Luận án, với đề tài “Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam” đã
hệ thống hóa được các tài liệu nghiên cứu trước đó trong lĩnh vực để đưa ra khung lý
thuyết bao gồm nội dung, các khía cạnh và tiêu chí đánh giá, các yếu tố tác động tới
bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai với tư cách là yếu tố nguồn lực sản xuất. Đồng
thời, dựa trên khung lý thuyết đó, với việc sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu định
lượng thông qua kết hợp phương pháp thống kê mô tả và mô hình kinh tế lượng dựa
trên nguồn dữ liệu thứ cấp điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) để phân
tích hiện trạng, cũng như chỉ ra các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận
đất đai ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách cải thiện
bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai thời gian tới
12 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và chủ hộ là nữ giới,
trong khi đó những nỗ lực đạt bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác có xu hướng
làm thu hẹp khoảng cách giới trong tiếp cận đất đai.
(iv) Qua những phát hiện thực tế, luận án đưa ra các gợi ý giải pháp, chính sách
để thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai dưới góc độ là 1 yếu tố nguồn lực sản
xuất tại Việt Nam trong những năm tới, cụ thể: (i) Hoàn thiện thể chế chính thức đảm
bảo bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất; (ii) Đổi mới công tác truyền thông nâng
cao nhận thức của xã hội đặc biệt là phụ nữ về quyền bình đẳng giới trong tiếp cận đất
sản xuất; (iii) Nâng cao năng lực tự thân của phụ nữ (iv) Tổ chức thực hiện và theo dõi,
đánh giá thực hiện các chính sách liên quan đến quyền bình đẳng giới trong tiếp cận
đất sản xuất; (v) Thúc đẩy hoạt động của thị trường đất nông nghiệp.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG TIẾP CẬN ĐẤT SẢN XUẤT
1.1. Bình đẳng giới
1.1.1. Một số khái niệm
- Giới: là một thuật ngữ xã hội để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và
những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Giới được hình thành do học hỏi từ gia đình,
nhà trường, giao tiếp xã hội, nó khác nhau giữa các nước, các địa phương, thay đổi
theo thời gian và quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nói cách khác, khi đề cập tới mối
quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan
đến các vấn đề thuộc về thể chế, văn hóa và xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá
biệt giữa một nam giới hay phụ nữ nào đó.
- Bình đẳng giới:
Luận án sử dụng khái niệm bình đẳng giới được đưa ra trong chương 1 điều 5
của Luật bình đẳng giới 2006 của Việt Nam, quan điểm này đồng nhất với quan điểm
được đưa ra trong công ước quốc tế về xóa bỏ mọi loại hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (CEDAW), cụ thể:“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
6
Với khái niệm bình đẳng giới được nêu ra ở trên, tác giả luận án cho rằng: bất
bình đẳng giới tồn tại khi có sự khác biệt trong so sánh tương quan về vai trò, vị trí
và tiếng nói của nam và nữ giới. Giá trị gắn cho vai trò của giới nam hoặc giới nữ
được xã hội thừa nhận chính là cơ sở quyết định khả năng tiếp cận tài sản và nguồn
lực của gia đình và xã hội, cũng như tiếng nói khác nhau của nam và nữ.
1.1.2. Các khía cạnh của bình đẳng giới
Cùng với quá trình phát triển, các khía cạnh nội hàm của bình đẳng giới cũng
dần hoàn thiện. Trong nghiên cứu gần đây nhất của Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát
triển thế giới 2012, bình đẳng giới được tập trung xem xét theo 3 khía cạnh phúc lợi
chính,đó là: (i) sự tích tụ năng lực của con người (nguồn vốn con người và nguồn lực
sản xuất); (ii) sử dụng năng lực đó để nắm bắt các cơ hội kinh tế và tạo thu nhập (việc
tham gia và nhận thu nhập từ nền kinh tế); và (iii) tính đại diện: việc sử dụng các
năng lực tích lũy được để tác động đến lợi ích của cá nhân và cộng đồng (tiếng nói và
ảnh hưởng của phụ nữ trong các lĩnh vực đời sống ở cấp độ cá nhân và cộng đồng).
Theo các khía cạnh đó, trong các nghiên cứu phân tích đánh giá về bình đẳng
giới thường tập trung vào các nội dung cụ thể sau:
(i) Sự tích tụ năng lực của con người: Đánh giá kết quả của giáo dục và y tế
theo tất cả các tiêu chí đối với cả nam và nữ; cơ hội tiếp cận các yếu tố nguồn lực sản
xuất như đất đai, tín dụng và các đầu vào cho sản xuất của nam giới và phụ nữ
(ii) Nắm bắt cơ hội kinh tế: đánh giá khả năng tham gia vào thị trường lao động
và sự khác biệt trong tiền lương nhận được trong công việc giữa nam giới và phụ nữ
(iii) Tính đại diện: Được xem xét dưới các góc độ cụ thể đó là sự khác biệt về quyền
ra quyết định của phụ nữ và nam giới thể hiện trong việc tham chính; khả năng thích ứng và
tham gia của phụ nữ trong các hoạt động công cộng; tình trạng bạo lực trong gia đình; và cuối
cùng là khả năng đàm phán thương lượng trong các quyết định của hộ gia đình.
Từ những đánh giá nêu trên, luận án nhấn mạnh: (i) cơ hội hay khả năng tiếp
cận với các yếu tố nguồn lực sản xuất nói chung và yếu tố đất sản xuất nói riêng của
phụ nữ và nam giới là một nội dung trong trong phân tích và đánh giá bình đẳng giới;
(ii) thêm vào đó, đạt được bình đẳng giới trong việc tiếp cận nguồn lực sản xuất, đặc
biệt là đất đai, cùng với giáo dục và y tế là nền tảng năng lực để có thể thực hiện các
khía cạnh còn lại của bình đẳng giới nói chung.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá bình đẳng giới
Khi xây dựng các tiêu chí đánh giá, các công trình nghiên cứu về giới có khi sử
dụng các chỉ số để đo lường tình trạng tuyệt đối của phụ nữ (ví dụ như tỷ lệ đi học
của trẻ em gái), nhưng cũng có trường hợp sử dụng tiêu chí để đo lường tình trạng
tương đối của họ (khoảng cách tỷ lệ đi học của trẻ em trai và trẻ em gái). Chú trọng
đến tình trạng tuyệt đối là rất quan trọng, vì sự cải thiện tuyệt đối là điều kiện cơ bản
7
để đảm bảo quá trình phát triển, tăng cường thêm phúc lợi cho cả nam và nữ. Nhưng
chỉ tập trung vào tình trạng tuyệt đối không thôi là chưa đủ, dù là về quyền hạn hay
việc đòi hỏi các yếu tố nguồn lực, bởi tình trạng tương đối mới thể hiện được mối quan
hệ tương đối của nữ và nam, đến lượt mình, mối quan hệ tương đối đó lại ảnh hưởng
đến khả năng tham gia, đóng góp và hưởng lợi từ quá trình phát triển của họ. Do đó khi
đánh giá bình đẳng giới cần các tiêu chí đề cập tới cả hai góc độ phân tích trên.
Tuy nhiên, theo quan điểm của luận án, việc có được một thước đo để lượng hóa
được vị thế tương đối của phụ nữ so với nam giới có thể so sánh được ở phạm vi quốc tế
là hết sức khó khăn vì cấu trúc của nền kinh tế, vai trò của thị trường, gia đình và văn
hóa là khác nhau giữa các quốc gia. Chính vì thế, các nhà nghiên cứu thường cố gắng sử
dụng các thước đo tổng hợp có sự phân biệt giới để đánh giá bình đẳng giới. Các chỉ tiêu
được biết đến nhiều nhất và phản ảnh tương đối đầy đủ các khía cạnh của bình đẳng giới
theo cách tiếp cận thực chất và quan điểm của CEDAW (1979) là:
- Chỉ số phát triển giới (Gender Developmment Index - GDI), được tính toán
dựa trên sự khác biệt về giới trong các tiêu chí của chỉ số phát triển con người
(Human Development Index - HDI);
- Thước đo quyền lực giới (Gender Empowerment Measure - GEM), đo lường
bất bình đẳng giới dưới khía cạnh khai thác cơ hội về kinh tế và chính trị.
- Chỉ số bất bình đẳng giới (GII) mới được đưa vào trong báo cáo phát triển
con người năm 2010, phản ánh sự bất lợi của phụ nữ trên ba khía cạnh: sức khỏe sinh
sản, quyền lực và thị trường lao động. Chỉ số GII có ý nghĩa quan trọng phản ánh
tổng hợp hơn hai chỉ số GDI và CEM khi đánh gia bất bình đẳng giới trên các
phương diện về phát triển con người
- Chỉ số thể chế xã hội và giới (SIGI) là chỉ số được thiết kế nhằm đánh giá các
khía cạnh là nội hàm của sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ. SIGI tổng hợp đánh giá
các thể chế xã hội có sự phân biệt đối xử, cụ thể đó là kết hôn sớm, phân biệt đối xử
trong thực thi quyền thừa kế tài sản, bạo lực gia đình, chênh lệch giới tính khi sinh,
những hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất cụ thể là đất đai và tín dụng
và tiếp cận với địa vị xã hội
1.2. Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
1.2.1. Một số khái niệm
- Đất sản xuất: Đất sản xuất là nguồn lực hữu hình, không do sản xuất mà có,
được sử dụng làm đầu vào trực tiếp sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ
- Tiếp cận đất sản xuất: tiếp cận đất sản xuất là khả năng sử dụng đất làm đầu
vào trực tiếp cho quá trình sản xuất, không phân biệt có sở hữu hay kiểm soát đất đai
hay không. Theo đó, tiếp cận đất sản xuất được xem xét dưới 2 góc độ, đó là: khả
năng được sử dụng đất sản xuất và khả năng sử dụng nguồn lực này để thu lợi.
8
- Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất: Bình đẳng giới trong tiếp cận đất
sản xuất là việc nam giới và nữ giới có quyền/ cơ hội ngang nhau trong khả năng sử
dụng đất làm đầu vào trực tiếp cho quá trình sản xuất.
1.2.2. Nội dung phân tích và tiêu chí đánh giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất
sản xuất: Từ kết quả tổng quan nghiên cứu, các nội dung phân tích và tiêu chí đánh
giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất được đề xuất trong luận án được tổng
hợp lại theo bảng 1.1.
Bảng 1.1. Tổng hợp nội dung - tiêu chí - chỉ số đánh giá bình đẳng giới trong tiếp
cận đất sản xuất
TT Nội dung Khía cạnh Tiêu chí Chỉ số
1 Bình đẳng giới về
khả năng được sử
dụng đất sản xuất
(i) Khả năng có
đất
Khả năng có đất của
nam giới = khả năng
có đất của nữ giới
- Tỷ lệ phụ nữ/ nam
giới có đất sản xuất
- Tỷ lệ người có đất
là phụ nữ
(ii) Nguồn gốc
đất sản xuất
Cách thức có đất
tương đồng giữa nam
giới và nữ giới, đặc
biệt các nguồn trung
tính giới
- Cơ cấu đất sản
xuất của nam giới/
nữ giới theo nguồn
gốc đất
- Tỷ lệ phân bổ cho nữ
giới theo mỗi nguồn
của đất sản xuất
(iii) Được bảo
đảm quyền sử
dụng đất
Khả năng được bảo
đảm quyền sử dụng
đất sản xuất của nam
giới = khả năng được
bảo đảm quyền sử
dụng đất sản xuất
của nữ giới
- Tỷ lệ đất sản xuất
do nam giới/ nữ giới
sử dụng có
GCNQSDĐ
- Tỷ lệ nam giới/ nữ
giới đứng tên trên
GCNQSDĐ
2 Bình đẳng giới về
khả năng sử dụng
đất sản xuất để
thu lợi
(i) Quy mô đất
sản xuất sử
dụng
Quy mô đất sản xuất
do nam giới sử dụng
= quy mô đất sản xuất
do nữ giới sử dụng
- Diện tích đất sử
dụng trung bình của
nam giới/ nữ giới
(ii) Năng suất
đất
Năng suất đất của
các hộ gia đình do
nữ giới làm chủ hộ
ngang bằng với các
hộ gia đình do nam
giới làm chủ hộ
- Thu nhập từ sản
xuất nông nghiệp
bình quân/ 1ha đất
sản xuất của hộ gia
đình chủ hộ nam
giới/ nữ giới
Nguồn: Tác giả đề xuất từ phân tích và tổng hợp các tài liệu tổng quan nghiên cứu
9
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất:
Từ những phân tích tổng quan các nghiên cứu, luận án tổng hợp và đề xuất 4
nhóm yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất, cụ thể:
Bảng 1.2. Các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
TT Yếu tố tác
động Nội dung
Tác động tới bình đẳng giới trong
tiếp cận đất sản xuất
1 Thể chế chính
thức
Mọi lĩnh vực liên quan đến
hoạt động của nhà nước, như:
• Luật pháp
• Khung thể chế
• Chính sách và thực
thi chính sách
• Cơ chế thực hiện các
chức năng của nhà
nước (tòa án, cảnh
sát, xây dựng cơ sở hạ
tầng, y tế, giáo dục)
- Đây là yếu tố trung tính giới,
nhằm bảo đảm quyền tiếp cận với
đất đai và bình đẳng giới, do đó
nếu luật pháp đủ các điều khoản
đảm bảo thì sẽ có tác động tích cực
tới bình đẳng giới trong tiếp cận
đất sản xuất
- Khi hệ thống luật pháp, chính
sách chưa hoàn thiện, vẫn có kẽ hở
để thực hành theo luật tục, cộng
với việc thực thi chính sách chưa
đầy đủ sẽ dẫn tới ảnh hưởng tiêu
cực tới bình đẳng giới trong tiếp
cận đất sản xuất.
2 Thể chế phi
chính thức
Các cơ chế, luật lệ, quy
trình hình thành nên các
giao tiếp xã hội nhưng
không liên quan đến chức
năng của nhà nước, ví dụ:
• Văn hóa
• Phong tục tập quán
• Chuẩn mực xã hội
• Mạng lưới xã hội
Yếu tố này có ảnh hưởng lớn tới
quan hệ giới trong xã hội, tuy
nhiên các khía cạnh của thể chế phi
chính thức như văn hóa, phong tục
tập quán nếu vẫn còn mang nặng
định kiến giới, thì sẽ tác động tiêu
cực tới bình đẳng giới nói chung
và bình đẳng giới trong tiếp cận đất
sản xuất nói riêng
3 Thị trường Những điều kiện cho phép
người mua và người bán trao
đổi (quyền đối với) bất kỳ
một loại hàng hóa, dịch vụ
nào theo một số luật lệ nhất
định. Thị trường được xem
xét ở đây tập trung vào thị
trường đất sản xuất. Thị
trường đất sản xuất đóng vai
- Thị trường có đặc điểm không phân
biệt giới, do đó khi có thị trường và
có giao dịch liên quan đến đất sản
xuất thì sẽ tác động tích cực tới bình
đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
- Thị trường đất sản xuất đòi hỏi
những điều kiện để có thể tham gia
như điều kiện về thu nhập, giấy tờ
bảo đảm quyền sử dụng đất
10
TT Yếu tố tác
động Nội dung
Tác động tới bình đẳng giới trong
tiếp cận đất sản xuất
trò quan trọng bởi nó hình
thành một phương thức cho
việc tiếp cận đất đai.
(GCNQSDĐ), đây là những rào cản
đối với phụ nữ/ nam giới tiếp cận đất
thông qua kênh thị trường khi không
đáp ứng được yêu cầu.
4 Hộ gia đình Đặc điểm, cũng như các mối
quan hệ trong gia đình có ảnh
hưởng tới các quyết định liên
quan đến việc tiếp cận đất
sản xuất, ví dụ như
• Giới tính, trình độ học
vấn, tuổi, tình trạng
hôn nhân của chủ hộ
• Qui mô hộ
• Thu nhập của hộ
• Tỷ lệ người phụ thuộc
của hộ
• Đặc điểm hoạt động
sản xuất của hộ
• .
Các đặc điểm của hộ gia đình, tùy
thuộc vào từng đặc điểm và mối
quan hệ giữa các đặc điểm trong hộ
gia đình sẽ có ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực tới việc tiếp cận đất
sản xuất của nam giới và nữ giới.
Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất từ nghiên cứu các công trình nghiên cứu
Đồng thời, kế thừa nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB, 2012), luận án đã
sơ đồ hóa mối quan hệ giữa các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất
sản xuất được thể hiện trong hình 1.1 dưới đây:
Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận
đất sản xuất
11
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khung phân tích
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và khung phân tích của Luận án đã được đề
cập tới ở trên, phương pháp nghiên cứu cụ thể được thực hiện dựa trên cơ sở vận
dụng phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp luận chung, bao gồm:
- Phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá các nghiên
cứu hiện có trong và ngoài nước, từ đó hình thành khung lý thuyết cho nghiên cứu của
tác giả. Phương pháp này cũng được sử dụng để đánh giá thực trạng thị trường đất sản
xuất, thể chế phi chính thức (văn hóa, phong tục tập quán) ở Việt Nam và bối cảnh cho
việc thực thi chính sách bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất trong thời gian tới.
- Phương pháp so sánh: Việc phân tích thực trạng là định vị kết quả tại một thời
điểm nghiên cứu, do đó với mục đích mô tả thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận
đất sản xuất tác giả sử dụng phương pháp so sánh giữa chủ hộ là nam giới và chủ hộ
là nữ giới tại cùng một thời điểm.
- Phương pháp phân tích, đánh giá các văn bản chính sách: Phương pháp này
chủ yếu được dùng để đánh giá môi trường thể chế chính thức về bình đẳng giới
12
trong tiếp cận đất đai, cũng như những thay đổi trong môi trường đó thông qua việc
ra đời của các văn bản chính sách của Chính phủ qua các giai đoạn khác nhau.
- Phương pháp phân tích thống kê mô tả
- Phương pháp mô hình hóa
Hai phương pháp phân tích thống kê mô tả và mô hình hóa được trình bày chi
tiết trong phần 2.3
2.2.2. Nguồn dữ liệu, số liệu
Luận án khai thác các nguồn dữ liệu thứ cấp bao gồm các dữ liệu đã được công
bố và các dữ liệu thô từ kết quả của các cuộc điều tra
- Khảo sát mức sống dân cư (VHLSS): Luận án khai thác dữ liệu thô ở cấp độ
hộ gia đình của cuộc điều tra khảo sát mức sống dân cư năm 2012 bằng phần mềm
STATA. Ngoài các thông tin cơ bản về nhân khẩu học, Luận án chủ yếu sử dụng
thông tin liên quan đến đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp trong mục 04
của dữ liệu điều tra.
- Điều tra hộ gia đình tiếp cận nguồn lực ở Việt Nam (VARHS): Luận án khai
thác thông tin liên quan đến tiếp cận đất đai trong điều tra hộ gia đình tiếp cận nguồn
lực năm 2012 như những thông tin bổ sung cho nội dung phân tích thực trạng bình
đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
- Các nguồn số liệu khác: Niên giám thống kê, Tổng điều tra nông nghiệp,
nông thôn và thủy sản, Điều tra lao động và việc làm, Điều tra biến động dân số kế
hoạch hóa gia đình, báo cáo của các bộ, ngành có liên quan.
- Các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước: Luận án tập trung khai thác
các văn bản Luật Đất đai 2003, 2013; Luật Bình đẳng giới của Việt Nam 2006, Luật
Dân sự 2005, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
- Các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân: Các nghiên cứu và báo cáo
của các tổ chức như Ngân hàng thế giới, UNDP, USAID cũng như các nghiên cứu, báo
cáo của các cá nhân, tổ chức khác để có cái nhìn đa chiều về vấn đề nghiên cứu
2.3. Phương pháp phân tích dữ liệu
Nội dung phân tích bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam được
thực hiện ở cấp độ hộ, theo đó, phân chia các hộ gia đình vào các hộ gia đình nam
giới và nữ giới là theo giới tính của chủ hộ, từ đó phân tích sự khác biệt về quyền/ cơ
hội được sử dụng đất làm đầu vào cho sản xuất của các hộ gia đình chủ hộ nam giới
và nữ giới. Cấp độ nghiên cứu này là phù hợp với 2 lý do: (i) Theo quy định của pháp
luật, đất đai ở Việt nam được phân bổ cho các hộ gia đình chứ không phân bổ cho các
cá nhân. (ii) Các hoạt động sản xuất của cá nhân thường phải gắn với một khu vực
thể chế nhất định ở trong nền kinh tế như khu vực thể chế hộ gia đình, nhà nước, phi
tài chính, tài chính, trong đó với sản xuất nông nghiệp – một hoạt động sử dụng đất
làm đầu vào trực tiếp, thì chủ yếu gắn với khu vực hộ gia đình.
13
Khái niệm đất sản xuất tương ứng với khái niệm đất nông nghiệp hiện áp dụng
ở Việt Nam
2.3.1. Thống kê mô tả
2.3.1.1. Phương pháp
Phương pháp áp dụng là tính trung bình của nhóm chủ hộ nam giới và nhóm
chủ hộ và kiểm định sự khác biệt giữa giá trị trung bình của hộ gia đình chủ hộ nam
giới và chủ hộ nữ giới bằng kiểm định t- test
Kiểm định T-Test là phép kiểm định giả thuyết về trung bình của tổng thể,
được dùng trong trường hợp ta muốn kiểm định giả thuyết về sự bằng nhau của 2
trung bình tổng thể dựa trên 2 mẫu độc lập rút từ 2 tổng thể này.
Trong kiểm định T-Test ta có 1 biến định lượng để tính trung bình và 1 biến
định tính dùng để chia nhóm ra so sánh.
Các bước khi thực hiện kiểm định T-Test bao gồm:
- Bước 1: Đặt giả thuyết Ho: “Không có sự khác nhau về trị hai trung bình tổng
thể”, tức là khác biệt giữa 2 trung bình là bằng 0.
- Bước 2: Thực hiện kiểm định T-Test (Two-sample t test with equal variances)
- Bước 3: So sánh giá trị Sig của kiểm định t được xác định ở bước 2 với xác suất α:
+ Nếu Sig >α thì ta chấp nhận giả thuyết Ho
+ Nếu Sig <α thì ta bác bỏ giả thuyết Ho
2.3.1.2. Nội dung phân tích
Phương pháp thống kê mô tả được sử dung trong 2 nội dung phân tích: đặc
điểm hộ gia đình Việt Nam theo giới tính của chủ hộ và thực trạng bình đẳng giới
trong tiếp cận đất sản xuất
2.3.2. Mô hình hồi quy
2.3.2.1. Xác định mô hình
Tham khảo mô hình thực nghiệm, căn cứ vào lý thuyết và cân nhắc thực tế ở
Việt Nam với nguồn dữ liệu sẵn có, luận án sử dụng mô hình sau để ước lượng thực
trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt nam:
Tiếp cận đất sản xuất = β0 + βiXi + ei (3.1)
Trong đó luận án sử dụng 2 biến phụ thuộc là hav _dat và lndatbq để đánh giá
việc tiếp cận đất sản xuất theo 2 nội hàm: khả năng được sử dụng đất sản xuất và sử
dụng đất để thu lợi, cụ thể:
- Hav_dat: đo lường khả năng có đất sản xuất: biến đại diện cho nội dung khả
năng được sử dụng đất sản xuất
- Lndatbq: Để đo lường cho khả năng sử dụng đất để thu lợi.
Xi là các biến ngoại sinh có ảnh hưởng tới việc tiếp cận đất sản xuất của hộ gia
đình. Luận án sử dụng các biến ngoại sinh gắn với đặc điểm nhân khẩu của chủ hộ,
qui mô hộ gia đình và đặc điểm hoạt động kinh tế của hộ (chi tiết trong bảng 2.1, 2.2)
14
2.3.2.2. Phương pháp ước lượng
Để đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam, luận
án sử dụng bộ dữ liệu VHLSS 2012 với phần mềm Stata các phương pháp hồi quy sau:
- Hồi quy Probit để đánh giá sự khác biệt về cơ hội có đất sử dụng giữa hộ gia
đình chủ hộ nam giới và nữ giới, phương trình hồi quy như sau:
Hav_dat = β0 + β1*m1ac2 + βiXi + ei (2.3)
- Hồi quy Heckman 2 bước để đánh giá sự khác biệt trong việc sử dụng đất sản
xuất để sinh lợi, với biến phụ thuộc là lndatbq
lndatbq = β0 + β1*m1ac2 + βiXi + ei (2.4)
Trong đó m1ac2 là biến đại diện cho giới tính của chủ hộ (m1ac2=1 tương ứng
với chủ hộ là nam giới và m1ac2 = 0 tương ứng với chủ hộ là nữ giới), Xi là các biến
thứ tự 4 – 28 trong bảng 2.1
- Phân rã Oaxaca – Blinder để giải thích sự khác biệt trong tiếp cận đất sản
xuất giữa hộ gia đình chủ hộ nam giới và chủ hộ nữ giới, theo các yếu tố tác động
(các biến giải thích) được mô tả trong bảng 2.1, cụ thể:
- Phân rã Oaxaca – Blinder cho hàm phi tuyến:
Hav_dat = β0 + βiXi + ei (2.5)
- Phân rã Oaxaca – Blinder cho hàm tuyến tính:
lndatbq = β0 + βiXi + ei (2.6)
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG TIẾP CẬN ĐẤT
SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng bình đẳng giới ở Việt Nam
Mức độ bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây có sự biến động
nhưng vẫn nằm trong nhóm các quốc gia có bất bình đẳng giới ở mức trung bình.
Xét trong lĩnh vực giáo dục và y tế, mặc dù tỷ lệ biết chữ của nữ gia tăng nhanh hơn
nam giới trong những năm gần đây, song tỷ lệ nữ biết chữ vẫn thấp hơn so với nam giới,
và thấp hơn tỷ lệ biết chữ chung của toàn dân số từ 15 tuổi trở lên, đặc biệt ở khu vực
nông thôn. Tình trạng sức khỏe của nữ giới được cải thiện trong những năm trở lại đây.
Những thành tựu và hạn chế trong khía cạnh giáo dục và chăm sóc sức khỏe kể ra ở trên
cho thấy năng lực tự thân của phụ nữ nhất là dưới góc độ tri thức vẫn thấp hơn so với nam
giới, đặc biệt ở các nhóm tuổi từ 30 tuổi trở lên, nhóm tuổi tập trung các chủ hộ gia đình
hiện nay. Điều này sẽ hạn chế phần nào năng lực quản lý và sử dụng đất đai của các chủ
hộ là nữ, và từ đó sẽ hạn chế khả năng tiếp cận đất đai của các hộ gia đình có chủ hộ nữ.
Xét trong khía cạnh việc làm và thu nhập, thành tựu rõ nhất là sự tham gia tích
cực của nữ vào lực lượng lao động, với tỷ lệ nam nữ không quá khác biệt. Tuy nhiên,
15
trong khi phần lớn các nước trên thế giới có chênh lệch tiền lương giữa lao động nam
và nữ giảm đi thì Việt Nam lại là một trong ít nước có sự gia tăng khoảng chênh lệch.
Cơ hội có việc làm tốt hơn, phụ nữ khi đi ra ngoài tham gia hoạt động sản xuất phi
nông nghiệp sẽ ít phụ thuộc vào đất đai hơn, tính dễ bị tổn thương giảm, đồng thời
nhận thức của phụ nữ về vai trò của mình cũng như quyền bình đẳng giới sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, thu nhập của nữ giới vẫn thấp hơn nam giới sẽ hạn chế cơ hội tham gia thị
trường giao dịch đất đai với tư cách là người mua của phụ nữ hơn so với nam giới.
Dưới góc độ tăng cường “tiếng nói”, trong những năm gần đây, tỷ lệ nữ đai
biểu trong các cơ quan dân cử của Việt Nam đều có xu hướng gia tăng, đồng thời, số
đại biểu nữ giữ các trọng trách quan trọng trong các cơ quan của Quốc hội cũng tăng.
Tuy đã có nhiều cải thiện, song vai trò cộng đồng của phụ nữ ở Việt Nam vẫn thấp
hơn một cách đáng kể so với nam giới. Khi phụ nữ có ít “tiếng nói” hơn ở cả cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp sẽ khiến việc ban hành pháp luật, đặc biệt là quá trình
thực thi pháp luật liên quan đến các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực đất đai sẽ ít nhiều bị
thiên lệch giới với lợi thế thuộc về nam giới.
3.2. Thực trạng các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản
xuất ở Việt Nam
3.2.1. Thực trạng các chính sách, pháp luật (thể chế chính thức) bảo đảm bình
đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam
Nhìn vào hệ thống các quy định pháp luật và chính sách hiện hành của Việt
Nam liên quan đến đất sản xuất, có thể nói rằng, về cơ bản khung pháp lý của Việt
Nam được quy định khá đầy đủ và bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong
tiếp cận đất sản xuất.
Tuy nhiên, một số phát hiện mang tính nghiên cứu của luận án về những bất
cập của hệ thống thể chế chính thức tác động không tích cực đến bình đẳng giới trong
tiếp cận đất sản xuất thể hiện như sau:
- Còn một số điều khoản luật chưa đảm bảo quyền thừa kế của phụ nữ đối với
tài sản nói chung và đất đai nói riêng
- Điều khoản luật vẫn còn kẽ hở để thực hành theo phong tục tập quán, yếu tố
có xu hướng loại trừ phụ nữ trong tiếp cận đất đai.
- Các văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn ban hành chậm, thậm chí có điều
khoản luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn
3.2.2. Thực trạng yếu tố văn hóa, phong tục tập quán (thể chế phi chính thức) tác
động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
Mặc dù đã thoát khỏi chế độ phong kiến hơn nửa thế kỉ, cộng với việc được tiếp
cận với nhiều nền văn hóa tiến bộ, cởi mở hơn, song cho đến nay những tư tưởng của
văn hóa Nho giáo vẫn còn khá ăn sâu bám rễ trong ý thức và từ đó ảnh hưởng tới ứng xử
16
của phần lớn người dân Việt Nam. Tư tưởng văn hóa Nho giáo đó đã hình thành nên hai
hệ tư tưởng có ảnh hưởng tiêu cực tới bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong
tiếp cận đất đai nói riêng đó là: (i) tư tưởng gia trưởng, “trọng nam, khinh nữ”; và (ii) Tư
tưởng phụ thuộc vào nam giới và xem nhẹ vị thế của mình trong nữ giới. Ngoài ra, vì tự
có tư tưởng định kiến giới là phụ nữ chỉ lo việc trong nhà còn nam giới lo việc ngoài xã
hội, nên bản thân phụ nữ còn có tâm lý ngại va chạm và có các giao dịch ngoài xã hội.
3.2.3. Thực trạng thị trường đất sản xuất ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam đã tồn tại thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, mặc
dù vậy thị trường quyền sử dụng đất trong khu vực nông thôn và nông nghiệp chưa
phát triển. Theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn 2011, tính đến nay, các hộ
gia đình đã được sử dụng hơn 14 triệu ha đất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp
(chiếm 53,6% trong tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước, tuy nhiên bình quân
số hộ chuyển nhượng QSDĐ và thuê QSDĐ chỉ chiếm 1 - 2%. Thị trường đất đai
nông thôn ở miền Bắc kém sôi động hơn so với thị trường đất đai nông thôn tại các
tỉnh miền Nam.
Việc tồn tại thị trường giao dịch quyền sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là thị
trường thứ cấp là một yếu tố có tác động tích cực tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất
sản xuất, bởi đây là một kênh tiếp cận đất không có sự phân biệt giới, do đó cần thúc
đẩy sự phát triển của thị trường này.
Mặc dù không có sự phân biệt giới, song để gia nhập và tận dụng được ưu thế của
thị trường, người tham gia cần phải đáp ứng một số các điều kiện của thị trường như
điều kiện về thu nhập hay đất sản xuất mang ra trao đổi, mua bán cần có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Chính những điều kiện này là những rào cản đối với các hộ gia
đình chủ hộ là nữ nếu các gia đình này không đáp ứng được do chịu tác động của thực
trạng bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác
3.2.4. Đặc điểm hộ gia đình Việt Nam ảnh hưởng tới bình đẳng giới trong tiếp cận
đất sản xuất
Dưới góc độ trình độ học vấn của chủ hộ, số liệu cho thấy trình độ học vấn của
các chủ hộ là nữ thấp hơn đáng kể và có ý nghĩa thống kê so với nam giới. Số năm đi
học trung bình của chủ hộ là nữ chỉ là 6,76 năm trong khi con số này của các chủ hộ
nam giới là 7,88 năm. Điều này cũng phù hợp với thực trạng bình đẳng giới trong
lĩnh vực giáo dục phần trên đã phân tích. Việc các chủ hộ là nữ có trình độ học vấn
thấp hơn so với các chủ hộ là nam giới, có thể là trở ngại đối với việc tiếp cận đất đai
của các hộ gia đình đó.
Tính trung bình, các chủ hộ nữ giới có tuổi cao hơn các chủ hộ nam giới. Theo
tính toán, tuổi trung bình của các chủ hộ nữ là 54,81 năm trong khi con số này của
các chủ hộ nam giới là 48,07 năm. Việc các chủ hộ nữ giới tuổi cao so với các chủ hộ
17
nam giới có thể sẽ tác động tích cực tới khả năng tiếp cận đất sản xuất của phụ nữ bởi
nhiều tuổi hơn thường sẽ có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp tốt hơn, nhưng đồng
thời nhiều tuổi cũng sẽ khiến những ảnh hưởng của văn hóa và phong tục tập quán
thiên lệch giới ăn sâu vào trong nhận thức của các chủ hộ nữ hơn tạo ra những rào
cản từ chính phía phụ nữ để nỗ lực tiếp cận đất sản xuất bình đẳng với nam giới
Khi xem xét tình trạng hôn nhân theo giới tính của chủ hộ, trong số các hộ gia đình
do phụ nữ làm chủ hộ, khoảng 40% là hiện có cả vợ và chồng, 46% ở trong tình trạng góa
bụa, trong khi con số này tương ứng của các gia đình có chủ hộ nam giới là 95,4% và
2,5% (tác giả tính toán dựa vào VHLSS 2012). Tình trạng hôn nhân của chủ hộ có ít
nhiều ảnh hưởng tới việc tiếp cận đất đai của các hộ gia đình, nhất là dưới góc độ xem xét
nguồn gốc của đất, bởi những hạn chế của các thể chế chính thức cũng như phi chính thức
hiện hành, con dâu, đặc biệt là khi ở trong tình trạng góa bụa, không được phân chia tài
sản từ phía gia đình nhà chồng
Quy mô của hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới thấp hơn có ý nghĩa thống kê so
với các gia đình chủ hộ nam giới (3,28 người so với 4,1 người). Qui mô hộ nhỏ hơn,
tuổi trung bình của chủ hộ nữ cao hơn khiến cho tỷ lệ phụ thuộc trong các hộ gia đình
chủ hộ nữ cao hơn so với các hộ gia đình chủ hộ nam giới, theo đó tỷ lệ phụ thuộc ở
các hộ gia đình chủ hộ nữ năm 2012 là 16,5%, trong khi con số này ở các hộ gia đình
nam giới chủ hộ là khoảng 10% (tác giả tính toán theo VHLSS 2012), điều này sẽ khiến
các hộ gia đình chủ hộ nữ ít nhiều gặp bất lợi trong quá trình phát triển kinh tế hộ, ngoài
ra đây còn là một yếu tố có thể giải thích được cho khả năng tiếp cận đất sản xuất của hộ
gia đình bởi khi tiến hành giao đất lần đầu cho các hộ sản xuất nông nghiệp vào những
năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, để đảm bảo công bằng, giảm xung đột, Nhà nước đã
giao đất cho các hộ theo chế độ bình quân (quy định diện tích đất nông nghiệp bình
quân đầu người lớn trong hộ và giao diện tích đất theo số lượng người lớn trong hộ).
Xét theo đặc điểm của các hộ gia đình theo các nhóm thu nhập, số liệu năm
2012 cho thấy tình trạng thu nhập của các hộ gia đình có chủ hộ là nữ ít nhiều tốt hơn
so với các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới. Theo đó, có tới 25,4% hộ gia đình có
chủ hộ là nữ nằm trong nhóm thu nhập cao nhất, trong khi con số này ở các hộ gia
đình có chủ hộ là nam giới chỉ là khoảng 20%. Điều kiện kinh tế của hộ phản ánh khả
năng hộ gia đình có thể tham gia vào các giao dịch đất đai nhằm gia tăng khả năng
tiếp cận đất của hộ.
Đặc điểm hoạt động kinh tế có sự khác biệt đáng kể giữa các hộ gia đình có
chủ hộ là nam giới và nữ giới, theo đó chỉ có khoảng 12% hộ gia đình có chủ hộ là nữ
giới hoạt động tự sản xuất nông nghiệp, trong khi có khoảng 26% hộ gia đình có chủ
hộ là nam giới hoạt động sản xuất trong khu vực này. Tuy nhiên, xét riêng đối với các
hộ sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ các gia đình có nguồn thu nhập chính dựa vào nguồn
thu từ hoạt động trồng trọt của các hộ gia đình do nữ giới làm chủ chiếm tới khoảng
18
80%, cao hơn tương đối so với các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới. Việc nguồn thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình vẫn phụ thuộc rất lớn vào hoạt
động trồng trọt, đặc biệt là các hộ gia đình có chủ hộ là nữ, cho thấy các hộ gia đình
chủ hộ nữ là đối tượng dễ bị tổn thương hơn trong các chính sách liên quan đến tiếp
cận đất sản xuất ở Việt Nam.
3.3. Thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam
3.3.1. Bình đẳng giới về khả năng được sử dụng đất để sản xuất
3.3.1.1. Bình đẳng giới về khía cạnh khả năng có đất
Đánh giá khả năng có đất sản xuất dưới góc độ tỷ lệ hộ gia đình có đất sản
xuất, sự khác biệt giữa chủ hộ nam và chủ hộ nữ có không đáng kể, mặc dù sự khác
biệt này là có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Theo đó, tính trung bình cả nước
từ dữ liệu VHLSS 2012, có khoảng 31% hộ gia đình chủ hộ là nam giới hiện đang sử
dụng hay quản lý đất nông nghiệp trong khi con số này của các hộ gia đình do nữ giới
làm chủ hộ là 25%.
Ở khu vực nông thôn, hiện có khoảng 35% hộ gia đình có đất nông nghiệp, và
tính trung bình, tỷ lệ hộ gia đình chủ hộ nữ có đất sản xuất còn cao hơn đôi chút so
với các hộ gia đình chủ hộ nam giới. Điều này thể hiện một điểm sáng về bình đẳng
giới trong tiếp cận đất đai.
Tuy nhiên, nếu so sánh tương quan với tỷ lệ các hộ gia đình do nam giới làm chủ
hộ và nữ giới làm chủ hộ, có thể khẳng định rằng, trên phạm vi cả nước, tồn tại bất bình
đẳng giới trong cơ hội tiếp cận đất sản xuất. Dựa vào bộ số liệu VHLSS 2012, hiện có
khoảng 29% tổng số hộ gia đình ở Việt Nam có sử dụng hoặc quản lý đất nông nghiệp,
trong đó, 6,6% là các hộ gia đình chủ hộ nữ có đất, còn lại 22,7% là các hộ gia đình chủ
hộ nam. Từ đó cũng cho thấy, trong số những hộ gia đình hiện đang quản lý và sử dụng
đất, chỉ có 22,5% có chủ hộ là nữ, còn lại 77,5% thuộc về các chủ hộ là nam giới. Tỷ lệ
hộ gia đình hiện sử dụng hay quản lý đất sản xuất có chủ hộ là nữ thấp hơn tỷ lệ hộ gia
đình có chủ hộ nữ trong tổng số hộ gia đình hiện nay (26,14%).
Kiểm soát các yếu tố tác động khác tới việc tiếp cận đất đai của các hộ gia
đình, mô hình hồi quy Probit cho thấy, tính trên phạm vi cả nước, khi các yếu tố khác
không đổi, xác suất có đất của các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới chỉ cao hơn các hộ
gia đình chủ hộ nữ giới là 0,037 (3,7%). Mức độ chênh lệch về khả năng có đất sản
xuất giữa các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và nữ giới cũng giảm đi khi xem xét
riêng ở khu vực nông thôn, cụ thể mức chênh lệch xác suất có đất sản xuất giữa hộ gia
đình chủ hộ nam và chủ hộ nữ chỉ còn là 0,023 (2,3%)
Kết quả ước lượng phân rã Oaxaca – Blinder (bảng 3.8) cũng cho thấy có sự
chênh lệch trong khả năng có được đất sản xuất giữa các hộ gia đình có chủ hộ là nam
giới và nữ giới trên phạm vi cả nước, theo đó tỷ lệ hộ gia đình chủ hộ nữ có đất sản xuất
thấp hơn 5,1 điểm phần trăm so với các hộ gia đình chủ hộ nam giới.
19
Kết quả cũng chỉ ra khoảng cách giới trong khả năng có đất sản xuất của các hộ
gia đình chủ yếu do các yếu tố quan sát được (E +EC chiếm 93,3% trong tổng sự
khác biệt). Điều này là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Bên cạnh đó, mặc
dù kết quả định lượng các yếu tố không quan sát được (C) ảnh hưởng đến khả năng có
đất sản xuất không có ý nghĩa thống kê, song giá trị của hệ số chặn có giá trị tương đối
lớn (-0,32) trong khi tổng ảnh hưởng của các yếu tố không quan sát được chỉ có -0,003,
điều này ngụ ý rằng không phải những phân biệt giới trong các lĩnh vực gắn với đặc
điểm của hộ gia đình, mà chính là những định kiến giới ăn sâu trong nhận thức của mỗi
người cả nam giới và nữ giới là rào cản đối với việc tiếp cận đất của các hộ gia đình chủ
hộ nữ, từ đó gây ra bất bình đẳng giới trong khả năng có đất sản xuất.
Sự khác biệt giữa hộ gia đình chủ hộ nam và chủ hộ nữ trong tỷ lệ có đất sản
xuất có sự khác biệt theo vùng, cụ thể các vùng phía nam có khoảng cách giới cao
hơn các vùng phía bắc. Đặc biệt ở khu vực miền núi phía bắc, các hộ gia đình chủ hộ
nam lại có tỷ lệ có đất sản xuất thấp hơn so với các chủ hộ nữ, trong khi ở vùng này
chủ yếu là các hộ gia đình chủ hộ nam. Thực trạng tương tự cũng diễn ra đối với
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số.
3.3.1.2. Bình đẳng giới về nguồn gốc đất
Kết quả tính toán từ dữ liệu VARHS cho thấy, mặc dù cơ cấu đất theo nguồn
gốc đất sản xuất của các hộ gia đình có sự tương đồng giữa các chủ hộ nam và nữ, tuy
nhiên, trong tất cả các hình thức phân bổ đất, tỷ lệ hộ gia đình có chủ hộ nữ đều thấp hơn
so với các gia đình chủ hộ nam (tỷ lệ hộ gia đình chủ hộ nữ chỉ chiếm trung bình khoảng
17% trong tổng số hộ gia đình trong mỗi hình thức phân bổ đất). Trong đó, riêng hình
thức có đất thông qua kênh thừa kế, tỷ lệ của các hộ gia đình chủ hộ nữ giới chỉ bằng 1/7
so với các hộ gia đình chủ hộ nam
Khi xem xét theo vùng, cách thức có đất của các hộ gia đình có sự khác biệt
đáng kể giữa các tỉnh điều tra, mặc dù vậy cơ cấu đất sản xuất có sự khá tương đồng
giữa các giữa chủ hộ nam và chủ hộ nữ, cụ thể các hộ gia đình tại các tỉnh đồng bằng
miền Bắc và duyên hải miền trung phần lớn có được đất sản xuất thông qua Nhà nước
hay xã giao, trong khi các tỉnh Tây nguyên lại có tỷ lệ lớn các mảnh đất có được
thông qua mua bán hay thuê mướn trên thị trường. Đặc biệt, ở các tỉnh miền núi phía
bắc như Lai Châu, Điện Biên có tới gần 70% đất sản xuất của các hộ có được là
thông qua khai hoang và lấn chiếm. Tuy nhiên, tỷ lệ phân chia cho các chủ hộ nữ theo
tất cả các nguồn gốc đất đều thấp ở tất cả các tỉnh (trung bình chỉ đạt khoảng 15 –
20% ở mỗi hình thức phân bổ đất), nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa các tỉnh. Theo
tính toán của tác giả dựa vào VARHS, các tỉnh vùng đồng bằng, có tỷ lệ dân số dân
tộc Kinh cao thì tỷ lệ phân bổ cho các hộ gia đình chủ hộ nữ cao hơn so với các tỉnh
miền núi phía Bắc hay Tây nguyên. Điều này một lần nữa cho thấy ảnh hưởng của
20
các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán tới khả năng có được đất sản xuất của các hộ
gia đình theo giới tính của chủ hộ là khá lớn.
3.3.1.3. Bình đẳng giới về bảo đảm quyền sử dụng đất
Việc có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa các hộ có chủ hộ là nam giới và
các hộ có chủ hộ là nữ giới cũng có sự khác nhau một cách đáng kể, với thực trạng là tỷ
lệ đất có sổ đỏ ở các hộ gia đình do nữ giới làm chủ cao hơn so với các hộ gia định do
nam giới làm chủ. Tuy nhiên, khi nhìn vào cơ cấu người đứng tên trong sổ đỏ số liệu
điều tra cho thấy, các hộ gia đình có chủ hộ nữ, tỷ lệ chủ hộ đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thấp hơn với các hộ gia đình chủ hộ nam, trong khi 8,6% sổ đỏ
của các hộ gia đình chủ hộ nữ đứng tên chồng của chủ hộ, tỷ lệ này ở các gia đình chủ
hộ nam giới chỉ là 2,8%. Các hộ gia đình chủ hộ nữ còn dễ bị tổn thương trong việc tiếp
cận đất đai khi có tới 19,5% hộ gia đình có chủ hộ là nữ có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên người khác (không có mối quan hệ họ hàng với gia đình).
3.3.2. Bình đẳng giới về khả năng sử dụng đất sản xuất để thu lợi
3.3.2.1. Bình đẳng giới về quy mô đất sản xuất sử dụng
Trong khía cạnh này, hiện nay ở Việt Nam còn tồn tại bất bình đẳng giới giữa
các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và chủ hộ là nữ giới, theo đó các hộ gia đình có
chủ hộ là nam giới có diện tích đất sản xuất lớn hơn đáng kể và có ý nghĩa thống kê
so với các hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới.
Dựa vào VHLSS 2012, tính trung bình cả nước, với các hộ hiện đang sử dụng
đất sản xuất, tổng diện tích đất sử dụng của các hộ gia đình có chủ hộ là nữ chỉ đạt
3.434,75 m2, thấp hơn mức bình quân của cả nước và bằng khoảng 58% so với diện
tích đất trung bình của các hộ gia đình có chủ hộ nam giới.
Kiểm soát các yếu tố tác động, diện tích đất bình quân đầu người của các hộ
gia đình nam giới làm chủ hộ cao hơn khoảng 28% so với các hộ gia đình chủ hộ nữ,
khoảng cách này giảm xuống chỉ còn khoảng 17% khi áp dụng thủ tục hồi quy
Heckman 2 bước. Kết quả phân rã Oaxaca cho thấy các yếu tố có thể quan sát được
có xu hướng thu hẹp khoảng cách giới, trong khi các yếu tố không quan sát được có
ảnh hưởng lớn và có xu hướng nới rộng khoảng cách về diện tích đất bình quân giữa
các hộ gia đình chủ hộ nam và nữ.
Bên cạnh diện tích đất sản xuất trung bình nhỏ hơn, có tới 60% các hộ gia đình do nữ
giới làm chủ hộ có diện tích đất nhỏ hơn 0,2 ha, thậm chí 22% hộ có diện tích nhỏ hơn 500
m2, con số này của các hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ tương ứng là 45% và 10%.
Thêm vào đó, tốc độ gia tăng quy mô đất sản xuất của các hộ gia đình có chủ
hộ là nam giới cũng cao hơn tương đối so với các hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới
(tốc độ tăng quy mô đất sản xuất giai đoạn 2010 – 2012 của chủ hộ nam giới là 8,3%,
con số tương ứng của chủ hộ nữ giới chỉ đạt 5,7% - tác giả tính toán dựa vào VHLSS
21
2010, 2012), do đó nếu cứ theo xu thế này, khoảng cách giới trong nắm giữ đất đai sẽ
ngày càng mở rộng ra
Khoảng cách giới trong quy mô diện tích đất nông nghiệp hiện đang sử dụng
của các hộ gia đình cũng có sự khác biệt theo vùng, cụ thể khoảng cách giới về diện
tích đất sản xuất hiện đang nắm giữ của các hộ gia đình lớn nhất ở khu vực
TDMNPB, trong khi khu vực Tây Nguyên hầu như không có sự khác biệt giới trong
diện tích đất nắm giữ của các hộ gia đình
3.3.2.2. Bình đẳng giới về năng suất đất
Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình bình quân/ ha đất nông
nghiệp có sự khác biệt đáng kể và có ý nghĩa thống kê giữa chủ hộ nam giới và chủ
hộ nữ, theo đó thu nhập bình quân của các hộ gia đình có chủ hộ nam giới đạt hơn 58
triệu đồng/ ha trong khi thu nhập bình quân của các hộ gia đình do nữ giới làm chủ
chỉ đạt khoảng 27 triệu đồng/ ha đất sản xuất (tính toán của tác giả dựa vào VHLSS
2012). Bên cạnh sự bất lợi trong thu nhập từ nông nghiệp của các hộ gia đình chủ hộ
là nữ giới do diện tích đất sản xuất nhỏ hơn, khoảng cách giới trong thu nhập nông
nghiệp bình quân giữa các hộ gia đình còn được lý giải thông qua sự khác biệt trong
hoạt động sản xuất của các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và chủ hộ là nữ giới
3.4. Đánh giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam
3.4.1. Những khía cạnh tích cực và nguyên nhân
Thứ nhất, khả năng có đất sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình có sự
khác biệt không đáng kể giữa các hộ có chủ hộ là nam giới và nữ giới
Thứ hai, khả năng có đất sản xuất là tương đối bình đẳng ở khu vực nông thôn,
khu vực sản xuất nông nghiệp của nền kinh tế.
Kết quả trên có được một phần là nhờ các đổi mới trong chính sách đất nông
nghiệp của Việt Nam kể từ đổi mới đến nay, cũng như các chính sách pháp luật đảm bảo
quyền bình đẳng giới. Ngoài ra, Kết quả ước lượng từ mô hình nghiên cứu định lượng đã
chỉ ra rằng việc các hộ gia đình chủ hộ là nữ có các hoạt động sản xuất và nguồn thu
nhập ngoài hoạt động nông nghiệp cũng góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong khả
năng tiếp cận đất sản xuất các hộ gia đình.
3.4.2. Những khía cạnh hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, các hộ gia đình chủ hộ là nữ hiện đang nắm giữ và quản lý đất đai
chiếm tỷ lệ thấp
Thứ hai, bất bình đẳng giới tồn tại trong tất cả các hình thức tiếp cận với đất sản
xuất, đặc biệt các hộ gia đình có chủ hộ nữ gặp bất lợi nhất trong kênh thừa kế từ gia đình
Thứ ba, Các chủ hộ nữ gặp bất lợi lớn hơn tương đối trong việc được bảo đảm
quyền sử dụng đất so với nam giới, điều này khiến các chủ hộ nữ dễ bị tổn thương
hơn trong khả năng được sử dụng đất cho sản xuất.
22
Thứ tư, quy mô đất sản xuất do các gia đình chủ hộ là nữ đang sử dụng nhỏ
hơn nhiều so với các gia đình có chủ hộ là nam
Thứ năm, bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai diễn ra dưới khía cạnh năng
suất đất.
Thứ sáu, Khoảng cách giới với lợi thế thuộc về các gia đình chủ hộ nam giới
trong tiếp cận đất sản xuất có sự khác biệt theo vùng và dân tộc. Đặc biệt có xu hướng
“ngược” trong khả năng có đất sản xuất ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc.
Các hạn chế tồn tại trên xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đó là các nguyên nhân liên quan đến các thể chế chính thức
Thứ hai, các nguyên nhân liên quan đến thể chế phi chính thức
Thứ ba, nguyên nhân thuộc về quá trình tổ chức thực hiện các chính sách pháp
luật hướng tới việc thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
Thứ tư, nguyên nhân liên quan đến thị trường đất đai
Thứ năm, nguyên nhân tự thân của phụ nữ
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
CẢI THIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG TIẾP CẬN ĐẤT SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ảnh hưởng tới việc thực hiện bình đẳng giới
trong tiếp cận đất sản xuất
Bối cảnh quốc tế và trong nước có những yếu tố thuận lợi đối với việc thực
hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ví dụ, các văn bản quốc tế và chính
sách pháp luật trong nước về bình đẳng giới đã tương đối hoàn thiện, bình đẳng giới
nói chung đã đạt được những thành tựu nhất định cả trong nước và quốc tế; ở cả hai
phạm vi này đều đã có các cơ quan chuyên trách về bình đẳng giới... Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn nhiều yếu tố khó khăn như biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế thế giới
trên phạm vi toàn cầu, sự đa dạng dân tộc và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với
tốc độ nhanh của Việt Nam.
4.2. Quan điểm định hướng cải thiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
Thứ nhất: Thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai là một “mắt xích” quan
trọng nhất trong quá trình đạt được bình đẳng giới nói chung và giảm nghèo bền vững.
Thứ hai: Thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai phải tiến hành đồng
bộ với việc tăng cường bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác
Thứ ba: Thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai gắn liền với mở rộng
cơ hội tiếp cận đất sản xuất chung cho cả hai giới
Thứ tư: Lấy hiệu quả sử dụng đất và nâng cao thu nhập hộ gia đình là dấu hiệu
hoàn thiện các chính sách thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
23
Thứ năm: Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai phải chú
trọng yếu tố đặc trưng vùng miền và văn hóa
Thứ sáu: Mục tiêu cải thiện tình trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản
xuất trong thời gian tới trước hết là tập trung vào khắc phục những điểm bất cập đang
trở nên phổ biến hiện nay ở Việt Nam
4.3. Khuyến nghị giải pháp tăng cường bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
4.3.1. Hoàn thiện thể chế chính thức đảm bảo bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai
- Luật Đất đai và luật Dân sự được điều chỉnh theo hướng đảm bảo quyền bình
đẳng giới trong tiếp cận đất đai
- Các văn bản dưới luật được hoàn thiện theo hướng ban hành các qui định chặt
chẽ đảm bảo quyền bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai
4.3.2. Đổi mới công tác truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội về quyền bình
đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
- Xác định đúng nhóm đối tượng cần truyền thông
- Xây dựng nội dung truyền thông phù hợp với đối tượng
- Cách thức truyền thông phù hợp với nội dung và đối tượng cần truyền thông
- Thời điểm thực hiện hoạt động truyền thông phù hợp với nội dung và đối
tượng cần truyền thông
- Đảm bảo ngân sách thực hiện hoạt động truyền thông
4.3.3. Nâng cao năng lực tự thân của phụ nữ
- Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật và các dịch vụ pháp lý liên quan đến
đất đai cũng như quyền bình đẳng giới cho phụ nữ
- Tiếp tục thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục, đặc biệt ở các cấp học cao
- Khuyến khích phụ nữ tham gia đào tạo nghề, chuyển đổi cơ cấu việc làm
- Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật sản xuất cho các nữ làm chủ hộ gia đình
- Có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các chủ hộ nữ quản lý đất
tham gia cánh đồng mẫu lớn
4.3.4. Tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá thực hiện các chính sách liên quan
đến quyền bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
4.3.5. Thúc đẩy hoạt động của thị trường đất đai
- Cải cách thủ tục hành chính quản lý đất nhằm kích hoạt và thúc đẩy hoạt động có
hiệu quả của thị trường đất nông nghiệp chính thức ở khu vực nông thôn.
- Cần có cơ chế khuyến khích sự phát triển của thị trường thuê/ cho thuê đất
sản xuất hơn là thị trường mua bán quyền sử dụng đất
- Cân nhắc việc dỡ bỏ chính sách hạn điền đối với việc sử dụng đất nông nghiệp
24
KẾT LUẬN
Luận án, với đề tài “Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam” đã
hệ thống hóa được các tài liệu nghiên cứu trước đó trong lĩnh vực để đưa ra khung lý
thuyết bao gồm nội dung, các khía cạnh và tiêu chí đánh giá, các yếu tố tác động tới
bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai với tư cách là yếu tố nguồn lực sản xuất. Đồng
thời, dựa trên khung lý thuyết đó, với việc sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu định
lượng thông qua kết hợp phương pháp thống kê mô tả và mô hình kinh tế lượng dựa
trên nguồn dữ liệu thứ cấp điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) để phân
tích hiện trạng, cũng như chỉ ra các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận
đất đai ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách cải thiện
bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai thời gian tới.
Tuy luận án đã đạt được những mục tiêu nghiên cứu đề ra, song tác giả luận án
cho rằng, vì nhưng lý do cả khách quan và chủ quan, luận án còn những điểm hạn chế
và bất cập:
(i) Các kết luận của luận án về thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản
xuất ở Việt Nam được đưa ra trên cơ sở xem xét sự khác biệt trong tiếp cận đất đai
của các hộ gia đình theo giới tính của chủ hộ, điều này không phản ánh được hết
những khác biệt trong cơ hội tiếp cận của phụ nữ và nam giới nói chung và đồng thời
cũng che lấp sự phức tạp của cac mối quan hệ giới tính bên trong hộ.
(ii) Bên cạnh đó, dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) mặc dù là
nguồn dữ liệu có chất lượng, mang tính đại diện cả nước, song dữ liệu này không
cung cấp các thông tin chi tiết, do đó, dựa vào bộ số liệu này, luận án chưa thực hiện
được đầy đủ các nội dung phân tích để đánh giá toàn diện và sâu hơn các khía cạnh
tiếp cận đất sản xuất của các hộ gia đình.
(iii) Việc sử dụng duy nhất cách tiếp cận phân tích định lượng cũng hạn chế
việc đưa ra được những minh chứng cụ thể mang tính thực tiễn khi giải thích các yếu
tố ảnh hưởng tới khía cạnh nghiên cứu.
(iv) Nghiên cứu mới dừng ở việc đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp
cận đất sản xuất và các nguyên nhân đây ra bất bình đẳng giới trong lĩnh vực này mà
chưa đánh giá tác động của bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất tới thu nhập
của hộ gia đình cũng như các khía cạnh phúc lợi khác.
Những hạn chế trên đây sẽ là chủ đề cho hướng nghiên cứu tiếp theo của tác
giả trong quá trình theo đuổi hướng nghiên cứu về bình đẳng giới- một hướng nghiên
cứu ngày càng được quan tâm cả về lý luận và thực tiễn của lĩnh vực Kinh tế phát
triển. Tác giả rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp và sự giúp đỡ tích cực của
các chuyên gia, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước để hoàn thiện và phát triển
thêm nghiên cứu của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- la_nguyenquynhhoa_tt_4971.pdf