Toàn bộ quá trình nghiên cứu của luận án là quá trình chứng minh các giả
thuyết nghiên cứu hay trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Đối với câu hỏi thứ nhất: chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các
nước common law và civil law được hình thành và phát triển dựa trên những cơ sở
lý thuyết nào? Kết quả nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu này có một số
điểm nổi bật sau:
Một là, nội dung của luận án đã xác định được bản chất, đặc trưng của chức
năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các nước common law và civil law: (i)
bản chất của chức năng tạo lập án lệ của tòa án là sáng tạo pháp luật; (ii) hoạt động
áp dụng án lệ của tòa án dựa vào giá trị của án lệ và thứ bậc hệ thống tòa án chứ
không dựa vào hiệu lực pháp lý của án lệ; (iii) đưa ra khái niệm “chức năng tạo lập
án lệ của tòa án” và “chức năng áp dụng án lệ của tòa án”.
Hai là, kết quả nghiên cứu của luận án cũng đã hệ thống hóa được các vấn đề
cơ bản về của chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án nhằm tạo ra một bức
tranh tổng thể về hai chức năng của tòa án: (i) các vấn đề cơ bản về chức năng tạo
lập án lệ của tòa án: thẩm quyền tạo lập án lệ, phạm vi tạo lập án lệ, phương pháp
lập luận tạo lập án lệ, công bố án lệ; (ii) các vấn đề cơ bản về chức năng áp dụng
án lệ của tòa án: nghĩa vụ tuân theo án lệ, vấn đề không áp dụng án lệ, xác định yếu
tố bắt buộc của án lệ; xác định hiệu lực thời gian của án lệ.
Ba là, luận án chỉ ra những khuynh hướng phát triển cơ bản của các chức
năng này của tòa án ở các nước common law và civil law: (i) đối với chức tạo lập
án lệ, khuynh hướng phát triển là cần bảo đảm yếu tố tư pháp “đầu ra” hay chất
lượng các bản án, quyết định (án lệ); (ii) đối với chức năng áp dụng án lệ của tòa
án, nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở các nước common law ban đầu là xuất
phát từ giá trị của án lệ (trước thế kỷ XIX), đến tuân theo án lệ xuất phát từ giá trị
pháp lý do bị ảnh hưởng bởi thuyết thực chứng pháp lý (từ thế kỷ XIX đến nửa đầu
thế kỷ XX), sau đó có khuynh hướng kết hợp tuân theo án lệ bắt nguồn từ giá trị
pháp lý và giá trị của án lệ; (iii) khuynh hướng xác định yếu tố bắt buộc của án lệ
dựa trên quan điểm cấu trúc nhiều tầng của pháp luật; (iv) khuynh hướng xác định
hiệu lực bất hồi tố của án lệ trong từng trường hợp cụ thể (Non - Retroactivity).
39 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 659 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC
năm 2015 ban hành. Vì vậy, đến nay, có rất ít các công trình nghiên cứu đánh giá
và kiến nghị có liên quan đến các quy định của pháp luật về chức năng tạo lập và áp
dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam; Thứ ba, sau khi có các văn bản quy phạm pháp
luật quy định rõ ràng về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam,
mặc dù có nhiều vấn đề cụ thể đặt ra nhưng chưa được nghiên cứu và giải quyết
một cách đầy đủ; Thứ tư, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu và
đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về chức năng tạo lập và áp dụng
án lệ ở Việt Nam một cách toàn diện và hệ thống.
Qua đánh giá và phân tích tổng quan về tình hình nghiên cứu như trên, tác giả
nhận thấy rằng, cần thiết phải phải xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề lý luận của
chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án. Trên cơ sở đó, có thể đánh giá các
quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến chức năng tạo lập và áp dụng án lệ
của tòa án cũng thực tiễn thực hiện các chức năng này của tòa án ở Việt Nam nhằm
đề xuất hướng hoàn thiện.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.1.Cơ sở lý thuyết
1.2.1.1. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
a) Câu hỏi thứ nhất: chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các
nước common law và civil law được hình thành và phát triển dựa trên
những cơ sở lý thuyết nào?
15
Các câu hỏi chi tiết và giả thuyết nghiên cứu là:
a1) Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án là gì, có những điểm
khác biệt nào với hoạt động tạo lập và áp dụng văn bản pháp luật và tại sao
tòa án cần thực hiện các chức năng này?
Giả thuyết nghiên cứu cho câu hỏi này là: chức năng tạo lập và áp dụng án
lệ của tòa án có bản chất và đặc điểm khác với hoạt động tạo lập và áp dụng
áp dụng văn bản pháp luật. Tòa án cần thực hiện chức năng tạo lập và áp dụng
án lệ nhằm bảo đảm hệ thống pháp luật thống nhất, ổn định, bảo đảm sự công
bằng và bình đẳng cho các chủ thể khác nhau trong xã hội, đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền.
a2) Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các nước common
law và civil law được thực hiện như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu cho câu hỏi này là: chức năng tạo lập và áp dụng án
lệ của tòa án ở các nước common law và civil law được thực hiện dựa trên
những nguyên tắc và triết lý nhất định.
b) Câu hỏi thứ 2: thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng tạo
lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam hiện nay có phù hợp và hiệu
quả không?
Các câu hỏi chi tiết và giả thuyết nghiên cứu là:
b1) Pháp luật quy định về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở
Việt Nam có phù hợp không?
Giả thuyết nghiên cứu cho câu hỏi này là: pháp luật hiện hành quy định về
chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam vẫn còn những bất
cập, hạn chế.
b2) Thực tiễn thực hiện chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở
Việt Nam có hiệu quả không?
Giả thuyết nghiên cứu cho câu hỏi này là: tòa án thực hiện chức năng tạo
lập và áp dụng án lệ vẫn chưa hiệu quả bởi nhiều quy định pháp luật có liên quan
chưa phù hợp cũng như chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp cụ thể cần thiết.
c) Câu hỏi thứ 3, hoàn thiện các quy định về chức năng tạo lập và áp dụng
án lệ của tòa án ở Việt Nam dựa trên những cơ sở nào? Để pháp luật
trong lĩnh vực này thực hiện tốt trong thực tiễn cần sửa đổi, bổ sung
16
những nội dung nào? Để nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng này
cần thực hiện cách biện pháp cụ thể nào?
Giả thuyết nghiên cứu cho câu hỏi này là: có thể tiếp thu kinh nghiệm từ
các nước common law và civil law để sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật hiện hành về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt
Nam cũng như đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện các chức năng này của tòa án.
1.2.1.2. Lý thuyết nghiên cứu
Các lý thuyết nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận án để nghiên cứu
chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án bao gồm:
Thứ nhất, học thuyết phân quyền nhằm xác định bản chất, vai trò và phạm vi
thực hiện chức năng tạo lập án lệ của tòa án;
Thứ hai, học thuyết án lệ (doctrine of stare decisis) ở các nước common law
và học thuyết tiền lệ tư pháp (jurisprudence constante) ở các nước civil law nhằm
xác định bản chất, nội dung các nguyên tắc cơ bản của chức năng tạo lập và áp
dụng án lệ của tòa án.
Thứ ba, học thuyết thực chứng pháp lý (legal positivism), học thuyết giải
thích pháp luật của Dworkin và chủ nghĩa pháp luật hiện thực (legal realism) làm
cở sở luận để lý giải và xác định nội dung các vấn đề cơ bản về chức năng tạo lập
và áp dụng án lệ của tòa án.
Thứ tư, học thuyết tiếp nhận pháp luật nước ngoài (legal transplant) làm cơ sở
để kiến nghị đối với chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam.
1.2.2.Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, tác giả vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận. Đây là phương pháp
luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá một
cách khách quan và toàn diện về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án. Tác
giả cũng dựa trên phương pháp luận là học thuyết tiếp nhận pháp luật nước ngoài
(legal transplant theory) để đưa ra các kiến nghị trên cơ sở tiếp nhận giá trị phù hợp
ở nước ngoài vào việc xây dựng và hoàn thiện chức năng tạo lập và áp dụng án lệ
của tòa án ở Việt Nam hiện nay.
17
Tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể chủ yếu trong luận
án như sau: Một là, phương pháp phân tích và tổng hợp; Hai là, phương pháp
nghiên cứu so sánh. Có thể nói, phương pháp nghiên cứu so sánh là phương pháp
nghiên cứu chủ yếu và chủ đạo trong luận án nhằm so sánh chức năng năng tạo lập
và áp dụng án lệ của tòa án ở các nước common law và các nước civil law.
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, tác giả kết hợp nhiều phương pháp trong
từng phần của luận án. Tuy nhiên, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp
là các phương pháp nghiên cứu đóng vai trò chủ đạo trong luận án này. Cụ thể hơn:
Ở chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và
phương pháp so sánh để đưa ra những vấn đề lý luận của chức năng tạo lập và áp
dụng án lệ của tòa án. Nội dung của mỗi vấn đề cơ bản của chức năng tạo lập và áp
dụng án lệ của tòa án đều được nghiên cứu dựa trên phương pháp so sánh giữa các
nước common law với các nước civil law.
Ở chương 3 và chương 4 tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và
phương pháp so sánh. Trên cơ sở tổng hợp được các vấn đề cơ bản về chức năng
tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở cá nước common law và civil law, tác giả dựa
vào các vấn đề cơ bản này để phân tích và đánh giá chức năng tạo lập và áp dụng
án lệ của tòa án ở Việt Nam. Mục đích cuối cùng của việc sử dụng phương pháp so
sánh là nhằm chỉ ra những điểm khác biệt của chức năng tạo lập và áp dụng án lệ
của tòa án ở Việt Nam so với các nước trên thế giới, nhưng những điểm khác biệt
này không hợp lý nhằm đưa ra các kiến nghị cho Việt Nam.
CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG TẠO LẬP VÀ
ÁP DỤNG ÁN LỆ CỦA TÕA ÁN
2.1. Khái niệm án lệ, vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật common law
và civil law
2.1.1. Khái niệm án lệ
Tác giả luận án sử dụng khái niệm án lệ trong bài viết của phần giới thiệu công
trình “Interpreting Precedents” như sau: “Án lệ là các quyết định trước được sử
dụng làm khuôn mẫu cho các vụ việc tương tự về sau” bởi khái niệm này mang tính
bao quát nhất phù hợp với cả hai truyền thống pháp luật common law và civil law.
Theo khái niệm này, có thể thấy án lệ có một số đặc điểm sau: (i) án lệ là một loại
tiền lệ do tòa án tạo ra; (ii) án lệ thường tồn tại dưới hình thức các bản án, quyết
định của tòa án; (iii) án lệ là các bản án, quyết định có chứa giải pháp pháp lý mới
18
làm khuôn mẫu hay chuẩn mực để áp dụng giải quyết cho các vụ việc tương tự về
sau.
2.1.2. Vai trò của nguồn luật án lệ
Tác giả luận án khẳng định mặc dù có sự khác biệt trong quan niệm về vị trí,
vai trò của nguồn luật án lệ: án lệ là nguồn luật phái sinh, không bắt buộc chính luật
(ở các civil law) hay là nguồn luật bắt buộc (ở các nước common law). Tuy nhiên,
cả hai truyền thống pháp luật này đều sử dụng nguồn luật án lệ và xem án lệ có vị
trí thấp hơn nguồn văn bản pháp luật.
2.2. Chức năng tạo lập án lệ của tòa án
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm
2.2.1.1. Khái niệm
Trên cơ sở so sánh các nguyên tắc, học thuyết khác nhau về chức năng tạo lập
án lệ của tòa án ở các nước common law và civil law, tác giả luận án đã rút ra bản
chất của chức năng này và đưa ra khái niệm như sau: chức năng tạo lập án lệ của
tòa án là phương diện hoạt động nhằm tạo ra các khuôn mẫu, chuẩn mực từ các
bản án, quyết định làm cơ sở để giải quyết cho các vụ việc tương tự về sau.
2.2.1.2. Đặc điểm
Tác giả luận án đã tổng hợp và phân tích các đặc điểm của chức năng tạo lập
án lệ của tòa án như sau: (i) chức năng tạo lập án lệ của tòa án thường gắn liền với
chức năng xét xử - giải quyết các vụ việc cụ thể đặt ra trước tòa án; (ii) chức năng
tạo lập án lệ của tòa án bị giới hạn trong phạm vi các vấn đề pháp lý mới phát sinh
chưa được văn bản pháp luật quy định, hoặc có quy định nhưng chưa cụ thể có thể
gây ra nhiều cách hiểu khác nhau, hoặc có quy định nhưng cứng nhắc; (iii) chức
năng tạo lập án lệ của tòa án thường không được quy định cụ thể, rõ ràng về trình
tự, thủ tục và thẩm quyền trong văn bản pháp luật; (iv) chức năng tạo lập án lệ của
tòa án thường tạo ra các quy tắc, nguyên tắc pháp lý có tính chất ngầm định.
2.2.2. Cơ sở lý luận về vai trò tạo lập án lệ của tòa án
Phần này tập trung lý giải vì tòa án cần thực hiện chức năng tạo lập án lệ. Tòa
án cần tạo lập án lệ vì các lý do sau: (i) văn bản pháp luật không thể dự liệu hết tất
cả các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật nên tòa án cần thiết phải tạo
lập án lệ hay sáng tạo pháp luật để lấp các lỗ hổng của văn bản pháp luật; (ii) các
điều khoản trong văn bản pháp luật mang tính khái quát dẫn đến nhiều cách hiểu
19
khác nhau nên tòa án cần tạo lập án lệ để giải thích cụ thể các điều khoản đó nhằm
bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất; (iii) các điều khoản trong văn bản pháp luật
hoặc án lệ mang tính cứng nhắc hoặc không còn phù hợp nên tòa án tạo lập án lệ
nhằm bảo đảm tính hợp lý, hợp lẽ công bằng; (iv) ở các nước common law, lập luận
cho rằng sự cần thiết trao cho tòa án chức năng tạo lập án lệ bởi những ưu điểm của
nguồn luật án lệ so với nguồn văn bản pháp luật.
2.2.3. Các vấn đề cơ bản về chức năng tạo lập án lệ của tòa án
2.2.3.1. Thẩm quyền tạo lập án lệ
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i)
xác định thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án thường dựa vào các căn cứ khác nhau
như truyền thống pháp luật, hình thức cấu trúc nhà nước ..vv. chứ không có văn bản
pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này; (ii) thông thường quyền năng tạo lập án lệ
của tòa án gắn liền với chức năng xét xử của tòa án; (iii) thông thường chỉ có tòa án
tối cao và các tòa án cấp cao (tòa án phúc thẩm) mới có thẩm quyền tạo lập án lệ
còn các tòa án sơ thẩm không có thẩm quyền tạo lập án lệ; (iv) khi đề cập đến vấn
đề thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án nghĩa là đề cập đến quyền năng của tòa án
trong việc tạo ra loại án lệ bắt buộc.
2.2.3.2. Phạm vi tạo lập án lệ của tòa án
Trên cơ sở nghiên cứu về phạm vi tạo lập án lệ của tòa án ở các nước
common law và civil law, tác giả luận án có một số nhận xét và đánh giá như sau:
(i) ở hầu hết các nước common law và civil law mặc dù đều thừa nhận chức năng
sáng tạo pháp luật hay tạo lập án lệ là cần thiết nhằm bảo đảm công lý nhưng đều
cho rằng cần phải giới hạn phạm vi “làm luật” của tòa án nhằm bảo đảm nguyên tắc
phân quyền; (ii) khác với tòa án ở các nước civil law, tòa án ở các nước common
law còn tạo lập án lệ trong những lĩnh vực pháp luật được điều chỉnh chủ yếu bởi
nguồn luật án lệ.
2.2.3.3. Phương pháp lập luận tạo lập án lệ của tòa án
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i)
phương pháp lập luận tạo lập án lệ được hình thành từ văn hóa pháp luật, truyền
thống pháp luật..v.v. Tòa án ở các nước thuộc các truyền thống pháp luật khác nhau
có thể tiếp thu phương pháp lập luận tạo lập án lệ lẫn nhau nhằm nâng cao chất
20
lượng của án lệ; (ii) phương pháp lập luận tạo lập án lệ là một trong những yếu tố
quan trọng và quyết định trực tiếp đến chất lượng của án lệ.
2.2.3.4. Vấn đề công bố án lệ
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i) ở
các nước sử dụng án lệ thường không có văn bản pháp luật định cho các vấn đề liên
quan công bố án lệ; (ii) ở các quốc gia sử dụng án lệ thường có bộ phận hay tổ chức
chuyên trách lựa chọn, công bố án lệ; (iii) về nội dung công bố, ở hầu hết các quốc
gia thường công bố nội dung bản án, quyết định của tòa án có gắn liền với các tình
tiết của vụ việc; (iv) mục đích công bố án lệ chủ yếu nhằm đưa nội dung án lệ đến
công chúng chứ không phải xác định hiệu lực pháp lý của án lệ.
2.3. Chức năng áp dụng án lệ của tòa án
2.3.1. Khái niệm, đặc điểm
2.3.1.1. Khái niệm
Trên cơ sở so sánh các nguyên tắc, học thuyết khác nhau về chức năng áp
dụng án lệ của tòa án ở các nước common law và civil law, tác giả luận án đã rút ra
bản chất của chức năng này và đưa ra khái niệm như sau: chức năng áp dụng án lệ
của tòa án là phương diện hoạt động nhằm áp dụng các khuôn mẫu, chuẩn mực
trong các bản án, quyết định của tòa án để giải quyết vụ việc có tình tiết tương tự
đang đặt ra.
2.3.1.2. Đặc điểm
Tác giả luận đã tổng hợp và phân tích các đặc điểm của chức năng áp dụng án
lệ của tòa án như sau: (i) hoạt động áp dụng án lệ của tòa án thường được thực hiện
theo yêu cầu của nguyên tắc tương tự; (ii) hoạt động áp dụng án lệ của tòa án dựa
vào giá trị của án lệ và thứ bậc hệ thống tòa án; (iii) hoạt động áp dụng án lệ của tòa
án có tính chất mềm dẻo, linh hoạt hơn hoạt động áp dụng văn bản pháp luật.
2.3.2. Cơ sở lý luận về vai trò áp dụng án lệ của tòa án
Nhìn chung, lý do tòa án cần thực chức năng áp dụng án lệ ở các nước
common law lẫn các nước civil law cơ bản là giống nhau bao gồm: (i) tòa án tuân
theo án lệ nhằm đạt được sự nhất quán và sự thống nhất của pháp luật; (ii) tòa án
tuân theo án lệ nhằm đạt được sự công bằng và bình đẳng trước pháp luật; (iii) tòa
án tuân theo án lệ nhằm bảo đảm được sự ổn định và sự chắc chắn của pháp luật.
21
2.3.3. Các vấn đề cơ bản về chức năng áp dụng án lệ của tòa án
2.3.3.1. Nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i)
mặc dù nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở các nước common law (nghĩa vụ chính
thức - de jure obligation) và ở các nước civil law (nghĩa vụ thực tế - de facto
obligation) nhưng xét về bản chất thì các tòa án ở cả hai truyền thống pháp luật đều
bắt buộc tuân theo án lệ nhằm bảo sự công bằng và áp dụng pháp luật thống nhất;
(ii) nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở các nước common law dựa vào thứ bậc
của hệ thống tòa án nên các án lệ của tòa phúc thẩm trung gian có giá trị bắt buộc
đối với các tòa án cấp dưới, nhưng nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở các nước
civil law chú trọng vào giá trị của án lệ chứ không dựa vào thứ bậc hệ thống tòa án;
(iii) ở các quốc gia ngày nay, lý giải về cơ sở của nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa
án không chỉ dựa vào thứ bậc của hệ thống tòa án mà còn dựa vào giá trị của án lệ.
2.3.3.2. Vấn đề không áp dụng án lệ
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i)
tòa án bác bỏ án lệ là cần thiết nhằm tránh tình trạng áp dụng án lệ quá cứng nhắc
có thể dẫn đến sự bất công; (ii) nếu sử dụng hình thức bác bỏ án lệ công khai sẽ
giúp các tòa án dễ dàng xác định các án lệ không còn có giá trị áp dụng hơn là hình
thức bác bỏ ngầm định.
2.3.3.3. Vấn đề xác định yếu tố bắt buộc của án lệ
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i)
xác định yếu tố bắt buộc của án lệ là việc làm cần thiết và quan trọng trong hoạt
động áp dụng án lệ của tòa án ở các nước common law lẫn ở các nước civil law; (ii)
yếu tố bắt buộc của án lệ ở các nước common law (ratio decidendi or holding) hay
civil law (court ruling) đều tồn tại dưới dạng một quy tắc xử sự có cấu trúc
“nếuthì.”; (iii) đề cập đến vấn đề xác định yếu tố bắt buộc của án lệ là dựa trên
luận điểm của học thuyết thực chứng pháp lý trong khuôn khổ phân tích.
2.3.3.4. Vấn đề xác định hiệu lực thời gian của án lệ
Tác giả luận án đưa ra một số nhận xét và đánh giá về vấn đề này như sau: (i)
tòa án ở các nước common law lẫn các nước civil law đều quan tâm đến vấn đề
hiệu lực thời gian của án lệ trong hoạt động áp dụng án lệ. Tuy nhiên, ở hầu hết các
quốc gia đều không có văn bản pháp luật quy định rõ ràng thời điểm bắt đầu và
22
chấm dứt hiệu lực của án lệ; (ii) ở các nước civil law có khuynh hướng sử dụng
hình thức hiệu lực bất hồi tố của án lệ, ngược lại, phần lớn các nước common law
có khuynh hướng phổ biến cho phép áp dụng hiệu lực hồi tố.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2:
Tác giả luận án có một số kết luận trong chương này như sau:
Thứ nhất, chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án là các chức năng
quan trọng và phổ biến ở các nước common law lẫn các nước civil law. Tòa án thực
hiện các chức năng này không những có thể bổ trợ cho chức năng lập pháp của nghị
viện là lấp các lỗ hổng của văn bản pháp luật, mà còn bảo đảm công lý cho các chủ
thể khác nhau trong xã hội trong trường hợp văn bản pháp luật cứng nhắc. Qua đó,
tòa án góp phần tích cực và quan trọng vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền
cũng như bảo đảm việc thực thi các quyền con người.
Thứ hai, chức năng tạo lập án lệ của tòa án có nhiều điểm đặc thù khác với
chức năng ban hành văn bản pháp luật của nghị viện hoặc chính phủ như: tòa án tạo
lập án lệ gắn liền với chức năng giải quyết vụ việc cụ thể; tòa án tạo lập án lệ bị
giới hạn trong phạm vi các vấn đề pháp lý mới phát sinh chưa được văn bản pháp
luật quy định, hoặc có quy định nhưng chưa cụ thể, hoặc có quy định nhưng cứng
nhắc; thường không có văn bản pháp luật quy định trình tự, thủ tục và thẩm quyền
tạo lập án lệ; tòa án tạo lập án lệ dưới hình thức các quy tắc ngầm định. Tương tự,
chức năng áp dụng án lệ của tòa án cũng có nhiều điểm khác với hoạt động áp dụng
văn bản pháp luật như: hoạt động áp dụng án lệ của tòa án thường được thực hiện
theo yêu cầu của nguyên tắc tương tự; hoạt động áp dụng án lệ của tòa án dựa vào
giá trị của án lệ và thứ bậc hệ thống tòa án; hoạt động áp dụng án lệ của tòa án có
tính chất mềm dẻo, linh hoạt hơn hoạt động áp dụng văn bản pháp luật.
Thứ ba, chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án có nhiều điểm đặc thù
nhưng trong đó có hai đặc điểm quan trọng nhất tạo ra sự khác biệt về bản chất giữa
hoạt động tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án với với hoạt động ban hành và áp
dụng văn bản pháp luật như sau: (i) tòa án tạo lập án lệ gắn liền với chức năng giải
quyết vụ việc cụ thể. Điều này có nghĩa rằng tòa án không được quyền ban hành án
lệ dưới hình thức văn bản pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật chung và
xác định hiệu lực của chúng. Yêu cầu này nhằm bảo đảm hoạt động tạo lập án lệ
của tòa án không xâm phạm quyền lập pháp của nghị viện; (ii) hoạt động áp dụng
án lệ của tòa án dựa vào giá trị của án lệ và thứ bậc của hệ thống tòa án chứ không
dựa vào hiệu lực pháp lý của án lệ. Vì vậy, thông thường ở các nước sử dụng án lệ
23
không ban hành văn bản pháp luật để quy định thời điểm có hiệu lực và chấm dứt
hiệu lực của một án lệ nhất định.
Thứ tư, mặc dù chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các nước
common law và các nước civil law có nhiều điểm khác biệt nhưng đều dựa trên
những nguyên tắc, nguyên lý nhất định. Vì vậy, chức năng tạo lập và áp dụng án lệ
của tòa án dù là ở các nước common law hay ở các nước civil law đều thực hiện
theo các quy tắc hay quy ước tập quán được thể hiện thông các vấn đề cơ bản như
sau:
- Chức năng tạo lập án lệ: thẩm quyền tạo lập án lệ; phạm vi tạo lập án lệ;
phương pháp lập luận tạo lập án lệ; công bố án lệ.
- Chức năng áp dụng án lệ: nghĩa vụ tuân theo án lệ; không tuân theo án lệ;
xác định yếu tố bắt buộc của án lệ; xác định hiệu lực thời gian của án lệ.
Thứ năm, những quy tắc tập quán liên quan đến các vấn đề cơ bản của chức
năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án giữa các quốc gia thuộc các truyền thống
pháp luật khác nhau vừa có điểm giống nhau, vừa có những sự khác biệt nhất định.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những nguyên tắc chung trong hoạt động xây
dựng và áp dụng lệ ở các nước common law và civil law là cơ sở lý luận quan trọng
để nghiên cứu, đánh giá và kiến nghị đối với chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của
tòa án ở Việt Nam. Bên cạnh đó, lý giải những điểm khác biệt về chức năng tạo lập
và áp dụng án lệ của tòa án ở các nước common law và civil law xuất phát từ truyền
thống, văn hóa pháp lývv cũng vô cùng hữu ích cho việc chọn mô hình chức
năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án cũng như kế thừa các giá trị phù hợp cho
Việt Nam.
CHƢƠNG 3: CHỨC NĂNG TẠO LẬP ÁN LỆ CỦA TÕA ÁN Ở VIỆT NAM
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
3.1. Thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án ở Việt Nam
3.1.1.Quan niệm về thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án ở Việt Nam
Tác giả luận án nhận thấy quan điểm về thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án ở
Việt Nam khác với quan niệm ở các nước common law và civil law ở những điểm
sau: (i) thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án được quy định chính thức trong văn bản
pháp luật. Trong khi đó, ở các nước common law và civil law thường không có văn
bản pháp luật quy định thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án: (ii) xác định rõ tòa án
24
nào có thẩm quyền tạo lập án lệ. Trong khi đó, thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án
nên thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án ở các nước common law và civil law gắn
liền với chức năng xét xử giải quyết vụ việc cụ thể. Sự khác biệt này chủ yếu bị ảnh
hưởng bởi quan điểm thực chứng pháp lý.
3.1.2.Cơ sở pháp lý
Hiện nay, thẩm quyền ban hành án lệ được Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 và Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC năm
2015 chính thức ghi nhận.
3.1.3.Một số hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về thẩm quyền tạo lập án
lệ của tòa án
Theo tác giả luận án, các quy định về thẩm quyền có những bất cập, hạn chế
như sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định về thẩm quyền tạo lập án lệ dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau.
Thứ hai, pháp luật quy định thẩm quyền ban hành án lệ của TANDTC nhằm
bảo đảm được chất lượng “đầu ra” của án lệ chứ không thể kiểm soát được chất
lượng “đầu vào” vào của án lệ.
Thứ ba, pháp luật quy định thẩm quyền ban hành án lệ của TANDTC nhằm
công nhận hiệu lực pháp lý của án lệ vô hình chung đã trao thêm cho TANDTC
chức năng lập pháp tách khỏi chức năng xét xử - giải quyết vụ việc cụ thể của tòa
án.
Thứ tư, pháp luật quy định thẩm quyền ban hành án lệ có thể dẫn đến tình
trạng không thống nhất giữa giải pháp pháp lý của án lệ với quyết định giải quyết
của tòa án trong quá trình tố tụng.
Thứ năm, pháp luật quy định thẩm quyền ban hành án lệ đã hạn chế đáng kể
vai trò bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất của các bản án, quyết định có chứa
các giải pháp pháp lý mới nhưng chưa được công bố làm án lệ.
3.1.4.Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định hiện hành về thẩm quyền
tạo lập án lệ của tòa án
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành nên thay đổi theo hướng xác định thẩm quyền
tạo lập án lệ của tòa án gắn liền với chức năng xét xử giải quyết vụ việc cụ thể.
25
Thứ hai, bước đầu pháp luật nên quy định theo hướng tập trung vào thẩm
quyền tạo lập án lệ cho TANDTC và TAND cấp cao chứ không nên quy định đối
tượng các bản án, quyết định của TAND tất cả các cấp đều có thể được lựa chọn
làm án lệ như hiện nay.
3.2. Phạm vi tạo lập án lệ của tòa án ở Việt Nam
3.2.1.Các trường hợp tòa án tạo lập án lệ trong thực tiễn tư pháp
Quan sát 16 án lệ đã được công bố trong thời gian qua có thể thấy rằng tòa án
tạo lập án lệ trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, tòa án tạo lập án lệ trong trường hợp văn bản pháp luật có quy định
nhưng ở dạng “khung” mang tính khái quát nên cần tòa án giải thích cụ thể quy
định này.
Thứ hai, tòa án tạo lập án lệ trong trường hợp văn bản pháp luật không có quy
định.
Thứ ba, tòa án tạo lập án trong trường hợp văn bản pháp luật có quy định
nhưng quá cứng nhắc.
3.2.2.Những kiến nghị đối với vấn đề phạm vi tạo lập án lệ của tòa án
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, đối với trường hợp tòa án tạo lập án lệ nhằm giải thích các quy định
mang tính khái quát. Trường hợp này đòi hỏi tòa án giải thích pháp luật dựa trên
những nguyên tắc và phương pháp nhất định.
Thứ hai, đối với trường hợp tòa án tạo lập án lệ khi văn bản pháp luật không
có quy định, hoặc có quy định nhưng cứng nhắc cần bảo đảm tính “hợp lý” của các
phán quyết tư pháp.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam nên bổ sung trường hợp tòa án tạo án lệ thông
qua hoạt động giải thích Hiến pháp.
3.3. Phƣơng pháp lập luận tạo lập án lệ của tòa án ở Việt Nam
3.3.1.Các phương pháp lập luận tạo lập án lệ của tòa án phổ biến hiện nay
Các phương pháp lập luận tạo lập án lệ của tòa án phổ biến ở Việt Nam hiện
nay bao gồm:
Thứ nhất, phong cách lý lẽ tạo lập án lệ của tòa án Việt Nam không theo logic
diễn dịch của tòa án ở các nước civil law mà gần giống với logic quy nạp của tòa án
ở các nước common law.
26
Thứ hai, phong cách lý lẽ tạo lập án lệ của tòa án Việt Nam mang tính chất áp
đặt chứ không mang tính tranh luận.
Thứ ba, lập luận trong các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam thường
không viện dẫn các điều khoản trong các văn bản pháp luật làm cơ sở để giải quyết
vụ việc.
3.3.2.Những kiến nghị đối với phương pháp lập luận tạo lập án lệ của tòa án
nhằm nâng cao chất lượng án lệ
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, phần lập luận trong các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam cần
bổ sung thêm phương pháp lập luận tạo lập án lệ mang tính tranh luận và hợp lý
thay cho phong cách lý lẽ tạo lập án lệ mang tính áp đặt như hiện nay.
Thứ hai, phần lập luận trong bản án, quyết định của tòa án ở Việt Nam cần bổ
sung các căn cứ pháp lý là các điều khoản trong văn bản pháp luật trong các trường
hợp tòa án tạo lập án lệ nhằm giải thích các quy định mang tính khái quát và văn
bản pháp luật có quy định nhưng cứng nhắc.
Thứ ba, phần lập luận trong các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam cần
bổ sung thêm phong cách lý lẽ tạo lập án lệ theo logic diễn dịch nhằm tạo ra một
quy phạm mang tính khái quát để áp dụng về sau.
3.4. Vấn đề công bố án lệ ở Việt Nam
3.4.1.Cơ sở pháp lý
Hiện nay, Nghị quyết số 03/2015/ NQ – HĐTP năm 2015 quy định quy trình
lựa chọn các bản án, quyết định công bố làm án lệ đầy đủ về: hình thức công bố án
lệ; cách thức công bố; nội dung công bố; phương thức công bố.
3.4.2.Một số hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề công bố án lệ
Theo tác giả luận án, các quy định của pháp luật đối với hoạt động công bố án
lệ trong Nghị quyết số 03/2015/ NQ – HĐTP năm 2015 có những hạn chế như sau:
(i) quy định trình tự, thủ tục lựa chọn bản án, quyết định để công bố làm án lệ quá
chặt chẽ, kéo dài và có quá nhiều chủ thể tham gia sẽ làm cho hoạt động tạo lập án
lệ của tòa án trở nên kém hiệu quả; (ii) công bố án lệ theo mẫu có thể làm cho phần
nội dung án lệ sai lệch với phần khái quát nội dung của án lệ gây ra khó khăn trong
việc xác định yếu tố bắt buộc của án lệ khi áp dụng; (iii) về đối tượng được lựa
chọn công bố làm án lệ không giới hạn các bản án, quyết định lựa chọn để công làm
27
án lệ nên công việc lựa chọn gặp rất nhiều khó khăn; (iv) công bố án lệ là hình thức
nhằm xác định hiệu lực pháp lý của án lệ sẽ làm hạn chế vai trò bảo đảm áp dụng
pháp luật thống nhất của các bản án, quyết định có giải pháp pháp lý mới nhưng
chưa được công bố làm án lệ.
3.4.3.Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan
đến vấn đề công bố án lệ
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, thay vì dàn trải, pháp luật nên thay đổi theo hướng tập trung vào
các bản án, quyết định của TANDTC và TAND cấp cao.
Thứ hai, về trình tự và thủ tục công bố án lệ, pháp luật nên thay đổi theo
hướng đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho án lệ được hình thành nhanh
chóng và kịp thời khắc phục lỗ hổng của văn bản pháp luật.
Thứ ba, pháp luật nên quy định công bố án lệ dưới hình thức bản án, quyết
định của tòa án có thể kèm theo phần tóm tắt thay cho hình thức công bố án lệ mẫu
như hiện nay nhưng cần phải cải cách viết phần lập luận trong bản án, quyết định
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3:
Tác giả luận án có một số kết luận trong chương này như sau:
Thứ nhất, hầu hết các vấn đề cơ bản về chức năng tạo lập án lệ của tòa án
như thẩm quyền tạo lập án lệ, phạm vi tạo lập án lệ, công bố án lệ đều được pháp
luật Việt Nam quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều quy định của pháp luật hiện hành chưa phù hợp với bản chất của chức năng
tạo lập án lệ của tòa án cũng như không dựa trên những nguyên tắc, xu hướng
chung được thừa nhận rộng rãi ở các nước sử dụng án lệ trên thế giới. Cụ thể:
Một là, quy định TANDTC có quyền công bố án lệ dưới hình thức các quy
phạm mang tính khái quát và xác định hiệu lực pháp lý của chúng. Điều này đã tách
chức năng tạo lập án lệ của tòa án ra khỏi chức năng xét xử. Trong khi đó, ở hầu hết
các quốc gia chức năng tạo lập án lệ của tòa án luôn gắn liền với chức năng xét xử -
giải quyết vụ việc cụ thể của tòa án;
Hai là, các quy định pháp luật hiện hành chủ yếu chỉ nhằm tập trung kiểm
soát chất lượng “đầu ra” của án lệ chứ không chú trọng chất lượng “đầu vào” của
án lệ. Trong khi đó, ở hầu hết các quốc gia đều tập trung chất lượng “đầu vào” của
án lệ - nâng cao chất lượng các bản án, quyết định, ví dụ như, Hà Lan.
28
Thứ hai, việc các phương pháp lập luận mang tính tranh luận, hợp lý nhằm
tạo ra giá trị hay sức thuyết phục án lệ vẫn chưa được các tòa án quan tâm đúng
mức trong hoạt động tạo lập án lệ.
Thứ ba, để khắc phục những hạn chế của các quy định pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện chức năng tạo lập án lệ của tòa án ở Việt Nam trong thời
gian tới, pháp luật hiện hành cần phải thay đổi theo các hướng sau:
Một là, không tách chức năng tạo lập án lệ của tòa án ra khỏi chức năng xét
xử, nghĩa là tòa án ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ việc cũng chính là tòa
án có thẩm quyền tạo lập án lệ;
Hai là, tập trung lựa chọn các bản án, quyết định của TAND cấp cao và
TANDTC;
Ba là, đơn giản hóa thủ tục lựa chọn các bản án, quyết định công bố làm án lệ
nhằm phát huy tối đa vai trò của án lệ trong việc bảo đảm áp dụng pháp luật thống
nhất, tạo điều kiện cho án lệ được hình thành nhanh chóng khắc phục kịp thời các
lỗ hổng của văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư, các tòa án Việt Nam cần phải tích cực tiếp nhận các phương pháp lập
luận tạo lập án lệ mới như phương pháp lập luận mang tính hợp lý, tính tranh luận
nhằm nâng cao chất lượng của án lệ. Dĩ nhiên, để có thể có các án lệ có chiều sâu
và sức thuyết phục cao thì nâng cao trình độ lý luận, kỹ thuật nghiệp vụ cho các
thẩm phán phải được xem là điều kiện tiên quyết.
CHƢƠNG 4: CHỨC NĂNG ÁP DỤNG ÁN LỆ CỦA TÕA ÁN Ở VIỆT NAM
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
6.1. Nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở Việt Nam
6.1.1. Quan niệm về nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở Việt Nam
Tác giả luận án cho rằng, quan niệm về nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án
khác với quan niệm phổ biến ở các nước sử dụng án lệ trên thế giới: (i) nghĩa vụ
tuân theo án lệ của tòa án chỉ bắt buộc nếu có văn bản pháp luật quy định chính
thức nghĩa vụ này: (ii) tòa án tuân theo án lệ bởi vì án lệ có hiệu lực pháp lý chứ
không phải vì án lệ có giá trị. Tương tự như quan niệm thẩm quyền tạo lập án lệ,
quan niệm bị ảnh hưởng chủ yếu từ quan điểm thực chứng pháp lý tồn tại phổ biến
ở Việt Nam.
29
6.1.2. Cơ sở pháp lý
Hiện nay, nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án Việt Nam không những được
quy định trong Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP mà còn quy định trong các văn
bản pháp luật thuộc lĩnh vực pháp luật nội dung lẫn lĩnh vực pháp luật hình thức (tố
tụng) như BLDS năm 2015, BLTTDS năm 2015, Luật TTHC năm 2015.
6.1.3. Một số hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về nghĩa vụ tuân theo án
lệ của tòa án
Theo tác giả, các quy định về nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án và hiệu lực
pháp lý của án lệ dẫn đến những hạn chế như sau: (i) pháp luật quy định tòa án
“phải” tuân theo án lệ có thể sẽ tạo ra sự mâu thuẫn trong trường hợp cho phép tòa
án bác bỏ án lệ; (ii) pháp luật quy định tòa án tuân theo án lệ bởi án lệ có hiệu lực
pháp lý sẽ dẫn đến nguy cơ tòa án áp dụng án lệ một cách cứng nhắc.
6.1.4. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan
đến nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, pháp luật nên thay đổi theo hướng quy định mang tính “mềm hóa”
nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án.
Thứ hai, pháp luật nên thay đổi theo hướng quy định nghĩa vụ tuân theo án lệ
của tòa án xuất phát từ giá trị của án lệ và thứ bậc của hệ thống tòa án chứ không
phải từ hiệu lực pháp lý của án lệ.
6.2. Vấn đề không áp dụng án lệ ở Việt Nam
6.2.1. Cơ sở pháp lý
Pháp luật quy định tòa án không tuân theo án lệ trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, tòa án không áp dụng án lệ do có sự thay đổi của văn bản pháp luật
tại khoản 3, Điều 8 của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP.
Thứ hai, tòa án không áp dụng án lệ do án lệ không còn phù hợp tại khoản 4,
Điều 8 của Nghị quyết 03.
6.2.2. Một số hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về vấn đề không áp
dụng án lệ
Theo tác giả, quy định các trường hợp tòa án không áp dụng án lệ có những
hạn chế như sau: (i) quy định trường hợp không áp dụng án lệ do có sự thay đổi của
30
văn bản pháp luật bằng cách liệt kê nhưng không đầy đủ; (ii) tại khoản 4, Điều 8
của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP quy định trường hợp tòa án không áp dụng
án lệ do “có sự chuyển biến của tình hình” dẫn đến án lệ không phù hợp vẫn chưa
hợp lý.
6.2.3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về
vấn đề không áp dụng án lệ
Tác giả luận án có một kiến nghị như sau:
Thứ nhất, pháp luật nên quy định trường hợp tòa án không áp dụng án lệ do
có sự thay đổi của văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến án lệ không phù hợp mang
tính khái quát chứ không nên sử dụng phương pháp liệt kê các loại văn bản quy
pháp luật.
Thứ hai, pháp luật nên quy định trường hợp tòa án không áp dụng án lệ bởi
các nguyên nhân khác (không phải do sự thay đổi của văn bản quy phạm pháp luật)
theo hướng “mở” hơn chứ không nên giới hạn trong phạm vi “do có sự chuyển biến
của tình hình”.
6.3. Vấn đề xác định yếu tố bắt buộc của án lệ ở Việt Nam
6.3.1. Một số khó khăn còn tồn tại trong việc xác định yếu tố bắt buộc của án lệ
trong hoạt động áp dụng án lệ
Tác giả luận án nhận thấy vẫn còn một số khó khăn trong việc xác định yếu tố
bắt buộc của án lệ như sau: (i) vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định yếu tố
bắt buộc nằm ở phần “Khái quát nội dung của án lệ” hay phần “Nội dung án lệ”
theo mẫu án lệ đã công bố; (ii) khó khăn trong việc xác định phạm vi của yếu tố bắt
buộc của án lệ khi áp dụng; (iii) TANDTC chưa thật sự chú trọng vào công tác đào
tạo, bồi dưỡng kỹ năng áp dụng cho các thẩm phán dẫn đến tình trạng các thẩm
phán hiểu và áp dụng án lệ không đúng.
6.3.2. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xác định yếu tố bắt buộc của án
lệ trong hoạt động áp dụng án lệ
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cần thay đổi cách thức công bố án lệ theo hướng công bố toàn bộ
nội dung bản án, quyết định của tòa án được lựa chọn làm án lệ và có thể công bố
kèm theo Phần tóm tắt nội dung án lệ chứ không theo mẫu như hiện nay.
31
Thứ hai, cần phải có phương pháp xây dựng yếu tố bắt buộc của án lệ trong
phần lập luận của bản án, quyết định có chứa các giải pháp pháp lý mới.
Thứ ba, TANDTC cần nhanh chóng mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng
cho các thẩm phán trong việc xác định tình tiết tương tư.
6.4. Vấn đề xác định hiệu lực về thời gian của án lệ ở Việt Nam
6.4.1. Cơ sở pháp lý
Pháp luật Việt Nam có quy định rõ thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực
của án lệ tại khoản 1, Điều 8 của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP và Điều 9 của
Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP.
6.4.2. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về vần đề xác định hiệu lực thời
gian của án lệ
Tác giả luận án nhận thấy rằng các quy định của pháp luật về hiệu lực thời
gian của án lệ có một số điểm hạn chế sau: (i) mặc dù pháp luật có quy định rõ thời
điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực của án lệ nhưng không quy định rõ cho phép
áp dụng hiệu lực hồi tố hay không; (ii) nếu xác định rõ thời điểm có hiệu lực của án
lệ và chỉ áp dụng hiệu lực về sau thì có thể dẫn tình trạng bất bình đẳng, nguyên tắc
tương tự sẽ bị gián đoạn do áp dụng hiệu lực thời gian của án lệ.
6.4.3. Những kiến nghị đối với vấn đề xác định hiệu lực thời gian của án lệ
Tác giả luận án có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, pháp luật không nên quy định rõ thời điểm phát sinh và chấm dứt
hiệu lực của án lệ như hiện nay.
Thứ hai, pháp luật nên quy định cho phép áp dụng hiệu lực hồi tố sử dụng
hình thức xác định hiệu lực bất hồi tố của án lệ - “Non – retroactivity” đối với
trường hợp thay thế án lệ.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4:
Tác giả luận án có một số kết luận trong chương này như sau:
Thứ nhất, cũng giống như chức năng tạo lập án lệ của tòa án, phần lớn các
vấn đề cơ bản về chức năng áp dụng án lệ của tòa án như nghĩa vụ tuân theo án lệ
của tòa án, vấn đề không áp dụng án lệ, vấn đề xác định hiệu lực thời gian của án lệ
đều được pháp luật hiện hành quy định. Tuy nhiên, do xuất phát từ quan niệm thực
chứng pháp lý đã dẫn đến các quy định của pháp luật không phù hợp với bản chất
32
của nguồn luật án lệ và bản chất của hoạt động áp dụng án lệ của tòa án cũng như
các nguyên tắc và khuynh hướng ở các nước trên thế giới. Cụ thể:
Một là, quy định về thời điểm có hiệu lực và chấm dứt hiệu của án lệ dẫn đến
nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án quá cứng nhắc, tòa án tuân theo án lệ vì án lệ có
hiệu lực. Trong khi đó, ở hầu hết các nước common law lẫn các nước civil law, tòa
án tuân theo án lệ chủ yếu vì các án lệ có giá trị (chứa đựng giải pháp lý hợp lý)
chứ không phải vì án lệ có hiệu lực pháp lý.
Hai là, cách thức công bố án lệ của Việt Nam hiện nay cũng gây ra khó khăn
và lúng túng cho các tòa án xác định yếu tố bắt buộc của án lệ trong hoạt động áp
dụng án lệ. Yếu tố bắt buộc nằm ở phần “Khái quát nội dung của án lệ” hay phần
“Nội dung án lệ” theo mẫu án lệ đã công bố? Đây vẫn còn là một vấn đề gây ra
tranh cãi và chưa có sự thống nhất.
Thứ hai, về thực tiễn, các thẩm phán dường như vẫn chưa được trang bị kỹ
càng về phương pháp và kỹ năng xác định tình tiết tương tự nên thực tiễn đã xuất
hiện việc xác định tình tiết tượng khác nhau giữa các tòa án khi cùng áp dụng một
án lệ.
Thứ ba, để có thể nâng cao hiệu quả của chức năng áp dụng án lệ trong thời
gian tới, pháp luật hiện hành cần thay đổi theo hướng:
Một là, pháp luật nên quy định “mềm hóa” nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa
án;
Hai là, không nên quy định công bố án lệ theo mẫu như hiện nay tránh gây
khó khăn trong việc xác định yếu tố bắt buộc của án lệ khi áp dụng.
Ba là, pháp luật không nên quy định thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực
pháp lý của án lệ như hiện nay và cũng nên dựa vào nguyên tắc phổ biến được các
nước áp dụng là hiệu lực bất hồi tố (non - retroactivity) khi thay thế án lệ.
Thứ tư, cần phải có biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng
áp dụng án lệ của tòa án trong thực tiễn tư pháp như sau: (i) nhanh chóng mở các
khóa đào tạo cho các thẩm phán về kỹ năng xác định tình tiết tương tự; (ii) khuyến
khích các thẩm phán tham gia vào hoạt động bình luận án lệ và bình luận án; (iii)
thường xuyên rà soát và tổng kết hoạt động áp dụng án lệ ở mỗi cấp tòa án; (iv)
TANDTC cần phải chủ động thường xuyên tiếp nhận các ý kiến phản hồi của các
thẩm phán trong hoạt động áp dụng án lệ để có những hướng dẫn và giải quyết kịp
thời những khó khăn cho các tòa án trong phạm vi cả nước.
33
KẾT LUẬN CHUNG:
Toàn bộ quá trình nghiên cứu của luận án là quá trình chứng minh các giả
thuyết nghiên cứu hay trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Đối với câu hỏi thứ nhất: chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các
nước common law và civil law được hình thành và phát triển dựa trên những cơ sở
lý thuyết nào? Kết quả nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu này có một số
điểm nổi bật sau:
Một là, nội dung của luận án đã xác định được bản chất, đặc trưng của chức
năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở các nước common law và civil law: (i)
bản chất của chức năng tạo lập án lệ của tòa án là sáng tạo pháp luật; (ii) hoạt động
áp dụng án lệ của tòa án dựa vào giá trị của án lệ và thứ bậc hệ thống tòa án chứ
không dựa vào hiệu lực pháp lý của án lệ; (iii) đưa ra khái niệm “chức năng tạo lập
án lệ của tòa án” và “chức năng áp dụng án lệ của tòa án”.
Hai là, kết quả nghiên cứu của luận án cũng đã hệ thống hóa được các vấn đề
cơ bản về của chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án nhằm tạo ra một bức
tranh tổng thể về hai chức năng của tòa án: (i) các vấn đề cơ bản về chức năng tạo
lập án lệ của tòa án: thẩm quyền tạo lập án lệ, phạm vi tạo lập án lệ, phương pháp
lập luận tạo lập án lệ, công bố án lệ; (ii) các vấn đề cơ bản về chức năng áp dụng
án lệ của tòa án: nghĩa vụ tuân theo án lệ, vấn đề không áp dụng án lệ, xác định yếu
tố bắt buộc của án lệ; xác định hiệu lực thời gian của án lệ.
Ba là, luận án chỉ ra những khuynh hướng phát triển cơ bản của các chức
năng này của tòa án ở các nước common law và civil law: (i) đối với chức tạo lập
án lệ, khuynh hướng phát triển là cần bảo đảm yếu tố tư pháp “đầu ra” hay chất
lượng các bản án, quyết định (án lệ); (ii) đối với chức năng áp dụng án lệ của tòa
án, nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án ở các nước common law ban đầu là xuất
phát từ giá trị của án lệ (trước thế kỷ XIX), đến tuân theo án lệ xuất phát từ giá trị
pháp lý do bị ảnh hưởng bởi thuyết thực chứng pháp lý (từ thế kỷ XIX đến nửa đầu
thế kỷ XX), sau đó có khuynh hướng kết hợp tuân theo án lệ bắt nguồn từ giá trị
pháp lý và giá trị của án lệ; (iii) khuynh hướng xác định yếu tố bắt buộc của án lệ
dựa trên quan điểm cấu trúc nhiều tầng của pháp luật; (iv) khuynh hướng xác định
hiệu lực bất hồi tố của án lệ trong từng trường hợp cụ thể (Non - Retroactivity).
Đối với câu hỏi thứ hai: thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện chức
năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam hiện nay có phù hợp và hiệu
34
quả không? Kết quả nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu này có một số
điểm nổi bật sau:
Một là, tác giả luận án chỉ ra những hạn chế, bất cập của các quy định về chức
năng tạo lập án lệ: (i) quy định thẩm quyền ban hành án lệ của TANDTC chỉ có thể
bảo đảm chất lượng “đầu ra” của án lệ chứ không kiểm soát chất lượng “đầu vào”;
(ii) quy định thẩm quyền ban hành án lệ của TANDTC dẫn đến nguy cơ quyền sáng
tạo pháp luật của tòa án xâm phạm đến quyền lập pháp của Quốc hội và có khả
năng tạo ra mâu thuẫn nội dung của án lệ với các bản án, quyết định của tòa án giải
quyết theo quá trình tố tụng; (iii) pháp luật hiện hành quy định quá chặt chẽ và
phức tạp sẽ làm cho hoạt động tạo lập án lệ của tòa án trở nên kém hiệu quả cũng
như làm chậm đi tiến độ hình thành án lệ và hạn chế số lượng án lệ.
Hai là, tác giả luận án chỉ ra những hạn chế, bất cập của các quy định về chức
năng áp dụng án lệ: (i) pháp luật quy định tòa án tuân theo án lệ xuất phát từ hiệu
lực pháp lý của án lệ sẽ dẫn đến nguy cơ tòa án áp dụng án lệ cứng nhắc; (ii) quy
định trường hợp không áp dụng án lệ do có sự thay đổi của văn bản pháp luật bằng
cách liệt kê nhưng không đầy đủ; (iii) quy định trường hợp không áp dụng án lệ do
có sự chuyển biến của tình hình là không hợp lý; (iv) pháp luật quy định rõ thời
điểm có hiệu lực của án lệ và chỉ áp dụng hiệu lực về sau thì có thể dẫn tình trạng
bất bình đẳng, nguyên tắc tương tự sẽ bị gián đoạn do áp dụng hiệu lực thời gian
của án lệ.
Đối với câu hỏi thứ ba: hoàn thiện các quy định về chức năng tạo lập và áp
dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam dựa trên những cơ sở nào? Để pháp luật trong
lĩnh vực này thực hiện tốt trong thực tiễn cần sửa đổi, bổ sung những nội dung nào?
Để nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng này cần thực hiện cách biện pháp cụ
thể nào? Kết quả nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu này có một số điểm
nổi bật sau:
Một là, tác giả luận án đưa ra các kiến nghị đối với các quy định của pháp luật
liên quan đến chức năng tạo lập: (i) pháp luật hiện hành nên thay đổi theo hướng
xác định thẩm quyền tạo lập án lệ của tòa án gắn liền với chức năng xét xử - giải
quyết vụ việc cụ thể kèm theo các thay đổi thẩm quyền ban hành án lệ của
TANDTC trong Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP và Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014; (ii) bổ sung quy định về thành lập Hội đồng Cố vấn án lệ (iii) pháp luật
quy định thiết lập nên một cơ chế hay quy trình công bố án lệ mới: thành lập các bộ
35
phận chuyên trách ở TANTC và cấp cao, thay đổi các quy định về thời gian, thay
đổi cách thức công bố án lệ.
Hai là, tác giả luận án đưa ra các kiến nghị mới đối với các quy định của pháp
luật liên quan đến chức năng áp dụng án lệ: (i) pháp luật nên thay đổi theo hướng
quy định mang tính “mềm hóa” theo hướng nên sửa khoản 2 Điều 8 và khoản 3
Điều 9 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP; (ii) pháp luật nên quy định trường hợp
tòa án không áp dụng án lệ do có sự thay đổi của văn bản quy phạm pháp luật dẫn
đến án lệ không phù hợp mang tính khái quát chứ không nên sử dụng phương pháp
liệt kê kèm theo sửa khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP; (iii) pháp
luật nên quy định trường hợp tòa án không áp dụng án lệ bởi các nguyên nhân khác
(không phải do sự thay đổi của văn bản quy phạm pháp luật) theo hướng “mở” hơn
chứ không nên giới hạn trong phạm vi “do có sự chuyển biến của tình hình” như
hiện nay; (iv) pháp luật không nên quy định rõ thời điểm có hiệu lực và chấm dứt
hiệu lực của án lệ kèm theo bãi bỏ các quy định tại khoản 1 Điều 8 và Điều 9 Nghị
quyết 03/2015/ NQ – HĐTP, đồng thời sửa các quy định khoản 4,5 Điều 9 Nghị
quyết 03/2015/ NQ – HĐTP, bổ sung quy định về hủy bỏ hoặc thay thế án lệ của
Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Ba là, tác giả luận án cũng đưa ra kiến nghị mới về các biện pháp cụ thể nâng
cao hiệu quả thực hiện chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam:
(i) các tòa án Việt Nam cần bổ sung thêm phương pháp lập luận tạo lập án lệ mang
tính tranh luận và hợp lý thay cho phong cách lý lẽ tạo lập án lệ mang tính áp đặt
như hiện nay; (ii) tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng cho các thẩm phán trong
việc xác định tình tiết tương tự.
Với kết quả của luận án này, tác giả mong muốn sẽ góp phần bổ sung các cơ
sở, luận cứ khoa học cho các nhà lập pháp trong hoạt động ban hành các văn bản
pháp luật có liên quan. Ngoài ra, tác giả cũng hy vọng luận án sẽ là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích cho những người làm công việc thực tiễn như thẩm phán, kiểm
sát viên, luật sư Qua đó, tác giả kỳ vọng có thể góp phần vào việc nâng cao hiệu
quả thực hiện các chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của tòa án ở Việt Nam hiện
nay.
36
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC
CÔNG BỐ
1. Đỗ Thanh Trung (2009), “Án lệ và vấn đề thừa nhận án lệ ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố. HCM.
2. Đỗ Thanh Trung (2012), “Án lệ: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 4.
3. Đỗ Thanh Trung (2014), “Một vấn đề lý luận cần được thống nhất trước khi
xây dựng và áp dụng án lệ ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo “Án lệ trong hệ
thống Thông luật và châu Âu lục địa: Hiến kế cho việc xây dựng và áp dụng
án lệ tại Việt Nam”, Trường Đại học Luật Thành phố. HCM ngày 25 tháng 4
năm 2014.
4. Đỗ Thanh Trung (2016) “Án lệ trong hệ thống pháp luật common law”, Kỷ
yếu hội thảo đề tài cấp bộ; “Tập quán pháp, tiền lệ pháp và đa dạng hóa hình
thức pháp luật ở Việt Nam”, Trường Đại học Luật Thành phố. HCM tháng 12
năm 2016.
5. Đỗ Thanh Trung (2016) “Chức năng tạo lập án lệ của tòa án”, Kỷ yếu hội
thảo đề tài cấp bộ; “Tập quán pháp, tiền lệ pháp và đa dạng hóa hình thức
pháp luật ở Việt Nam”, Trường Đại học Luật Thành phố. HCM tháng 12 năm
2016.
6. Đỗ Thanh Trung (2016), “Vai trò tạo lập án lệ của tòa án”, Tạp chí Kiểm sát,
số 11.
7. Đỗ Thanh Trung (2016), “Một số vấn đề lý luận về án lệ trong hệ thống
Thông luật”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2.
8. Đỗ Thanh Trung (2017), “Bàn về hiệu lực thời gian của án lệ”, Tạp chí Khoa
học Pháp lý, số 9.
9. Đỗ Thanh Trung (2018), “Bàn về nguyên tắc tương tự trong hoạt động áp
dụng án lệ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2, Kỳ I.
10. Đỗ Thanh Trung (2018), “Hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án: Một số
bất cập và hướng hoàn thiện”, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, ngày 28
tháng 2 năm 2018.
37
11. Đỗ Thanh Trung (2018), “Án lệ - Một số bất cập và đề xuất hướng hoàn
thiện”, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, ngày 28 tháng 2 năm 2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_chuc_nang_tao_lap_va_ap_dung_an_le_cua_toa_a.pdf