Đàn ghi ta hiện diện trong đời sống của giới trẻ Hà Nội hiện
nay hết sức phong phú và đa dạng, từ môi trường âm nhạc chuyên
nghiệp tại các trường học đến môi trường âm nhạc không chuyên như
các trung tâm, nhà văn hóa, các CLB hay tư gia. Bức tranh về những
hoạt động ghi ta thật sống động bởi những hoạt động biểu diễn
chuyên nghiệp của các nghệ sĩ lẫn không chuyên của tầng lớp học
sinh, sinh viên. Trong đời sống tinh thần ở Hà Nội, đàn ghi ta gắn bó
gần gũi với người dân trong những sinh hoạt tập thể, trong các hoạt
động văn hóa nghệ thuật của sinh viên, của công chức hay các đơn vị
bộ đội. Sự sinh hoạt sôi nổi ấy thể hiện ở các CLB như CLB ghi ta cổ
điển, CLB của các nhà văn hóa thiếu nhi, Cung thiếu nhi, nhóm “Du
ca đường phố”, CLB của các bạn sinh viên Bách khoa, Xây dựng,
Kiến trúc, Ngoại Thương, Học viện tài chính, Học viện báo chí và
tuyên truyền.cũng như ở các quán cà phê ca nhạc như G4U, cà phê
Trịnh ca, quán Like cà phê .v.v.
27 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Ghi ta trong đời sống giới trẻ hiện nay tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc giới trẻ
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1.Khái niệm giới trẻ
“Giới trẻ” là một thuật ngữ đu ̛ợc hiểu theo nhiều nghĩa (về
mặt sinh học hay văn hoá), nhu ̛ng thu ̛ờng được xem là để chỉ những
ngu ̛ời ở độ tuổi thanh thiếu niên. Theo pháp luật Việt Nam, vị thành
4
niên là dưới 18 tuổi nhưng theo điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, thanh niên là ngu ̛ời có độ tuổi từ 15-30 nhu ̛ng có thể sinh
hoạt Đoàn tới năm 35 tuổi. Vì vậy, nhiều nghiên cứu thu ̛ờng giới hạn
độ tuổi của “giới trẻ” khác nhau như: (Bùi Hoài Sơn 2006, Phan Thị
Oanh 2013), Phạm Hồng Tung (2008), Nguyễn Thị Như Thuỷ
(2014:34) thì “trên thế giới và ở nước ta khi nói đến giới trẻ là nói
đến những người trong độ tuổi thanh thiếu niên, năng động, sáng tạo,
thường tò mò, thích khám phá và ham học hỏi”. Tuy nhiên, khái niệm
“giới trẻ” còn có thể nằm ngoài qui định độ tuổi sinh học. “Giới trẻ”
có thể được nhìn nhận từ ba quan điểm: là một phạm trù sinh học,
một nhóm xã hội nổi bật và một cấu trúc văn hoá. Theo Mary
Bucholtz (2002), ngoài việc đưa ra giới hạn độ tuổi của giới trẻ hay
được phân chia theo nhóm tuổi sinh học, ngành nhân học cho rằng
thời thanh niên như một giai đoạn sinh học và tâm lý học trong sự
phát triển của con người,và hơn nữa coi giới trẻ như một phạm trù
văn hoá. Trong nghiên cứu này, do đối tượng khảo sát chính của
chúng tôi là giới học sinh sinh viên, nên “giới trẻ” được hiểu là có độ
tuổi trùng với độ tuổi thanh niên 1 6 -3 0 tuổi, theo luật Thanh niên
được thông qua (29/11/2015) tại kì họp thứ 8 quốc hội khoá XI,
quyết định số 24/2005/L/CTN ngày 9/12/2015.
1.1.2. Khái niệm về “đời sống” và “đời sống giới trẻ”
Theo Từ điển tiếng Việt (2010:454), đời sống “là toàn bộ nói
chung những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của con ngu ̛ời, của
xã hội. Đời sống giới trẻ cũng nằm trong tổng thể đời sống của các
thành viên xã hội hay đời sống của một xã hội.
Trong đề tài này, chúng tôi quan tâm đến đời sống giới trẻ,
với hàm ý mọi khía cạnh hoạt động sống, cả đời sống tinh thần và đời
sống vật chất, của một nhóm những ngu ̛ời trẻ cùng chia sẻ một sở
thích chung, đó là ghi ta.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.2.1 Những nghiên cứu về giới trẻ
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu đề cập tới thanh niên
từ nhiều khía cạnh (Tyyska 2005, Bucholtz 2002, Bassani 2007, Wyn
và Woodman 2006). Theo Mary Bucholtz (2002) trong tác phẩm
Youth and cultural practice (Giới trẻ và thực hành văn hoá), nghiên
cứu về giới trẻ là trọng tâm trong nhân học nửa đầu thế kỷ XX.
Cherylynn Bassani trong tác phẩm Five Dimensions of Social Capital
5
Theory as they Pertain to Youth Studies (Năm khía cạnh của lý thuyết
vốn xã hội có liên quan đến nghiên cứu giới trẻ) (2007) nghiên cứu 5
thành tố của thuyết nguồn vốn xã hội. Wyn và Woodman trong bài
trao đổi Researching Youth in a Context of Social Change: A Reply to
Roberts (Nghiên cứu giới trẻ trong bối cảnh của sự biến đổi xã hội:
trao đổi với Roberts) (2007) sử dụng lăng kính “thế hệ xã hội” để
nhìn nhận về giới trẻ.
Ở Việt Nam, cũng đã có rất nhiều các nghiên cứu tìm hiểu
những vấn đề chung của thanh niên (Đặng Cảnh Khanh 2006, Đặng
Vũ Cảnh Linh 2003), (Đinh Thị Vân Chi 2003, Phan Thanh Tá 1997,
Hu ̛o ̛ng Ly 2008), (Phạm Hồng Tung 2011, Bùi Thị Vân Anh, 2012),
(Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Phương Châm 2013, Đặng Cảnh Khanh
2006), (Nguyễn Thị Phương Hoa 2014, Nguyễn Thị Hoa. 2013). Ở
đây chúng tôi sẽ điểm qua một số hướng nghiên cứu này.
1.2.1.1 Nghiên cứu về lối sống của giới trẻ
Các tác giả Việt Nam viết về chủ đề này cho rằng trong thời
đại mới, thanh niên Việt Nam khá phân hoá, bên cạnh những xu
hướng lành mạnh cũng có những mặt khá tiêu cực. Theo Phạm Hồng
Tung (2011:502) trong tác phẩm Thanh niên và lối sống của thanh
niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, sinh ra và
lớn lên trong bối cảnh đất nước thay đổi, thanh niên Việt Nam luôn
đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn, nhiều cơ hội và thách thức mà
các thế hệ trước đó chưa từng gặp. Qua nghiên cứu về tình hình thanh
niên hiện nay tác giả cho rằng bên cạnh phần lớn thanh niên Việt
Nam hướng tới những giá trị tốt đẹp thì vẫn còn không ít những
thanh niên đang chịu ảnh hưởng và theo những xu hướng tiêu cực,
không lành mạnh, sa vào những tệ nạn xã hội. Nhiều bài viết cũng
đồng quan điểm cho rằng trong quá trình hội nhập quốc tế, dưới sự
tác động của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ công nghệ thông tin,
nhiều giá trị sống cũng bị thay đổi làm ảnh hưởng đến đạo đức lối
sống của thanh niên trong bài viết Bàn về đạo đức lối sống của thanh
niên trí thức nước ta hiện nay, với đối tượng hẹp là thanh niên trí
thức, Nguyễn Thị Phương Hoa (2014:50). Một số nghiên cứu khác lại
trăn trở với việc tìm hiểu trách nhiệm xã hội của thanh niên hiện nay
Tác giả Lê Thị Thanh Hương (2014:13) cho rằng thanh niên là lứa
tuổi có nhiều hoài bão, không chỉ muốn khẳng định mình trong cuộc
sống mà còn khát khao được góp sức cho sự phát triển chung của cả
dân tộc, nhân loại: “thanh niên Việt Nam hiện nay về cơ bản thể hiện
6
thái độ chính trị và trách nhiệm xã hội của mình như một lẽ tự thân.
1.2.1.2 Nghiên cứu về giới trẻ từ góc độ nhu cầu giải trí
Nhiều nghiên cứu chỉ ra nhu cầu giải trí của thanh niên rất đa
dạng. Trong tác phẩm Nhu cầu giải trí của thanh niên, tác giả Đinh
Thị Vân Chi (2003:123) khẳng định nhu cầu giải trí là động cơ của
hoạt động giải trí, giải trí là “nhu cầu” của con người vì nó đáp ứng
những đòi hỏi từ cá nhân. Khi đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu
giải trí thì đó là một trong những phương tiện giúp con người phát
triển toàn diện, vì thế mà vai trò của giải trí với thanh niên là rất cần
thiết. Dựa trên lý thuyết về thời gian rỗi tác giả đưa ra cái nhìn nhận
chung về các khuôn mẫu giải trí của thanh niên. Và để góp phàn làm
sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về thời gian rỗi và hoạt động vãn
hoá trong thời gian rỗi, luận văn thạc sĩ văn hoá học “Thời gian rỗi
và hoạt động văn hoá của thanh niên Hà Nội hiện nay” (Phan Thanh
Tá, 1997) đã nghiên cứu nhu cầu hoạt động văn hoá của thanh niên
Hà Nội, khảo sát thực trạng những hoạt động văn hoá chủ yếu của
thanh niên trong thời gian rỗi từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao
hiệu quả giáo dục văn hoá cho thanh niên, hiệu quả hoạt động của các
thiết chế văn hoá nhằm thu hút các thế hệ trẻ vào những hoạt động
lành mạnh, bài trừ các tệ nạn, văn hoá độc hại, phát huy bản sắc văn
hoá và truyền thống đạo đức của dân tộc. Đồng tình với quan niệm về
nhu cầu giải trí, trong luận văn thạc sĩ “Múa với đời sống sinh hoạt
văn hoá của sinh viên thủ đô hiện nay ” Nguyễn Thị Hiền Trang
(2014:12) cũng dùng khái niệm về nhu cầu giải trí làm cơ sở cho
nghiên cứu của mình, “nhu cầu giải trí không chỉ nhằm mục đích giải
toả sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư dãn, thanh thản trong
tâm hồn. Và ở mức độ cao hơn, những hoạt động đó sẽ tạo nên sự
rung cảm về thẩm mỹ”. Cũng bàn về nhu cầu giải trí trên tạp chí Tâm
lý học, số 5 (2014) có bài: “Thực trạng nhu cầu giải trí của thanh
niên dân tộc thiểu số vùng tây Nam Bộ hiện nay” của tác giả Tô
Thuý Hạnh, tác giả chỉ ra nhu cầu giải trí là một trong những nhu cầu
tinh thần được thanh niên dân tộc thiểu số quan tâm, nội dung rất đa
dạng bên cạnh nhu cầu thuyền thống xem ti vi thì nhu cầu giải trí bên
ngoài cộng đồng, tham gia vào các lễ hội, qua các hình thức mạng xã
hội, truy cập internet hay đi du lịch ... là những hoạt động được các
bạn trẻ quan tâm.
7
1.2.1.3 Nghiên cứu bản sắc giới trẻ trong bối cảnh công nghệ và toàn
cầu hoá
Trong các công trình, các tác giả chỉ ra rằng văn hoá nghe nhìn hay
những tiến bộ của khoa học, đặc biệt là internet, đều là hình thức văn
hoá mới của xã hội công nghiệp hiện đại bởi những tiện ích cũng như
sức hấp dẫn do các phương tiện đó mang lại vô cũng to lớn (Đỗ Nam
Liên chủ biên 2005, Bùi Hoài Sơn 2006, Nguyễn Thị Phương Châm
2013). “Giới trẻ với những đặc điểm về phát triển tâm lý có những
nhu cầu riêng và là người tiếp nhận tích cực những tiến bộ khoa học
kỹ thuật, đồng thời cũng chịu sự tác động của các phương tiện nghe
nhìn nhiều nhất trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Văn hoá
nghe nhìn đã trở thành một phần không thể thiếu các phương tiện này
đã đưa lại một phong cách, một nhịp sống mới, khác với những gì thế
hệ ông cha họ đã từng trải qua” (Đỗ Nam Liên chủ biên, 2005:343).
Hơn nữa, internet đã và đang tạo ra không gian mới cho sự kết nối và
thể hiện của giới trẻ, không chỉ vậy không gian internet còn mở ra
một không gian bản sắc rất đa chiều và sinh động cho giới trẻ.
(Nguyễn Thị Phương Châm, 2013).
1.2.1.4 Nghiên cứu về vai trò của âm nhạc nghệ thuật trong việc kiến
tạo bản sắc giới trẻ
Bài báo của hai tác giả Tracy Shildrick & Robert MacDonald:
In Defence of Subculture; Young People, Leisure anh Social
Divisions (Các quan điểm ủng hộ tiểu văn hoá: Giới trẻ, giải trí và sự
phân chia xã hội) đưa ra một quan điểm cho rằng trọng tâm đặc biệt
của thời kỳ hậu tiểu văn hoá về âm nhạc, nghệ thuật nhảy và phong
cách đã phủ nhận một sự khám phá đầy đủ và chính xác về các bản
sắc văn hoá và các trải nghiệm của phần lớn thanh niên. Một trong
những luận điểm trung tâm của bài báo là: để hiểu một cách đúng đắn
và toàn diện về giới trẻ, cần quan sát kỹ đời sống văn hoá và giải trí
của họ giao thoa với các khía cạnh trong tiểu sử của họ như thế nào.
Một nghiên cứu của Fred Blake (2007) về Trung Quốc - Love songs
and the Great Leap: the role of a youth culture in the
revolutionaryphase of China's economic development (Những bản
tình ca và bước đại nhảy vọt: Vai trò của văn hóa trẻ trong giai đoạn
cách mạng phát triển kinh tế Trung Hoa) chỉ ra rằng, âm nhạc được
sử dụng trong việc truyền bá các thông điệp chính trị đến giới trẻ.
Chủ nghĩa cộng sản Trung Hoa cho rằng phát triển kinh tế phải gắn
8
chặt việc những người trẻ cam kết với những giá trị văn hóa hay
chính trị nhất định. Ở Việt Nam, những câu chuyện về âm nhạc Việt
Nam cũng cho chúng ta hiểu được giới trẻ ở những giai đoạn thời kỳ
lịch sử. Tác giả Jason Gibbs (2008) đã đề cập đến những câu chuyện
trong lịch sử âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá. Trong bài viết
“Điệu Rumba trên dòng Cửu Long: Bolero - một dạng ca khúc phổ
thông Việt Nam”, tác giả chỉ ra khiêu vũ được du nhập vào Việt Nam
thông qua tầng lớp thanh niên con nhà quyền thế du học ở Tây. “Tuy
nhiên, những tầng lớp thấp hơn thông qua thị trường âm nhạc đã tìm
thấy một phép màu của khiêu vũ ở vũ trường mà họ có thể thưởng
thức được - đầu tiên là mambo, nhưng quan trọng hơn cả là điệu
rumba/bolero. Bolero có thể hoà nhập vào giới bình dân mà không
băn khoăn chuyện học hội với vũ sư. (Gibbs, 2008:141). . Bên cạnh
đó cho thấy họ là những nhạc sĩ, ca sĩ, hay những người thưởng thức
âm nhạc đặc biệt là những thế hệ trẻ, họ không tạo ra dòng nhạc phổ
thông mà tạo ra âm nhạc Việt Nam. Họ băn khoăn suy nghĩ về âm
nhạc của đất nước mình đang có nguy cơ không tiến lên mà sẽ có thể
ngày một mất đi. Với sức trẻ, đầy nhiệt huyết, họ đã và đang rất tận
tâm với việc giữ gìn và phát huy âm nhạc truyền thống làm sao có
được tiến bộ trong bối cảnh xã hội hiện nay.
1.2.2.Những nghiên cứu về ghi ta
Có thể kể một số cuốn sách như: Lê Xuân Tùng- Nhất
Phương (2002), Phương pháp chơi đàn ghi ta lead của Gary Turner
(Việt Thư dịch, 2007); Kĩ thuật solo ghi ta của Hoàng Hạc (2010)....
Gần đây, có luận văn thạc sĩ âm nhạc học như: Nguyễn Thúy
Anh (2010), Vi Minh Huy (2006), Lương Đức Thắng (2006), Nguyễn
Thị Hà (2007), Nguyễn Thị Hà (2010), Nguyễn Quang Tùng (2013),
Nguyễn Thị Hà (2017), Nguyễn Văn Phúc (2011), Nguyễn Văn Phúc
(2014), Nguyễn Văn Phúc (2015), Cao Sỹ Anh Tùng (2014), Cao Sỹ
Anh Tùng, (2015) ...thường đề cập đến nhiều về tình hình cũng nhu ̛
phương pháp, phu ̛ơng hu ̛ớng giảng dạy tại các co ̛ sở đào tạo trên theo
chuyên môn của ngu ̛ời viết luận văn, do đó mà yếu tố văn hóa không
được chú ý.
Đặc biệt, trong năm 2013, cuốn sách Nghệ thuật trình tấu ghi
ta cổ điển tại Hà Nội do Vũ Bảo Lâm, Trịnh Minh Cu ̛ờng, Nguyễn
Trung, Cao Minh Khanh biên soạn đã giới thiệu chân dung cũng nhu ̛
cuộc đời của những cây đại thụ ghi ta đầu tiên của Hà Nội,
9
1.3. Cơ sở lý luận
Theo Tyyska (2005) trong bài viết Conceptualizing and
Theorizing Youth: Global Perspectives, (Khái niệm hoá và lý thuyết
hoá giới trẻ: những khía cạnh toàn cầu), đã có nhiều lý thuyết liên
quan đến giới trẻ ví dụ nhu ̛ cách tiếp cận sinh học-xã hội (socio-
biology), tiếp cận chức năng cấu trúc (structural functionalism), và
tiếp cận chu kỳ cuộc đời (life-course), nhưng các cách tiếp cận này
đều có hạn chế là đặt áp lực lên giới trẻ. Dick Hebdige (1979) với tác
phẩm Subculture in the Meaning of Style (Tiểu văn hóa trong ý nghĩa
của phong cách). Theo Michael Brake thì các tiểu văn hóa của giới
trẻ có thể được định nghĩa là những hệ thống biểu đạt ý nghĩa
(meaning systems), những mô thức tự bộc lộ bản thân mình (modes of
expression) hay phong cách sống (lifestyle) do các nhóm yếu thế
trong xã hội tạo nên nhằm để đối phó với các hệ thống đang chiếm
vai trò chủ đạo trong xã hội - và điều này phản ánh những nỗ lực
nhằm giải quyết những mâu thuẫn có tính cấu trúc hình thành từ
những môi trường xã hội rộng lớn hơn. Đây là cách tiếp cận và thao
tác nghiên cứu của trường phái xã hội học chức năng (functionalist
sociology) khá thịnh hành ở phu ̛ơng Tây sau Thế chiến II. Tuy nhiên,
cách tiếp cận này vẫn có những hạn chế. Tracy Shildrick & Robert
MacDonald (2006) chỉ ra trong bài viết In Defence of Subculture:
Young People, Leisure and Social Divisions (Bảo vệ tiểu văn hoá:
Giới trẻ, giải trí và sự phân chia xã hội), lý thuyết tiểu văn hoá vẫn có
giá trị.
Một khía cạnh lý thuyết khác cũng được quan tâm trong
nghiên cứu này, đó là văn hoá nhóm. Một số quan điểm cho rằng
văn hóa nhóm dùng để chỉ nền văn hóa riêng nhỏ hơn tiểu văn hóa.
Theo Cohen và Orbuch (1995), một nhóm là một số người nào đó
tham gia một cách tự nguyện và trở thành thành viên của nhóm một
cách có ý thức trên cơ sở sự mong đợi hành vi chung. Văn hoá
nhóm được hình thành từ khi các mối quan hệ trong nhóm được thiết
lập. Nó tạo ra các giá trị, quan niệm, niềm tin, thực hành trong nhóm.
Tất cả các nhóm nhỏ đều có văn hóa của mình, nhưng đồng thời cũng
là một phần của nền văn hóa toàn xã hội. Bên cạnh đó, quan niệm về
thị hiếu của Pierre Bourdieu cũng giúp làm nền tảng lý luận cho
nghiên cứu. Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng Disctinction: A
social Critique of the Judgement of Taste (Sự khu biệt: phê phán xã
10
hội đối với sự đánh giá về thị hiếu). Mặt khác, ghi ta còn góp phần
tạo nên bản sắc chung của một nhóm thanh thiếu niên có cùng sở
thích. Văn hoá của họ dựa trên sự đồng dạng (McPherson, Lynn
Smith – Lovin, 1987). Trong luận án này, chúng tôi còn quan tâm
đến lý thuyết “mạng lu ̛ới xã hội” (Lê Minh Tiến, 2010:131).
Nhu ̛ vậy, để hiểu đu ̛ợc vai trò của ghi ta trong đời sống giới
trẻ, chúng tôi sẽ vận dụng cách phân tích về nhu cầu giải trí của thanh
niên, thị hiếu của họ trong mối liên hệ với bản sắc cá nhân và bản sắc
nhóm, tạo dựng VXH và mạng lu ̛ới xã hội.
1.4. Khái quát về đời sống giới trẻ Hà Nội hiện nay
Đời sống văn hóa giới trẻ hiện nay có nhiều thay đổi so với
trước đây do những biến đổi của bối cảnh Việt Nam cả về chính trị,
kinh tế, xã hội kể từ sau 1986. Do kinh tế phát triển, đời sống vật chất
được nâng cao so với trước đây.
Có thể thấy, chính vì điều kiện tiếp cận của giới trẻ ngày
càng nhiều lên, nên giới trẻ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng
cũng ngày càng đa dạng và phân hoá thành nhiều nhóm, có những
quan niệm sống, hệ giá trị, sở thích và lối sống khác nhau.
Trong quá trình mở cửa hội nhập văn hóa hiện nay, các xu
hướng, trường phái, các nhạc cụ phu ̛ơng tây, các phong cách âm nhạc
của nhiều nước trên thế giới đã du nhập và có tác động không nhỏ
vào âm nhạc Việt Nam mà giới trẻ tiếp xúc trực tiếp. Trong đó, ghi ta
đã trở thành một trong những nhạc cụ không thể thiếu trong cuộc
sống âm nhạc của nhiều ngu ̛ời, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên, học
sinh.
Tiểu kết
Chưo ̛ng viết này chỉ ra cùng với sự thay đổi của đời sống xã
hội và cơ hội tiếp cận ngày càng nhiều, giới trẻ Hà Nội không phải là
một nhóm đồng nhất mà ngày càng đa dạng và phân hoá.
Từ góc độ lý thuyết, giới trẻ là đối tu ̛ợng nghiên cứu với nhiều
khía cạnh, từ hướng tiếp cận lối sống, nhu cầu giải trí, đến tiếp cận
bản sắc, tiểu văn hóa..v.v... Các nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của
âm nhạc trong việc kiến tạo bản sắc giới trẻ. Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu đề cập đến âm nhạc gắn với một nhạc cụ, tác động như
thế nào đến đời sống của xã hội nói chung, của giới trẻ nói riêng.
Những tài liệu về ghi ta lại thiên về lịch sử hình thành và phát triển,
kỹ thuật chơi ghi ta. Nghiên cứu này sẽ vận dụng một số lý thuyết đã
11
được sử dụng thành công trong các nghiên cứu về văn hoá giới trẻ
như lý thuyết về “tiểu văn hoá”, thị hiếu và sự khu biệt.... để tìm hiểu
khía cạnh văn hoá của cây đàn ghi ta liên quan đến đời sống của giới
trẻ.
CHƯƠNG 2. GHI TA VÀ SỰ DU NHẬP VÀO VIỆT NAM
Theo cuốn “Handbook of American Popular Culture” (Sổ
tay về văn hoá phổ thông của Hoa Kỳ) do Inge chủ biên (1978), ghi
ta có thể coi là thuộc loại hình “văn hóa phổ thông” hay “văn hoá
đại chúng” dựa vào sức hấp dẫn phổ biến và đại trà của nó đối với
đại đa số người tiêu dùng. Khái niệm văn hoá phổ thông được hiểu
khá rộng, bao hàm một số lượng đa dạng các hiện tượng, loại hình
văn hoá và các sản phẩm phổ biến trong một xã hội nào đó hay các
vật phẩm văn hóa được phân bố rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội,
được dùng để tiêu khiển thời gian, gần giống với các loại hình văn
hóa đại chúng. Sức sống của ghi ta và sự lan toả của nó không chỉ
dựa trên những tính năng riêng của cây đàn mà nhiều hoạt động âm
nhạc ghi ta còn như một loại hình văn hóa đại chúng.
2.1. Ghi ta trên thế giới
2.1.1. Sơ lược về nguồn gốc ghi ta
Cho tới nay, đã có một số nhà nghiên cứu viết về nguồn gốc
và sự phát triển của ghi ta trên thế giới và ở Việt Nam. Hầu hết các
tài liệu này đều có thông tin thống nhất rằng, ghi ta xuất hiện rất sớm
ở châu Âu. Tuy nhiên, theo các tác giả Nguyễn Thành Phu ̛ơng
(1998), Lưo ̛ng Đức Thắng (2006), Nguyễn Thị Hà (2010), Nguyễn
Quang Tùng (2013), Nguyễn Thị Hà (2017) và một số bài viết trên
các trang mạng thì sự xuất hiện của ghi ta có ba giả thuyết chính.
Tóm lại, dù chưa thống nhất về nguồn gốc xuất sứ nhu ̛ng có thể
khẳng định ghi ta có lịch sử lâu đời và trải qua nhiều giai đoạn phát
triển.
2.1.2. Sơ lược lịch sử phát triển của ghi ta trên thế giới
Ghi ta trước hết hình thành và phát triển ở các nước Châu Âu
sau đó lan rộng sang các châu lục khác trong đó có Châu Á. Vào
khoảng thế kỷ XVI là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng
của cây ghi ta “cổ điển”. Đến giữa thế kỷ XVIII cây đàn ghi ta hoàn
hảo nhất đã ra đời dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy
Antonio de Torres. Sang thế kỷ XX, cây ghi ta sáu dây đã có sự phát
triển mạnh mẽ với một số trường phái và khuynh hướng nhạc ghi ta.
12
Ngoài ra tiếng đàn ghi ta đã rẽ sang một nhánh ghi ta tồn tại được
phổ biến và lan toả mạnh mẽ trong giới bình dân với phong trào
Hippy.
2.2. Sự du nhập của ghi ta và vai trò của nó trong đời sống văn
hoá nghệ thuật Việt Nam
Đàn ghi ta xuất hiện ở Việt Nam từ khi nào cho đến nay vẫn
chưa có lời giải đáp chính xác. Tuy nhiên, phần lớn được nhiều người
đồng ý là ghi ta đã theo chân các cha cố người Pháp và các thương
gia du nhập Việt Nam từ đầu thế kỉ XIX .
2.2.1. Sự du nhập và quá trình phát triển của ghi ta ở Việt Nam
Một trong những dấu ấn mở đầu cho sự phát triển của ghi ta
ở Việt Nam là sự xuất hiện phong trào “lời ta điệu tây” vào đầu
những năm 30 của thế kỉ XX, ghi ta là biểu tu ̛ợng văn hóa mới trở
nên quen thuộc với thanh niên Việt Nam. Sau này, ghi ta còn được
các nghệ sĩ tài tử nam bộ cải tiến khoét lõm các phím đàn gọi là ghi
ta phím lõm, làm thay đổi thanh âm của mỗi dây đàn dựa trên 5 âm
(pentatonic: hò, xự, xang, xế, công, tương đu ̛o ̛ng với các nốt đồ, rê,
pha, sol, la) để diễn tấu các bản nhạc mang đậm âm nhạc dân tộc của
cu ̛ dân vùng Nam Bộ nhu ̛: Cải lương, các điệu lý, điệu hò. Các
trường âm nhạc dạy dàn ghi ta cũng được mở và tạo điều kiện cho
ghi ta phát triển một cách chuyên nghiệp hơn. Đất nước thống nhất
năm 1975 nghệ sỹ ghi ta ở hai miền có dịp gặp nhau, trao đổi kinh
nghiệm, bài bản và kỹ thuật, từ đó tạo cơ sở cho nghệ thuật ghi ta non
trẻ của Việt Nam có dịp phát triển lên một trình độ mới. Kể từ sau
năm 1990, ghi ta cổ điển cũng như nghệ thuật ghi ta nói chung dường
như bước vào thoái trào.
Đến đầu thế kỉ XXI cùng với sự phát triển của khoa học công
nghệ, mạng internet sự giao lưu của những người yêu ghi ta đã không
bị giới hạn trong một vùng cụ thể mà có thể thường xuyên tìm hiểu
trao đổi học hỏi với bên ngoài, trong một không gian văn hóa nghệ
thuật rộng hơn trước rất nhiều.
2.2.2. Ghi ta phát triển ở Hà Nội
Cùng với hành trình vào Việt Nam, ghi ta xuất hiện ở Hà Nội
từ những năm 20 của thế kỉ XX. Từ năm 1945, cây ghi ta đã trở
thành bạn đường thân thiết của các nhạc sĩ kháng chiến, giới học sinh
sinh viên và nhiều người yêu nhạc. Nhiều nhạc sĩ đồng thời là người
đệm ghi ta rất giỏi đã xuất hiện như: Hoàng Vân, Trọng Bằng, Tô
Vũ, Văn Chung, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận,
13
Phạm Duy, Văn Ký.... Qua kí ức của các nghệ sĩ Thiện Tơ, Nguyễn
Quang Tôn, Nguyễn Tỵ của nhóm ‘‘Thất cầm’’ có thể thấy được
hành trình của cây đàn ghi ta tại Hà Nội. Nhóm “Thất cầm” được coi
là những người thắp lửa cho tình yêu ghi ta tại Hà Nội
Ngoài những nghệ sĩ tên tuổi của thế hệ trước thì đến nay có
nhiều nghệ sĩ ghi ta vẫn tiếp bước cha ông duy trì, thắp sáng vì một
nền nghệ thuật ghi ta của Hà Nội được phát triển. Họ là Đặng Ngọc
Long, Phan Đình Tân, Phạm Văn Phương, Nguyễn Lan Anh và sau
này là thế hệ của Tuấn Khang, Nguyễn Phương Hà, Nguyễn Văn
Phúc, Nguyễn Hùng Phongvv
2.2.3. Vị trí, vai trò của ghi ta trong đời sống văn hóa Việt Nam
Ghi ta có âm sắc rất gần gũi, phù hợp với tâm lý, tính cách,
phong tục tập quán của ngu ̛ời Việt. Không những vậy, cấu tạo của
cây đàn ghi ta rất gọn nhẹ, đo ̛n giản nên có thể di chuyển ở bất cứ
không gian nào để biểu diễn, là nhạc cụ dễ học, không chỉ dành cho
các nghệ sỹ chuyên nghiệp mà những ngu ̛ời không chuyên. Ghi ta có
rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển và có vị trí, vai trò vững
chắc trong đời sống văn hóa - xã hội của Việt Nam.
Trong suốt những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Mỹ,
ghi ta đã đi cùng một thế hệ thanh niên, hành trang của người lính
như trong các tác phẩm âm nhạc “Cây đàn ghi ta của đại đội Ba”.
Hình ảnh cây ghi ta cùng cây súng trên vai ngu ̛ời chiến sĩ đã như một
biểu tượng của sức trẻ, nhiệt huyết, tràn đầy khát vọng sống. Cũng
với ý nghĩa có tính biểu tu ̛ợng này bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca”,
Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Ngu ̛ời, Đêm Trường So ̛n nhớ Bác, Ngu ̛ời
Hà Nội, Sông Lô, Tiếng hát giữa rừng Pác Pó, Chào mừng Đảng
cộng sản Việt Nam...
Tiếng đàn ghi ta còn góp phần quan trọng trong việc thể hiện
thân phận của con người, đồng thời cũng là cách nhìn nhận của ngu ̛ời
nghệ sỹ trước thời cuộc của đất nước. Trong các nghệ sỹ gắn liền với
tiếng đàn ghi ta, phải kể đến Trịnh Công So ̛n.
Tiểu kết
Đàn ghi ta được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX là
minh chứng cho quá trình giao lu ̛u, tiếp biến văn hóa thế giới, từ đó
đã mang lại cho văn hóa Việt Nam một làn gió mới. Trong quá trình
hình thành và phát triển cho đến nay, ghi ta đã có một “đời sống”
phong phú, vừa cho thấy tính quốc tế của nhạc Việt, vừa mang bản
14
sắc văn hóa Việt Nam.
Hơn thế, nó đã trở thành một biểu tượng trong đời sống văn
hoá nghệ thuật Việt nam, gắn với sức trẻ và sự nhiệt huyết của tuổi
trẻ. Chính vì thế, ghi ta tuy đu ̛ợc xem là một nhạc cụ bình dân nhưng
đã thu hút giới trẻ mọi thế hệ, đu ̛ợc thấy từ sự lựa chọn của thế hệ
nhạc sĩ, nghệ sĩ đầu tiên ở Việt Nam và Hà Nội. Thời kì chiến tranh,
ghi ta theo chân các nghệ sĩ ra chiến trường, động viên tinh thần
chiến sĩ. Trong thời bình, đàn ghi ta với tính phổ cập, đại chúng đã
mang âm nhạc đi sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân.
Quá trình du nhập của ghi ta vào Việt Nam cũng nhu ̛ các giai
đoạn phát triển của nó không chỉ cho thấy quá trình Việt hóa một
nhạc cụ nước ngoài mà còn cho thấy vai trò và mối quan hệ của nó
với giới trẻ cũng nhu cầu nghệ thuật của họ, các giá trị văn hóa mới
nảy sinh, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.
CHƯƠNG 3. NHỮNG HOẠT ĐỘNG GHI TA CỦA GIỚI TRẺ
TẠI HÀ NỘI
Trong những năm gần đây, công chúng trẻ Hà Nội dần quen
với hình ảnh những chàng trai trẻ cho ̛i đàn ghi ta cùng nhau tổ chức
những buổi “Du ca đường phố” để được đàn, được hát cho mọi ngu ̛ời
nghe. Họ là thành viên của những CLB âm nhạc. Các buổi trình diễn
ghi ta ấy đã góp thêm vào các loại hình giải trí khác nhau, đa dạng
hơn ở thủ đô.
3.1. Hoạt động ghi ta chuyên nghiệp
Tại Hà Nội, có nhiều cơ sở dạy đàn ghi ta chuyên nghiệp
như: Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam, ĐH văn hóa nghệ thuật
Quân đội, Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Hà Nội, ĐH Văn hóa,... Một
trong những tiêu chí đào tạo tại các tru ̛ờng âm nhạc chuyên nghiệp là
tạo ra các nghệ sĩ, nhạc công ở các bộ môn nhạc cụ khác nhau, vừa
mang tính chuyên sâu từng nhạc cụ vừa mang tính phổ cập về kiến
thức âm nhạc. Bên cạnh đó là sự ra đời các trung tâm, co ̛ sở đào tạo
âm nhạc là sự đòi hỏi tất yếu của cuộc sống và thể hiện tính xã hội
hóa trong việc đào tạo âm nhạc. Đông đảo quần chúng có dịp tiếp cận
những kiến thức âm nhạc co ̛ bản mà không cần phải theo học khóa
đào tạo chuyên nghiệp.
3.2. Các CLB và Trung tâm ghi ta
Trên địa bàn trung tâm thành phố Hà Nội hiện nay có hàng
trăm CLB ghi ta lớn, nhỏ, với đủ mọi tầng lớp lứa tuổi theo học. Đó
15
là hệ thống CLB ghi ta cổ điển của các nghệ sĩ tên tuổi đứng ra giảng
dạy, các CLB đàn ghi ta của các tru ̛ờng ĐH đóng trên địa bàn thủ đô
Các trung tâm dạy nhạc dành cho trẻ em nhu ̛ Cung thiếu nhi Hà Nội,
Trung tâm âm nhạc Yamaha, Nhà văn hóa quận, và chu ̛a kể các CLB
tự phát do các giáo viên ghi ta hoặc những ngu ̛ời có khả năng chơi
đứng ra tổ chức và mở lớp dạy.
Hiện nay có khá nhiều các CLB ghi ta sinh viên. Với các
trường ĐH, tru ̛ờng cao đẳng đóng trên địa bàn Hà Nội, có khoảng
hơn 10 CLB ghi ta trực thuộc. Đó là các CLB đàn ghi ta của tru ̛ờng:
ĐH Bách Khoa, ĐH Thương mại, ĐH Xây dựng, ĐH Kinh tế, ĐH Y,
ĐH Kiến trúc, ĐH Hà Nội, ĐH Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH
Ngoại thương, ĐH Mở, ĐH Giao thông, Cao đẳng su ̛ phạm....Các
CLB này đu ̛ợc hình thành từ Hội sinh viên của các tru ̛ờng. Các CLB
này không chỉ hoạt động đo ̛n lẻ trong phạm vi trường mà còn tổ chức
nhiều cuộc giao lưu, hội ngộ giữa các trường trong những dịp đặc
biệt, hoặc trong một sự kiện có ý nghĩa xã hội nào đó nhu ̛ ngày kỉ
niệm thành lập Đoàn, đêm nhạc vì trẻ em khó khăn, hoặc ủng hộ
những nơi gặp thiên tai, v.v.... Họ thường tổ chức bốn hoạt động lớn
sau: theo hình thức nội bộ và bên ngoài;
Hoạt động nội bộ là hoạt động quan trọng nhất và
thường xuyên bao gồm sinh hoạt hàng tuần, tổ chức
teambuilding, tổ chức sinh nhật
Hoạt động thứ 2 là giao lưu nhỏ
Hoạt động thứ 3 là đi biểu diễn
Hoạt động thứ tư là du ca
Sinh viên tham gia CLB ghi ta trong tru ̛ờng ĐH thu ̛ờng khá
đông, khoảng trên dưới 70 thành viên cả nam và nữ. Địa điểm sinh
hoạt, tập luyện, giao lưu của các CLB thường là ở tru ̛ờng, có thể là
công viên một no ̛i trên đu ̛ờng phố.... Thời gian sinh hoạt của các
CLB là từ 5h30 chiều đến 7h30 tối hoặc muộn hơn, một tuần sinh
hoạt từ 1đến 2 buổi, tuỳ vào mỗi CLB.
Thể loại âm nhạc của nhóm sinh viên đam mê ghi ta thì muôn
hình vạn trạng, với nhóm học chuyên nghiệp thì có các hệ thống bài
bản tự chọn và bắt buộc theo khung của nhà tru ̛ờng: những bản nhac
nhạc cổ điển, nhạc Việt Nam, Jazz, Pop... Nhắc đến CLB, nhóm
không thể không nhắc tới ngu ̛ời khởi xu ̛ớng, chủ nhiệm CLB và các
thành viên. Một CLB, nhóm có nhiều thành viên tham gia nhu ̛ng họ
16
là những ngu ̛ời đồng dạng với nhau (cùng có sở thích âm nhạc, thích
học ghi ta, thích nghe nhạc ghi ta, có bạn thì tham gia vào CLB này
để được thực tập với chuyên môn của mình). Chủ nhiệm CLB có vai
trò quan trọng quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của
CLB, nhóm, có nghĩa là họ là những ngu ̛ời có “quyền lực” nhất trong
mối quan hệ với các thành viên của CLB. Cây ghi ta được xem như
“linh hồn” của CLB. Ngu ̛ời dạy ghi ta (có thể là các thầy dạy, thuê từ
bên ngoài, hoặc chính là các thành viên của ban chuyên môn của
CLB). Đông đảo nhất là các thành viên (tham gia với vai trò là ngu ̛ời
học ghi ta, ca sĩ, nhạc công, những ngu ̛ời tham gia trong ban truyền
thông, đối ngoại, hậu cần...). Với việc thực hành tổ chức duy trì CLB,
các bộ phận âm thanh ánh sáng, các shop đàn ghi ta, các nghệ sĩ ghi
ta và các tổ chức bán đàn ghi ta kiêm dạy đànghi ta – là những nhà tài
trợ tiềm năng cho mỗi hoạt động của CLB. Bên cạnh nhà tài trợ
chính còn có các nhà bảo trợ truyền thống cho các hoạt động từ khi
bắt đầu cho đến khi kết thúc. Đó là các trang báo, trang tin, các
fanpage, wedsite như: Kenh14, Zing, Hoa học trò.....
Phương tiện được giới trẻ sử dụng là đàn ghi ta. Chắc chắn
rằng mỗi ngu ̛ời đều có sở thích riêng về âm nhạc nhu ̛ng đến với CLB
ghi ta thì giới trẻ đều có sở thích chung là ghi ta, tạo nên sự khác biệt
với những hoạt động giải trí khác. Nhìn chung, hoạt động của các
CLB ghi ta sinh viên có nhiều điểm tương đồng. Ngoài các CLB ghi
ta sinh viên thì trong các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn Hà Nội thì
ghi ta cũng gắn bó với đời sống văn nghệ của họ. Hiện nay đất nước
công nghiệp hoá – hiện đại hoá đã thúc đẩy sự phát triển của công
nghệ thông tin, mạng internet, đây là kênh xã hội mà giới trẻ có thêm
cơ hội để quảng bá mình. Nó giúp cho tất cả mọi đối tu ̛ợng muốn tìm
hiểu về ghi ta để luyện tập dễ dàng ho ̛n, chủ động và tiết kiệm đu ̛ợc
thời gian.
3.3. Các cuộc thi và giao lưu nghệ thuật ghi ta chuyên nghiệp và
không chuyên
Những hoạt động biểu diễn ghi ta ở Hà Nội đã phản ánh thẩm mĩ
cũng như nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người dân. Từ những
buổi biểu diễn mang chất lượng nghệ thuật cao đến những buổi biểu
diễn mang tính chất giao lưu quần chúng đã tạo điều kiện nâng cao
sự hiểu biết về nghệ thuật ghi ta, vừa đáp ứng niềm đam mê của
những người yêu thích chơi ghi ta cũng như những người mê nghe
17
nhạc ghi ta. Có thể kể đến một số hoạt động biểu diễn tiêu biểu như
Dự án “Giao lưu ghi ta Bắc- Nam” do nghệ sĩ ghi ta Tuấn Khang
khởi xướng, ngoài ra là các cuộc thi ghi ta mở rộng, các đêm diễn của
hệ thống CLB ghi ta cổ điển, tại nhà hát Tuổi Trẻ Hà Nội đã diễn ra
cuộc thi liên hoan quốc tế và biểu diễn của dòng nhạc fingerstyle.
3.4 Hoạt động trình diễn và thưởng thức nhạc ghi ta của các CLB
Có thể nói, hoạt động của CLB ghi ta cổ điển Hà Nội và một số
CLB trường ĐH là những hoạt động âm nhạc mang tính văn hóa xã
hội. Không chỉ tổ chức những buổi trình diễn nghệ thuật của riêng
CLB mình họ còn tổ chức những buổi biểu diễn giao lưu, những buổi
có tính chất từ thiện. Ở đó các cây ghi ta của cácc trường đại học có
cơ hội giao lưu học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, giao lưu với các nghệ sĩ
ghi ta có tiếng ở Hà thành. Đồng thời các đêm nhạc còn quyên góp từ
thiện cho các hoạt động tình nguyện. Bên cạnh đó là âm nhạc đường
phố là một trong những nét văn hoá của nhiều nước phát triển. Nhóm
“Du ca đường phố” xuất hiện với đông đảo các thành viên và tạo nên
lực hút với cộng đồng.
3.5. Sinh hoạt ghi ta ở các tụ điểm vui chơi, giải trí
Ngoài những cơ sở đào tạo âm nhạc, các trung tâm, CLB, nhà
văn hoá, những sân khấu mang tính chất hàn lâm, học thuật thì các
không gian âm nhạc khác như các quán cafe, quán trà, nhạc ghi ta
cũng hiện diện như một phần tất yếu. Tới đây, nhiều nhóm trẻ không
chỉ “nhâm nhi” đồ uống, trò chuyện, thư giãn với bạn bè mà còn chia
sẻ tình yêu âm nhạc, cùng nhau thưởng thức những giai điệu lãng
mạn êm ái trong không gian gần gũi, trẻ trung. Âm nhạc mà những
quán cà phê lựa chọn thường là các dòng nhạc có tiết tấu chậm rãi,
êm ái, phù hợp với số đông.
Tiểu kết
Qua những khảo sát cụ thể các hình thức hoạt động ghi ta, bức
tranh toàn cảnh về đời sống âm nhạc và đời sống tinh thần gắn với
đàn ghi ta của người dân sống tại địa bàn Hà Nội hiện lên thật phong
phú và đa dạng. Đó là sự hoạt động của những CLB, nhà văn hóa,
trung tâm dạy ghi ta, hoạt động biểu diễn chuyên nghiệp hay sự trình
diễn ghi ta tại các quán café, phòng trà ca nhạc của cả những nghệ sĩ
chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Đặc biệt, các sinh hoạt ghi
ta giao lưu văn hóa, kết bạn của giới trẻ chủ yếu tầng lớp học sinh,
sinh viên hay của các bạn trẻ nói chung, đã làm cho “đời sống” của
họ cùng với cây đàn này thêm phong phú cũng như làm cho các hoạt
18
động văn hóa nghệ thuật của lớp trẻ đa dạng hơn. Nó góp phần không
nhỏ làm giàu thêm tri thức về nghệ thuật âm nhạc nói chung và nghệ
thuật ghi ta nói riêng, đồng thời cũng làm giàu thêm đời sống tinh
thần của giới trẻ.
CHƯƠNG 4. GHI TA – SỰ KẾT NỐI VÀ TẠO DỰNG
BẢN SẮC GIỚI TRẺ
Nhiều học giả đã chỉ ra, để hiểu một cách đúng đắn và toàn
diện về giới trẻ, cần quan sát kỹ đời sống văn hoá và giải trí của họ
(Tracy Shildrick & Robert MacDonald 2006). Giải trí không chỉ là để
thoả mãn nhu cầu thư giãn mà còn là phương tiện kết nối và thể hiện
căn tính cá nhân. Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá, giới trẻ Việt
Nam ngày càng đa dạng và có sự phân hoá rất mạnh. Mỗi nhóm trẻ
tìm thấy cho mình một thị hiếu riêng, sở thích riêng, những hình thức
giải trí riêng, và chính những điều này cũng làm nên sự khu biệt giữa
các nhóm.
4.1. Bối cảnh xã hội và đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay
Sau 30 năm đổi mới (từ 1986), từ một đất nước có nền kinh
tế với 90% dân số làm nông nghiệp, đến nay đất nước ta đã có nhiều
thay đổi. Toàn cầu hoá là một trong những tác nhân có ảnh hưởng lớn
đến hiện trạng xã hội hiện nay. Toàn cầu hoá đã đem lại những luồng
gió mới, tác động trực tiếp tới giới trẻ. Giới trẻ hiện nay có thể tiếp
cận được tri thức nhân loại ở mọi lúc, mọi nơi qua internet. Giới trẻ
luôn được coi là những người tiên phong, đi đầu trong những xu
hướng, nắm bắt những mẫu mã, phong cách trong thời trang, âm nhạc
nói riêng. Mặt khác, một số nghiên cứu đánh giá rằng bối cảnh hội
nhập đã khiến không ít bạn trẻ xa rời các giá trị đạo đức truyền thống
mà hình thành những tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, lối sống
lạnh lùng, vô cảm, thiếu hụt những đam mê và khát vọng vốn là tài
sản quý báu của tuổi trẻ. Trong bối cảnh giới trẻ bị phân hoá như vậy,
nhu cầu vui chơi giải trí của giới trẻ cũng rất phong phú, với nhiều
hình thức đa dạng ở những không gian và thời gian khác nhau.
4.2. Ghi ta như một phương tiện kết nối
Đàn ghi ta có thể đem đến những mối quan hệ rộng mở cho
tất cả tầng lớp, lứa tuổi, giới tính trong xã hội từ học sinh, sinh viên,
già, trẻ, gái, trai khi mọi người đến với ghi ta. Tiếng đàn dễ làm cho
mọi người có được sự tâm giao. Có thể nói, nó là một phương tiện
giao tiếp đặc biệt trong xã hội, giúp con người gần gũi nhau hơn,
được cảm thông, chia sẻ.
19
Ở các quán cà phê ca nhạc thì đối tượng đến nghe nhạc đa
dạng hơn, các quan hệ giao lưu trong không gian âm nhạc đó cũng
phong phú hơn. Trong rất nhiều bữa tiệc, liên hoan, hay những sự
kiện lớn thì âm nhạc nói chung trong đó có đàn ghi ta không thể
thiếu. Đặc biệt, trong những buổi liên hoan của các bạn trẻ, ghi ta lại
không thể vắng mặt. Là sinh viên của thời đại kĩ thuật số và mạng
truyền thông nên các CLB ghi ta sinh viên mở rộng hình thức quảng
bá, liên kết trên các website của trường.
4.3. Từ kết nối đến tạo dựng mạng xã hội và vốn xã hội
Theo hai nhà nghiên cứu Lê Minh Tiến (2010) và Nguyễn
Thị Phương Châm (2013) viết về MLXH thì trong bối cảnh xã hội
toàn cầu hoá hiện nay sự kết nối mạng lưới xã hội trở nên đa chiều và
phức tạp, tuy nhiên sự chia sẻ trong các thực hành ghi ta giữa những
người trẻ cùng sở thích về âm nhạc tạo nên sự gắn kết trong các
CLB, nhóm tạo thành MLXH, các thành viên trở nên năng động, gần
gũi với nhau, tương tác của cá nhân với nhóm hay tương tác giữa các
nhóm. Ghi ta đóng một vai trò là phương tiện để giới trẻ tìm kiếm các
quan hệ xã hội, hay VXH mà theo Basani cái làm nên hạnh phúc của
thanh niên là VXH – kết quả của sự tương tác xã hội – được coi là
loại vốn quan trọng nhất và VXH tăng thì hạnh phúc của cá nhân
tăng.
Mặt khác, Theo Bourdieu trong công trình “Sự khu biệt: Phê
phán xã hội đối với sự đánh giá về thị hiếu”, việc lựa chọn ghi ta của
một số nhóm người trẻ tuổi còn để tạo ra “thị hiếu khác biệt”, có thể
khu biệt họ với các nhóm người khác, hình thành nên một nhóm xã
hội có bản sắc riêng, có vị thế xã hội riêng. Theo Ken McCulloch,
Alexis Stewart & Nick Lovegreeii (2006) thì, “cách mà giới trẻ lựa
chọn trang phục, các hoạt động giải trí và các nơi để tụ tập cũng là
diễn tả nên bản sắc cá nhân và tập thể của họ”. Nhóm trẻ lựa chọn ghi
ta và các hoạt động trình diễn của họ là một dạng “tiểu văn hoá”. Mỗi
nhóm giới trẻ chơi ghi ta có lựa chọn dòng nhạc riêng cho mình cũng
như thể loại âm nhạc khác nhau, tuỳ vào năng lực và sự am hiểu của
cá nhân và nhóm. Mặc dù đều là các CLB ghi ta nhưng mỗi CLB ghi
ta sinh viên đều tạo dựng cho mình những sắc màu riêng. Trong bối
cảnh xã hội giới trẻ có sự phân hoá rõ nét như ngày nay, việc tự định
dạng cá nhân và nhóm của mình với ghi ta khiến họ khu biệt mình
như những con người sống “lành mạnh”, so với những nhóm thanh
niên “buồn chán”, “hưởng thụ”, “sống ảo”... như báo chí thường nói
20
đến. Và như vậy, các CLB ghi ta không chỉ trở thành không gian tạo
dựng mạng xã hội và VXH, mà còn góp phần tạo dựng nên bản sắc
nhóm và định dạng bản sắc cá nhân.
4.4. Ghi ta: công cụ khẳng định bản sắc cá nhân
Một giáo sư người Đức - Beck (2002) - “xã hội rủi ro” với
nhiều đau khổ, giới trẻ như bị mất phương hướng, cảm thấy cô đơn,
mất niềm tin. Nhu cầu khẳng định “cái tôi” và bản sắc cá nhân của
giới trẻ rất lớn. Sự xuất hiện các bản sắc cá nhân, bản sắc nhóm sẽ
củng cố tạo lập các liên kết theo các chiều, mở rộng các mối quan hệ
khác nhau gọi là mạng lưới xã hội.Tạo dựng bản sắc nhóm có vô số
cách thức, mỗi nhóm lại tìm cho mình những đặc điểm riêng để hình
thành. Việc chơi nhạc cụ cũng trở thành một phương tiện để tự khẳng
định mình của giới trẻ, và nhóm trẻ chơi ghi ta đã tạo dựng nên
những bản sắc nhóm riêng, như một cách họ định vị bản thân trong
xã hội.
4.4.1 Ưu thế của ghi ta đối với giới trẻ
Do có thiết kế nhỏ gọn, ghi ta có thể dễ dàng vận chuyển từ
nơi này đến nơi khác, không gian trình diễn bất kỳ nơi đâu. So với
các loại nhạc cụ khác, thì ghi ta tương đối rẻ. Với những người mới
chơi chỉ cần làm chủ được một vài hợp âm cơ bản là có thể gảy được
một số bài đệm hát đơn giản.
4.4.2 Khẳng định “cái tôi” và kiếm tìm sự cân bằng tinh thần
Có nhiều hình thức tham gia vào các hoạt động ghi ta của
giới trẻ. Có người tham gia hoạt động học đàn để giải trí, mỗi người
có cách thức tham gia riêng. Trong bối cảnh hiện nay nguyên nhân
khi họ tham gia vào hoạt động ghi không chỉ là để giải trí mà còn tìm
được những “hạnh phúc” riêng trong một cuộc sống nhiều áp lực.
Giới trẻ họ cũng tự tin hơn khi thể hiện cái tôi, tự tin hơn với năng
lực bản thân, độc lập trong suy nghĩ dám làm những điều mình muốn.
Luôn muốn khẳng định “cái tôi” để mình khác biệt, nổi bật giữa đám
đông hay cộng đồng.
Trong lịch sử của làng âm nhạc Việt, những cá tính âm nhạc
gắn với cây đàn ghi ta như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Trần Tiến luôn
được công chúng vào những năm 1960 nhớ đến. Đối với các bạn sinh
viên ngày nay nhiều người chơi ghi ta là để gây ấn tượng, tìm thấy
những “hình mẫu”cho mình, như Khánh, Minh Quân..., hay với Đạt
có những tính cách mà không “di truyền” từ cha mẹ hoặc tạo hoá
“trời sinh” có sẵn, mà chỉ khi tham gia vào các hoạt động ghi ta cá
21
tính ấy mới bộ lộ hoặc mới hình thành. Ghi ta khiến cho nhiều bạn trẻ
trở nên tự tin hơn như Mai, có khi lại là phương tiện để hàn gắn vết
thương tình cảm thuở sinh viên như Phương. Nhiều phụ huynh như
chị Hồng, chị Phương..., còn nhận ra thế mạnh của việc chơi ghi ta và
đã cho con học như một cách thức để thay đổi chính con người và cá
tính của con trẻ. Khi vào CLB ghi ta những bạn trẻ với góc độ quản
lý bởi chính những người cùng trang lứa mình, họ có cơ hội thể hiện
mình trong công việc tổ chức.
Một trong những khía cạnh thú vị khác của ghi ta là nó mang
tính giới. Cây đàn ghi ta thường được xem là gắn với hình ảnh của
nam giới. Không kém phần ấn tượng khi ghé thăm CLB ghi ta Học
viện Báo chí ở đó con trai trở thành “mì chính cánh”.
4.4.3 Tạo lập dấu ấn cá nhân
Theo Giddens (1991) “tự nhận dạng là một quá trình có tính
phản thân một nỗ lực mà chúng ta tiếp tục làm và phản ánh. Chúng ta
tạo ra, duy trì và chỉnh sửa một tập hợp các câu chuyện tiểu sử, câu
chuyện về chúng ta là ai, và làm thế nào chúng ta lại như bây giờ.”
Còn theo Howarth (2002:20) “cái bản sắc luôn luôn được tạo dựng
thông qua cách thể hiện”.
Một số bạn trẻ như Mạnh Dũng, Duy Phong, Tùng, Tuấn,
Hà, Đạt đã xác lập chỗ đứng cho mình, tự nhận diện mình và được
nhận diện qua lựa chọn chơi ghi ta và những trải nghiệm với nó đã
như một “thẻ căn cước” để tạo dựng bản sắc (cá nhân) của họ.
Tiểu kết
Đàn ghi ta đóng vai trò quan trong trọng nhu cầu thưởng thức
âm nhạc và văn hóa tinh thần của giới trẻ. Ghi ta là một phương tiện
kết nối, là công cụ để giới trẻ tạo dựng các mối quan hệ xã hội và vốn
xã hội cho bản thân. Ghi ta cũng giúp giới trẻ định vị cái tôi và bản
sắc cá nhân, cũng như góp phần định vị bản sắc nhóm và khu biệt
nhóm cùng chung sở thích. Ghi ta giúp hình thành tinh thần đồng đội,
tình cảm gắn bó, khả năng thể hiện bản thân, giúp họ thêm tự tin, có
nhiêu hứng thú hơn trong học tập.
KẾT LUẬN
Từ sau khi Đổi Mới, xã hội Việt Nam đã và đang đứng trước
những thay đổi to lớn trong bối cảnh toàn cầu hoá. Bên cạnh đó, quá
trình phân hoá về kinh tế xã hội cũng kéo theo xu hướng phân hoá về
văn hoá ngày càng rõ ở Việt Nam, đặc biệt các nơi đô thị - đời sống
của người dân được nâng cao. Mỗi người có một sở thích, một nhu
22
cầu giải trí riêng và những người có chung sở thích, giải trí có xu
hướng tập hợp lại thành các nhóm với các hoạt động, tôn chỉ riêng.
Với điều kiện kinh tế xã hội ngày càng tăng, nhu cầu về giải trí hoạt
động văn hoá văn nghệ, thể thao, nhu cầu thưởng thức nghệ
thuật...cũng ngày càng lớn hơn, trong đó có nhu cầu khá lớn về
thưởng thức âm nhạc trong giới trẻ,
Ghi ta là một nhạc cụ phương Tây du nhập vào Việt Nam từ
những năm đầu của thế kỉ trước. Từ khi đến Việt Nam, cây đàn này
đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống âm nhạc của người dân
Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng. Hà Nội là trung tâm
văn hóa chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, vì thế ngày từ khi
du nhập, ghi ta đã có điều kiện để thích ứng và phát triển. Ghi ta đã
trở thành một trong những nhạc cụ không thể thiếu trong cuộc sống
âm nhạc của nhiều người, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên, học sinh hiện
nay. Ngoài ra, những nghệ sĩ trẻ còn dùng chính tiếng đàn của mình
để nuôi dưỡng đam mê, và cũng là phương tiện giúp họ thỏa mãn
đam mê ấy, giúp các nhóm trẻ tạo ấn tượng riêng trong sở thích và
các hoạt động ghi ta đã gắn liền vào cuộc sống của họ. Bên cạnh
những cách thức giải trí, những nhu cầu ăn ngon, mặc đẹp, nhà ở,
tiện nghi.... thì trong những năm trở lại đây, việc chơi ghi ta đang trở
nên phổ biến và gần như trở thành một trào lưu, đặc biệt là trong giới
trẻ. Sức hấp dẫn của ghi ta cháy bỏng và lan tỏa rộng hơn ở mọi ngóc
ngách của xã hội.
Sở dĩ đàn ghi ta gắn bó mật thiết với đời sống âm nhạc của
người Hà Nội bởi nhiều lí do. Hà Nội vốn là trung tâm chính trị, kinh
tế và văn hóa của cả nước, nên cũng đồng thời là môi trường thuận
lợi cho việc học tập và giảng dạy đàn ghi ta. Hơn nữa, các thời kỳ
lịch sử của đàn ghi ta ở Việt Nam cũng là bệ phóng vững chắc cho
nghệ thuật đàn ghi ta phát triển ở đây. Với ưu thế như đơn giản, gọn
nhẹ, giá cả phải chăng, dễ chơi, dễ học, linh hoạt trong cách sử dụng
biểu diễn, những âm sắc thanh mà chắc của ghi ta khi “chạy” trên các
giai điệu tươi vui đã dễ dàng mang lại cho người nghe một xúc cảm
háo hức, tươi mới về cuộc sống, nhất là đối với giới trẻ, đem lại cho
người nghe sự thư giãn trong tâm hồn, sức khỏe sớm được hồi phục.
Âm nhạc ghi ta còn như một ngôn ngữ giao tiếp xã hội đặc biệt, dễ
thu hút người khác trong mối quan hệ xã hội thân thiết cũng như làm
cho mọi người đến với âm nhạc dễ hơn... Do vậy, đàn ghi ta đã dễ
23
dàng chinh phục được nhiều trái tim yêu nhạc, được nhiều người hâm
mộ.
Đàn ghi ta hiện diện trong đời sống của giới trẻ Hà Nội hiện
nay hết sức phong phú và đa dạng, từ môi trường âm nhạc chuyên
nghiệp tại các trường học đến môi trường âm nhạc không chuyên như
các trung tâm, nhà văn hóa, các CLB hay tư gia. Bức tranh về những
hoạt động ghi ta thật sống động bởi những hoạt động biểu diễn
chuyên nghiệp của các nghệ sĩ lẫn không chuyên của tầng lớp học
sinh, sinh viên. Trong đời sống tinh thần ở Hà Nội, đàn ghi ta gắn bó
gần gũi với người dân trong những sinh hoạt tập thể, trong các hoạt
động văn hóa nghệ thuật của sinh viên, của công chức hay các đơn vị
bộ đội. Sự sinh hoạt sôi nổi ấy thể hiện ở các CLB như CLB ghi ta cổ
điển, CLB của các nhà văn hóa thiếu nhi, Cung thiếu nhi, nhóm “Du
ca đường phố”, CLB của các bạn sinh viên Bách khoa, Xây dựng,
Kiến trúc, Ngoại Thương, Học viện tài chính, Học viện báo chí và
tuyên truyền....cũng như ở các quán cà phê ca nhạc như G4U, cà phê
Trịnh ca, quán Like cà phê .v.v...
Như luận án này đã chỉ ra, trong bối cảnh xã hội ngày càng có
sự phân hoá, giới trẻ cũng không thuần nhất mà rất đa dạng, không ít
nhóm trẻ có những lối sống bị xã hội phê phán như chìm đắm trong
game, cờ bạc, nghiện hút, đua xe, sống thiếu lý tưởng và mất niềm
tin, thì đối với các nhóm trẻ chơi ghi ta, ghi ta không chỉ đem lại
những giây phút giải trí đơn thuần, hay những cảm thụ nghệ thuật,
mà ghi ta còn đem lại ý nghĩa cho cuộc đời của các bạn trẻ. Các bạn
trẻ tìm thấy ở đó giá trị của chính mình, thấy bạn bè, thấy những mối
quan hệ kết nối, và từ đó có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống. Các
nhóm cùng sở thích ghi ta đã coi các câu lạc bộ và trung tâm ghi ta là
những “sân chơi” bổ ích, lành mạnh, chia sẻ những khó khăn, đoàn
kết, gắn kết các thành viên.
Bước vào một thế giới hiện đại với nhiều lực hút mãnh
liệt, cây đàn ghi ta giản dị, mộc mạc cũng chịu những tác động
không nhỏ, làm giảm vị thế của nó trong âm nhạc mà ghi ta vốn
đã có những hạn chế nhất định trong trình diễn. Việc lựa chọn
chơi đàn ghi ta trong giới chuyên nghiệp ít nhiều cũng đã ảnh
hưởng tới những thế hệ trẻ và “đời sống” của ghi ta trong xã hội.
Nhưng, như bất kì một sản phẩm văn hóa vật chất cũng như tinh
thần nào của xã hội, chúng đều có những bước đi thăng trầm
24
trong quá trình tồn tại, đều chịu sự chi phối của những thay đổi
xã hội, của hoàn cảnh lịch sử.
Trong cuộc cạnh tranh vị thế nghệ thuật, đàn ghi ta không ồn
ào, “tiếng nói” của nó vẫn cất lên với những âm sắc riêng biệt mà
nhiều nhạc cụ khác không thể thay thế, với những suối âm thanh vẫn
hiền hòa chảy trong trái tim những người, say mê. Ghi ta vẫn có con
đường đi riêng của mình và chắc rằng vẫn có vị trí đáng trân trọng
trong tinh hoa âm nhạc thế giới. Đồng thời những hoạt động ghi ta
của giới trẻ đã giúp mang lại những kỹ năng sống và đặc biệt đã tạo
nên những giây phút thư giãn lý thú, lành mạnh bổ ích, tiếp thêm
năng lượng và động lực học tập, phấn đấu và lập nghiệp của giới trẻ.
Âm nhạc đã giúp giới trẻ tới sự hoàn thiện nhân cách con người.
Qua những gì đã khảo sát, nghiên cứu về hoạt động ghi ta ở
Hà Nội hiện nay, luận án góp phần đưa ra một khía cạnh trong bức
tranh phong phú và đa dạng về đời sống của giới trẻ. Từ đó, với tư
cách là một giảng viên dạy bộ môn ghi ta cũng như với tư cách là
một nghệ sĩ tham gia vào nhiều hoạt động ghi ta trong đời sống văn
hóa Hà Nội, tác giả hy vọng có được hướng tìm tòi, phát triển các kỹ
năng giảng dạy cũng như trình diễn của mình, cũng như có thể đưa ra
những cách thức mới để nghệ thuật ghi ta ngày càng phát triển hơn ở
Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
25
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
1. Tạp chí Văn hoá Nghệ Thuật. Cơ quan của Bộ Văn Hoá, Thể Thao
và Du Lịch, số 367 tháng 2015. Ghi ta trong đời sống âm nhạc ở Hà
Nội.
2. Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa học xã hội, số
Tháng 3 năm 2017. Cây đàn ghi ta – phương tiện kết nối giới trẻ.
3. Tạp chí Văn hoá Nghệ Thuật Quân Đội. Trường ĐH Văn hoá
Nghệ Thuật Quân Đội, số 20 tháng 12 năm 2016. Âm nhạc với đời
sống văn hoá tinh thần.0.0..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_ghi_ta_trong_doi_song_gioi_tre_hien_nay_tai.pdf
- Tomtat_Eng_VuThiThanhTra.pdf