Trong quá trình thay đổi sinh kế và thích ứng với điều kiện sống mới,
người Dao đã định cư và có các mối quan hệ khá tốt với người dân địa phương,
tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa người Dao với các dân tộc tại chỗ như người Ê
đê. Tuy nhiên, quá trình di cư của người Dao và sự phát triển nhanh chóng của
các loại hình sinh kế mới như hình thành các vùng cây công nghiệp chuyên canh
đã dẫn tới nhiều vấn đề trong quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững như
quản lý đất đai, quản lý các mối quan hệ tộc người, quản lý môi trường, Đây
cũng là vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển đối với người Dao di cư nói riêng
và vùng đất Tây Nguyên nói chung.
Người Dao tại Cư M’gar đã từng bước vững chắc ổn định đời sống, phát
huy tinh thần vượt khó làm giàu trên quê hương mới. Mối quan hệ tốt đẹp của
người Dao với các tộc người khác thông qua các hoạt động giao lưu văn hoá
giữa người Dao và các cộng đồng khác như Tày, Nùng và nguời Ê đê bản địa
được duy trì, đặc biệt trong ngày hội đại đoàn kết được tổ chức hàng năm đựơc
bà con nhiệt tình đón nhận. Là cơ sở vững chắc để xây dựng nên mối quan hệ
đoàn kết giữa các dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 2033 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Biến đổi sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chu kì đời người của nhóm Dao Tiền ở Bắc 
Kạn” của Lý Hành Sơn (2003), về thầy cúng người Dao Họ tại Lào Cai 
của Phạm Văn Dương (2010)..... Ngoài các công trình có tính chuyên 
khảo như trên chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều bài viết liên quan tới 
mọi mặt đời sống của người Dao trong nước qua các tác giả Võ Mai 
Phương, Nguyễn Thế Loan, Trần Hữu Sơn và nhiều tác giả khác đã được 
công bố trên tạp chí Dân tộc học, Văn hóa nghệ thuật... 
1.1.3. Tổng quan nghiên cứu về di cư 
Nhiều nhà nghiên cứu các chuyên ngành dân số học, xã hội học, 
quản lý kinh tế như: Tương Lai, Trịnh Duy Luân, Đặng Nguyên Anh, 
Hoàng Văn Chức, Trần Hữu Quang, Nghiêm Xuân Đạt, Đồng Bá 
Hướng, Lê Bạch Dương, Thân Văn Liên, Lê Đăng Giang, Nguyễn Bá 
Thủy v.v đã có các công trình nghiên cứu, bài luận khoa học về di dân, 
tác động của di dân đến các vấn đề thuộc về an sinh xã hội, kiến nghị 
thiết lập các chính sách để quản lý quá trình di dân. Tuy nhiên, không có 
nhiều nghiên đi sâu về vấn đề sinh kế nhất là đối với người Dao ở vùng 
Tây Nguyên. 
1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 
1.2.1. Cơ sở lý thuyết 
1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài 
Luận án đã làm rõ một số khái niệm: Biến đổi, Sinh kế, Biến đổi sinh 
kế, Sinh kế bền vững, di dân, di dân có tổ chức, di dân tự phát, di cư. 
1.2.1.2.Cơ sở lý thuyết 
Luận án áp dụng một số lý thuyết Lý thuyết sinh thái văn hóa và lý 
thuyết về lực hút và lực đẩy đề xây dựng khung phân tích nghiên cứu về 
sinh kế của người Dao di cư huyện Cư M’gar ở tỉnh Đăk Lăk. 
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp điền dã dân tộc học và điều 
tra xã hội học tộc người, ngoài ra có kết hợp với phương pháp Đánh 
giá nông thôn có người dân tham gia (PRA), phương pháp phân tích, 
so sánh để thu thập tư liệu, làm rõ những biến đổi sinh kế của người 
Dao di cư ở huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk. 
6 
Tiểu kết chƣơng 1 
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là thời kỳ đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, áp lực về di dân và bảo đảm sinh 
kế cho người dân di cư đang đặt ra với nhiều địa phương, đặc biệt là các 
tỉnh khu vực Tây Nguyên. Môi trường tự nhiên là nguồn sống cơ bản của 
đồng bào các dân tộc, trong đó có dân tộc Dao (vốn là cư dân sống dựa 
vào rừng) đang có xu hướng bị biến đổi, quá trình thay đổi nơi cư trú từ miền 
núi phía Bắc vào Tây Nguyên cũng đã có những tác động mạnh mẽ đến 
sinh kế và đời sống của người Dao. 
Việc lựa trọn đề tài “Biến đổi sinh kế người Dao di cư tự do tại 
huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk” là thiết thực và có ý nghĩa, bên cạnh việc 
tìm hiểu các hoạt động sinh kế truyền thống, luận án còn phân tích những 
biến đổi và thích ứng của các hoạt động đó trong điều kiện mới. Từ đó 
đưa tới những giải pháp và kiến nghị trong việc giải quyết vấn đề sinh kế 
của người Dao di cư tự do tại Tây nguyên theo hướng bền vững. 
Khi tiến hành nghiên cứu về biến đổi sinh kế, luận án xem xét các 
vấn đề trên cơ sở lý luận của Phép biện chứng trong chủ nghĩa duy vật 
lịch sử, từ đó nhìn nhận sự hình thành phát triển của các hình thái kinh tế 
luôn được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các thành tố trong đời 
sống như: môi trường tự nhiên, điều kiện tự nhiên, môi truờng xã hội, 
điều kiện lịch sử và tâm lý tộc ngườiLý thuyết về sinh thái văn hoá và 
lực hút lực đẩy là hai lý thuyết chủ yếu áp dụng trong luận án. Theo đó, 
những hoạt động và tri thức của người Dao về sinh kế đuợc nhìn nhận 
một cách khách quan cũng như đặt trong bối cảnh văn hoá riêng của họ. 
Đối với những lý thuyết nêu trên các hoạt động và sự biến đổi sinh kế 
của người Dao di cư được nhìn nhận như sự thích ứng với môi trường tự 
nhiên và xã hội hoàn toàn mới. Viêc thay đổi hay thích ứng với điều kiện 
mới của người Dao di cư chính là sự điều chỉnh các yếu tố tự nhiên và xã 
hội để phục cho nhu cầu nội tại của họ. 
Luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu Dân 
tộc học/Nhân học như điền dã dân tộc học và kết hợp các phương pháp 
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, quan sát tham dự để thu thập các thông 
tin tại thực địa. Bên cạnh phương pháp đặc thù điền dã dân tộc học, 
phương pháp điều tra xã hội học cũng được chú trọng. Đây là phương 
pháp thế mạnh trong điều tra về sinh kế và di cư. Bảng hỏi được biên 
soạn bám sát nội dung đề cương của luận án. Ngoài ra, luận án có sử 
dụng phương pháp PRA là phương pháp khuyến khích, lôi cuốn người 
7 
dân nông thôn cùng tham gia chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức 
của họ về đời sống và điều kiện thực tế của họ. 
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ 
NGƢỜI DAO Ở HUYỆN CƢ M’GAR 
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên tỉnh Đăk Lăk 
Đăk Lăk có diện tích 13.125,37 km2, dân số toàn tỉnh tính đến năm 
2012 đạt 1.796.666 người, mật độ dân số đạt hơn 137 người/km². Cộng 
đồng dân cư Đăk Lăk gồm 47 dân tộc..Huyện Cư M’gar cách trung tâm 
thành phố Buôn Ma thuột 18km về hướng Đông Bắc. Toàn huyện có 179 
thôn, buôn và tổ dân phố, trong đó có 71 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại 
chỗ. Huyện Cư M’gar có đặc điểm tự nhiên đa dạng, địa hình khá bằng 
phẳng, có lợi thế về đất sản xuất, đó là đất trồng các loại cây công nghiệp. 
Xã Ea Mdro’h 
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 5.754 ha, trong đó đất nông 
nghiệp là 523,38 ha (chiếm 91,02% tổng diện tích tự nhiên), đất phi 
nông nghiệp 492,82 ha (chiếm 8,56%) và nhóm đất chưa sử dụng 23,80 
ha (chiếm 0,41%). Xã Ea Mdro’h có 11 thôn/buôn. Dân số của xã đến 
đầu năm 2013 là l.682 hộ với 78.944 người, mật độ dân số 138 
người/km2 với 12 dân tộc cùng sinh sống gồm: Kinh, Ê đê, Gia rai, 
Mnông, Hrê, Dao, Tày, Nùng, Thái, Mường, Sán Dìu, Sán Chay. Trong 
đó, dân tộc thiểu số là 6.429 người (chiếm 76,4% dân số toàn xã) gồm 
dân tộc thiểu số tại chỗ và dân tộc thiểu số di cư từ các tỉnh phía Bắc. Xã 
có 3 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo và Tin lành; với 515 tín đồ 
(chiếm 5,6% dân số của xã). 
 Xã Cư Suê 
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 3.513ha, trong đó đất nông 
nghiệp là 3.143ha (chiếm 90% tổng diện tích tự nhiên), và nhóm đất 
chưa sử dụng 35ha. Đất nông nghiệp chủ yếu là loại đất nâu đỏ, nâu 
vàng trên đá Bazan nên thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển các 
cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, tiêu, 
cây ăn quả...Toàn xã được chia thành 11 thôn, buôn với 2.031 hộ và 
11.503 khẩu, với ba dân tộc cùng sinh sống gồm Kinh, Dao, Ê đê, trong 
đó người Ê đê có 780 hộ với 4.964 khẩu, người Dao 371 hộ và 1861 
nhân khẩu. 
2.2.Đặc điểm kinh tế– xã hội - văn hóa của ngƣời Dao tại huyện Cƣ M’gar 
2.2.1. Đặc điểm kinh tế 
Hoạt động kinh tế của người Dao ở Cư M’gar chủ yếu là trồng trọt các 
loại cây công nghiệp kết hợp cây lương thực. Do cư trú gần với các dân 
8 
tộc tại chỗ Tây Nguyên, người Dao đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm 
sản xuất của người Ê đê trong trồng trọt và chăm sóc các loại cây công 
nghiệp dài ngày có hiệu quả kinh tế cao. Nguồn thu nhập của hộ gia đình 
người Dao ở Cư M’gar đã tăng lên đáng kể nhờ cây công nghiệp dài 
ngày. Ngoài ra, người Dao cũng đã có thêm những hoạt động kinh tế mới 
như buôn bán, trao đổi hàng hóa.. 
2.2.2. Đặc điểm xã hội 
Người Dao có tập quán cư trú thành các làng bản, trong tiếng Dao 
gọi làng bản là “lăng”. Mỗi bản có một tên nhất định đặt theo đặc điểm 
cảnh quan tự nhiên nơi đồng bào cư trú (tên sông suối, núi), cũng có khi 
họ mượn tiếng của các tộc người khác để đặt tên cho nơi mình cư trú, 
hoặc có thời điểm thành lập hợp tác xã nông nghiệp tại địa phương. 
Người Dao ở Cư M’gar hiện nay cũng sống tập trung thành các cụm 
dân cư, tuy nhiên tên gọi các thôn được đăṭ theo thứ tự số đếm theo cách 
gọi hiện đại như: thôn 1, thôn 2, thôn 3,  hoặc Hợp Thành nghĩa là có 
nhiều tộc người cùng sinh sống. 
Người Dao Cư M’gar chủ yếu mang các họ Triệu, Lý, Đặng và Bàn, 
các họ khác như Chề và Tắng không nhiều, mối quan hệ của những 
người cùng họ vẫn còn khá bền chặt. Khi làm lễ cấp sắc, người Dao 
thường làm tại nhà thờ họ của người thụ lễ. Trong trường hợp không có 
nhà thờ họ, gia chủ phải về nhà tổ ở ngoài Bắc để làm nghi lễ. Người 
Dao ở đây vẫn ăn tết như ngoài Bắc: cúng tết Thanh minh (3/3 âm lịch), 
Rằm tháng 7 (14/7 âm lịch), khi ốm đau bệnh tật vẫn mời thầy cúng, 
ngoài ra, họ còn thực hiện các lễ cúng giải hạn, cúng cầu mùa. Tuy vậy, 
các nghi lễ liên quan tới nông nghiệp thì hầu như đã giản lược nhiều, từ 
khi chuyển vào Tây Nguyên sinh sống không còn cúng rừng, cúng cơm 
mới như ngoài Bắc trước Đổi mới 1986. 
Gia đình người Dao thuộc loại gia đình phụ quyền, trong đó người 
đàn ông làm chủ và quyết định mọi việc, quy mô gia đình không lớn, từ 4 
– 5 người, gồm bố mẹ và con cái. Quyền thừa kế chính thuộc về con trai, 
tuy nhiên hiện nay con gái khi lấy chồng cũng được cha mẹ chia một 
phần tài sản. Trong truyền thống cũng như hiện tại gia đình người Dao là 
một đơn vị kinh tế độc lập , mối quan hệ trong gia đình thể hiện trên các 
khía cạnh khác nhau trong đó tính chất yêu thương , giúp đỡ lẫn nhau 
luôn được đề cao. 
2.2.3. Đặc điểm văn hóa 
Văn hóa vật chất:.Tại Cư M’gar người Dao sinh sống theo loại hình 
nhà đất, đây chính là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến 
trong cuộc sống của người Dao, nhà đất thường có ba hoặc năm gian 
9 
đứng. Bộ sườn của nhà nền đất được cấu tạo khá đơn giản, thông thường, 
mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá giang và một bộ kèo đơn. Với 
người Dao, nhà nền đất luôn mang tính chất bền vững, thích hợp với điều 
kiện sản xuất tương đối ổn định ở miền núi rừng. 
Về trang phục, tại Cư M’gar có các nhóm Dao di cư từ Quảng Ninh, 
Lạng Sơn và Cao Bằng, bộ phận người Dao từ hai tỉnh Quảng Ninh và 
Lạng Sơn có phong tục và ngôn ngữ với nhiều nét tương đồng. Ngày nay 
không còn mặc trang phục truyền thống phổ biến như trước nữa, thường 
ngày chỉ mặc âu phục chỉ có nữ giới thuộc thế hệ người già thỉnh thoảng 
còn mặc. Tuy nhiên, trong các nghi lễ tôn giáo hay các sự kiện trọng đại 
của cuộc đời thì bộ trang phục truyền thống vẫn giữ vai trò rất quan trọng 
như trong nghi lễ cấp sắc, lễ cưới khi đứng trước bàn thờ trình báo với tổ 
tiên. Vì vậy, trong gia đình mỗi người Dao vẫn có một vài bộ trang phục 
truyền thống để mặc khi cần thiết. 
Văn hóa tinh thần: Ngôn ngữ người Dao thôn Hợp Thành hiện nay 
sử dụng thành thạo hai thứ tiếng là tiếng Dao và tiếng phổ thông, trong 
phạm vi gia đình tiếng Dao vẫn được sử dụng thường xuyên, đặc biệt 
trong các nghi lễ có tính chất tín ngưỡng. Hiện nay trong cộng đồng 
người Dao tại Cư M’gar có khá nhiều thầy cúng biết và sử dụng thành 
thạo chữ nôm Dao để thực hiện các nghi lễ có tính chất truyền thống của 
cộng đồng. 
Về tín ngưỡng: Tín ngưỡng chính là thờ cúng tổ tiên và Bàn Vương, đối 
với thờ cúng tổ tiên, người Dao cho rằng tổ tiên chỉ tới thăm họ vào những 
dịp lễ tết. Trong khi đó Bàn Vương đuợc coi là tổ tiên chung của tất cả người 
Dao và được thờ cúng, khấn vái cùng với tổ tiên của các gia đình, dòng họ . 
Hình thái tín ngưỡng vạn vật hữu linh với niềm tin mọi vật đều có linh hồn 
vì vậy người Dao cho rằng các hiện tượng tự nhiên đề do các vị thần tạo ra 
như thần gió, thần mưa, thần hoa màu, thần chăn nuôi 
2.3. Quá trình di cƣ tự do của ngƣời Dao đến Đăk Lăk 
2.3.1. Các đợt di cư 
Một trong những đặc điểm của cư dân di cư tự do vào Đăk Lăk nói 
chung và người Dao nói riêng là di cư theo nhiều đợt khác nhau, tập 
trung vào giai thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước . 
2.3.2. Lý do và hình thức di cư của người Dao 
Một trong những lý do người Dao di cư tới định cư tại đây là do 
đươc̣ những người họ hàng , người thân có mối liên hệ với địa phương 
quê cũ cung cấp thông tin và nghe nói khu vực này có nhiều đất để canh 
tác. Hình thức di cư tự do của người Dao và thời điểm di cư đầu tiên lcủa họ 
10 
vào những năm 1990 – 1991 đến năm 2001 thì di cư ồ ạt từ Quảng Ninh, Cao 
Bằng vào Cư M’gar. 
2.4. Một số đặc điểm của ngƣời Dao di cƣ 
2.4.1. Quy mô, cơ cấu hộ gia đình 
Theo mẫu điều tra bình quân nhân khẩu của số hộ của người Dao tại 
hai xã là 4,5 người/hộ, điều này phù hợp với các cuộc điều tra di dân 
trước đây. Số hộ có từ 3 người đến 6 người chiếm đa số tại cả hai xã, 
trong số này có tỷ lệ cao nhất là nhóm 4 người/hộ. 
2.4.2. Một số đặc điểm về độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp của hộ gia đình 
Từ số liệu điều tra cho thấy đa phần chủ hộ trong độ tuổi lao động, 
số lượng tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 31 - 60 tuổi. Mặc dù đa phần chủ hộ 
của người Dao trong độ tuổi lao động, tuy nhiên số người có học vấn cao 
không nhiều. Số lượng chủ hộ là người mù chữ khá lớn, người tốt nghiệp 
các cấp học phổ thông không đồng đều, điều đáng lưu ý chủ hộ tốt nghiệp 
cao đẳng, đại học ở cả hai xã rất thấp. Do đặc điểm về trình độ học vấn thấp, 
người Dao di cư ở Cư M’Gar làm nông nghiệp là chính, mặc dù với cơ cấu 
chủ hộ người Dao thuộc dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động 
cao, tuy nhiên do tỷ lệ người được đào tạo thấp vì vậy số lượng lớn chủ hộ 
làm nông nghiệp. 
Tiểu kết chương 2 
Là một tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao ở Việt Nam, 
địa bàn cư trú truyền thống là các tỉnh miền núi phía Bắc. Hiện nay do 
quá trình di cư tự do ngưới Dao đã có mặt khá đông đảo ở các tỉnh Tây 
nguyên trong đó có Đăk Lăk là nơi tập trung số lượng người Dao sinh 
sống đông nhất. 
Điều kiện tự nhiên của xã Ea Mdro’h và Cư Suê khá đặc trưng địa 
hình của xã tương đối bằng phẳng, khí hậu ở đây mang đặc điểm chung 
của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Nằm trong tiểu vùng khí hậu 
nhiệt đới gió mùa cao nguyên nên nơi đây có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ 
tháng 11 năm trước tới tháng 4 năm sau, khí hậu khô và lạnh, độ ẩm 
thấp, thường có gió mạnh từ cấp 4 đến cấp 6. Tuy nhiên, do sự lạm dụng 
khoan giếng không theo quy hoạch cụ thể nên mực nước ngầm những 
năm gần đây đã tụt sâu hơn. Nguy cơ thiếu nước trong mùa khô vẫn có 
thể xảy ra cộng với diện tích cà phê, hồ tiêu, điều trên địa bàn có nhu cầu 
nước tưới nhiều trong mùa khô cũng gây tình trạng thiếu nước. 
Người Dao di cư vào huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk chủ yếu từ các 
tỉnh Quảng Ninh, Cao Bằng, họ di cư thành nhiều đợt khác nhau, đến 
năm 2009 toàn huyện có tới hơn 9000 người. Lý do di cư của người Dao 
11 
chủ yếu là do thiếu đất sản xuất và do có nghe theo họ hàng vào trước và 
định cư tại đây vì có nhiều đất, chủ động được nguồn nước và quan trọng 
nhất là đã có người cùng họ sinh sống từ trước. Chủ hộ người Dao đi cư 
đa phần là nam, hầu hết trong độ tuổi lao động, tuy nhiên học vấn không 
cao, quy mô hộ không lớn chủ yếu từ 4 đến 5 người/hộ do đó hầu hết họ 
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu. 
Với điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi hơn rất nhiều quê cũ vì vậy 
đã giúp người Dao di cư sớm ổn định đời sống, hoà nhập với cộng đồng, 
từng bước khẳng định và làm giàu trên quê hương mới. 
CHƢƠNG 3: BIẾN ĐỔI CÁC LOẠI HÌNH SINH KẾ CỦA NGƢỜI 
DAO TẠI HUYỆN CƢ M’GAR 
3.1. Một số phƣơng thức sinh kế truyền thống 
 3.1.1. Phương thức canh tác truyền thống 
3.1.1.1. Nương rẫy 
Người Dao vốn cư trú chủ yếu ở vùng miền núi phía Bắc. Nương rẫy 
là hình thức canh tác chủ yếu của đồng bào trong điều kiện cư trú ở vùng 
cao, đất dốc. Trong tiếng Dao nương/rẫy gọi là yăng được coi là một 
hình thức canh tác đặc trưng có tính chất phù hợp với điều kiện sống 
cũng như tại môi trường sinh thái vùng núi phía Bắc. 
Đối với người Dao Ở Quảng Ninh thì họ phân biệt nương thành ba loại: 
nương thấp (yăng ha), nương dốc (yăng chui) và nương bằng (yăng peng). 
Diện tích khai phá thường phụ thuộc vào nhu cầu gieo trồng và khả năng lao 
động trong gia đình. Người Dao thường trồng xen canh các loại cây lương 
thực và cây hoa màu trên nương. Bên cạnh các loại lúa nếp nương(mây plát) 
lúa tẻ (plau xi) ngoài ra ngô nếp (piều pe), ngô tẻ (piều lắt) cũng được người 
dân trồng ở những đám đất tương đối tốt. Cây sắn cũng được người Dao khá 
coi trọng nhất là những năm ngô, lúa không được mùa thì đây được coi là 
nguồn lương thực chủ yếu của bà con. Sắn được trồng vào khoảng cuối 
tháng 2 đến giữa tháng 3 âm lịch hàng năm, cách trồng cũng giống như 
người kinh đào từng hố nhỏ cách nhau khoảng 1m rồi đặt các cành giống dài 
khoảng 20 – 30cm vào hố rồi lấp đất lên. 
Chăm sóc cây trồng luôn là công đoạn được người Dao coi trọng, quá 
trình chăm sóc cây trồng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, do vậy, người 
Dao thường chú ý làm cỏ, chăm bón cho các loại cây lương thực nhằm 
đảm bảo năng suất và sản lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gia đình 
3.1.1.2. Ruộng nước 
Trước Cách mạng tháng Tám, một bộ phận người Dao đã biết canh tác 
12 
ruộng nước Việc cấy lúa được người Dao tiến hành thành hai vụ, lúa chiêm 
họ thường cấy vào tháng Chạp hoặc tháng Giêng âm lịch, đối với lúa mùa 
thường được cấy vào đầu tháng sáu. Trải qua quá trình chăm sóc, vào tháng 
cuối tháng 9 đầu tháng 10 âm lịch hàng năm, thì tiến hành thu hoạch lúa. 
3.1.1.3. Vườn 
Vườn đóng vai trò rất nhỏ bé trong đời sống của người Dao. Đồng 
bào chọn mảnh đất gần nhà, thường là gần các nguồn nước rồi dùng phên 
quây lại, trong cùng một mảnh vườn trồng nhiều loại rau khác nhau để 
làm nguồn cung cấp thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày . 
3.1.1.4. Tri thức liên quan tới nông nghiệp 
 Tri thức về mùa vụ 
Do sinh sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu vì vậy mùa vụ đặc biệt quan 
trọng trong kỹ thuật canh tác của người dân, có thể nói nó đóng góp rất lớn trong 
việc quyết định tới cuộc sống. 
Tri thức trong chọn đất 
Việc chọn đất canh tác là công việc đặc biệt quan trọng do đó thông thường 
người làm việc này là chủ nhà hoặc người lớn trong gia đình. Theo kinh nghiệm, 
người Dao sẽ chọn sườn núi phía Đông theo hướng mặt trời mọc vì đó là hướng 
có nhiều ánh sáng, tạo điều kiện cho ngô lúa và hoa màu phát triển. 
Tri thức liên quan tới giống 
Việc chọn giống cũng khá quan trọng đối với giống ngô người Dao thường 
giữ những bắp to, hạt đều nhau, khi thu hoạch họ thường bẻ bắp và để nguyên 
lớp vỏ bên ngoài rồi buộc túm từng bó khoảng 3 – 5 bắp treo lên gác bếp. 
3.1.2.Chăn nuôi 
Đối với người Dao, chăn nuôi gia súc được coi là một trong những 
hoạt động mưu sinh đóng vai trò quan trọng. Trong gia đình ngưới Dao 
đồng bào thường nuôi gà, lợn và trâu, tuy nhiên vẫn theo hình thức tự 
nhiên là chính. Chăn nuôi không chỉ góp phần cung cấp nguồn thực 
phẩm cho bữa ăn hàng ngày, là nguồn hàng hoá có thể trao đổi khi cần 
thiết và cũng là tài sản có giá trị trong gia đình. 
3.1.3. Các hoạt động sinh kế truyền thống khác 
 Săn bắt và hái lượm 
Các hoạt động sinh kế truyền thống của người Dao ở Quảng Ninh 
(quê cũ của người Dao trước khi di cư vào Đăk Lăk) phong phú đa dạng 
với nhiều loại hình khác nhau, săn bắt và hái lượm là một phần rất quan 
trọng trong hoạt động sản xuất của đồng bào. 
Nghề thủ công 
Nghề thủ công truyền thống của người Dao được hình thành từ lâu 
đời như đan lát, làm giấy, nấu rượutuy nhiên hoạt động của những 
13 
nghề thủ công này mang tính thời vụ, làm vào lúc nông nhàn, tranh thủ 
khi rảnh rỗi trong ngày. 
Hoạt động mua bán, trao đổi 
Trước đây, việc tiến hành trao đổi mua, mua bán định kỳ dựa vào hệ 
thống chợ phiên ở vùng cao. Người Dao không có chợ riêng của mình, 
cũng như đồng bào dân tộc khác họ họp chợ tại trung tâm huyện, xã. 
3.2. Biến đổi phƣơng thức sinh kế truyền thống của ngƣời Dao ở 
huyện Cƣ M’gar, tỉnh Đăk Lăk 
3.2.1. Biến đổi trong phương thức canh tác trồng trọt 
 - Nương rẫy 
 + Biến đổi trong lựa chọn các loại cây trồng 
Việc duy trì các loại cây lương thực truyền thống vẫn được người 
Dao thực hiện tại vùng đất mới. Tuy nhiên, các loại giống lúa, ngô, đỗ 
tương, đỗ đen cũng đã được lựa chọn thay đổi những giống mới phù hợp 
với khí hậu và điều kiện tự nhiên của vùng đất mới. Bên cạnh các cây 
trồng truyền thống, người Dao đã tiếp thu, học hỏi các tri thức chăm sóc, 
trồng trọt các loại cây công nghiệp như cà phê, tiêu, điều là những cây 
trồng công nghiệp hoàn toàn mới khác xa so với các cây trồng truyền 
thống. Nhờ có sự chuyển đổi này, các cây trồng mới đã tạo thu nhập cao 
và ổn định cho người Dao ở Cư M’gar. 
+ Biến đổi trong kỹ thuật canh tác 
Nếu như trong truyền thống, kỹ thuật canh tác chủ yếu bằng thủ 
công, thiên về trồng trọt đất dốc như “đao canh hỏa chủng”, canh tác 
nương rẫy dùng gậy chọc lỗ (chỉn truy) tra hạt, làm lúa nước dùng trâu 
bò cày kéo thì hiện nay, người Dao đã áp dụng thêm nhiều hình thức 
canh tác hiện đại, có sử dụng các kỹ thuật canh tác mới, áp dụng khoa 
học kỹ thuật hiện đại mang lại năng suất và sản lượng cây trồng cao hơn 
nhiều so với các kỹ thuật truyền thống. Với các loại cây công nghiệp, 
người Dao đã áp dụng hoàn toàn các kỹ thuật hiện đại vào chăm sóc và 
áp dụng thêm các tri thức kinh nghiệm của một số tộc người tại chỗ sống 
cùng trong khu vực như Ê đê 
- Ruộng nước 
Khi còn ở ngoài Bắc thì thường bà con làm một vụ (có nơi làm 2 vụ) 
và một vụ lúa nương, khi mới di cư vào Cư M’gar bà con cũng áp dụng 
theo truyền thống canh tác cũ của ruộng khô, tuy nhiên theo thời gian dần 
chuyển đổi chuyển sang trỉa bắp. Một số diện tích ruộng khô vẫn được 
duy trì để trồng lúa 1 vụ. 
- Làm vườn 
Trong mảnh vườn của mình người dân thường trồng các loại rau như 
14 
cải ngọt (yang cai), xu hào, cải bắp (yang biếu), rau muống (số bung) và 
một số cây có dây leo như bầu, bí... mỗi thứ một ít chủ yếu phục vụ nhu 
cầu của gia đình là chính. 
 - Biến đổi trong tri thức địa phương 
+ Tri thức về mùa vụ 
Là một trong những tộc người với nền kinh tế chủ đạo dựa và nông 
nghiệp là chính với cây lúa là chủ đạo do đó yếu tố thời tiết luôn được 
người dân đặc biệt coi trọng, từ đó việc sản sinh ra các tri thức liên quan 
tới mùa vụ (lịch nông nghiệp) là đòi hỏi tất yếu của cuộc sống. 
 + Tri thức trong chọn đất 
Bên cạnh các tri thức lựa chọn đất theo phương pháp truyền thống, 
để tìm được cuộc đất tốt nhất định phải là đất đỏ (đào sy), tốt nhất là nới 
đó gần nguồn nước để có thể chủ động về tưới tiêu (đào sy nan đy). 
Người Dao ở Cư M’gar đã có những kinh nghiệm mới: Với đất khai phá 
từ rừng (đào sy mài kìn) cũng được coi là cuộc đất tốt vì đây là đất mới, 
cây tiêu và cà phê sẽ hợp hơn. Đối với đất trồng bắp và lúa, thường là đất 
có màu đen (đào kiếp) và lẫn sỏi tuy nhiên nhất thiết phải có độ ẩm vừa 
phải thì mới có thể trồng cấy được. 
3.2.2. Biến đổi trong chăn nuôi 
Mặc dù chăn nuôi không phải là thế mạnh của các hộ dân tại Cư Suê 
và Ea Mdro’h nhưng có thể nói chăn nuôi cũng góp phần tăng thêm thu 
nhập cho các hộ dân, nhất là những hộ không có nhiều đất để canh tác. 
Theo số liệu khảo sát các hộ dân tại đây chủ yếu chăn nuôi lợn, dê, cừu 
và gia cầm, trong đó số lượng gia cầm có vẻ lớn hơn cả sau đó là lợn, dê 
và cừu. Việc chăm sóc vật nuôi được người dân thực hiện nghiêm ngặt 
theo hướng dẫn của cán bộ thú y do đó đảm bảo không bị dịch bệnh tại 
địa phương. Với số lượng chăn nuôi như vậy nguồn thu cho các hộ kể 
trên khá cao với trung bình là 80 triệu đồng/hộ/năm, đặc biệt có hộ thu từ 
chăn nuôi nên tới 349 triệu đồng/hộ/năm. 
3.2.3. Biến đổi của các phƣơng thức sinh kế phụ trợ khác 
Khai thác các nguồn lợi tự nhiên 
Dù với lý do như thế nào, từ thực tế cho thấy các hoạt động khai thác 
nguồn lợi từ thiên nhiên của người Dao hiện nay tại Cư M’gar không còn 
được người dân duy trì. Đây chính là hệ quả của việc khai thác tài nguyên 
quá mức dẫn tới biến mất của rừng, đó là một thực tế hiện nay tại Cư M’gar. 
Nghề thủ công 
 Bước vào thời kì công nghiệp hóa, các loại đồ dùng thông dụng đều 
được các ngành sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, 
những đồ dùng do công nghiệp sản xuất rất tiện dụng chiếm ưu thế hơn 
15 
các loại đồ dùng thông thường do thủ công làm ra. 
 Hoạt động mua bán, trao đổi 
Trước đây đường xá đi lại khó do đó chỉ khi nào có việc cần thiết họ 
mới tới chợ, hiện nay tại Cư M’gar địa hình thuận lợi, hầu hết các hộ 
người Dao có điều kiện mua sắm được các xe máy, xe đạp điện vì việc 
đi lại thuận tiện không cần chờ chợ phiên như trước đây để mau hàng hóa 
thiết yếu như trước. 
3.2. 4. Các hoạt động sinh kế mới 
Theo thống kê tại xã Cư Suê có tới 190 cơ sơ kinh tế phi nông 
nghiệp với số lao động là 221 người, tại xã Ea Mdro’h có số lượng ít hơn 
với 93 cơ sở và 116 lao động. Đây hầu hết là các cơ sở kinh doanh nhỏ 
tại cộng đồng như buôn bán tạp hoá, bánh kẹo, hàng ăn, quán cà phê, thu 
mua phế liệuCác loại hình sinh kế khác như xây dựng cũng đã xuất 
hiện trong cộng đồng người Dao, đây là những hộ lấy việc nhận các công 
trình xây dựng nhỏ, tính chất gia đình. Hình thức tín dụng tư nhân cũng 
xuất hiện trong cộng đồng, những người làm nghề này thường là những hộ 
có điều kiện kinh tế, thường hỗ trợ các hộ gia đình khác trong cộng đồng 
về tài chính trong thời gian ngắn và với phương thức thuận tiện nhất. 
 Tiểu kết chương 3 
Người Dao với truyền thống canh tác nương rẫy trên đất dốc đã có 
rất nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động sinh kế. Trong canh tác nông 
nghiệp truyền thống của người Dao thì nương rẫy vẫn là hoạt động chủ 
đạo, ruộng nước mới du nhập vào đời sống người Dao khoảng sau năm 
1954 cùng với công cuộc định canh định cư. Mặc dù vậy do điều kiện địa 
hình vì vậy diện tích dất ruộng không nhiều, hầu hết chỉ làm được một vụ 
do đó không đáp ứng đuợc nhu cầu của người dân. 
 Các loại cây trồng khác như: Ngô, khoai, sắn..vẫn chỉ là cây trồng 
phụ không được coi trọng, năng suất thấp và chưa trở thành hàng 
hoá.Các hoạt động sinh kế khác như chăn nuôi, khai thác nguồn lợi từ tự 
nhiên và ngay cả nghề thủ công và các hoạt động trao đổi hàng hoá vẫn 
chỉ đuợc coi là hoạt động kinh tế bổ trợ mặc dù không thể thiếu nhưng 
chủ yếu vẫn mgang tính tự cấp, tự túc vì vậy dẫn tới tình trạng đời sồng 
người dân bấp bênh. 
 Tại huyện Cư M’gar, người Dao đã phải thay đổi trong các hoạt 
động sản xuất để thích ứng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa 
bàn cư trú mới. Các hoạt động canh tác nương rẫy truyền thống vẫn được 
duy trì, tuy nhiên đã có sự thay đổi đáng kể trong kỹ thuật canh tác, 
giống, mùa vụ để phù hợp với điều kiện tự nhiên tại vùng đất mới. Các 
16 
loại cây trồng có tính hàng hóa và cho thu nhập cao như cà phê, tiêu 
được người dân tiếp thu, học hỏi và phát triển đã góp phần thay đổi đời 
sống của người Dao di cư, tuy nhiên những cây lương thực truyền thống 
khác vẫn được người dân duy trì và đóng góp đáng kể vào đời sống của người 
dân. 
 Quá trình thích ứng đó đã diễn ra và có nhiều yếu tố tác động tới thói 
quen sinh hoạt, canh tác cũng như đời sống văn hóa tộc người. Từ kinh tế tự 
cung tự cấp, sản xuất cây lương thực là chính chuyển sang sản xuất hàng hóa 
và thích ứng với nền kinh tế thị trường, từ sản xuất quy mô nhỏ với diện tích 
canh tác hạn chế sang sản xuất quy mô lớn với các trang thiết bị canh tác 
hiện đại. Điều này đã có những tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế - xã 
hội và văn hóa của đồng bào Dao di cư ở Tây Nguyên. 
Các nghề mới cũng xuất hiện trong cộng đồng người Dao tại địa 
phương, đã xuất hiện những hộ theo mô hình kinh doanh vừa và nhỏ, đặc 
biệt mô hình trang trại với hình thức sản xuất lớn cũng đã hình thành, 
một số nghề khác như xây dựng, làm thuê, cho vaycũng đã xuất hiện 
nhưng không nhiều. 
CHƢƠNG 4: CÁC YẾU TÁC ĐỘNG TỚI SINH KẾ CỦA NGƢỜI 
DAO DI CƢ Ở HUYỆN CƢM’GAR 
4.1. Các chính sách Đảng và Nhà nƣớc liên quan đến di cƣ và sinh kế 
của ngƣời Dao 
4.1.1. Chính sách định canh định cư 
Trong thời gian gần đây, để tiếp tục hỗ trợ đồng bào các dân tộc thực 
hiện việc ĐCĐC, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho vùng và 
hộ gia đình để đất sản xuất, ổn định đời sống xoá đói giảm nghèo 
4.1.2. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt 
cho đồng bào dân tộc thiểu số đời sống khó khăn 
Đối với người Dao tại xã Ea Mdro’h đến nay đã có 14 hộ được 
hỗ trợ làm nhà theo chương trình, khi triển khai đa số người dân đều 
tự xây dựng nhà ở với sự giúp đỡ của bà con thôn bản trong thời gian 
qua tại xã Ea Mdro’h đã hỗ trợ cho hai hộ nghèo là người dân tộc Dao 
mỗi hộ 5 sào đất nông nghiệp (5.000m2/hộ). 
4.1.3. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng 
Trên cơ sở các chính sách của Đảng và nhà nước trong việc đầu tư 
phát triển cơ sở hạ tầng đến nay tại xã Ea Mdro’h đã có 4 tuyến đường 
liên xã chính với tổng chiều dài là 16,41km, hồ chứa nước, hệ thống điện 
lưới quốc gia, các cấp học từ mầm non tới trung học phổ thông đã được 
17 
hoàn thiện. 
4.1.4. Các chính sách khác 
Hiện nay xã Cư Suê có 23 tổ vay vốn thông qua Hội phụ nữ hoặc 
Hội Nông dân. Tổng dư nợ đến hết tháng 10 năm 2013 là 
13.580.032.389đ ( Mười ba tỷ năm trăm tám mươi triệu không trăm ba 
mươi hai nghìn ba trăm tám mươi chín đồng. 
Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục – đào tạo 
Hiện nay xã Cư Suê và Ea Mdro’h đã được công nhận phổ cập giáo 
dục trung học cơ sở, hoàn thành thay sách và trang thiết bị dạy học tối 
thiểu cho giáo dục phổ thông, học sinh tại xã Ea Mro’h được cấp sách 
giáo khoa miễn phí (xã 135). Hệ thống trường học từ mầm non tới phổ 
thông cơ sở đều được kiên cố hóa, số lượng giáo viên tại các trường đạt 
chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo ở mầm non là 69,1%,tiểu học 
98,68%, trung học cơ sở 98,37%. 
Chính sách y tế cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo và cận nghèo 
Cùng các nguồn vốn đầu tư khác, Bộ Y tế được Chính phủ giao thực 
hiện đầu tư cho y tế tuyến tỉnh, huyện, xã trên địa bàn các xã ĐBKK thuộc 
Chương trình 135. Đến nay, cơ sở y tế các xã 135 được cải thiện về cơ sở 
vật chất và trang thiết bị, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân 
trong vùng. 
4.1.5. Đánh giá của người dân trong việc thực hiện các chính sách tại 
địa phương 
Việc triển khai các chính sách của Đảng và Nhà nước được chính 
quyền các cấp thực hiện một cách nhanh chóng và rộng khắp tại địa 
phương, chính vì vậy người dân nắm bắt được thông tin dễ dàng. 
4.2. Biến đổi của phong tục tập quán và nghi lễ liên quan đến sản 
xuất nông nghiệp 
Những biến đổi trong nghi lễ liên quan tới mùa vụ 
Duy trì các nghi lễ truyền thống là vấn đề luôn được ngườ Dao quan 
tâm việc tiết giảm các nghi lễ được thông qua một cách công khai bằng 
bỏ phiếu tại cuộc họp của cả cộng đồng. Từ đây các nghi lễ Ái xang môn 
(1/4 âm lịch), Nám xang môn (1/7 âm lịch) và Nám xang môn (1/10 âm 
lịch) và chỉ còn tổ chức Sằng môn man (cầu mùa) và Nám xang môn man 
(trả lễ). 
 Biến đổi trong nghi lễ gia đình 
Hiện nay người Dao tại xã Ea Mdro’h chỉ còn duy trì các nghi lễ: 
Hóa vàng, Thanh minh, Xá tội vong nhân, Cúng cơm mới và tết Nguyên 
đán.Tại đây cũng có một biệt lệ so với quê cũ đó là người đứng chủ thực 
hành nghi lễ (đều là chủ nhà) nếu theo đúng phong tục phải là người đã 
18 
được cấp sắc mới được phép thực hiện nhưng do không phải ai cũng có 
điều kiện để làm lễ (phải làm nhà thờ họ tại quê cũ). 
Những biến đổi trong nghi lễ của cộng đồng 
Sự thay đổi quan trọng nhất đó là hạn chế số lượng các nghi lễ cộng đồng, 
hiện nay ở khu vực người Dao sinh sống tại huyện Cư M’gar không còn duy trì 
các nghi lễ Ái xang môn (1/4 âm lịch), Nám xang môn (1/7 âm lịch) và Nám 
xang môn (1/10 âm lịch), hiện nay chỉ duy trì 2 lê ̃chính là Sằng môn man – lễ 
cầu mùa (đầu năm âm lịch) và Nám sang môn man (cuối năm) để trả ơn tổ tiên 
và thần thánh. 
4.3. Tác động của biến đổi sinh kế tới đời sống kinh tế, xã hội của hộ 
gia đình ngƣời Dao di cƣ 
4.3.1. Tác động đến kinh tế hộ gia đình 
Với mục tiêu là làm kinh tế, vì vậy thu nhập của các hộ người Dao 
định cư tại Cư Suê và Ea Mdro’h ngày càng tăng, nhất là với những hộ 
đã định cư sớm. Từ kết quả điều tra cho thấy số hộ có thu nhập trên 100 
triệu đồng/năm có tỷ lệ khá cao (48% ở xã Cư Suê và 29,6% ở Ea 
Mdro’h). Nếu so với ở quê cũ thì nhu nhập của người Dao ở Cư M’gar là 
điều mơ ước. Nguồn thu nhập chính từ các loại cây công nghiệp đã mang 
đến cho người Dao cuộc sống khá ổn định, mua sắm được nhiều trang 
thiết bị sinh hoạt hiện đại. Nhiều hộ gia đình không chỉ thoát nghèo mà 
còn vươn lên làm giàu trên vùng quê mới. 
4.3.2. Tác động đến tình hình sử dụng đất của người Dao 
Từ số liệu điều tra, trung bình một hộ tại xã Cư Suê sở hữu 16.378 m2 
đất, trong khi đó tại xã Ea Mdro’h là 18.830 m2, hầu hết là đất sản xuất, đất 
dành cho cây công nghiệp có diện tích lớn nhất với 10.822 m2/hộ (Cư Suê) 
và 9.806 m2/hộ (Ea Mdro’h). Đất dành cho sản xuất nông nghiệp cũng được 
người dân quan tâm với diện tích không hơn kém bao nhiêu giữa hai xã, đối 
với đất cây hàng năm thì trung bình mỗi hộ điều tra rất thấp, tại Ea Mdro’h 
chỉ là 1.684 m2/hộ trong khi đó tại Cư Suê là 1.047m2/hộ. Giá trị đất nông 
nghiệp qua điều tra cho thấy tại Cư Suê trung bình khoảng 46,31 triệu 
đồng/sào, còn đối với Eamdro’h là 21,93 triệu đồng/sào. Đất canh tác trở 
thành loại hàng hoá đặc biệt và người Dao cũng như các dân tộc tại chỗ rất 
coi trọng việc mở rộng diện tích canh tác. Do vậy, nhiều vấn đề về quản lý 
và sử dụng đất đang đặt ra ở huyện Cư M’gar liên quan đến quyền sử dụng 
và mua bán đất đai, đặc biệt trong những năm gần đây. 
4.3.4. Tác động đến việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa 
 Sinh kế đã mang lại thu nhập cho hộ gia đình, người dân dễ dàng 
tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và văn hóa hơn. Ngay tại số liệu điều 
tra thực tế tại xã Ea Madro’h và Cư Suê cũng cho thấy tình trạng tương 
19 
tự, khi mà bản thân chủ hộ hầu hết có học vấn thấp, chưa tốt nghiệp trung 
học phổ thông. Tuy nhiên hiện nay 100% trẻ em trong độ tuổi đều được 
tới trường, bản thân các hộ người Dao cũng rất chú ý tới việc học tập của 
con em mình. 
Tiểu kết chƣơng 4 
 Nhằm ổn định đời sống đồng bào dân tộc thiểu số đến nay hàng loạt 
các chính sách, dự án đã được thực hiện tại xã Cư Suê và Ea Mdro’h 
dưới nhiều hình thức khác nhau, những chính sách đó đã giúp người dân 
phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện sống của đồng bào dân tộc thiểu số 
trong đó có người Dao. Mối quan hệ giữa người Dao và các tộc người 
cùng sinh sống, đặc biệt là người Ê đê ngày càng được cải thiện rõ nét 
thông qua các nghi lễ có tính chất cộng đồng (lễ hội đoàn kết dân tộc) 
hay của hộ gia đình như việc cưới, tang ma 
 Cùng với việc định cư, những nghi lễ tôn giáo trong các hoạt động 
nông nghiệp được duy trì trong đồng bào, tuy nhiên những yếu tố nguyên 
gốc đã thay đổi nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của đồng bào tại nơi ở 
mới. Các hoạt động được giản trừ về mặt số lượng, thời gian và vật phẩm 
nhưng vẫn đảm bảo tính thiêng và đáp ứng các nhu cầu tâm linh của 
người dân tại nơi ở mới. 
 Đời sống của người Dao tại Cư M’gar ngày càng tốt hơn, thu nhập 
của hộ dân ngày càng tăng cao, cùng với đó là sự đa dạng trong các 
nguồn thu của hộ thông qua chăn nuôi, buôn bán nhỏ, tiền tích luỹ, làm 
thuêMặc dù vậy thu nhập chính của người dân vẫn là từ trồng các loại 
cây công nghiệp như: Cà phê, tiêu..Từ việc đa dạng hoá nguồn thu cũng 
như từ cà phê và tiêu số hộ có tích luỹ cao ngày càng tăng. Nhiều hộ đã 
vươn lên có kinh tế khá giả và giàu có. Cùng với sự cải thiện kinh tế hộ 
gia đình cơ hội tiếp cận với các dịch vụ công như y tế, giáo dục của 
người Dao di cư cũng được cải thiện...Trẻ em người Dao có nhiều cơ hội 
đến trường hơn và người Dao đã được tiếp cận đầy đủ hơn với các dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe 
CHƢƠNG 5: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
5.1. Kết quả 
5.1.1. Tây Nguyên là mảnh đất hấp dẫn với những điều kiện tự nhiên 
thuận lợi cho việc đảm bảo sinh kế của người Dao di cư tự do 
Tây Nguyên với thế mạnh có nhiều tiềm năng về điều kiện tự nhiên 
đã trở thành mảnh đất hấp dẫn các dân tộc miền núi phía Bắc di cư đến. 
20 
Về khí hậu, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới ôn hòa, mát mẻ thuận lợi cho 
cây trồng phát triển. Mật độ dân số còn thấp cũng là cơ hội thuận lợi cho 
người Dao có thể đưa một lượng lớn người đồng tộc, có quan hệ họ hàng, 
làng bản vào khai phá vùng đất mới, an cư lập nghiệp. Với diện tích đất 
trồng cây công nghiệp khá lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, thực sự là 
sức hút mạnh mẽ đối với người Dao di cư với mong muốn tìm được vùng 
đất mới để ổn định cuộc sống. 
5.1.2. Biến đổi sinh kế là quá trình thích ứng của người Dao ở nơi ở 
mới và phù hợp với xu thế phát triển 
Với sự thích ứng nhanh chóng trong lao động, sản xuất và đặc biệt là 
các phương thức sinh kế mới ở vùng đất Tây Nguyên, người Dao di cư 
đã sớm ổn định đời sống. Nguồn thu nhập của người Dao tăng lên đáng 
kể, ngoài thu nhập từ cây lương thực, chăn nuôi theo phương thức truyền 
thống, người Dao di cư còn có thêm nguồn thu nhập lớn từ các loại cây 
công nghiệp như cà phê, tiêu, điều, Đời sống của người Dao di cư từng 
bước được cải thiện, hầu hết các hộ gia đình đã xây dựng được nhà ở 
khang trang, mua sắm được nhiều tiện nghi đắt tiền và đã có tiền tích lũy 
làm vốn sản xuất cho gia đình và đầu tư vào việc học hành cho con cháu. 
Với các nguồn lực như vậy, người Dao di cư ở huyện Cư M’gar đang có 
những bước phát triển ổn định và bền vững. 
5.1.3. Quá trình biến đổi sinh kế diễn ra nhanh chóng, vừa bảo lưu 
những yếu tố truyền thống và tiếp nhận những giá trị mới 
Khi định cư tại Cư M’gar việc canh tác nương rẫy truyền thống của 
nguời Dao tại quê cũ không thể thực hiện, việc diện tích rừng thu hẹp và 
lệnh cấm phá rừng đã phần nào ảnh hưởng tới canh tác truyền thống. Từ cư 
dân canh tác nương rẫy là chính họ chuyển sang làm ruộng với hai loại hình 
ruộng nước và ruộng khô. Ruộng nước tại Cư M’gar không nhiều nhưng 
canh tác được 2 vụ, trong khi đó đối với ruộng khô người dân trồng thêm các 
loại rau củ để phục vụ cho nhu cầu gia đình. Trong những năm gần đây việc 
chuyển dịch sang trồng các loại cây công nghiệp như cà phê, tiêu diễn ra 
nhanh chóng trong cộng đồng nguời Dao tại Cư M’gar và đây đuợc coi là 
nguồn thu chính và chủ yếu của người dân. 
5.2. Bàn luận 
5.2.1. Sinh kế có tác động đến quan hệ tộc ngƣời giữa ngƣòi Dao di 
cƣ và các dân tộc khác tại Tây Nguyên 
- Tác động đến quy hoạch và phát triển sản xuất 
Do đa số người dân sống bằng nông nghiệp vì vậy việc đầu tư công 
sức và tiền của vào đất để tăng thu nhập là điều tất yếu. Có tới 68,6% số 
người được hỏi tại xã Cư Suê và 60,2% ở xã Ea Mdro’h khẳng định họ sẽ 
21 
đầu tư thêm vào đất đai của gia đình. Lý do họ đầu tư thêm là có nhiều 
giống cây lương thực mới cho năng suất tốt với 47,1% (Cư Suê) và 
76,3% (Ea Mdro’h). Trong khi đó với lý do hệ thống thủy lợi tốt hơn hay 
được nhà nước có chính sách hỗ trợ có tỷ lệ đồng ý không cao chỉ đạt từ 
10 đến 16,9% trên cả hai xã. 
 - Vấn đề quản lý và sử dụng đất 
 Những người di cư thường là những hộ thiếu đất sản xuất, chính vì vậy mục 
tiêu được sở hữu một mảnh đất để canh tác là một trong những mong muốn 
hàng đầu của người dân. Bằng nhiều con đường khác nhau như phá rừng làm 
rẫy, xâm lấn đất lâm trường, mua bán chuyển nhượng đất đai.... Chính vì vậy 
dẫn đến những rủi ro và phát sinh khiếu kiện liên quan tới đất. Hầu hết các hộ 
gia đình người Dao chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hơn 
70%), gây ra nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý và sử dụng đất ở địa phương. 
5.2.2. Sinh kế và biến đổi sinh kế của người Dao ảnh hưởng tới việc bảo vệ 
môi trường bền vững 
Như vậy có thể thấy trong 10 năm qua cùng với sự gia tăng của số người di 
cư (trong đó có người Dao) vào Cư M’gar là diện tích đất nông nghiệp tăng 
theo, song song đó là giá trị trong sản xuất nông nghiệp năm sau tăng cao hơn 
năm trước, nếu như năm 2001 giá trị nông nghiệp toàn huyện chỉ đạt 601.553 
triệu đồng thì tới năm 2005 tăng lên 1.549.125 triệu đồng và tới năm 2011 tổng 
giá trị nông nghiệp đạt 5.481.467 triệu đồng. Cùng với sự gia tăng diện tích và 
giá trị trong nông nghiệp là việc rừng tự nhiên bị đốn hạ dẫn tới tình trạng xói 
mòn đất cũng như nhu cầu tưới nước cho cây trồng vào mùa khô ngày càng cao 
đã dẫn tới vấn đề suy kiệt nguồn nước ngầm, nhất là trong mùa khô. Điều này 
cho thấy những thách thức được đặt ra ngày càng lớn đối với cộng đồng dân cư 
nói chung và người Dao nói riêng trong việc phát triển kinh tế xã hội trong 
những năm tiếp theo. Như vậy có thể thấy diện tích đất rừng giảm, đất nông 
nghiệp gia tăng, tuy nhiên việc sản xuất lương thực đang co nguy cơ suy giàm 
do diên tích đất bạc màu tăng lên. 
5.2.3. Ổn định sinh kế góp phần quan trọng trong ổn định đời sống và phát 
triển của người Dao di cư và phát triển bền vững Tây Nguyên 
Những người di cư thường sinh sống tập trung thành các làng bản riêng, từ 
nhà cửa tới phong tục tập quán trong sinh nở, hôn nhân, ma chay... vấn giữ được 
như ở quê cũ. Mặc dù vậy do coi nơi định cư mới là nơi sinh sống gắn bó lâu 
dài, vì thế vấn đề hòa nhập với cộng đồng dân tộc tại chỗ cũng như cộng đồng 
tộc người di cư khác luôn được đặt ra đối với người Dao 
 Do số hộ di cư đến tăng lên nhanh chóng do đó vấn đề đất canh tác cho 
các hộ người Dao định cư trở thành nỗi lo thường trực của người dân và chính 
quyền địa phương. Giai đoạn đầu khi đất còn nhiều người dân được chính 
22 
quyền giúp đỡ trong việc khai phá đất để đảm bảo sinh kế. Tuy nhiên số lượng 
đất do chính quyền địa phương quản lý có hạn không thể đáp ứng đuợc nhu 
cầu ngày cao của người dân nhất là những hộ mới di cư tới. 
Chính từ sự bức xúc của người dân dẫn tới địa bàn trở thành điểm nóng 
trong vấn đề an ninh trật tự tại địa phương, những phần tử xấu từ nơi khác tập 
trung khai thác, lôi kéo người dân theo đạo, chống đối lại chính quyền địa 
phương. Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự vào cuộc của chính quyền địa 
phương hiện nay tình hình đã ổn định, các hộ dân đều có đất đảm bảo cuộc 
sống của gia đình, tuy nhiên có tới 70% số hộ không có giấy chứng nhận quyền 
sử dụng đất. Đây cũng là một trong những thiệt thòi của các hộ dân vì như vậy 
không thể thế chấp để vay vốn ngân hàng nhằm đầu tư làm ăn theo hướng lâu 
dài và ổn định. 
5.3. Một số vấn đề tiếp tục nghiên cứu 
- Vấn đề đất đai và quan hệ tộc người của người Dao di cư đối với các nông 
trường, xí nghiệp và các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên 
- Vấn đề quản lý và sử dụng đất của người dân tộc thiểu số di cư tới Tây nguyên. 
- Hoạt động sinh kế của người Dao di cư có so sánh với các dân tộc thiểu số di 
cư từ miên núi phía Bắc vào Tây nguyên như Hmông, Thái, Tày, Nùng. 
5.4. Một số khuyến nghị 
Di cư, tái định cư cũng như sinh kế của người di cư nhất là liên quan tới 
DTTS, trong đó có người Dao đang là vấn đề đặt ra tại Tây Nguyên. Các chính 
sách của tỉnh và Trung ương cần tập trung vào các giải pháp ổn định đồi sống và 
sinh kế cho các hộ dân. Trên cơ sở nghiên cứu thực tế tại địa phương tôi đưa ra 
nhóm kiến nghị nhằm ổn định đời sống của người di cư trong đó tập trung vào 
các hộ DTTS. 
 Một là kiến nghị về ổn định sinh kế gắn với quản lý và sử dụng đất đai với 
người di cư ở Tây Nguyên; Rà soát và có kế hoạch phân bổ lại đất một cách hợp 
lý đủ cho người Dao di cư nhằm đảm bảo đời sống và ổn định sinh kế người 
dân. Tạo điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất để người 
Dao yên tâm ổn định đời sống lâu dài; Hỗ trợ sản xuất đối với người Dao di cư; 
Hai là tăng cường và cải cách các chính sách liên quan nhằm cải thiện hiệu quả 
di dời, di cư và tái định cư để nâng cao khả năng thích ứng của người dân. 
Ba là đẩy mạnh thực hiện các chương trình của quốc gia và của tỉnh để cải thiện 
điều kiện sống, giải pháp sinh kế cho người di cư, tái định cư, cộng đồng di dời 
và cộng đồng tiếp nhận. 
Bốn là tăng cường năng lực thể chế và quy trình hoạt động, đảm bảo thực hiện 
bảo trợ xã hội đối với người nhập cư trong bối cảnh hiện nay. Nâng cao kiến 
thức và hiểu biết về mối quan hệ giữa nhu cầu của người di cư, tái định cư và tư 
23 
cách pháp nhân của người nhập cư tại địa phương và nâng cao nhận thức về vấn 
đề này. 
KẾT LUẬN 
Để đảm bảo sinh kế, người Dao đã di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Cao 
Bằng và các địa phương khác ở miền núi phía Bắc vào huyện Cư M’gar tỉnh 
Đăk Lăk. Họ di cư thành nhiều đợt khác nhau, đến năm 2009 toàn huyện có tới 
hơn 9000 người.Lý do di cư của người Dao chủ yếu là do ở quê cũ vùng miền 
núi phía Bắc họ thiếu đất sản xuất, đời sống gặp nhiều khó khăn, trong khi đó có 
nghe theo họ hàng vào trước và định cư tại đây về một vùng đất có nhiều tiềm 
năng phát triển sản xuất vì có nhiều đất, chủ động được nguồn nước và quan 
trọng nhất là đã có người cùng họ sinh sống từ trước. Chủ hộ người Dao đi cư đa 
phần là nam, hầu hết trong độ tuổi lao động, tuy nhiên học vấn không cao, quy 
mô hộ không lớn chủ yếu từ 4 đến 5 người/hộ do đó hầu hết họ hoạt động trong 
lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu. 
 Canh tác là phương thức sinh kế chủ yếu của người Dao di cư và luôn giữ vị 
trí quan trọng, kể cả trong truyền thống và hiện nay. Với đặc điểm sinh kế truyền 
thống là canh tác nương rẫy trên đất dốc với cây trồng chủ đạo là ngô, lúa nước 
và các loại hoa màu khác chỉ mang tính chất hỗ trợ thêm do đó việc thiếu đói 
luôn thường trực trong các hộ dân nhất là giai đoạn giáp hạt. Các hoạt động sinh 
kế khác như săn bắt, hái lượm hay trao đổi hàng hoá vẫn chỉ mang hình thức 
kinh tế phụ trợ là chủ yếu chứ chưa chuyển thành thị trường chuyên biệt. 
 Ở địa bàn cư trú mới, các hoạt động canh tác nương rẫy truyền thống vẫn 
được duy trì, tuy nhiên đã có sự thay đổi đáng kể trong kỹ thuật canh tác, giống, 
mùa vụ để phù hợp với điều kiện tự nhiên tại vùng đất mới. Các loại cây trồng 
có tính hàng hóa và cho thu nhập cao như cà phê, tiêu được người dân tiếp thu, 
học hỏi và phát triển đã góp phần thay đổi đời sống của người Dao di cư, tuy 
nhiên những cây lương thực truyền thống khác vẫn được người dân duy trì và 
đóng góp đáng kể vào đời sống của người dân. 
 Khi người Dao di cư tự do đặt chân vào vùng Cư M’gar, điều kiện sản xuất 
và các hoạt động sống của họ thay đổi không giống như quê cũ. Các loại giống 
và nông cụ mang theo đều không phát huy hiệu quả khi sử dụng vì chúng chỉ 
phù hợp với khu vực đất dốc và khí hậu như ngoài Bắc. Để tồn tại, họ đã học hỏi 
cách canh tác của những những tộc người tới trước và tộc người tại chỗ nơi họ 
di cư tới. Từ những thời điểm học hỏi kinh nghiệm về giống, mùa vụ đã đảm 
bảo cho người dân có đủ lương thực để sinh sống và bám trụ nơi đất mới. Đất 
đai là mối quan tâm hàng đầu với người di cư, do đó việc sở hữu một cuộc đất là 
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Diện tích đất trung bình của một hộ tại địa bàn điều 
tra khá lớn trên 10.000m2/hộ. Giá trị đất ngày càng tăng vì vậy những hộ sở hữu 
24 
nhiều đất trở thành những người giàu có tại địa phương. Tình hình kinh tế hộ gia 
đình người Dao tại đại bàn điều tra đa phần là tốt hơn quê cũ, hộ nghèo không 
nhiều chủ yếu là những hộ mới di cư hoặc tách hộ những năm gần đây. Việc 
thuê mướn nhân công trong dịp mùa vụ diễn ra thường xuyên, người Dao và 
người Ê đê đều làm thuê cho nhau 
 Cùng với sự phát triển của các loại cây công nghiệp, người Dao đã nhanh 
chóng tham gia vào quá trình hình thành các vùng chuyên canh tại địa phương, 
cây cà phê, tiêu là những loại cây cho thu nhập cao, tuy nhiên việc đầu tư tốn 
kém và lâu cũng như cần phải có kỹ thuật chăm sóc chuyên biệt. Đặc biệt may 
mắn là tại Cư M’gar có một nhóm người Dao đã định cư tại đây từ trước năm 
1975 trong số đó khá nhiều người làm công nhân và sinh sống tại lâm trườngcà 
phê do các ông chủ người Pháp sở hữu. Chính những người này đã dạy lại kỹ 
thuật trồng cà phê, tiêu cho đồng bào của họ di cư vào Cư M’gar sau này. 
Nhờ đó rất nhiều người nắm vững kỹ thuật đã thành công trong việc biến sản 
phẩm của gia đình thành hàng hoá và có đời sống sung túc. 
 Những biến đổi về sinh kế ở vùng đất mới đã giúp cho kinh tế trong các hộ 
người Dao di cư ngày càng tốt hơn, họ có tiền tích luỹ và mua thêm đất để mở 
rộng canh tác cà phê, tiêu và các cây lương thực, cây hoa màu như ngô, lúa và 
hoa mầu như đậu xanh. Nguồn thu vì vậy càng gia tăng do đó người dân dùng 
tiền mua sắm máy nông cụ để phục vụ cho sản xuất và các phương tiện hiện đại 
khác nhằm sử dụng trong đời sống hàng ngày của người dân. 
 Trong quá trình thay đổi sinh kế và thích ứng với điều kiện sống mới, 
người Dao đã định cư và có các mối quan hệ khá tốt với người dân địa phương, 
tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa người Dao với các dân tộc tại chỗ như người Ê 
đê. Tuy nhiên, quá trình di cư của người Dao và sự phát triển nhanh chóng của 
các loại hình sinh kế mới như hình thành các vùng cây công nghiệp chuyên canh 
đã dẫn tới nhiều vấn đề trong quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững như 
quản lý đất đai, quản lý các mối quan hệ tộc người, quản lý môi trường, Đây 
cũng là vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển đối với người Dao di cư nói riêng 
và vùng đất Tây Nguyên nói chung. 
 Người Dao tại Cư M’gar đã từng bước vững chắc ổn định đời sống, phát 
huy tinh thần vượt khó làm giàu trên quê hương mới. Mối quan hệ tốt đẹp của 
người Dao với các tộc người khác thông qua các hoạt động giao lưu văn hoá 
giữa người Dao và các cộng đồng khác như Tày, Nùng và nguời Ê đê bản địa 
được duy trì, đặc biệt trong ngày hội đại đoàn kết được tổ chức hàng năm đựơc 
bà con nhiệt tình đón nhận. Là cơ sở vững chắc để xây dựng nên mối quan hệ 
đoàn kết giữa các dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên. 
Danh mục các công trình đã công bố của tác giả 
- Đào Thanh Thái, Di cư và tác động của di cư đến đời sống 
người Dao tỉnh Đăk Lăk, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 09 (186), 
2015, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (trang 68 – 75) 
- Đào Thanh Thái, Vai trò của canh tác nương rẫy trong đời sống 
người Dao di cư tại Đăk Lăk, Hội thảo quốc tế Nhân học ở Việt Nam: 
Lịch sử, Hiện trạng và Triển vọng do Hội Dân tộc học và Nhân học 
Việt Nam cùng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện 
Dân tộc học, Bảo tàng Nguyễn Văn Huyện đồng tổ chức tại Hà Nội 
29/9/2015 
Đào Thanh Thái, Biến đổi trong canh tác của người Dao ở huyện 
Cư M’ga tỉnh Đăk Lăk, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 376 tháng 
10/2015, Bộ Văn hoá Thể thao – Du lịch (trang 11 – 15) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bien_doi_sinh_ke_cua_nguoi_dao_di_cu_tu_do_tai_huyen_cu_m_gar_tinh_dak_lak_6667.pdf bien_doi_sinh_ke_cua_nguoi_dao_di_cu_tu_do_tai_huyen_cu_m_gar_tinh_dak_lak_6667.pdf