ở Điều 95 phải là của chính nạn nhân thì ở điểm đ khoản 1 Điều 46 không nhất thiết phải là hành vi của nạn nhân mà là hành vi của bất kỳ người nào khác. - Thứ ba, về đối tượng tác động của hành vi trái pháp luật: ở tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội nhưng ở điểm đ khoản 1 Điều 46 thì không nhất thiết phải như thế. CHƯƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH 2.1. Một số vấn đề lý luận Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ chính xác, hiệu quả, thể hiện đúng vai trò, ý nghĩa cũng như mục đích mong muốn khi Nhà nước ban hành một quy phạm pháp luật khi hoạt động nhận thức pháp luật đúng đắn, đầy đủ. Trải qua quá trình hình thành và hoàn thiện, các quy định của pháp luật về tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ngày càng được quy định một cách đầy đủ và thống nhất hơn. Tuy nhiên, về mặt lý luận, chế định này còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để và còn gây nhiều tranh cãi. Thứ nhất, pháp luật hình sự hiện nay chưa có những căn cứ để xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Chính thiếu sót này đã dẫn tới tình trạng gây nhiều tranh cãi giữa những nhà nghiên cứu luật học và bất đồng quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Có thể lấy dẫn chứng trong vụ án Nông Văn Lanh bị truy tố về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có những quan điểm, nhận định trái ngược nhau liên quan đến việc xác định “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng”. Diễn biến vụ án cụ thể như sau: Sau khi uống rượu, Hứa Văn Yên đến nhà chị Hồng để chơi bi – a, nhưng không có ai chơi với Yên, nên Yên bực tức, vứt gậy bi – a ra đường. Thấy vậy chị Hồng chạy ra nhặc gậy và nói không cho Yên chơi nữa. Yên lại tiếp tục ném quả bi – a ra đường, rồi quay lại dùng tay đập vào vai chị Hồng, tiếp đến Yên hất đổ bàn bi – a và dẫm chân lên mặt bàn làm mặt bàn bị vỡ, rồi Yên tiếp tục dùng tay đánh vào đầu chị Hồng. Anh Hải vào can ngăn cũng bị Yên đánh. Nông Văn Lanh đang bế con cách nhà khoảng 20m nghe tin vợ bị đánh, nên đã về nhà lấy súng AK (Lanh là dân quân nên được trang bị súng) chĩa vào người Yên bắn ba phát, làm Yên bị chết. Sau đó, Lanh cầm súng chạy đến đồn biên phòng tự thú. Toà án cấp sơ thẩm kết án Nông Văn Lanh về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Sau khi xét xử sơ thẩm, đại diện người bị hại kháng cáo, yêu cầu xét xử bị cáo về tội giết người, tăng hình phạt và tăng mức bồi thường. Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 kết án bị cáo về tội giết người. Tại quyết định số 57, ngày 5/9/2002, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã huỷ án phúc thẩm và giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm đối với Nông Văn Lanh với nhận định Yên vô cớ đập phá tài sản, đánh vợ Lanh, đánh cả người can ngăn, là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đã tác động mạnh đến tinh thần của Lanh, nên phải kết án Lanh phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (() Báo cáo công tác Ngành Toà án năm 2002, báo cáo của Toà án hình sự, tr4 ). Trong tình huống trên ta thấy, cùng là những hành vi phạm tội của Lanh nhưng do không có những hướng dẫn cụ thể để xác định hành vi xâm hại của nạn nhân Yên như thế nào thì được coi là “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng”, nên toà án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm đã có những nhận định khác nhau trong vấn đề định tội danh đối với Lanh. Theo chúng tôi, những hành vi của Yên vừa xâm phạm tới quyền được bảo vệ sức khoẻ của người thân người phạm tội, vừa xâm phạm tới quan hệ tài sản của người phạm tội – những khách thể được luật hình sự bảo vệ nên có thể xác định là hành vi của Yên hành vi trái pháp luật nghiêm trọng. Cần phải xác định rằng: Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng trước hết phải là những hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội, cũng có trường hợp hành vi đó xâm phạm đến tài sản của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể CTTP hoặc chưa tới mức CTTP nhưng nó phải làm nguyên nhân trực tiếp làm cho tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh. Thứ hai, trong nhiều trường hợp, việc xác định ranh giới giữa tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội phạm khác (tội giết người (Điều 93 BLHS), tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96 BLHS), tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 BLHS)…) gặp nhiều khó khăn dẫn tới tình trạng có những quan điểm khác nhau trong cùng một vụ án. Ví dụ về vụ án sau sẽ cho chúng ta thấy rõ về vấn đề này: Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2002 có đăng bài “Phạm Văn Toản phạm tội giết người hay giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh?” của tác giả Huy Anh với nội dung vụ án như sau: Vào khoảng 19 giờ ngày 31/7/2002, Phạm Văn Toản, Nguyễn Văn Giáp, Phạm Tân Phong và Lê Thanh Hải đều là sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Đắc Lắc rủ nhau ra quán ở ngã ba EaKao, phường EaTam, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc đánh bi - a. Lúc đó, bàn bi da bên cạnh có Đinh Văn Khoa và Toản đã có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau và định đánh nhau, được mọi người can ngăn nên Toản, Hải và Giáp ra về nhà trọ ở đường Oi Ắt để nghỉ và học bài. Một lát sau, Toản xuống bếp lấy một con dao Thái Lan (loại dao nhỏ, nhọn để dùng gọt hoa quả) và đi ra ngoài, đến gần đường Lê Duẩn thì dừng lại ở đó. Giáp và Hải ở nhà thấy Toản đi lâu về nên lấy xe Honda đi tìm. Khi đến ngã ba đường Lê Duẩn rẽ vào đường Oi Ắt thì thấy Toản đứng ở đó. Cùng lúc này, Đinh Văn Khoa đang đứng ở trước nhà 431 Lê Duẩn (khu vực Khoa đang ở) cùng với Phạm Văn Phượng, Thiều Quang Khoa, Lê Văn Thuận và Phạm Anh Tuấn. Thấy mấy người đi xe máy dừng lại ở đường Oi Ắt, Đinh Văn Khoa nói với các bạn là: “Bọn kia vừa mới gây sự với Khoa ở bàn bi da, bây giờ qua xem mặt tụi nó ra sao”. Nói xong Khoa đi trước, Phượng, Tuấn, Thuận và Thiều Quang Khoa đi sau. Khi vừa đi đến chỗ Toản, Giáp và Hải đứng thì Khoa và Toản to tiếng với nhau. Khoa cầm cổ áo đấm vào mắt Toản và kéo Toản xuống làm Toản bị ngã. Khoa rút một vật nhọn dài chừng 30 - 40cm màu đen trong người đâm sướt vai phải của Toản. Lúc đó, Toản liền dùng dao dấu sẵn trong người ra đâm Khoa một nhát vào mạn sườn bên trái làm Khoa gục xuống. Tuấn đứng gần đó thấy vậy cầm gậy đuổi đánh Toản và Toản quăng dao bỏ chạy. Tuấn quay lại cùng với các bạn đưa Khoa đi cấp cứu nhưng Khoa đã chết. Tác giả bài viết có đưa ra hai quan điểm xung quanh việc xác định tội danh đối với bị cáo Phạm Văn Toản. Quan điểm thứ nhất, Phạm Văn Toản phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo quy định tại khoản 1 Điều 95 BLHS 1999. Quan điểm thứ hai lại cho rằng Phạm Văn Toản phạm tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS 1999(() Xem thêm “Phạm Văn Toản phạm tội giết người hay giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tạp chí Toà án nhân dân Số 11/2002, tr. 20 ). Chúng tôi không đồng ý với quan điểm của tác giả bài viết đưa ra, có nghĩa Phạm Văn Toản không phạm tội giết người và không phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mà Phạm Văn Toản phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Điều 96 BLHS 1999. Thứ nhất, về quan điểm Phạm Văn Toản phạm tội giết người: giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, nạn nhân có thể là bất kì ai. Tuy nhiên, ở đây Toản tước đoạt tính mạng của nạn nhân trong trường hợp nạn nhân có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng: Khi vừa đi đến chỗ Toản, Khoa đã cầm cổ áo đấm vào mắt Toản và kéo Toản xuống làm Toản bị ngã, đồng thời Khoa rút một vật nhọn dài chừng 30 - 40cm màu đen trong người đâm sướt vai phải của Toản. Như vậy, xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân mà Toản đã có hành vi chống trả bằng cách rút dao trong người đâm Khoa một nhát vào mạn sườn bên trái làm Khoa gục xuống. Nên việc cho rằng Toản phạm tội giết người là không hợp lý. Thứ hai, về quan điểm Phạm Văn Toản phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh: giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp người phạm tội giết nạn nhân trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, nhưng hành vi trái pháp luật nghiêm trọng này của nạn nhân đã kết thúc (() Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, tập 1, Nxb TP.HCM, tr65. )(trong trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe). Đây là dấu hiệu để phân biệt tội này với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, ở hai tội nạn nhân đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, nhưng ở tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì hành vi trái pháp luật đang xảy ra nhưng chưa kết thúc, còn ở tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đã kết thúc. Trong vụ án trên, hành vi trái pháp luật của Khoa tấn công Toản (đấm, đâm) vẫn đang xảy ra và chưa kết thúc. Ngoài ra, Khoa lại là người đã chủ động đến phía Toản, hai bên to tiếng với nhau, Khoa đã cầm cổ áo đấm vào mắt Toản và kéo Toản xuống làm Toản bị ngã, đồng thời Khoa rút một vật nhọn dài chừng 30 - 40cm màu đen trong người đâm sướt vai phải của Toản và hai bên đánh nhau, nên việc cho răng Toản phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là không hợp lý. Trong trường hợp trên căn cứ vào tình tiết của vụ án thì Phạm Văn Toản phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng( Xem thêm Việt Quỳnh , “bình luận tội danh qua một vụ án”, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. ). Trên đây là một số vấn đề còn gặp phải trong việc áp dụng các dấu hiệu pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 95 BLHS năm 1999 để định tội danh. Để có thể áp dụng thống nhất và tránh những vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng pháp luật thì cần có một hướng dẫn cụ thể đối với từng tình tiết nói trên đồng thời đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét cụ thể, toàn diện từng tình tiết của vụ án tránh đưa ra những quyết định sai lầm. 2.2. Một số vấn đề thực tiễn. Qua thực tiễn xét xử, thì ta có thể thấy tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 95 BLHS năm 1999 xẩy ra với tỷ lệ thấp trong số những tội xâm phạm đến tính mạng con người. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì trong 3 năm gần đây, tình hình tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau: Năm Thụ lý Xét xử Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo 2007 72 104 54 69 2008 49 65 38 48 2009 35 40 24 29 (Số liệu do phòng tổng hợp Tòa án nhân dân tối cao cung cấp) Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy trong 3 năm gần đây, số vụ giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động được đưa ra xét xử là rất ít và có dấu hiệu giảm dần, cả nước trong năm 2009 chỉ có 24 vụ án với 29 bị cáo, trong đó có 1 số tỉnh như Yên Bái, Hà Tĩnh chỉ có 1 vụ án với 3 bị cáo được đưa ra xét xử. Bên cạnh những số liệu nói lên diễn biến tình hình tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong những năm gần đây thì khi nói đến thực tiễn của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh còn phải nhắc đến thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng còn lúng túng trong việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thời điểm hoàn thành của tội phạm này. * Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải là nguyên nhân dẫn tới trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội nói cách khác trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội phải xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Trường hợp trạng thái tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh do nhiều lý do khác như say rượu, dùng chất kích thích hoặc hành vi trái pháp luật nghiêm trọng dẫn tới trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đó không do nạn nhân gây ra mà do người khác gây ra thì sẽ không áp dụng Điều 95 BLHS năm 1999 để xử lý. Như vậy, để xác định một người có giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không cần phải xác định nạn nhân là người đã có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng và chính hành vi đó đã làm cho tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh dẫn tới hành vi giết người. Tại khoản 1 Điều 95 BLHS năm 1999 cũng đã quy định rất rõ mối quan hệ này “người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân thích của người đó…”. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định không đúng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội dẫn tới việc định sai tội danh, không đúng với tinh chất mức độ phạm tội ví dụ như trường hợp xét xử bị cáo Nguyễn Đức Trường về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại bản án HSST số 105 ngày 24/09/2003 của TAND thành phố Đà Nẵng(() TS. Dương Thanh Biểu (chủ biên), Thông báo rút kinh nghiệm, kiến nghị nghiệp vụ của các viện phúc thẩm, Nxb Tư pháp; Xem thêm bản án hình sự sơ thẩm số 105 ngày 24/09/2003 của TAND thành phố Đà Nẵng. ). Cụ thể như sau: Khoảng 23h30’ ngày 25/5/2003, Nguyễn Đức Trường đi chơi bằng xe mô tô về khu nhà trọ số 449/58 Ngô Quyền, Thành phố Đà Nẵng, lúc này ở phòng số 1 có chị Phan Thị Phương Thanh và các anh Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Xuân Phương và vợ chồng anh Ngô Thanh Đông đang ngồi uống rượu nói chuyện, thấy Trường đi vào nhầm phòng nên chị Thanh có nói: “Khuya đóng cửa hết rồi, anh tìm ai?” thì Trường trả lời “nhà tao thuê, tao vào, bọn bay muốn gì?”. Nghe vậy, anh Nguyễn Văn Phú dùng tay xô Trường ra khỏi phòng và hai bên có xô xát với nhau, Phú cầm một cái chén ăn cơm đập vào đầu Trường làm rách da đầu và chảy máu. Trường kêu la thì Nguyễn Xuân Liên, Võ Văn Thìn ở cùng phòng trọ với Trường chạy ra. Sau đó, Trường, Thìn, Liên về phòng trọ của mình (số 5) thì Phú đuổi theo vào trong phòng Trường thách đố đòi đánh, Nguyễn Xuân Phương chạy theo Phú và đừng ngoài ném ly thủy tinh trúng vào mặt Trường làm Trường bị mẻ 2 cái răng và rách môi (thương tích 5%). Trường quay xuống bếp lấy con dao thái để tại bàn cầm lên đâm Phú 2 nhát. Nhát thứ nhất trúng vào vùng thượng vị cách dưới vú trái 9cm làm thủng da và cơ. Nhát thứ 2 khi anh Phú quay người chạy ra thì Trường đâm trúng vào khoang liên sườn phải, làm thủng da và cơ. Giám định pháp y kết luận: anh Nguyễn Văn Phú chết do bị một vật sắc nhọn xuyên thấu bụng gây đứt tĩnh mạch chủ dưới, gây đứt cuống thận phải dẫn đến choáng mất máu không hồi phục và tử vong. Cáo trạng của VKSND Thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Trường về “tội giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, đ, p Khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Trường từ 6 đến 8 năm tù. Tại bản án HSST số 105 ngày 24/09/2003 của TAND Thành phố Đà Nẵng áp dụng khoản 1 Điều 95, Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt Nguyễn Đức Trường 3 năm tù về tội “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Theo chúng tôi, việc TAND thành phố Đà Nẵng kết án bị cáo Trường về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là không hợp lý. Bởi lẽ: - Xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân và trạng thái tinh thần kích động mạnh của người phạm tội: Rõ ràng, hành vi của Phú là chỉ vào phòng thách đố Trường không mang theo hung khí gì và cũng chưa có hành vi gì, nếu không bị Phương ném ly trúng vào mặt thì Trường chưa đến mức phải lấy dao đâm Phú. Tại toà phúc thẩm, Trường đã thừa nhận vấn đề này. Như vậy, nguyên nhân làm cho tinh thần của Trường bị kích động mạnh ở đây là hành vi ném ly của Phương chứ không phải là hành vi thách đố của Phú (nạn nhân). - Xét về mức độ nghiêm trọng của hành vi của Phú thì hành vi thách đánh Trường của Phú chưa đến mức nghiêm trọng làm tinh thần Trường bị kích động mạnh. Hơn nữa, hành vi trực tiếp làm Trường bị kích động là việc ném ly vào mặt của Phương. Tuy nhiên, Xét hành vi của Nguyễn Xuân Phương dùng ly ném vào mặt Trường là trái pháp luật nhưng chỉ gây thương tích cho Trường 5% nên chưa đến mức truy tố Phương về tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Quan hệ giữa Phú và Phương là bạn bè bình thường không có thân thích gì nhau, vì mặt ý thức chủ quan Phú và Phương không có sự thống nhất cùng nhau đánh Trường nên không thể quy buộc hành vi của Phương gây kích động mạnh cho Trường dẫn đến Trường dùng dao đâm chết Phú để áp dụng khoản 1 Điều 95 BLHS. Vì vậy, Ngày 30/9/2003, VKSND Thành phố Đà Nẵng có quyết định kháng nghị phúc thẩm số 292 đề nghị Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS để xét xử tăng hình phạt với bị cáo Trường và đại diện người bị hại cũng có kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo. Ngày 05/02/2004, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo kháng nghị của VKSND Thành phố Đà Nẵng và kháng cáo của đại diện bị hại. Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố kết luận: Kháng nghị của VKSND Thành phố Đà Nẵng là có căn cứ nên đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 93, điểm b, đ, p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo từ 6 đến 7 năm tù về tội “giết người”. Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị của VKSND Thành phố Đà Nẵng xử phạt Nguyến Đức Trường 7 năm tù về tội “giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS. Trong vụ án trên, TAND thành phố Đà Nẵng đã xác định sai nguyên nhân làm cho tinh thần bị cáo Trường bị kích động mạnh dẫn tới hành vi giết người đồng thời chưa đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng hành vi của anh Phú nên đã xác định sai tội danh, xử lý không đúng tội, không phù hợp với tính chất và mức độ phạm tội. Qua đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, xem xét kĩ lưỡng từng tình tiết của vụ án để có thể xác định đúng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân và trạng thái tinh thần bị kích động mạnh từ đó xử lý đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. * Về thời điểm hoàn thành của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Như đã phân tích ở trên, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm có cấu thành vật chất và dấu hiệu chết người là dấu hiệu bắt buộc. Nếu không có hậu quả chết người thì không áp dụng Điều 95 BLHS năm 1999 để xử lý. Nhưng thực tế, có một số trường hợp mặc dù hậu quả chết người chưa xảy ra nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng Điều 95 để xử lý. Ví dụ tại bản án số 41/HSST, ngày 11/03/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử bị cáo Nguyễn Thị Huế về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, cơ quan tiến hành tố tụng sai lầm trong việc kết án bị cáo Nguyễn Thị Huế, cụ thể như sau: Nguyễn Thị Huế kết hôn cùng anh Đỗ Văn Phường từ năm 1992 và đã có 2 con. Năm 1999 do mâu thuẫn giữa 2 vợ chồng, Nguyễn Thị Huế tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ trong khoảng 1 tháng thì anh Phường đến tìm nên Huế lại trở về nhà chồng. Bà Nguyễn Thị Rám là mẹ chồng cho rằng việc Huế tự ý bỏ nhà chống ra đi là không phải đạo dâu con, vì thế đã đuổi Huế ra khỏi nhà làm Huế phải dẫn con đến ở nhờ nhà bà Tiên, sau đó lại đến ở nhờ nhà ông Sự là em trai của bà Rám. Biết tin này bà Rám đến nhà ông Sự chửi bới và bảo em đuổi Huế đi không cho ở nữa. Nguyễn thị Huế đành phải dẫn con đến ở nhờ nhà mẫu giáo của xóm. Năm 2000 Huế đã cùng chống nhiều lần về xin lỗi bà Rám để bà này cho về ở cùng nhưng bà không chấp nhận, Nguyễn Thị Huế đã phải nhờ sự can thiệp của hội phụ nữ nhưng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, buộc Huế phải mua nhà để 2 mẹ con ở với nhau. Sau một năm cùng nhau đi làm ăn ở các tỉnh phía Nam, cuối năm 2002 vợ chồng Huế đã đưa nhau về nhà bà Rám, xin bà này cho vợ chồng được đoàn tụ, nhưng bà Rám vẫn không chấp nhận cho Huế sống với chồng con. Cho rằng vợ chồng mâu thuẫn chưa đến mức phải chia tay, nhưng do mẹ chồng cố chấp, ngăn cản không cho đoàn tụ Nguyễn Thị Huế đã có ý định đến hỏi bà Rám, nếu bà vẫn không chấp nhận thì Huế sẽ nhét ngón tay của bà vào ổ cắm điện để điện giật chết cả 2 người. Khoảng 22h ngày 23/02/2003, Huế thực hiện ý định của mình nhưng không thành công vì bà Rán phát hiện được và gọi hàng xóm sang cứu. Tại bản án số 41/HSST, ngày 11/03/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam định đã xử phạt Nguyễn Thị Huế 12 tháng tù giam cho hưởng án treo về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Theo chúng tôi, điều này là không đúng, bởi lẽ: - Xét về hậu quả: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm có cấu thành vật chất và dấu hiệu chết người là dấu hiệu bắt buộc tuy nhiên trong vụ án trên thì bà Rán chưa chết, hậu quả chết người chưa xảy ra nên không thể kết án bị cáo Huế về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được. - Xét về trạng thái tinh thần của bị cáo: Huế đã có ý định dùng ổ cắm điện để giết bà Rán nếu như bà Rán không đồng ý để hai vợ chồng sống chung với nhau và vào ngày 23/02/2003 Huế đã thực hiện ý định của mình, theo đó hành vi dùng ổ điện giết người của Nguyễn Thị Huế là có sự chuẩn bị từ trước chứ không phải là do bộc phát vì tinh thần bị kích động mạnh hơn nữa hành vi của bà Rán cũng chưa tới mức trái pháp luật nghiêm trọng để Huế phải bị kích động mạnh về tinh thần Căn cứ vào các dấu hiệu, hành vi và hậu quả thuộc mặt khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và theo hướng dẫn của Nghị quyết 04/HĐTP, ngày 29/11/1986 thì việc Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt Nguyễn THị Huế trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là không đúng. Trường hợp này, Huế đã phạm tội giết người, nhưng thuộc trường hợp giết người chưa đạt theo điều 93, BLHS 1999. Để tránh những sai lầm như trên thì các cơ quan tiến hành tố tụng khi xem xét các tình tiết của vụ án cần phải xác định rõ hậu quả chết người đã xảy ra chưa. Nếu chưa thì không thể kết án về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được mà phải xem xét các tình tiết đó thỏa mãn cấu thành tội phạm nào, nếu hậu quả chết người đã xảy ra thì xem các tình tiết đó có phù hợp với các dấu hiệu pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không có như thế mới đảm bảo xét xử đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xác định đúng người, đúng tội. 2.3. Kiến nghị Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những dấu hiệu pháp lý đặc trưng cũng như thực tiễn áp dụng luật và xét xử của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tôi xin có một số kiến nghị sau: So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 không chỉ tách tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thành một tội danh độc lập mà còn có sự phân hóa trách nhiệm hình sự rõ ràng với hai khung hình phạt tương ứng với hai cấu thành tội phạm phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nó còn tồn tại một số hạn chế sau: - Thứ nhất: Có sự không phù hợp giữa quy định của khoản 1 Điều 95 với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 105 BLHS: Khoản 1 Điều 95 quy định: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Điểm b khoản 2 Điều 105 BLHS tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có quy định: “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Theo các quy định trên, khung hình phạt của khoản 1 Điều 95 BLHS nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 105 BLHS là không hợp lý bởi vì cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết một người trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng không thể nghiêm trọng bằng trường hợp giết một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được. Vì vậy, theo chúng tôi cần có sự điều chỉnh hợp lý, tăng khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 95 BLHS cụ thể: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm” - Thứ hai: qua nghiên cứu và so sánh khung cấu thành tội phạm cơ bản ở Khoản 1 Điều 95 BLHS năm 1999 của Việt Nam với một số nước trên thế giới chúng tôi cho rằng, cần có sự cụ thể, chi tiết mức độ cũng như việc mô tả hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, giúp Tòa án thống nhất hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Ví dụ: Điều 108 BLHS Liên Bang Nga năm 1996 quy định: “1. Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đột ngột do hành vi dùng vũ lực, nhạo báng hoặc xúc phạm nghiêm trọng của nạn nhân hoặc do hành động (không hành động) trái pháp luật hay trái đạo đức khác của nạn nhân, cũng như do tình trạng thần kinh bị ức chế kéo dài sinh ra do hành động trái pháp luật hoặc trái đạo đức có tính hệ thống của nạn nhân. Thì bị phạt hạn chế tự do đến 3 năm hoặc bị phạt tù cùng thời hạn đó. 2. Giết hai người trở lên trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. - Thì bị phạt tù đến 5 năm”. Trong khi đó cũng tội phạm này Khoản 1 Điều 95 BLHS Việt Nam năm 1999 chỉ quy định: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” Theo đó, nên có quy định mô tả cụ thể, chi tiết hơn đối với tội phạm này, chẳng hạn như: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi dùng vũ lực, nhạo báng, xúc phạm trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân xâm phạm tới lợi ích của người đó hoặc đối với người thân thích của người đó… ” Ngoài ra, đối với công tác xây dựng và áp dụng pháp luật, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết thế nào là kích động và kích động mạnh về tinh thần, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, hậu quả chết người xảy ra ngay hay sau một thời gian thực hiện hành vi phạm tội thì phải xác định như thế nào…nếu chỉ quy định chung chung sẽ dẫn đến hiểu sai và xét xử giữa các tòa án là khác nhau, việc định tội sẽ có nhiều sai sót, không đảm bảo được mục đích xét xử đúng người, đúng tội, oan sai. Điều 95 BLHS quy định về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng trong thực tiễn xét xử, tòa án rất ít áp dụng quy định của điều luật này mà thường áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS. Đây cũng là một thực tế cần phải xem xét trong quá trình áp dụng pháp luật. KẾT LUẬN Nghiên cứu đề tài về “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Việc phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và đường lối xử lý đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cho phép chúng ta nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn về các đặc điểm và bản chất pháp lý của tội này, nhận thức đầy đủ hơn về tính nguy hiểm cao cũng như yêu cầu phải trừng trị nghiêm khắc và phòng ngừa đối với tội phạm này. - Phân tích làm rõ sự khác biệt giữa tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với các tội giết người, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng... cho phép chúng ta nhận thức rõ và đầy đủ hơn về tính nguy hiểm cũng như đặc điểm pháp lý của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tránh nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp dụng sai điều luật. - Khóa luận đã phân tích những vấn đề lý luận thực tiễn liên quan đến tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cho thấy những khó khăn phức tạp trong thực tiễn áp dụng xử lý tội này, thấy rõ yêu cầu cấp bách cần phải hướng dẫn xử lý hoặc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật liên quan tới tội danh này. Đồng thời mạnh dạn đưa ra những đề xuất, kiến nghị về hướng dẫn và sửa đổi bổ sung BLHS liên quan đến tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để việc áp dụng luật hình sự đấu tranh chống tội phạm này ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985; Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999; Bộ luật hình sự Liên Bang Nga, năm 1996; Bộ tư pháp,Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1999), chuyên đề tư pháp hình sự so sánh; Bộ tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1994), chịu trách nhiệm xuất bản Nguyễn Văn Thảo, chuyên đề Bộ luật hình sự Việt Nam, thực trạng và phương hướng đổi mới; Báo cáo tổng kết của ngành tòa án (2002) Báo cáo của tòa án hình sự; Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, tập 1 Nxb TpHCM, năm 2002; Đinh Văn Quế, Trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1999; Đỗ Đức Hồng Hà, Luận án tiến sĩ “Tội giết người trong Bộ luật hình sự Việt Nam”; Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001; Huy Anh, “Phạm Văn Toản phạm tội giết người hay giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh?”,Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2002,trang 20, 21; Nghị quyết 04/HĐTP, ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985; Nghị quyết 01/HĐTP, ngày 29/11/1989 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự; Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, năm 1991; Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, năm 2005; Nguyễn Ngọc Hòa, Vấn đề nhân quả trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí luật học số 1, năm 1995; Nguyễn Ngọc Hòa (2001), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người – so sánh giữa Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 1985, Tạp chí Luật học Số 1, tr 31; Mac – Engel tuyển tập, tập 1, Nxb Matxcova, năm 1970; PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, PGS.TS Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự; Phạm Hồng Hải (1998), Mấy ý kiến về vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 3, trang 35; Sắc lệnh số 03/SL, ngày 15/3/1976 của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam quy định tội phạm và hình phạt; Số liệu thống kê của Phòng tổng hợp của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam; Tòa án nhân dân Tỉnh Hà Tĩnh, Bản án hình sự sơ thẩm số 24/HSST, ngày 22/12/2008; Tòa án nhân dân Tỉnh Yên Bái, Bản án hình sự sơ thẩm số 41/HSST, ngày 16/12/2009; Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, Bản án hình sự sơ thẩm số 1147/HSST, ngày 02/10/2000; Tòa án nhân dân tối cao, Hệ thống hóa luật hình sự, 1979 (Tập 1,2) Trường đại học luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân; năm 2008; Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự tập 1, Nxb Công an nhân dân, năm 2008; Trần Văn Luyện, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia năm 2000; TS.Dương Thanh Biểu (chủ biên), Thông báo rút kinh nghiệm, Kiến nghị nghiệp vụ của các Viện phúc thẩm, Nxb Tư pháp; Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng, Bản án hình sự sơ thẩm số 105 ngày 24/9/2003; Trần Văn Luyện (2001), Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 3, trang 68; Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, năm 1992; Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1995; Một số website: MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc
Luận văn liên quan