Trên cơ sở những phân tích thực trạng về thể chế, các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS, tiếp cận xu hướng quốc tế và quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà Nước ta trong sửa đổi, bổ sung BLTTHS; nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể đặc thù này; tác giả đã nghiên cứu, đề xuất ba nhóm giải pháp hoàn thiện, cụ thể:
Một là, giải pháp về thể chế (sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội trong BLTTHS năm 2003), đó là: 1) đề xuất thiết kế một Điều luật mới quy định các nội dung mang tính nguyên tắc của việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan người chưa thành niên; 2) Sửa đổi các quy định về điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên, như Sửa đổi quy định về phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đối với NCTN;
27 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của người chưa thanh niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3) Kiến giải hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật thực định và hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng đặc thù nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
Đối tượng nghiên cứu của luận án: 1) quyền và lợi ích hợp pháp của Người chưa thành niên phạm tội; 2) Cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN phạm tội ở các giai đoạn TTHS: Điều tra, Truy tố và Xét xử sơ thẩm.
Phạm vi nghiên cứu của luận án được đặt trong Phạm vi về không gian là hệ thống pháp luật quốc tế (các công ước, điều ước quốc tế) và hệ thống pháp luật quốc gia (các quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề quyền con người, quyền của NCTN, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS; về vai trò, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của pháp luật TTHS); Phạm vi về thời gian: từ thời điểm có hiệu lực của BLTHS 2003 (ngày 1/7/2004) đến thời điểm hiện tại.
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận án, cụ thể: Phương pháp luận biện chứng duy vật; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người và quyền con người; Đặc biệt phương pháp nghiên cứu tiếp cận đa ngành, liên ngành, đa ngành khoa học xã hội được vận dụng tối đa. Ngoài việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu quyền con người của người CTN trong TTHS dưới góc độ luật học, vấn đề nghiên cứu còn được đặt trong mối liên hệ với các ngành khoa học xã hội khác.
Tác giả chú trọng phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh luật học, các phương pháp xã hội học pháp luật để đưa ra các quan điểm, các giải pháp về việc hoàn thiện pháp luật TTHS, các biện pháp kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục nhằm bảo vệ tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu dự kiến được áp dụng cụ thể trong từng Chương của Luận án: Chương 2: Phương pháp nghiên cứu là phân tích văn bản, phân tích thuần túy quy phạm, tổng hợp, đối chiếu văn bản, so sánh liên ngành và nghiên cứu lịch sử; Chương 3: tổng hợp, phân tích văn bản, thống kê việc bảo vệ các quyền của NCTN tham gia trong quá trình giải quyết VAHS. Những vướng mắc này sẽ được phân tích từ hai phía chủ thể, là người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; Chương 4: Tác giả tập trung đưa ra các giải pháp trong từng giai đoạn trước mắt và lâu dài, trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích, diễn giải.
4. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu, đề xuất một số khái niệm về " Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" và "Bảo vệ Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam";
Thứ hai, Đánh giá đầy đủ, hoàn chỉnh qua đó làm rõ những bất cập, thiếu sót, vướng mắc đối với các quy định của BLTTHS 2003 trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN cũng như thực tiễn áp dụng;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng bổ sung những quy định thể chế; thiết chế TTHS; gia đình - xã hội đặc thù cho NCTN nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN vi phạm pháp luật.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án làm giàu thêm lý luận về quyền của NCTN nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong tố tụng hình sự nói riêng.
Ý nghĩa về thực tiễn: Góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS cũng như góp phần thay đổi nhận thức của NCTN, các cơ quan/người tiến hành tố tụng, gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, trong lĩnh vực nghiên cứu về Quyền con người và Bảo vệ quyền con người, Bảo vệ quyền con người của NCTN, tác giả đánh giá một số văn bản quốc tế và công trình nghiên cứu như sau:
Đối với văn bản quốc tế: Trước tiên, phải kể đến Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (ngày 26/08/1789) được các nhà cách mạng Pháp công bố, đánh dấu sự phát triển lên một bậc thang mới của quyền con người. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) - được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948, tại Palaisde Chaillot, Paris, Pháp. Ngày 16/12/1966, Liên Hợp Quốc thông qua hai Công ước quốc tế về quyền con người, là Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR).
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc đã thông qua một loạt các văn bản như sau: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư pháp đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa NCTN bị tước quyền tự do, 1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp của NCTN (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ và nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài, 1986; Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong Hệ thống luật hình sự, phụ lục của Nghị quyết số 1997/30 của Hội đồng kinh tế và xã hội về việc quản lý tư pháp với NCTN (ICCPR, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976).
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Cuốn sách: "American juvenle Justice" Lý luận, lịch sử tư pháp NCTN ở Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ
(Tư pháp NCTN của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) là công trình của Franklin E.Jimring được Oxford University xuất bản năm 2005; Cuốn "Juvenile Court: A Judge's Guide for young adults and Their Parents"Hướng dẫn
(Tòa án NCTN: Hướng dẫn pháp lý cho NCTN và cha mẹ) do Leora Krygier công bố được The Scarecrow phát hành năm 2009 đặc biệt là Cuốn: "Handbook for Professionals And PolicLý luận
ymakers on Justice Matters Involving Child Victims and Witnessed of Crime" (Sổ tay cho những người làm công tác pháp luật và xây dựng chính sách liên quan đến nạn nhân và nhân chứng trẻ em), là một trong số series các cuốn sổ tay tư pháp hình sự do Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về ma túy và hình sự phát hành năm 2009;
Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, tác giả sẽ kế thừa các ưu điểm: 1) việc bảo vệ quyền con người trong TTHS, trước hết là xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo đảm quyền con người trong các quan hệ phát sinh trong TTHS; 2) cách nhìn toàn diện về khái niệm quyền của NCTN và tiếp cận được với khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS dưới góc độ luật học so sánh; 3) khái quát được một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật quốc tế về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành ba nhóm theo các vấn đề trên. Cụ thể như sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền con người nói chung gồm có: Sách chuyên khảo “Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” - GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010 tr), “Quyền con người” (Giáo trình giảng dạy sau đại học) - GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr), Sách chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người” -GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr).
Nhóm nghiên cứu về quyền của trẻ em, trong đó có Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, đáng kể đến các công trình: Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam, Hoàng Thế Liên, NXB Giáo dục 1996; Vì quyền trẻ em và sự bình đẳng của phụ nữ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Quyền của trẻ em và phương tiện thông tin đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, 2000; Thúc đẩy các phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trẻ em, kinh nghiệm và sáng kiến từ các nước châu Á, NXB Chính trị quốc gia năm 2006; Quyền trẻ em (Sách chuyên đề nghiên cứu và giảng dạy và thực hiện quyền trẻ em), Trung tâm nghiên cứu quyền con người năm 2000.
Nhóm nghiên cứu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS, bao gồm các công trình tiêu biểu sau: Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội - PTS. Vũ Đức Khiển chủ biên, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội, 1987; Vấn đề trách nhiệm Hình sự của vị thành niên phạm tội theo luật Hình sự việt Nam - Luận án PTS pháp lý - Đinh Xuân Nam, Kiev, 1994; Tư pháp với người chưa thành niên và quyền trẻ em - Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam - Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, 2009; Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đỗ Thị Phượng, Luận án Tiến sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2008;
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, tác giả có thể đưa ra một số nhận xét như sau: 1) Các công trình nghiên cứu về quyền con người sẽ là nền tảng để tác giả tiếp cận sâu hơn quyền con người của nhóm “yếu thế” là NCTN và trong lĩnh vực cụ thể là TTHS; 2) vẫn còn "khoảng trống" trong nghiên cứu với đối tượng đặc biệt là NCTN; cụ thể là: chưa có nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, chuyên sâu, có hệ thống cả về lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn TTHS các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Nói cách khác chỉ tiếp cận vấn đề quyền của NCTN dưới góc độ thủ tục TTHS mà chưa có cách tiếp cận rộng hơn dưới góc độ quyền con người.
1.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT TRONG LUẬN ÁN
Thứ nhất, nghiên cứu luận giải để đưa ra khái niệm và phân tích nội hàm của khái niệm “quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS Việt Nam”.
Thứ hai, vấn đề Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong hệ thống tư pháp hình sự (thế giới và Việt Nam) cần được so sánh, phân tích và luận giải.
Thứ ba, cần so sánh các quyền của NCTN với người đã thành niên tham gia TTHS để tìm sự khác biệt, qua đó tìm những "khoảng trống pháp lý" còn tồn tại;
Thứ tư, thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong các hoạt động TTHS ở Việt Nam hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu, bởi vì đây là cơ sở để đưa ra các giải pháp;
Thứ năm, ở Việt Nam, các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong pháp luật TTHS chưa hề được đề cập nghiên cứu ở mức độ cần thiết.
Thứ sáu, các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền của NCTN trong TTHS phù hợp với tình hình của Việt Nam hiện nay.
1.3. CÁC CÂU HỎI ĐẶT RA KHI NGHIÊN CỨU
Với mục đích tiếp cận Quyền con người của NCTN trong TTHS, làm sâu sắc thêm TTHS cả về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả cần làm rõ mối quan hệ giữa Quyền con người (trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN) với TTHS); mối quan hệ này, tiếp theo, sẽ đóng vai trò là “cầu nối” giữa Luật Hình sự - Tố tụng hình sự - Quyền con người. Để giải quyết được hai vấn đề lớn này, cần đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong pháp luật TTHS Việt Nam chưa được qui định đầy đủ, cụ thể và chưa tổ chức được thiết chế đặc thù hoặc đã có nhưng hoạt động thiếu hiệu quả nhằm bảo vệ tốt nhất các quyền của họ trên thực tế.
Từ đó, tác giả cần nghiên cứu và giải đáp có hệ thống các câu hỏi, cụ thể:
Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN? Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS? Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTNPT trong TTHS Việt Nam? Lịch sử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS Việt Nam; xu hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam?
Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong các giai đoạn TTHS ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam? Tổ chức các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS?
Các yêu cầu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, hướng đến năm 2020? Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam nhằm bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN? Các giải pháp hoàn thiện các thiết chế bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS ở Việt Nam?
Cuối Chương 1, tác giả kết luận: Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS là vấn đề được các ngành khoa học trong đó có luật học và khoa học tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền "của dân, do dân, vì dân". Chính vì vậy, việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ quyền con người trong TTHS là một cách tiếp cận mới, sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và đề ra các giải pháp đồng bộ nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Ở Chương này, tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
2.1. KHÁI NIỆM
Phần này, tác giả phân tích đặc điểm của người chưa thành niên, tư cách là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, có những dấu hiệu đặc trưng về mặt thể chất, tâm lý, nhân cách cũng như các đặc điểm về xã hội học, tác giả có thể khái quát như sau: do sự phát triển chưa hoàn thiện về tâm, sinh lý của lứa tuổi này, NCTN có những thái độ, nhận thức chưa hoàn chỉnh trong học tập, giao tiếp xã hội; từ những đặc thù này, đòi hỏi xã hội phải công bằng khi đánh giá về họ, phải giành cho họ những quyền được đối xử phù hợp với lứa tuổi của họ. Điều này cũng đồng nghĩa với đòi hỏi chính đáng của nhóm đối tượng xã hội đặc thù này khi họ vi phạm pháp luật hình sự, đó là, phải có thể chế đặc thù, các thiết chế đặc thù đối với họ.
Tiếp theo, để làm rõ Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, thông qua các phân tích khái quát về một số đặc điểm cơ bản quyền con người và chỉ ra mối liên hệ hữu cơ, tồn tại khách quan giữa Tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người: theo đó tính phổ biến chỉ tồn tại trong tính đặc thù của quyền con người, thông qua tính đặc thù của quyền con người mà biểu hiện sự tồn tại của mình; Tính đặc thù của quyền con người chỉ tồn tại trong mối liên hệ với tính phổ biến của quyền con người. Sau đó, tác giả đánh giá quan điểm của Đảng và Nhà Nước ta trong vấn đề bảo vệ quyền con người. Từ những phân tích ở tính phổ biến của quyền con người, tác giả tập trung làm rõ về Quyền con người của người chưa thành niên và Quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
Về Quyền con người của người chưa thành niên, chủ yếu, tác giả căn cứ vào hai văn kiện: Tuyên bố Liên hợp quốc về quyền trẻ em, năm 1959 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Từ hai văn kiện quan trọng này, càng khẳng định lý do để bảo vệ các quyền trẻ em là “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”.
Về Quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, do cho đến hiện nay, thuật ngữ "Quyền và lợi ích hợp pháp" chưa có khái niệm chính thống. Bởi, đây là một cách gọi khác của Quyền con người được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán quốc gia; được bảo vệ, bảo đảm bởi pháp luật và các thể chế khác nhau. Do đó, khi nói đến "quyền và lợi ích hợp pháp", chỉ có thể hiểu ở phạm vi Quốc gia mà thôi và trong phạm vi Luận án, chúng tôi chỉ đề cập đến phạm vi Việt Nam. Tại Việt Nam, do khái niệm Trẻ em và NCTN chưa đồng nhất, nên "Quyền và lợi ích hợp pháp của Trẻ em" đương nhiên thuộc "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN", nhưng nếu hiểu ngược lại thì không hoàn toàn đúng, bởi luôn tồn tại một "khoảng trống" quy định với các đối tượng thuộc nhóm tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do đó, hiện nay tại Việt Nam, "quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN" cơ bản là "quyền và lợi ích hợp pháp của Trẻ em".
Qua những phân tích khái quát về Hệ thống pháp luật Việt Nam, tác giả đưa ra khái niệm "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN", theo đó:
Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN là những quyền con người đặc thù chỉ dành cho người chưa thành niên, là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, dễ bị tổn thương, mà Nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật quốc gia; được Nhà Nước bảo đảm thực hiện và bảo vệ khi bị xâm hại.
Sau khi đã xây dựng được khái niệm về "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN", tác giả tập trung làm rõ khái niệm "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam" tại tiểu mục 2.1.3.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu này, tác giả đã dẫn dắt từ việc khái quát về cơ chế bảo vệ quyền con người, đó là, nói đến cơ chế là nói đến cơ cấu tổ chức, quá trình vận hành của một hệ thống nào đó; thường đề cập đến hai nội dung: Thể chế và Thiết chế; theo đó: Thể chế có thể được hiểu bao gồm hai khía cạnh khác nhau: 1) là các quy định pháp luật, các quy tắc được ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục nhất định có tính ràng buộc đối với các chủ thể; 2) là thiết kế hệ thống các cơ quan được lập ra để thực thi những chức năng, nhiệm vụ nhất định; Thiết chế là sự vận hành các cơ quan, tổ chức đã được xây dựng, quy định để thực hiện các nhiệm vụ đã được phân công.
Tiếp theo, tác giả phân tích, làm nổi lên về vai trò của pháp luật tố tụng hình sự, là một phương tiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người nói chung, của NCTN nói riêng, bởi vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự có thể được coi là trục xoay của toàn bộ các hoạt động tố tụng hình sự. Vai trò này được chứng minh trong các văn kiện Quốc tế về quyền con người trong TTHS như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985 Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong TTHS, theo đó, quyền con người trong TTHS bao gồm những quyền sau Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phâm và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chạm trễ; Áp dụng thủ tục TTHS đặc biệt với NCTN; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh chóng minh oan. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi
Với nhóm đối tượng đặc thù, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được quy định trong các văn bản quốc tế về tư pháp người chưa thành niên, đó là: 1) Công ước về quyền trẻ em do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990; 2) Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua 29/11/1985 (từ đây gọi tắt là Quy tắc Bắc kinh); 3) Hướng dẫn Riyadh về việc phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 (từ đây gọi tắt là Hướng dẫn Riyadh); 4) Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 (từ đây gọi tắt là Quy tắc 1990)
Các văn kiện này có tính hướng dẫn, đưa ra những khuyến nghị về việc thiết lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên trong khuôn khổ pháp luật ở mỗi quốc gia nhằm vừa tôn trọng quyền và bảo vệ trẻ em, vừa duy trì trật tự, an toàn trong xã hội. Do đó, các văn kiện này nhằm giúp các quốc gia hoạch định các chính sách về tư pháp người chưa thành niên, đồng thời để giải thích cách áp dụng trong thực tế những quy định của Công ước về quyền trẻ em liên quan đến tư pháp người chưa thành niên.
Ở Việt Nam, tác giả khái lược chính sách hình sự của Nhà nước đối với NCTNPT, mang tính nhân đạo sâu sắc Đảng và Nhà nước ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt đối với NCTNPT, được thể hiện qua Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bao gồm: BLHS, BLTTHS, một số văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành (như Nghị quyết Hội đồng thẩm phán TANDTC) và liên ngành (như Thông tư liên tịch); thậm chí tuy không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng vẫn có giá trị hướng dẫn áp dụng pháp luật (như Tổng kết ngành Tòa án hàng năm; Công văn hướng dẫn của TANDTC)
Từ những nghiên cứu quốc tế và Việt Nam, tác giả đưa ra Khái niệm Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS như sau:
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS là việc Nhà Nước, bằng việc quy định thể chế và thiết chế đặc thù trong BLTTHS nhằm chống lại mọi sự xâm hại đến NCTN, tuỳ theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật, khi họ tham gia tố tụng hình sự.
2.2. CÁC PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NCTN THEO PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM
Ở phần này, tác giả căn cứ vào thực tiễn pháp luật TTHS Việt Nam để làm rõ các phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, đó là:
Về thể chế TTHS, được thể hiện qua hai phương diện:
Một là, quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự theo các giai đoạn tố tụng; trong đó, thiết kế một chương riêng quy định về thủ tục hình sự đối với những vụ án mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN. Tuy nhiên, ngoài những quy định này ra thì những quy định chung khác của BLTTHS cũng được áp dụng.
Hai là, quy định hoạt động (chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn) của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án), người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án) và các cơ quan nhà nước khác và tổ chức góp phần vào việc giải quyết vụ án hình sự.
Về thiết chế, là tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó là các quy định về Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN khi tiến hành tố tụng và bằng Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
Ngoài thiết chế tư pháp, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN còn được bảo vệ thông qua hoạt động của các thiết chế gia đình và xã hội, đó là sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, gia đình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có bị can, bị cáo là NCTN.
2.3. KINH NGHIỆM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
2.3.1. Khái quát về một số phương thức bảo vệ NCTN trong TTHS trên thế giới
Phần này, tác giả nghiên cứu mô hình bảo vệ người chưa thành niên trong TTHS đã và đang hoạt động trên thế giới. Các mô hình này được lựa chọn nghiên cứu vì mỗi một mô hình đại diện cho một phương pháp pháp luật. Có thể tìm hiểu qua một số Quốc gia điển hình: Thái Lan; Canada; Philippin, New Zealand, New South Wales; Nhật Bản; Scottland; Cộng hoà Séc; Hoa Kỳ,
Nhận xét: Qua nghiên cứu các mô hình này, tác giả nhận thấy, để bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, bên cạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế đặc thù thì việc tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng đặc thù là rất quan trọng, trong đó, mô hình Tòa chuyên trách NCTN là một xu hướng tất yếu.
2.3.2. Một số mô hình Tòa án chuyên trách NCTN trên thế giới
Qua nghiên cứu ba mô hình Tòa chuyên trách NCTN trên thế giới, đó là Mô hình Toà cho Trẻ em có nguy cơ (Mô hình An sinh Phúc lợi); Mô hình Tư pháp Người chưa thành niên (Mô hình Trừng phạt) và Mô hình Toà Gia đình, tác giả đã rút ra nhận xét: Mô hình Toà gia đình hợp nhất có thể coi là một mô hình tư pháp lý tưởng xét trên nhiều phương diện. Đây là một phương pháp tiếp cận tổng thể nhằm xử lý các vấn đề của gia đình trên cơ sở đảm bảo cuộc sống và phúc lợi cho tất cả các thành viên của gia đình đó.
Cuối Chương 2, tác giả kết luận: Để bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS, các Quốc gia trên thế giới đã thực hiện đồng bộ các phương thức bảo vệ, như: xây dựng các quy định đặc biệt trong chính sách pháp luật; tổ chức các thiết chế đặc biệt và các thiết chế bảo đảm khác. Trước những yêu cầu ngày càng cao của bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay, Việt Nam cũng đã nỗ lực tiếp cận với Thế giới thông qua nội luật hóa các quy định của Quốc tế và xây dựng các phương thức bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, cần được tiếp tục nghiên cứu để đề xuất những giải pháp khả thi nhằm bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp cuả nhóm đối tượng đặc biệt này..
Chương 3
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chương này, tác giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng của các phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam, đó là: 1) Quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS; 2) thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng; 3) Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS từ phía gia đình, tổ chức. Tác giả đã sử dụng phương pháp: kết hợp đối chiếu các quy định, khuyến nghị của quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN (đã làm rõ tại Chương 2 Luận án) với việc phân tích với các quy định trong BLTTHS có liên quan đến NCTN, nhằm chỉ ra những "lỗ hổng pháp lý" cùng những bất cập, khó khăn trong thực tiễn áp dụng; đồng thời, lồng ghép việc đánh giá các nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc để làm căn cứ đề xuất các giải pháp ở Chương 4. Cụ thể là:
3.1. CÁC QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Trong phần này, tác giả tập trung đánh giá những vấn đề bất cập, vướng mắc trong các quy định của BLTTHS về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN và thực tiễn áp dụng pháp luật; đó là những khó khăn trong trong việc thực hiện quy định những điều cần chứng minh trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án NCTNPT (quy định tại Điều 302 BLTTHS); những bất cập trong các trường hợp bắt (khẩn cấp và quả tang), trong áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam NCTN. Qua phân tích những tồn tại của việc áp dụng biện pháp này, tác giả đã chỉ rõ nguyên nhân việc "lạm dụng" biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với NCTN, cụ thể: 1) thực trạng quản lý lý lịch tư pháp, điều kiện kỹ thuật giám định; 2) thiếu quy định về những biện pháp thay thế bảo đảm việc chấp hành của NCTN khi được cơ quan tố tụng cho tại ngoại; thiếu chế tài xử lý đối với người bảo lãnh, giám sát khi để xảy ra hậu quả.
Ngoài ra, một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTCN trong quá trình tiến hành tố tụng, đó là bảo đảm cho việc tham gia tố tụng của người bào chữa và trợ giúp pháp lý khác, cũng được tác giả quan tâm làm rõ. Qua đó đã xác định được nguyên nhân của những bất cập, khó khăn là từ: 1) các quy định BLTTHS chưa tạo cơ chế bảo đảm thực hiện quy định này, khiến quy định này không thể hoặc khó thực hiện trên thực tế; 2) xuất phát từ phía đội ngũ luật sư (năng lực, trách nhiệm); 3) nhận thức hạn chế từ phía NCTN và gia đình của họ.
3.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Phần này là điểm mới của Luận án, tác giả đã thông qua việc phân tích những hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan tiến hành tố tụng, những hoạt động nghiệp vụ của cá nhân người tiến hành tố tụng để làm rõ thực trạng của Thiết chế tư pháp, là một trong những phương thức bảo vệ NCTN trong TTHS. Những hạn chế và tồn tại của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng xuất phát từ các nguyên nhân:
Thứ nhất, nhận thức hạn chế trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS: 1) Từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng (thiếu hướng dẫn cụ thể; thậm chí, ban hành quy định gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN); 2) Từ phía Người tiến hành tố tụng (như không bảo đảm quyền được bào chữa của NCTN; Không giải thích cụ thể quyền và nghĩa vụ của NCTN trong các buổi làm việc với họ và gia đình; Không chuẩn bị tốt cho các buổi làm việc cũng như có thái độ không phù hợp khi làm việc với NCTN).
Thứ hai, năng lực cán bộ tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự liên quan đến NCTN còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; thể hiện: 1) trong quá trình điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa được trang bị kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để làm việc với NCTN; 2) trong quá trình xét xử, ngoài việc chưa có đội ngũ Thẩm phán chuyên giải quyết các vụ án NCTN, có thể thông qua việc phân tích hai hoạt động giải thích và Tuyên án của Thẩm phán tại phiên Tòa để chứng minh cho nhận định này. Ngoài ra, trong hoạt động xét xử, việc hạn chế năng lực của Hội thẩm nhân dân cũng là vấn đề cần quan tâm. Cuối cùng, trong việc bảo đảm sự có mặt của gia đình bị cáo NCTN tại phiên tòa xét xử, vẫn chưa được Hội đồng xét xử quan tâm đúng mức.
Thứ ba, việc quan tâm đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa thành niên cũng chưa được quan tâm thỏa đáng, như: 1) Trong quá trình điều tra, các cuộc lấy lời khai của NCTN thường diễn ra tại trụ sở CQĐT, là những nơi trang nghiêm khiến NCTN căng thẳng, cảm giác không thoải mái, gây hạn chế hiệu quả hoạt động điều tra hoặc chưa bảo đảm đầy đủ quyền của NCTN; 2) Trong quá trình xét xử, hình thức tổ chức phiên tòa chưa phù hợp, chưa bảo đảm yêu cầu về "bảo đảm sự riêng tư cho NCTN" theo khuyến nghị của quốc tế. Thực tiễn xét xử NCTN vẫn tồn tại việc không áp dụng việc xét xử kín hoặc một số nơi còn chọn một số vụ án NCTN để xét xử lưu động hoặc - Các chi tiết của vụ án có liên quan tới NCTN có thể xuất hiện trên các phương tiện truyền thông.
Những việc này có ảnh hưởng tiêu cực tới NCTN và gia đình họ và có thể dẫn tới sự định kiến và kỳ thị trong cộng đồng và điều này có tác động lớn tới tương lai của người chưa thành niên có liên quan.
3.3. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ PHÍA GIA ĐÌNH - XÃ HỘI
BLTTHS thiết kế về nhóm thiết chế Gia đình - Xã hội là xuất phát từ đặc điểm đặc thù của nhóm chủ thể tham gia TTHS là NCTN và người có nhược điểm về thể chất, nhưng nhóm người có nhược điểm về thể chất chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể nên có thể nói đây chính là thiết chế đặc thù cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
Do quy định về sự tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội còn chung chung, chưa cụ thể nên việc áp dụng điều này trên thực tế chưa được chú trọng đúng mức, đó là: 1) Chưa bảo đảm cho đại diện gia đình NCTN nhận thông tin kịp thời về việc bắt giữ NTCN và thực hiện chức năng giám sát NCTN; 2) Chưa đảm bảo sự có mặt của đại diện nhà trường và tổ chức tại phiên tòa xét xử NCTN; mặt khác, hiện chưa có quy định cụ thể trách nhiệm tham gia của cơ quan, tổ chức tham gia Hội đồng xét xử và quy định thiếu thành phần cơ quan chuyên môn về chăm sóc, bảo vệ NCTN (Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em).
Cuối Chương 3, tác giả kết luận: Nghiên cứu các tồn tại, bất cập, chỉ rõ nguyên nhân của các phương thức bảo vệ là cơ sở để đề xuất các nhóm giải pháp nhằm bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS, ngày càng tiếp cận gần các quyền của NCTN theo luật pháp Quốc tế.
Chương 4
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM BẢO VỆ CÓ HIỆU QUẢ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.1. XU HƯỚNG QUỐC TẾ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Trong mục này, tác giả đã phân tích, nhận định về xu hướng toàn cầu về chính sách liên quan đến bảo vệ Trẻ em và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTCN trong TTHS, cụ thể là định hướng sửa đổi BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Về Xu hướng toàn cầu: Nhận thức ngày càng thấu đáo hơn về sự phát triển của trẻ em và người chưa thành niên; Hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về tác động của tổn thương tâm lý đối với hành vi của trẻ em; Xu hướng chuyển từ những mô hình tư pháp người chưa thành niên mang tính thuần nhất phúc lợi hoặc trừng phạt sang mô hình tư pháp phục hồi; Mong muốn chuyển hướng càng nhiều càng tốt các trường hợp có thể ra khỏi hệ thống tư pháp chính thức; Tăng cường khả năng hỗ trợ của cộng đồng đối với trẻ em và gia đình các em; Xu hướng tập trung hỗ trợ, củng cố gia đình ngày càng đạt được sự ủng hộ rộng rãi hơn.
Về định hướng sửa đổi BLTTHS, cần phải quán triệt 5 quan điểm cơ bản: 1) phải quán triệt và thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong tình hình mới; 2) việc sửa đổi Bộ luật phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, phức tạp nhất của TTHS trên nền tảng của cải cách tư pháp; 3) Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; 4) phải bảo đảm tốt hơn các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người, quyền trẻ em đã được quy định trong Hiến pháp, các văn bản luật trong nước và các Công ước, Quy tắc quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn; 5) việc sửa đổi Bộ luật được tiến hành trên cơ sở tổng kết những vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử; có kế thừa truyền thống pháp lý và tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng tiên tiến của các nước.
4.2. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM BẢO VỆ HIỆU QUẢ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.2.1. Giải pháp về tăng cường thể chế
Tác giả cho rằng, việc thiết lập một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên sẽ đảm bảo rằng các chuẩn mực trong khuôn khổ quốc tế được thể hiện đầy đủ trong các điều khoản của hệ thống tư pháp người chưa thành niên. Tuy nhiên, việc xây dựng một đạo luật chuyên biệt như vậy không phải là dễ dàng. Nhiều quốc gia thuộc hệ thống pháp luật dân sự cũng chỉ quy định vấn đề tư pháp người chưa thành niên trong một chương riêng trong Bộ luật Hình sự. Do vậy, thay vì xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên, có thể sửa đổi, bổ sung một số quy định mang tính nguyên tắc ở Phần những quy định chung về xử lý vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng để làm cơ sở nền tảng cơ bản sửa đổi những quy định cụ thể trong các giai đoạn tố tụng của quá trình giải quyết vụ án; đồng thời hoàn thiện Chương 10 của Bộ luật Hình sự và Chương 32 của Bộ luật Tố tụng hình sự để bảo đảm rằng nội dung của hai chương là đảm bảo đầy đủ, có tính khả thi trong thực tiễn áp dụng và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Hướng sửa đổi Chương 32, trước hết là quy định thủ tục tố tụng chuyên biệt, đặc thù trong giải quyết vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia. Theo đó, phạm vi áp dụng, gồm tất cả người chưa thành niên tham gia tố tụng, bao gồm người chưa thành niên phạm tội và người chưa thành niên là người nạn nhân, nhân chứng của tội phạm.
Về thủ tục tố tụng người chưa thành niên, hướng sửa đổi sẽ có ba nội dung, tương đương 3 Mục: 1) quy định nguyên tắc chung về xử lý vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng; 2) quy định về thủ tục tố tụng người chưa thành niên phạm tội; 3) quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là bị hại, nhân chứng trong vụ án hình sự
Cụ thể, tác giả xin đề xuất một số phương hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội trong BLTTHS năm 2003 như sau:
4.2.1.1. Bổ sung những vấn đề mang tính nguyên tắc
Để thể hiện rõ những quan điểm và tư tưởng“phải cân nhắc để đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em”, tác giả kiến nghị bổ sung vào Phần thứ nhất- Những quy định chung, Chương II- Những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2003 một Điều luật mới trong đó quy định các nội dung mang tính nguyên tắc của việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan người chưa thành niên, trên cơ sở kế thừa quy định của TTLT số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ngày 12/7/2011. Trên cơ sở nguyên tắc chung này, sẽ định hướng tiếp theo các định chế cụ thể nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
4.2.1.2. Sửa đổi các quy định về điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập nảy sinh trong nhận thức và áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự và đường lối, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện; tác giả đề xuất một số phương hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau:
Một là, sửa đổi quy định tại Điều 301 BLTTHS về phạm vi áp dụng các quy định trong Chương XXXIII về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên; theo hướng bổ sung đối tượng người bị kết án, đồng thời mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt với với các đối tượng đã đủ 18 tuổi (khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là NCTN) trong quá trình tiến hành tố tụng.
Hai là, sửa đổi, Bổ sung quy định về tiêu chuẩn cần có của Người tiến hành tố tụng đối với các vụ án liên quan đến NCTN.
Ba là, bổ sung Điều luật mới về xác định độ tuổi NCTN.
Bốn là, sửa đổi quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn liên quan đến thủ tục điều tra, truy tố, xét xử NCTN: 1) Sửa đổi Điều 79 về các biện pháp ngăn chặn; 2) Sửa đổi, bổ sung Điều 80 về bắt tạm giam bị can, bị cáo; 3) Sửa đổi Điều 81 về bắt người trong trường hợp khẩn cấp; 4) Sửa đổi, bổ sung Điều 85. Thông báo về việc bắt; 5) Sửa đổi, bổ sung khoản mới tại Điều 86 về Tạm giữ; 6) Sửa đổi, bổ sung Điều 87. Thời hạn tạm giữ; 7) Bổ sung khoản 7 Điều 120 Đối với thời hạn tạm giam để điều tra.
Năm là, bổ sung Điều luật quy định về kỹ năng lấy lời khai đối với NCTN.
Sáu là, Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 304 BLTTHS về giám sát NCTN.
Bảy là, sửa Điều 305 BLTTHS quy định về sự tham gia của người bào chữa và trợ giúp pháp lý, theo hướng: quy định để tạo điều kiện cho bị can, bị cáo được thực hiện quyền mời người bào chữa cho mình cũng như tạo mọi điều kiện để người bào chữa thực hiện quyền của họ và bảo đảm tối đa sự có mặt và tham gia tố tụng của người bào chữa trong các vụ án có người chưa thành niên.
Ngoài ra, tác giả đề nghị sửa đổi Điều 306 BLTTHS theo hướng bổ sung quy định việc mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên toà để hỗ trợ cho NCTN cũng như tạo điều kiện giúp đỡ tối đa về trợ giúp pháp lý cho họ. Ngoài ra, cần thiết bổ sung trường hợp hoãn phiên tòa khi vắng mặt những người mà Tòa án coi là cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho NCTN.
Tám là, về Thủ tục xét xử, tiếp tục pháp điển hóa những quy định của Thông tư liên tịch 01/2011 để tạo ra một môi trường thân thiện với NCTN.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
Trong tiểu mục này, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp:
Một là, nâng cao năng lực của các cơ quan/người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên, bao gồm các biện pháp:
- Nâng cao nhận thức và kỹ năng làm việc với NCTN của các Cơ quan/ Người tiến hành tố tụng: 1) thường xuyên mở các lớp đào tạo đối với những người được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng trong các vụ án liên quan đến NCTN; 2) chỉ phân công loại án này cho các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là người có đủ các điều kiện quy định tại Điều 302 BLTTHS hoặc là những người có những nghiên cứu về NCTN hoặc đã qua công tác đoàn thể một thời gian nhất định; 3) áp dụng mô hình tổ chức phiên tòa xét xử NCTN theo hướng thân thiện đối với họ theo tác giả đề xuất;
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị, nguồn lực để thực hiện các kỹ thuật thân thiện với NCTN: 1) tiếp tục đầu tư, xây dựng phòng lấy lời khai thân thiện với NCTN, theo mô hình 8 Phòng lấy lời khai đã được thành lập và vận hành tại 6 tỉnh thành với sự hỗ trợ của UNICEF; 2) Thực hiện một chương trình thí điểm xây dựng đơn vị cảnh sát chuyên trách tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với các cán bộ cảnh sát, điều tra viên, kiểm sát viên chuyên trách được đào tạo để làm việc với người chưa thành niên vi phạm pháp luật; 3) Xây dựng các chính sách, chế độ đãi ngộ cụ thể đối với những người tiến hành tố tụng trong các vụ án hình sự liên quan đến NCTN.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn: 1) các cơ quan tiến hành tố tụng cần đầu tư thời gian, kinh phí cho hoạt động tổng kết thực tiễn; 2) sớm thành lập một trung tâm chuyên nghiên cứu về NCTNPT ở quy mô toàn quốc và các tỉnh, thành.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động hiệu quả giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án và các cơ quan, tổ chức khác: 1) cần luật hoá mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan; 2) thường xuyên giao ban, tiến hành họp liên ngành để tìm biện pháp thúc đẩy tiến độ giải quyết án hình sự có NCTNPT với mục tiêu là bảo đảm tốt nhất các quyền và lợi ích của trẻ em; 3) Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị về kỹ năng điều tra và KSĐT các vụ án có NCTNPT.
Ba là, nghiên cứu thành lập Tòa án chuyên trách NCTN.
Đây là thiết chế tư pháp đặc biệt, rất cần thiết phải nghiên cứu và thành lập trong thời gian tới đây, phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em nói chung và xử lý NCTN vi phạm pháp luật nói riêng và các chuẩn mực quốc tế. Theo đó, tác giả chỉ rõ sự cần thiết thành lập Tòa chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam; Một số tiêu chí cần được quan tâm khi xây dựng Toà án chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam và đề xuất mô hình của Tòa chuyên trách trong bối cảnh thành lập Tòa án 4 cấp theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Bốn là, bên cạnh việc thành lập Tòa chuyên trách, tác giả cũng đề nghị thành lập các đơn vị nghiệp vụ chuyên về giải quyết án liên quan đến NCTN ở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
4.2.3. Nhóm giải pháp về tăng cường hiệu quả các thiết chế gia đình, xã hội; theo đó, tác giả đề xuất các giải pháp đồng bộ: 1) Tăng cường giám sát của nhà nước và xã hội đối với hoạt động tố tụng hình sự đối với các vụ án có liên quan đến NCTN; 2) Tăng cường phối hợp giữa gia đình và các cơ quan, tổ chức trong giám sát, giáo dục pháp luật đối với NCTN được miễn TNHS; 3) Tăng cường giám sát xã hội có tính chất hỗ trợ hoạt động giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến NCTN và hợp tác phòng chống tội phạm quốc tế.
KẾT LUẬN
Quyền con người là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, có tính phổ biến và tính đặc thù, trong đó có đặc thù về đối tượng, mà người chưa thành niên là một trong những đối tượng như vậy. NCTN tham gia trong TTHS gồm nhiều chủ thể khác nhau, tuy nhiên, trong đó nổi bật nhất là nhóm đối tượng: người bị buộc tội. Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS là vấn đề được các ngành khoa học trong đó có luật học và khoa học tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu. TTHS là một lĩnh vực “nhạy cảm” và tiềm ẩn nhiều nguy cơ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN bị xâm phạm rất cao, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền "của dân, do dân, vì dân" và công cuộc cải cách tư pháp mà chúng ta đang tiến hành cũng không nằm ngoài mục đích này. Từ những đặc thù về đối tượng (người chưa thành niên), đặc thù về lĩnh vực quan hệ xã hội (tố tụng hình sự) đòi hỏi cần có những cơ chế bảo vệ đặc biệt, trong đó có các quy định của pháp luật TTHS thực định, thiết chế đặc biệt (cơ quan điều tra chuyên biệt, tòa án chuyên trách NCTN). Trong Luận án, tác giả đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề cụ thể như sau:
1. Luận giải và làm rõ khái niệm, đặc điểm về NCTN, từ đó đưa ra khái niệm "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN" và "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS";
2. Nghiên cứu các văn kiện của Tư pháp hình sự quốc tế và tham khảo các phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN tại một số quốc gia; qua đó tác giả nhận thấy: ngoài việc xây dựng Đạo luật đặc thù trong tư pháp NCTN, các Quốc gia này đã thực hiện đồng bộ các phương thức bảo vệ, từ xây dựng thể chế đặc thù đến tổ chức các thiết chế đặc biệt và các thiết chế xã hội bảo đảm khác; trong đó xu hướng nổi trội là tổ chức Mô hình Tòa án gia đình.
3. Đối chiếu các tiêu chí bảo đảm, bảo vệ trong tư pháp hình sự quốc tế với các quy định BLTTHS 2003 về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN; cũng như nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật và tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự liên quan đến NCTN, tác giả đã nhận thấy:
Một là, nhìn chung, các quy định về mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, mô hình tố tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam, về cơ bản đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn giải quyết các vụ án có NCTN tham gia tố tụng.
Hai là, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều quy định chưa rõ ràng dẫn đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật chưa thống nhất; một số quy định còn bất cập cả về lý luận lẫn thực tiễn; một số quy định lại chưa được điều chỉnh dẫn đến khó khăn trong cơ chế bảo vệ quyền cho NCTN tham gia tố tụng. Cụ thể như: quy định trong việc thực hiện quy định những điều cần chứng minh trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án NCTN; Trong việc xác minh về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTNĐặc biệt các quy định liên quan đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn với NCTN và bảo đảm cho việc tham gia tố tụng của người bào chữa và trợ giúp pháp lý
Ba là, đặc biệt, trong tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, của Người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự liên quan đến NCTN còn nhiều bất cập với những nguyên nhân chủ quan: nhận thức, năng lực, trình độ, trách nhiệm của các Cơ quan/Người này; bên cạnh đó còn những nguyên nhân khách quan như chưa có cơ quan chuyên trách điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có liên quan đến NCTN; Ngoài ra, việc đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực vẫn còn rất hạn chế, chưa thỏa đáng, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra cũng như phù hợp các tiêu chí do Quốc tế khuyến nghị;
Bốn là, một trong những thiết chế quan trọng để bảo vệ NCTN là sự tham gia của gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; qua nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thi hành, tác giả đã chỉ rõ những điểm bất cập, là nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN;
4. Trên cơ sở những phân tích thực trạng về thể chế, các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS, tiếp cận xu hướng quốc tế và quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà Nước ta trong sửa đổi, bổ sung BLTTHS; nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể đặc thù này; tác giả đã nghiên cứu, đề xuất ba nhóm giải pháp hoàn thiện, cụ thể:
Một là, giải pháp về thể chế (sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội trong BLTTHS năm 2003), đó là: 1) đề xuất thiết kế một Điều luật mới quy định các nội dung mang tính nguyên tắc của việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan người chưa thành niên; 2) Sửa đổi các quy định về điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên, như Sửa đổi quy định về phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đối với NCTN; Bổ sung quy định về tiêu chuẩn cần có của Người tiến hành tố tụng đối với các vụ án liên quan đến NCTN; Sửa đổi các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTN; Xây dựng Điều luật mới quy định về kỹ năng lấy lời khai đối với NCTN; Sửa đổi, bổ sung quy định về giám sát NCTN; Sửa đổi, bổ sung các Quy định về sự tham gia của người bào chữa và trợ giúp pháp lý; Sửa đổi quy định về vai trò tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội; Sửa đổi, bổ sung quy định về tạo môi trường thân thiện với người chưa thành niên; Sửa đổi, bổ sung quy định về thi hành án và xóa án tích
Hai là, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, theo đó đề xuất một số biện pháp: 1) Nâng cao năng lực của các cơ quan/người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên; 2) Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động hiệu quả giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án và các cơ quan, tổ chức khác; 3) Nghiên cứu thành lập Tòa án chuyên trách NCTN; 4) Thành lập các đơn vị nghiệp vụ chuyên về giải quyết án liên quan đến người chưa thành niên ở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
Ba là, giải pháp về tăng cường hiệu quả các thiết chế gia đình, xã hội, thông qua Tăng cường giám sát của nhà nước và xã hội đối với hoạt động tố tụng hình sự đối với các vụ án có liên quan đến người chưa thành niên; Tăng cường phối hợp giữa gia đình và các cơ quan, tổ chức trong giám sát, giáo dục pháp luật đối với NCTN được miễn TNHS; Tăng cường giám sát xã hội có tính chất hỗ trợ hoạt động giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến NCTN và hợp tác phòng chống tội phạm quốc tế
Có thể còn những hạn chế và thiếu sót nhất định, song phần nghiên cứu kèm theo các kiến nghị của tác giả nêu trong luận án là những đóng góp nhỏ mang tính sáng kiến pháp luật để giải quyết những tồn tại, theo hướng hoàn thiện BLTTHS 2003 nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công cuộc cải cách tư pháp để xây dựng nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân”.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Hưng Bình (2012), "Bảo vệ quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong Tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 23, tháng 12/2012 (44);
2. Trần Hưng Bình (2013), "Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị buộc tội trong Tố tụng hình sự", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 297, tháng 1/2013 (56).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_tieng_viet_cap_hoc_vien_5052.doc