Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ, phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí. Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.

pdf18 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 4219 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI 1: TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GV hướng dẫn: Trương Minh Tuấn Nhóm thực hiện: 22 Tháng 11/2012 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI 1: TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GV hướng dẫn: Trương Minh Tuấn Nhóm thực hiện: 22 Lê Ngọc Diệp STT: 10 MSSV: Lê Thị Mừng STT: 77 MSSV: Nguyễn Thanh Thủy STT: 130 MSSV: 33121021658 Tháng 11/2012 3 I. Đặt vấn đề Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề lớn cơ bản của kinh tế vĩ mô, lạm phát và tăng trưởng kinh tế có một quan hệ chế ước lẫn nhau và lạm phát chỉ có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, trong rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế thì lạm phát giữ một vai trò rất to lớn. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp và ở mọi giai đoạn phát triển kinh tế, các lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế đều đúng tuyệt đối. Lạm phát trong trường hợp cụ thể sẽ có ảnh hưởng ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Do vậy, việc xem xét sự ảnh hưởng của lạm phát trong điều kiện cụ thể của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam được đặt ra bức xúc, từ đó có những biện pháp kịp thời kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những chặng đường tiếp theo. Từ những lý do trên, nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề trong khuôn khổ của môn học, chúng tôi muốn đi sâu, tìm hiểu vấn đề với đề tài:“ Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế”. II. Giới thiệu 1) Lạm phát Từ những lý thuyết về lạm phát cũng như thực tế cho thấy có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về lạm phát giữa các trường phái kinh tế, các luận thuyết về lạm phát của các nhà kinh tế học trong và ngoài nước xưa và nay. Theo Các Mác “Lạm phát là tình trạng khối lượng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ vượt qua các nhu cầu kinh tế thực tế, làm cho tiền tệ mất giá, là phương tiện phân phối lại thu nhập quốc dân…”. Ông cho rằng lạm phát là bạn đường của chủ nghĩa tư bản. Ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. J. M. Keynes và trường phái tiền tệ ở Đức và Mỹ thì quan niệm: Lạm phát là sự vi phạm quá trình tái sản xuất nằm trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ…, là sự phát hành 4 tiền quá mức tạo ra cầu dư thừa thường xuyên… L.V. Chandeler, D.C. Cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định: Lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hặn, chu kỳ hay đột xuất. G.G. Matrukhin( Liên Xô) lại cho rằng: Trong đời sống tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá dẫn đến việc tăng trưởng mức giá cả nói chung. Do đó có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: Lạm phát đó là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm tàng (tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thông qua giá cả của các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội. Ở mức bao quát hơn, P.A. Samuelson và W.D. Nordhaus trong cuốn “Kinh tế học” cho rằng lạm phát xảy ra khi mức giá cả chung và chi phí tăng lên… Tuy nhiên xuất phát từ góc độ nào thì những quan niệm trên đều toát lên đặc tính cơ bản chung về lạm phát là hiện tượng lượng tiền lưu thông tăng vượt quá sự tăng trưởng hàng hóa sản xuất ra. Hiện tượng này dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hoá trong nền kinh tế không ngừng tăng lên. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm phát. 2) Phân loại lạm phát. - Lạm phát một con số mỗi năm (lạm phát vừa phải): Là loại lạm phát xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỉ lệ lạm phát chỉ ở mức một con số hay dưới 10%/năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này tác động kém hiệu quả của lạm phát là không đáng kể. - Lạm phát hai con số mỗi năm (lạm phát phi mã): Khi g iá cả đã bắt đầu tăng đến hai con số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11, 12, 13%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của chúng là không đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai con số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì nhưng tác động tiêu cực của chúng là không nhỏ. 5 Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế. - Siêu lạm phát: Tuỳ theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì chúng có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của chúng đến đời sống và đến nền kinh tế trở nên rất nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh. 3) Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định( thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối ( quy mô tăng trưởng) hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc kỳ gốc. Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng. chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau: - Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài. - Phát triển có hiệu quả thể hiện qua năng suất lao động, năng suất tài sản cao và ổn định. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) cao. - Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ - Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao - Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội 6 - Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. 4) Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề kinh tế trong nền kinh tế . Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau . Nhìn chung, các nhà kinh tế đều cho rằng lạm phát chỉ có tác dụng tích cực khi xuất hiện ở mức thấp, và nằm trong vòng kiểm soát. Lạm phát ở mức 2 con số khó lòng có thể được coi là dấu hiệu tốt cho một nền kinh tế. Trong thực tế, không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không tránh khỏi lạm phát . Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau . Tỷ lệ lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của công nhân không tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi công đòi tăng lương làm cho sản xuất trì trệ , đình đốn khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Khi nền kinh tế gặp khó khăn, suy thoái sẽ làm thâm hụt ngân sách và đó là điều kiện, nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi lạm phát tăng cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ giảm giá nhanh, khi đó người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ. Tệ nạn tham nhũng tăng cao, nạn buôn lậu phát triển mạnh , tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh, trốn thuế và thuế không thu được đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao. Hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi bốn mục tiêu chung - tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư. Trong các mục tiêu này, tăng trưởng cao và lạm phát thấp là hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, quan hệ chặt chẽ với nhau “khống chế” lẫn nhau. Muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi suất cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu… nhưng nếu làm như vậy thì lạm phát sẽ tăng. Đó là chưa kể các yếu tố tác động bên ngoài như giá 7 nhập khẩu tăng làm tăng chi phí đầu vào; hay các yếu tố thiên tai, dịch bệnh như đại hạn, bão lụt, dịch cúm gia cầm… vừa làm tăng chi phí đầu vào, vừa làm giảm nguồn cung, tăng chi ngân sách… Muốn lạm phát thấp, thì phải thắt chặt chi ngân sách, thắt chặt đầu tư, tiêu dùng, tăng lãi suất cho vay, tăng dự trữ bắt buộc, giảm thuế suất thuế nhập khẩu… nhưng như thế thì tăng trưởng kinh tế sẽ không cao. Chính vì mối quan hệ này, trong khi không thể cùng thực hiện cả hai mục tiêu, muốn ưu tiên mục tiêu nào, các chuyên gia đã dùng các cụm từ “hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát” hay “hy sinh mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng” để nói về chính sách kinh tế - tài chính của một nước. Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo mức độ của nó. Nhìn chung lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể. Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển của kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. III. Lý luận 1) Tóm lượt các công trình nghiên cứu a) John Maynard Keynes Keynes(1883-1946) là nhà kinh tế học Anh, được coi là nhà kinh tế học có ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh tế của các chính phủ nhằm duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong tác phẩm “Luận thuyết về tiền tệ” (1930), Keynes chỉ ra có hai loại lạm phát tuỳ theo nguyên nhân, đó là lạm phát hàng hoá và lạm phát thu nhập. Lạm phát hàng hoá xảy ra khi giá thị trường của các hàng hoá được sản xuất hàng loạt, lâu dài như nông sản, dầu thô, khoáng sản… tăng lên. Những hàng hoá này thường được giao dịch trên thị trường có tổ chức, giá thị trường được công bố công 8 khai. Trong thị trường này, giá cả có xu hướng gắn liền với ngày giao hàng cụ thể, có thể là hiện tại hoặc trong tương lai. Khi cầu hàng hoá trong tương lai tăng đột biến mà không có cung bổ sung, hoặc khi cung hiện có giảm đột biến trong khi cầu không thay đổi, thì giá thị trường sẽ tăng vọt. Chẳng hạn, nếu có sương giá ở Brazil ảnh hưởng lớn đến sản lượng cà phê của nước này thì giá hợp đồng giao sau về cà phê ở thị trường London sẽ tăng vọt. Vì lạm phát hàng hoá diễn ra mỗi khi cung hoặc cầu hàng hoá cho tương lai gần biến động bất ngờ, không dự đoán được nên có thể tránh lạm phát này khá dễ dàng thông qua một tổ chức không hoạt động vì lợi ích cá nhân mà chỉ bảo vệ xã hội khỏi sức ép của lạm phát. Muốn tránh lạm phát hàng hoá, chính phủ cần phải duy trì kho dự trữ để điều chỉnh lượng cung trong thực tế khi quan hệ cung – cầu thay đổi đột ngột. Lạm phát thu nhập có liên quan đến chi phí sản xuất hàng hoá tăng lên. Khi chi phí sản xuất tăng lên, doanh nghiệp buộc phải tăng giá hàng bán trên thị trường nếu họ muốn duy trì tỷ suất lợi nhuận. Hiện tượng chi phí sản xuất tăng lên phản ánh sự tăng giá của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như tiền lương, nguyên vật liệu, lãi suất vay vốn hoặc lợi suất cổ tức. Nói cách khác, lạm phát thu nhập xảy ra tốc độ tăng chi phí sản xuất bằng tiền cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Vì vậy, nếu chính phủ muốn kiềm chế lạm phát thu nhập của hàng hoá và dịch vụ trong nước thì phải hạn chế mức tăng thu nhập bằng tiền của những người sở hữu các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất so với tốc độ tăng năng suất. Trong các nền kinh tế đã phát triển, chi phí tiền lương chiếm tỷ trọng rất lớn so với chi phí sản xuất. Vì vậy, để chống lạm phát này cần thiết phải có chế tài đối với các doanh nghiệp có tốc độ tăng lương cao hơn tốc độ tăng năng suất bình quân. Theo Keynes, hệ thống tài chính, tín dụng có vai trò quan trọng trong việc kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của các nhà kinh doanh. Theo ông, nhà nước có thể đưa thêm tiền vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay, khuyến khích nhà kinh doanh mở rộng quy mô đầu tư. Đồng thời, để tăng hiệu quả tư bản, ông chủ 9 trương “lạm phát có kiểm soát" để làm tăng giá cả của hàng hoá nhờ đó các nhà kinh doanh thu được lợi nhuận nhiều hơn (trong điều kiện chi phí sản xuất chưa thay đổi).Lạm phát không phải lúc nào cũng có hại, nhà nước có thể chủ động tạo ra lạm phát, nếu kiểm soát được lạm phát sẽ làm giảm lãi suất, tăng giới hạn đầu tư TB Có thể nói, đây là một trong các động lực trực tiếp của các nhà sản xuất kinh doanh, góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Theo lý thuyết Keynes trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm (đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp); mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương. b) P.A. Samuelson Nhà kinh tế học người Mỹ Samuelson đã phân biệt lạm phát cân bằng và có dự đoán trước với lạm phát không cân bằng và không được dự đoán trước. Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đoán trước, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định được dự báo, mọi thu nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi người sẽ điều chỉnh hoạt động của mình theo thuớc đo đó. Nếu lãi suất thực tế là 6% một năm thì nay những người có tiền cho vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên tới 16% một năm. Công nhân viên chức sẽ được tăng lương lên 10% một năm... Vậy là một cuộc lạm phát cân bằng và có dự đoán trước đã không gây ra một tác hại nào đối với sản lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu nhập. Trong thực tế hiếm có loại lạm phát này, vì lạm phát là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố chi phối rất khó dự báo hết trước được. Song gần đây, ở nhưng quốc gia có bộ máy nhà nước đủ mạnh và các thiết chế thị trường phát triển hoàn hảo, đã và đang có loại lạm phát với tốc độ vừa phải (từ 3 – 6 %/năm) và được điều tiết chủ động 10 từ phía nhà nước. Tại các nước này, mức lạm phát đó được xem như một chỉ số cộng luôn vào mức lương thực tế, vào mức lãi suất thực tế và vào mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế… Lạm phát không cân bằng và không thể dự đoán trước, là loại lạm phát mà giá cả của các hàng hoá, dịch vụ tăng không đều nhau và nhà nước không dự báo cũng như không chủ động điều tiết được. Đây là hiện tượng phổ biến nhất ở các nước đang phát triển.Lạm phát không thể dự t ính làm cho khó xác đ ịnh mức sinh lời của các khoản đầu tư, tạo tâm lý do dự kh i đưa ra quyết định đầu tư, đặc biệt dài hạn. Sự bất ổn của thu nhập trong điều kiện đó có thể làm cho người đầu tư thích đầu tư vào các tài sản tài chính hơn vào các dự án đầu tư thực sự dẫn đến nguồn lực của XH được phân bố không hiệu quả, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Samuelson cho rằng, “điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay.” c) Milton Friedman Fried man cho rằng lạm phát là một hiện tượng xã hội của tất cả các nước nào có sử dụng tiền tệ hiện đại . Ông đã đưa ra một câu nói nổi tiếng “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ” nghĩa là khi tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ (thông qua việc ngân hàng trung ương mua trái phiếu do chính phủ phát hành) thì lạm phát là không thể tránh khỏi. Milton Friedman chủ trương để cho nền kinh tế thị trường tự do điều tiết, nhà nước can thiệp chỉ làm xấu thêm tình hình của thị trường, vì nếu thị trường có khuyết tật thì bản thân nhà nước cũng có khuyết tật của nó. Sự can thiệp của nhà nước thường phá vỡ những cân bằng tự nhiên của thị trường do vậy có hại cho nền kinh tế Theo ông sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có thể dựa trên sự kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn 11 hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát. Fried man ước định rằng nguồn gốc của mọi lạm phát là một tỷ lệ tăng trưởng cao của cung tiền tệ đơn giản bằng cách giảm tỉ lệ tăng trưởng cung tiền tệ đến mức thấp nhất thì có thể ngăn chặn được lạm phát. Trong thực tế có những giai đoạn lịch sử mà một tỷ lệ lạm phát cao cho một thời kỳ kéo dài đi tiếp theo sau mức của tăng trưởng ví dụ điển hình nhất là siêu lạm phát của Đức trong những năm qua 1921-1923 với tỷ lệ lạm phát trong năm 1923 vượt quá 1.000.000%. Gần đây đó là lạm phát ở Mỹ La Tinh từ 1980 đến 1990 trong đó Argentina có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao nhất và tỷ lệ lạm phát bình quân cao nhất trên 10.000%. Việc tỷ lệ lạm phát cao trong mọi trường hợp trong đó tỷ lệ tăng trưởng tiền cao có thể được coi là một sự kiện ngoại sinh là một chứng cứ vững chắc rằng tăng trưởng tiền tệ cao gây nên lạm phát cao. Quan điểm này được những người theo trường phái Keynes ủng hộ bằng việc chỉ ra rằng một sự tăng g iá tạm thời có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chỉ có sự tăng lên của tiền tệ mới dẫn tới sự tăng giá kéo dài với tốc độ cao. Mức cung tiền tệ là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các biến số của KT vĩ mô như giá cả, sản lượng, việc làm. Ông xuất phát từ công thức M*V = P*Q của Fisher. MS là mức cung tiền tệ, V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ, P*Q là sản lượng quốc gia. Fried man cho rằng mức cung tiền tệ không ổn định vì nó phụ thuộc vào các quyết định chủ quan của các cơ quan tiền tệ. Ví dụ: hệ thống dự trữ liên bang Mĩ (FED). Mức cung tiển tệ có tác động đến sản lượng thường xảy ra ở 2 trường hợp: +Sản lượng thực tế chưa đạt đến sản lượng tiềm năng: tăng mức cung tiền tệ sẽ làm sản lượng tăng nhanh, giá cả tăng chậm, không có nguy cơ dẫn đến lạm phát. +Sản lượng thực tế đã vượt mức sản lượng tiềm năng: việc tăng mức cung tiền tệ 12 sẽ ít có tác động đến tăng sản lượng, mà giá cả lại tăng nhanh, có nguy cơ lạm phát. Mức cầu về tiền tệ theo Friedman có tính ổn định cao. Vì cầu tiền tệ có liên quan chặt chẽ đến sự vận động của các khoản chi tiêu mà trước tiên là thu nhập, mà thu nhập tương đối ổn định. MD là cầu danh nghĩa về tiền tệ, yn là thu nhập quốc dân danh nghĩa. MD = f (yn) là hàm số của thu nhập quốc dân danh nghĩa. Mọi sự mất cân đối giữa mức cung về tiền tệ & mức cầu về tiền tệ chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng hoặc lạm phát. MS > MD thì lạm phát. MS < MD thì khủng hoảng. Từ đó ông đưa ra đề nghị thực tiễn về chu kì tiền tệ & thu nhập quốc dân. Theo đề nghị này thì mức cung về tiền tệ nên được chủ động điều tiết thích ứng với từng giai đoạn, chu kì KD. Cụ thể: thời kì khủng hoảng nên tăng mức cung về tiền tệ, thời kì phồn thịnh nên giảm mức cung về tiền tệ. Song dù tăng hay giảm thì mức cung về tiền tệ cũng chỉ nên được điều chỉnh trong một tỉ lệ nhất định 3-5% trong 1 năm. Điều chỉnh quá mạnh sẽ gây ra nhiều cú sốc dẫn tới khủng hoảng tài chính tiền tệ. Fried man cũng rất quan tâm đến vấn đề ổn định giá cả & chống lạm phát. Theo ông, lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Cụ thể, trong nền KT luôn tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến lạm phát. M = (P*Q) / V. Mà V: ổn định, Q: khó thay đổi nên MS tác động vào P. Do mức cung tiền tệ vốn không ổn định, nên P không ổn định, nguy cơ lạm phát cao. Vì vậy một trong những nội dung điều tiết KT của nhà nước phải đưa ra là chống lạm phát. Lý thuyết tiền tệ của Friedman vẫn thể hiện đặc trưng về phương pháp luận của chủ nghĩa tự do mới. Bởi ông cho rằng nền kih tế tư bản chủ nghĩa luôn ở trong trạng thái cân bằng động. Sự can thiệp của nhà nước chỉ nên ở mức độ tối thiểu. Vì theo ông, bản chất của nhà nước là độc đoán & nham hiểm, chỉ nên can thiệp ở 1 mức độ nhất định. Mọi sự can thiệp thái quá sẽ không có lợi cho nền KT. 2) Phân tích a) Quan điểm của Keynes Ở đây chúng ta có thể nêu ra một số tiêu cực nếu như áp dụng thái quá học thuyết 13 Keynes Ông đã qui nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mức cung đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản xuất, thì nhà nước cần phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà nước, tăng tín dụng, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi đó đã xuất hiện lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Vậy là trong điều kiện nền kinh tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh và đúng hướng thì lạm phát đã là một công cụ để tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái. Thực tế của các nền kinh tế thị trường trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng tỏ điều đó. Nhưng khi nền kinh tế đã rơi vào thời kỳ phát triển kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng chậm chạp, cơ cấu kinh tế được đổi mới theo các hướng không đúng hay trì trệ, thiết bị kỹ thuật cũ tồn đọng đầy ứ v. v... thì lạm phát theo lý thuyết cầu đã không còn là công cụ tăng trưởng kinh tế nữa. Trong học thuyết của mình Keynes đã lập luận rằng, cần thiết phải có vai trò Nhà nước trong điều tiết kinh tế để đối phó với khủng hoảng và thất nghiệp; Nhà nước nên sử dụng quyền hạn đó để đánh thuế và gia tăng chi tiêu, qua đó để tác động lên chu kỳ kinh doanh. Chi tiêu của Chính phủ là khoản đầu tư công cộng, bơm thêm tiền vào dòng chảy thu nhập và do đó để nâng cao tổng cầu. Những khoản chi tiêu đó là lấy từ tiền đánh thuế trong nền kinh tế (như vậy, vô hình chung lại làm giảm tiêu dùng và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp). Thu nhập của Chính phủ cũng được lấy từ việc bán trái phiếu Chính phủ và bằng những biện pháp vay nợ khác… Như vậy, rất có thể làm thâm hụt ngân sách và gánh nặng nợ nần của Nhà nước ngày một gia tăng và những phát sinh tiêu cực thứ phát khác lại tác động lên nền kinh tế làm cản trở các điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể xảy ra các tình huống sau: - Để kích cầu thì phải giảm thuế, nhưng giảm thuế lại làm thâm hụt ngân sách, 14 giảm chi tiêu của Chính phủ. - Nếu tăng chi tiêu Chính phủ thì rất có thể hiệu quả biên của vốn bị giảm sút. Đồng thời gây ra lạm phát và tăng gánh nặng nợ nần cho ngân sách. - Về chính sách tiền tệ của Chính phủ: chính sách tiền tệ của Chính phủ thể hiện rõ nhất thông qua các chính sách cung ứng tiền tệ và các chính sách về lãi suất. Cả hai công cụ này đều hết sức hữu hiệu trong tác động và điều tiết kinh tế, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ tiềm ẩn mặt trái của nó: + Nếu lượng tiền mặt phát hành quá mức thì sẽ đẩy mức giá cả lên cao và có nguy cơ gây ra lạm phát. + Nếu thực hiện chính sách giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư nhằm nâng cao tổng cầu, thì đồng thời làm gia tăng mức cung ứng tiền tệ và do đó cũng có nguy cơ gây ra lạm phát. Hạn chế lớn nhất là xem nhẹ, bỏ qua vai trò của cơ chế thị trường, của tự do KT. Quá say sưa với vai trò điều chỉnh can thiệp của nhà nước. Thổi phồng vai trò của nhà nước. b) Quan điểm của Samuelson Trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đoán trước: Nếu tỷ lệ lạm phát đã được các thành viên trong xã hội dự t ính trước thì họ có thể chủ động trong các quyết định đầu tư, t ích t rữ t iền, hàng hóa của mình. Tuy nhiên ,kh i mức lạm phát tăng lên kéo theo sự biến động mạnh về giá cả hàng hóa thì ảnh hưởng của lạm phát bắt đầu bộc lộ. Người ch ịu ảnh hưởng đầu t iên là người giữ tiền với lãi suất 0%.Khi lạm phát tăng, chi phí của việc giữ t iền tăng, nhu cầu gửi t iền giảm, tần số đến ngân hàng rút tiền mặt tăng, ch i ph í quản lí tiền mặt tăng lên . Về dài hạn, việc chỉ số hàng hóa lạm phát và các hành vi tương ứng sẽ không giúp cách ly nền kinh tế khỏi lạm phát, mà chỉ càng làm cho lạm phát có tính không ổn định. Điều đó là do tác động tích luỹ ngày càng lớn của việc cộng dồn chỉ số lạm phát qua các thời kỳ, khiến giá cả tăng liên tục, mặc dù đều đặn. Đến khi vũng xoáy ốc “chi phí – giá cả” kết thúc thì giá cả đã 15 tăng lên nhiều lần và có xu hướng ngày càng tách rời giá trị, làm phóng đại những chấn động bên ngoài về giá cả. Cơ chế tác động này càng mạnh nếu tỷ lệ chỉ số hàng hóa lạm phát càng cao. Trong kiềm chế lạm phát, thuyết điều tiết vĩ mô của Paul Samuelson chỉ có thể áp dụng vào Việt Nam (cũng như các nước khác trên thế giới) trong biện pháp tình thế để kiềm chế lạm phát mà thôi, không thể là biện pháp căn cơ lâu dài để giải quyết vấn đề lạm phát được. Nguyên do tại vì biện pháp đưa tiền vào lưu thông của Paul Samuelson vẫn dựa trên cơ sở mô hình hệ thống ngân hàng 2 cấp, vẫn đưa tiền vào lưu thông chủ yếu bằng cách in tiền ra để tiêu xài hoặc cho vay để tiêu xài, do đó trước sau gì rồi cũng xảy ra lạm phát, đưa tiền vào lưu thông càng nhiều lạm phát càng cao. Áp dụng thuyết điều tiết vĩ mô của Paul Samuelson, siết chặt tiền tệ sẽ giải quyết được tình thế, kiềm chế được lạm phát trong lúc này nhưng lại xảy ra tình trạng thiếu tiền trong lưu thông (thiếu tính thanh khoản) ngay sau đó, rồi lại phải nới lỏng tiền tệ cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, rồi sau đó lại tiếp tục xảy ra lạm phát, rồi lại phải siết chặt tiền tệ,… Rồi cứ thế đi vào vòng lẩn quẩn như vậy, lạm phát vẫn cứ tái diễn đi tái diễn lại, lạm phát vẫn cứ song hành cùng với sự phát triển của nền kinh tế mà vẫn không thể nào trị dứt điểm lạm phát được. Paul Samuelson chỉ mới giải quyết được phần ngọn (triệu chứng) của lạm phát chứ chưa giải quyết được phần gốc (nguyên nhân) của lạm phát. Vì vậy, biện pháp điều tiết kiềm chế lạm phát của Paul Samuelson chỉ là biện pháp tình thế mà thôi, không thể là biện pháp chiến lược lâu dài để giải quyết vấn đề lạm phát. c) Quan điểm của Friedman Phương thức hạn chế tiền tệ được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra có hiệu quả, vì vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là phương thức chủ yếu để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát. "Lạm phát mọi nơi và mọi lúc chỉ là một hiện tượng tiền tệ". Nhưng khi phân 16 tích hậu quả xã hội, chính trị mà lạm phát có thể phát sinh, nhất là khi chính phủ không đủ năng lực quản lý khối lượng tiền lưu thông và các tác nhân kinh tế tham gia vào cung tiền, thì câu khẳng định tuyệt đối của Friedman có lẽ không đủ sức để loại bỏ những nghi vấn. So sánh trọng tiền của Friedman với trọng cầu của Keynes: - Đặc điểm phương pháp luận. Friedman - tự do mới, Keynes - đề cao vai trò của nhà nước. - Friedman cho rằng mức cung của tiền tệ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới các biến số của KT vĩ mô. Keynes cho rằng chính sách tài chính ảnh hưởng đến KT vĩ mô. Fried man: mức cầu của tiền tệ là nhân tố ngoại sinh của nền KT, vì nó biến thiên theo thu nhập. Keynes: mức cầu của tiền tệ là nhân tố nội sinh của nền KT, vì nó biến thiên theo lãi suất. Nguyên nhân khủng hoảng. Friedman: mức cung của tiền tệ không đáp ứng đủ mức cầu của tiền tệ, dẫn đến khủng hoảng. Keynes: nguyên nhân trực tiếp là do sự giảm sút của cầu có hiệu quả. Sâu xa là thiếu sự can thiệp của nhà nước. Fried man: lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Keynes: thất nghiệp mới là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. IV. Thực tiễn lạm phát ở Việt Nam Trước hết, cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế ở nước ta đã được xác định qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước ta là hết sức quan trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới nhất về kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nước cần thiết phải 17 tích cực và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trò đó càng trở nên cấp thiết. Tăng trưởng kinh tế là lựa chọn ưu tiên bởi thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu để chống tụt hậu xa hơn và là tiền đề để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội khác, kể cả mục tiêu kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, không thể tiếp tục bằng con đường gia tăng đầu tư, mà phải bằng con đường nâng cao hiệu quả đầu tư. Bởi vì chúng ta đã ở vào thời điểm mà nếu đầu tư sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, thì đến cả sự tăng trưởng về lượng cũng không thể đạt được như trước. V. Kết luận Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ, phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí. Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta. 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sử Đình Thành, Vũ Thị Minh Hằng, 2008. Nhập môn tài chính - tiền tệ 2. Phạm Thị Hồng Điệp.Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường từ một số học thuyết kinh tế cận, hiện đại và vận dụng vào Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo, Hội đồng Lý luận Trung ương 2010. 3. Đinh Văn Thông. Học thuyết Keynes và những vấn đề kích cầu nhằm chống suy giảm kinh tế ở nước ta. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 185-192 4. Phạm Quốc Việt. Lạm phát và giải pháp từ lý thuyết Keynes. Nội san tháng 1-2011 5. Phan Huy Đường, 2011. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes và vài suy nghĩ về tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay 6. paul-samuelson-chi-la-bien-phap-tinh-the/ 7. 8. -te-trong-cong-cuoc-doi-moi-kinh-te-cua-viet-nam.-mot-so-giai-5541/ 9. 50/5890537.epi 10. Hà Thị Hương Lan, "Diễn biến lạm phát Việt Nam giai đoạn 1990-2011".

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_tctt_hoanchinh1_7284.pdf
Luận văn liên quan