Thay đổi cơ cấu nguồn vốn Nhìn vào biểu 3.16 (cột 3) cho chúng ta biết vốn CSH tăng từ 2.287 tỷ đồng năm 2006 đến năm 2009 là 3.863 tỷ đồng; đến năm 2013 là 4.920 tỷ đồng; tuy nguồn vốn vay (cột 4) có tăng lên từ 6.401 tỷ đồng năm 2006 tăng lên 7.991 tỷ đồng năm 2009, đến năm 2013 là 6.910 tỷ đồng; Tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên nguồn vốn vay (cột 5) luôn luôn có xu hướng tăng lên, qua số liệu từ năm 2006 đến năm 2013 của DN Vinatex (biểu 3.16 nêu trên) chúng ta thấy rõ tỷ trọng VCSH / nguồn Vốn Vay năm 2006 là 26,32%; năm 2007 là 32,19% năm 2009 là 29,8% và năm 2013 là 41,59% điều đó chứng tỏ cơ cấu nguồn vốn của Vinatex luôn thay đổi theo chiều tích cực, giảm nguồn vốn vay và tăng tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu. Điều này sẽ cho thấy việc sử dụng vốn sẽ an toàn hơn, độ rủi ro trong kinh doanh sẽ thấp hơn, doanh nghiệp hoạt động bền vững hơn
24 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Giải pháp tái cấu trúc vốn doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỷ đồng đến năm 2013 đạt
274 tỷ đồng; Doanh thu từ 991 tỷ đồng năm 2009 tăng đến năm 2013 đạt là 2060 tỷ đồng.
(ii) Thay đổi cơ cấu nguồn vốn, tăng nguồn vốn chủ sở hữu, giảm nguồn vốn vay.
Thay đổi cơ cấu nguồn vốn Nhìn vào biểu 3.16 (cột 3) cho chúng ta biết vốn
CSH tăng từ 2.287 tỷ đồng năm 2006 đến năm 2009 là 3.863 tỷ đồng; đến năm 2013 là 4.920 tỷ đồng; tuy
nguồn vốn vay (cột 4) có tăng lên từ 6.401 tỷ đồng năm 2006 tăng lên 7.991 tỷ đồng năm 2009, đến năm
2013 là 6.910 tỷ đồng; Tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên nguồn vốn vay (cột 5) luôn luôn có xu
hướng tăng lên, qua số liệu từ năm 2006 đến năm 2013 của DN Vinatex (biểu 3.16 nêu trên) chúng ta thấy rõ
tỷ trọng VCSH / nguồn Vốn Vay năm 2006 là 26,32%; năm 2007 là 32,19% năm 2009 là 29,8% và năm
2013 là 41,59% điều đó chứng tỏ cơ cấu nguồn vốn của Vinatex luôn thay đổi theo chiều tích cực, giảm
nguồn vốn vay và tăng tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu. Điều này sẽ cho thấy việc sử dụng vốn sẽ an toàn
hơn, độ rủi ro trong kinh doanh sẽ thấp hơn, doanh nghiệp hoạt động bền vững hơn.
(iii) Tái cấu trúc nguồn vốn tín dụng: Giảm vay ngắn hạn, tăng vay dài hạn:
1. Tổng nguồn vốn vay có chiều hướng tăng lên trong các năm 2009, 2010, 2011 so với năm 2006 -2007;
năm 2010 và năm 2011 có tổng nguồn vốn vay nợ là cao nhất tương ứng là 9.658 tỷ đồng và 8.019 tỷ
đồng; năm 2012 và năm 2013 tổng nguồn vốn vay giảm xuống là do các đơn vị hạch toán phụ thuộc được
cổ phần hóa tách khỏi báo cáo quyết toán.
2. Vay ngắn hạn trên tổng vốn vay có chiều hướng đi lên từ 64,6% năm 2006 lên 76,7% năm 2010 và 74,7%
năm 2011. Sang năm 2012 tỷ trọng vốn vay dài hạn lại giảm còn 69,7% đến năm 2013 giảm còn 65,6%.
(năm 2012 và 2013 số liệu giảm, là nguyên do các công ty con DN dệt may tách ra cổ phần hóa).
3. Vay dài hạn trước cổ phần hóa từ năm 2010 trở về trước (2006 -2010) luôn luôn nhỏ chiếm tỷ trọng từ
35,3% năm 2006 đến 23,2% năm 2010. Năm 2011 tỷ trọng nguồn vay dài hạn là 25,2%; Sau cổ phần hóa
năm 2012 và năm 2013 tỷ trọng vốn vay dài hạn trên tổng số vốn vay tương ứng là 30,3% và 34,4%.
Nguyên nhân do sau cổ phần hóa Vinatex đã vay dài hạn để mở rộng đầu tư, kịp thời hội nhập TPP.
Tái cấu trúc nguồn vốn đầu tư không có hiệu quả,
Năm 2010-2011, tổng giá trị đầu tư tài chính dài hạn của công ty là 3.245 tỷ đồng, chiếm hơn 60% tài
sản của công ty. Song doanh thu và lợi nhuận năm 2013 từ bán hàng của công ty mẹ cũng chỉ tương ứng 116
tỷ đồng và 36 tỷ đồng, do hầu hết các công ty con của Vinatex hoạt động không hiệu quả. Điển hình như
Công ty TNHH MTV TM Thời Trang Dệt May (Vinatexmart) lỗ đến 45 tỷ đồng trong năm 2013.
Doanh nghiệp dệt may phải thu hồi vốn, thoái vốn, đầu tư đã đầu tư ngoài ngành
Công ty mẹ Vinatex có vốn chủ sỡ hữu chủ yếu được đầu tư vào các công ty con, công ty lien kết, công
ty lien doanh các khoản đầu tư này hiện đang chiếm 84,6% vốn điều lệ. Tuy nhiên bên cạnh đó công ty mẹ
vinatex cũng đang còn những khoản đầu tư ngoài ngành sản xuất kinh doanh chính của mình.
Do đầu tư ngoài ngành, đầu tư vào những ngành không đúng sở trường, truyền thống của ngành Dệt may
như: đầu tư tài chính, ngân hàng, kinh doanh bất động sản.
3.2.2.2 Thay đổi cấu trúc vốn do các nhân tố ảnh hưởng.
Trong quá trình phát triển và hội nhập vừa qua của các doanh nghiệp Dệt may, thì các yếu tố bên
ngoài cũng tác động ảnh hưởng đến cấu trúc vốn.
(i) Cấu trúc vốn bị ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài.
Nhìn chung tình hình kinh tế của đất nước ta giai đoạn 2007-2013: Năm 2007 là năm đầu tiên Việt
nam gia nhập WTO, kinh tế quốc tế và trong nước tương đối ổn định. Do vậy các chỉ số kinh tế của Việt
Nam khá tích cực: GDP tăng 8,4%. CPI bình quân tăng 8,3%
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là thước đo cơ hội phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh
tế. Đối với mỗi doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng tới cấu trúc tài chính tối ưu cho các dự
án. Do khủng hoảng kinh tế tòan cầu, việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chậm lại trong những
năm 2008-2013 và thấp hơn giai đoạn 2006-2007, làm giảm tỷ lệ vốn vay của các doanh nghiệp thuộc
ngành Dệt May Việt Nam.
Lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao thì rủi ro của việc cấp tín dụng sẽ tăng lên và người cho vay sẽ
có xu hướng hạn chế cho vay. Bởi vậy, những năm lạm phát tăng cao 2007-2008, 2010 - 2011 đã làm ảnh
hưởng đến khả năng huy động vốn vay của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNDMVN nói
riêng. Từ chỗ vốn vay thay đổi nên cấu trúc vốn của các doanh nghiệp dệt may cũng thay đổi.
Thuế suất: Theo lý thuyết mô hình cân bằng, các doanh nghiệp ưa thích sử dụng tài trợ bằng nguồn
vốn vay bởi vì lãi vay được khấu trừ thuế. Trong giai đoạng 2007-2012, với mức thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp 28% trước 1/1/2009 và 25% sau thời điểm này mang đến cho các doanh nghiệp, trong đó có
các doanh nghiệp dệt may, lợi ích thuế từ các khoản vay nợ. Điều này đã khiến cho doanh nghiệp vay nhiều
hơn khi tỷ lệ thuế suất ở mức cao, cấu trúc vốn của các doanh nghiệp cũng thay đổi, theo hướng sử dụng
nhiều vốn từ vay nợ hơn.
(ii) Cấu trúc vốn bị ảnh hưởng của các nhân tố bên trong.
Qui mô của doanh nghiệp: Để đánh giá qui mô của doanh nghiệp trong nghiên cứu này sử dụng chi
tiêu doanh thu của doanh nghiệp. Đối với Vinatex các năm từ 2006 đến 2013 (biểu 3.11) tốc độ tăng doanh
thu tăng trưởng tốt từ 12.122 tỷ đồng năm 2006 tăng lên đến 12.800 tỷ đồng năm 2007 và tăng mạnh 2010-
2011 lên đến 19.682 tỷ đồng, (năm 2012-2013 do tách các đơn vị thành viên nên hạch toán tổng doanh thu
có giảm);
Công ty May Sài Gòn (biểu 3.14 a) doanh thu tăng từ 424 tỷ đồng năm 2008 lên đến 1.228 tỷ đồng
năm 2013, như vậy doanh thu tăng lên 804 tỷ đồng, tốc độ tăng là 289,6%;
Sự tăng trưởng của doanh nghiệp: Thể hiện ở tốc độ tăng của tổng tài sản của doanh nghiệp Vinatex
qua các năm 2006 đến 2013 (bảng 3.8a). Cụ thể năm 2006 tổng tài sản của doanh nghiệp từ 8.688 tỷ đồng
lên đến 11.830 tỷ đồng năm 2013 với mức tăng là 3.142 tỷ đồng tương ứng tỷ lệ tăng là 136,1%; Đối với
Công ty May Sài Gòn biểu 3.14a tốc độ tăng tổng tài sản của doanh nghiệp từ 186 tỷ đồng năm 2008, tăng
lên đến 658 tỷ đồng 2013 với mức tăng là 472 tỷ đồng tương ứng tỷ lệ tăng là 353,7%.
Cấu trúc tài sản hữu hình: Cấu trúc tài sản cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới cấu trúc vốn của doanh
nghiệp, bởi vì cấu trúc tài sản được đo lường thông qua chỉ tiêu tỉ lệ tài sản cố định hữu hình (giá trị tài sản
dài hạn) trên tổng số tài sản của doanh nghiệp. Trong khi đó, tài sản cố định hữu hình có thể được doanh
nghiệp sử dụng làm tài sản thế chấp khi đi vay. Do vậy nếu tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp lớn thì
người cho vay (có thể là ngân hàng) có thể giảm được rủi ro và từ đó cũng có thể giảm chi phí cho vay. Như
vậy về mặt lí thuyết, khi tỷ lệ tài sản cố định hữu hình chiếm tỉ trọng lớn, doanh nghiệp có cơ hội thế chấp
các tài sản này để tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài dễ dàng hơn, hay nói cách khác doanh nghiệp sẽ tăng
“khả năng vay nợ”
Tính thanh khoản: Được đo bằng tài sản lưu động trên tổng vay ngắn hạn, Tính thanh khoản có tác
động (+) tăng, (-) giảm đến cơ cấu vốn. Doanh nghiệp có tính thanh khoản cao có thể thanh toán, đúng đủ
các khoản nợ vay khi đến hạn. Như vậy thanh khoản tốt tỷ lệ thuận với nguồn vốn tín dụng, do đó khả năng
vay nợ tăng lên và cơ cấu vốn cũng thay đổi theo.
Nhân tố cấu trúc vốn chủ sở hữu: Đây là nhân tố riêng có của các DNNN khi mà trong cấu trúc
vốn chủ sở hữu, có một nguồn vốn không nhỏ đó là sự tham gia của vốn của nhà nước. Nhà nước tham gia
với tư cách là một cổ đông, thậm chí là một cổ đông lớn có quyền chi phối và quyết định mọi chiến lược hoạt
động, kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.3 Đánh giá thực trạng cấu trúc vốn của DNDM thời gian qua.
Từ thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tình hình đầu tư và cơ cấu nguồn vốn đối với các doanh
nghiệp dệt may nêu trên, đã chỉ ra những ưu điểm và tồn tại trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp dệt may
như sau:
3.2.3.1 Ưu điểm của cấu trúc vốn doanh nghiệp Dệt và May
(i) Ưu điểm chung cho cấu trúc vốn doanh nghiệp dệt may.
Một là, Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp dệt may đã có sự tái cấu trúc theo hướng gia tăng vốn
thường xuyên (vốn chủ sở hữu và vay dài hạn) để đáp ứng yêu cầu kinh doanh ổn định của các doanh nghiệp
dệt may.
Hai là, Tăng trưởng qui mô vốn chủ sở hữu, chứng tỏ các doanh nghiệp càng phát triển, tăng qui mô
vốn chủ sở hữu càng làm tăng tích tụ tự chủ tài chính, tăng năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập.
Nhìn chung các doanh nghiệp dệt may có tốc độ tăng trưởng về quy mô vốn cao, như Vinatex năm 2006 là
2.287 tỷ đồng đến cuối năm 2013 là 4.920 tỷ đồng tăng là 2.633 tỷ đồng tương ứng là 115,13%;
Ba là: Nhiều doanh nghiệp dệt may đã từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, chi phí vốn
vay rẻ, tìm được nhiều nguồn ưu đãi, được hưởng nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu cho nên đã có
kết quả, hiệu quả kinh doanh khá cao và thu được những lợi nhuận lớn như Vinatex năm 2010 đạt 818 tỷ
đồng, năm 2011 đạt 832 tỷ đồng, năm 2012 đạt 730 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế của công ty May Sài Gòn
năm 2008 là 17 tỷ đồng đến năm 2013 là 49 tỷ đồng tăng lên 32 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ tăng là 190%; Tổng
công ty Việt Thắng năm 2008 lợi nhuật đạt là 56 tỷ đồng đến năm 2013 đạt là 84 tỷ đồng tăng lên là 28 tỷ
đồng tương ứng tỷ lệ tăng 50%...
Bốn là, một số các doanh nghiệp dệt may đã thực hiện được nguyên tắc tài trợ vốn theo tính tương thích
trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Năm là, nguồn vốn vay của DN dệt may có xu hướng ngày càng được đa dạng hóa, đa dạng hóa gói dịch
vụ với Ngân hang. Khả năng tiếp cận nguồn vốn vay trong và ngoài nước tốt, do phát triển sản xuất kinh
doanh, doanh thu tăng trưởng tốt, dòng tiền ổn định, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, uy tín các doanh
nghiệp dệt may tang, nên rất có lợi thế khi vay nợ, thay đổi cấu trúc nguồn vốn vay.
3.2.3.2 Những hạn chế của cấu trúc vốn Doanh nghiệp dệt may.
3.2.3.3 Đặc điểm riêng biệt tái cấu trúc vốn doanh nghiệp ngành Dệt và May.
Ngoài các đánh giá chung về ưu điểm và tồn tại cho doanh nghiệp ngành Dệt và May thì đối với mỗi
loại hình doanh nghiệp cụ thể, có nhận xét đánh giá về ưu nhược cấu trúc vốn như sau:
(i) Đối với doanh nghiệp ngành Dệt: Ngoài những ưu điểm nhược điểm chung của ngành dệt may ra thì
ngành Dệt còn có những đặc điểm riêng của ngành như sau:
Một là: Ngành Dệt có giá trị TSCĐ lớn, do vậy việc thu hút vốn đầu tư xây dựng cần một lượng
vốn lớn hơn nhiều so với một doanh nghiệp may. Bởi vậy các DN FDI thường thích đầu tư vào các nhà máy
may, ít khi họ đầu tư vào một nhà máy dệt. Theo hiệp hội dệt may cho đến cuối năm 2013 thì số lượng các
công ty may chiếm tỷ trọng lớn (70%) trên số doanh nghiệp ngành dệt may, còn lại là các công ty dệt (17%),
kéo sợi (6%), nhuộm (4%), và ngành công nghiệp hỗ trợ (3%);
Hai là: Cơ cấu tài sản trong mỗi một doanh nghiệp dệt may cũng khác nhau, trong các DN dệt giá
trị TSCĐ thường lớn, giá trị TSLĐ thường nhỏ. Điều đó thể hiện ở số liệu các biểu 3.8a; 3.8b và 3.8c ta thấy
cơ cấu tài sản của các Tổng công ty Dệt Việt Thắng; Ngược lại với DN dệt thì DN May là TCT May Sài Gòn
tỷ lệ TSCĐ chiếm rất thấp thông thường từ 27,2% đến tối đa là 50%, đối với TCT May Sài Gòn năm giai
đoạn 2011-2013 tỷ lệ TSCĐ chiếm trên tổng số là 27,2% đến 28%.
Ba là: Đối với ngành Dệt thời gian hoàn vốn lâu, vòng quay vốn chậm. Bởi vì, để đầu tư xây dựng
một nhà máy dệt kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành, bàn giao, vận hành chạy thử đến khi đưa vào sử
dụng nhiều hơn 1-2 năm thời gian xây dựng một nhà máy may, cho nên các doanh nghiệp có qui mô vốn
nhỏ, vốn chủ sở hữu ít không thể tham gia đầu tư ngành dệt được.
Bốn là: Xuất phát điểm của công nghiệp Dệt Việt Nam còn thấp, trình độ công nghệ lạc hậu.
Ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành Dệt chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập
khẩu, tỷ lệ gia công cao, phụ thuộc rất lớn vào giá cả quốc tế, không chủ động được nguồn nguyên liệu...là
thách thức rất lớn khi hội nhập kinh tế toàn cầu.
Năm là: Ngành Dệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xử lý môi trường phức tạp, do vậy, các dự án phải
đầu tư xa khu dân cư, đầu tư vào khu công nghiệp tập trung, vấn đề xử lý môi trường đòi hỏi vốn lớn, công nghệ
hiện đại, thời gian thu hồi vốn lâu. Khi dự án đã hoạt động, đầu ra của DN dệt chủ yếu là các công ty May, là bạn
hàng thân thiết, nên tình trạng chiếm dụng vốn thường xẩy ra, DN cần một lượng vốn dự trữ lớn.
Sáu là: Ngoài cạnh tranh với thế giới và khu vực thì các doanh nghiệp FDI trong nước do được
đầu tư công nghệ hiện đại, nguồn vốn lớn, kinh nghiệm lâu năm, quản trị DN tiên tiến đã tạo ra sự cạnh
tranh đáng kể với các doanh nghiệp sản xuất Dệt trong nước về đơn hàng, nguyên liệu đầu vào, chất lượng,
giá cả, thị trường, mẫu mã, lao động
(iii) Đặc điểm riêng của tái cấu trúc vốn doanh nghiệp ngành May.
Một là: Giá trị Tài sản cố định của doanh nghiệp May nhỏ, Khấu hao tài sản nhanh cho nên thu hồi
vốn sẽ nhanh doanh nghiệp ngành Dệt.
Qua số liệu biểu 3.8.d của TCT May Sài Gòn ta thấy rõ giá trị TSCĐ của DN luôn biến động ở mức
27,2% đến 28% giai đoạn 2011 đến 2013; giai đoạn cao điểm nhất, có tỷ lệ giá trị TSCĐ cao là năm 2008 -
2009 với tỷ lệ là 43,1% đến 50%; tỷ lệ TSCĐ giảm dần từ năm 2010 với tỷ trọng TSCĐ là 30,3% và qua
các năm 2011 đến 2013 thì tỷ trọng thấp hơn nữa.. Điều đó chứng tỏ TCT May Sài Gòn đầu tư đúng hướng
vào những tài sản có giá trị thấp, khấu hao nhanh, dễ quay vòng vốn.
Hai là: Cơ cấu Tài sản cố định và Tài sản lưu động, nghiêng về cấu trúc vốn của Tài sản lưu động.
Do vậy nguồn vốn lưu động sẽ lớn hơn nguồn vốn cố định do tương ứng với lượng tài sản đang sử dụng,
hoạt động trong doanh nghiệp May.
Ba là: Trong tổng nguồn vốn kinh doanh, thì tỷ trọng nguồn vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn hơn
nguồn vốn cố định. Nguồn vốn cố định chủ yếu được đầu tư vào nhà xưởng, thiết bị máy may. Do vậy, khả
năng luân chuyển vốn nhanh, đáp ứng dễ, cho nên dễ thu hút các nhà đầu tư.
Bốn là: Suất đầu tư của ngành may nhỏ, vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh do vậy, các nhà đầu tư
thường mong muốn đầu tư vào doanh nghiệp ngành may hơn, kể cả nhà đầu tư nội lẫn nhà đầu tư ngoại.
Năm là: đối với ngành May: Xu hướng thị trường may là vòng đời sản phẩm may ngắn hơn và
vòng quay của vốn nhanh hơn.
Sáu là: Các doanh nghiệp ngành May không bị cấm đoán khắt khe về xử lý môi trường, chất thải,
nước thải do vậy các Dự án ngành May có thể đưa được về khu dân cư, về vùng nông thôn để giải quyết
lao động nông nhàn, có tính cơ động cao.
Ngành Dệt may là ngành có suất đầu tư nhỏ và chi phí chuyển nhượng thấp. Chính vì vậy, một
khách hàng có thể dễ dàng chuyển từ nhà cung cấp này sang nhà cung cấp khác chỉ bằng một quyết định
nhanh chóng, không tốn kém, thậm chí tiết kiệm và hiệu quả theo cách lựa chọn của họ.
3.2.3.4 Nguyên nhân của những hạn chế trong cấu trúc vốn doanh nghiệp Dệt may:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, song nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là những
bất cập về cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiện nay, mà doanh nghiệp dệt may có vốn Nhà nước chi
phối cũng không nằm ngoại lệ.
Về phía bản thân doanh nghiệp: (nguyên nhân chủ quan)
+ Nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về cấu trúc vốn, tầm quan trọng của việc xây dựng cấu trúc vốn
tối ưu trong quản lý tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp chưa nhận thức rõ
ưu điểm của vốn vay, của “lá chắn thuế” khi sử dụng vốn vay, mặt khác do không chủ động nên cũng rất khó
khăn khi phát sinh nhu cầu vốn.
+ Năng lực quản lý tài chính của bộ máy lãnh đạo trong các DN nói chung chưa theo kịp với yêu cầu của
cơ chế quản lý mới - cơ chế thị trường. Các giám đốc DN chưa thực sự quan tâm vận dụng lý thuyết cơ cấu
vốn vào trong thực tế quản lý, họ chưa nhận thức được sự tồn tại và tầm quan trọng của cơ cấu vốn trong
việc giảm thiểu rủi ro hoạt động kinh doanh của DN, chưa chú trọng sử dụng tác động của đòn bẩy tài chính
nhằm gia tăng tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu.
Về cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước. (nguyên nhân khách quan)
Trên góc độ quản lý của Nhà nước, mặc dù về hình thức là đã có sự thay đổi cơ chế quản lý, nâng cao
và mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp dệt may đã tự huy động và tạo nguồn vốn đầu tư cho phát triển, bước đầu xử lý có kết quả các vấn đề
vay quá hạn giữa DN với DN; giữa DN với các ngân hàng, thực hiện những ưu đãi tài chính, đẩy nhanh quá
trình sắp xếp lại, đa dạng hóa các hình thức sở hữu của các doanh nghiệp dệt may.
Kết luận chương 3
Trong thời gian qua, sau khi tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ tập đoàn dệt may và một số công ty
thành viên, các doanh nghiệp dệt may thuộc Vinatex đã hoạt động tốt và có những bước phát triển đáng kể
với cấu trúc vốn thể hiện những ưu điểm nổi bật như: cấu trúc vốn đang ở mức an toàn, qui mô vốn của các
doanh nghiệp tăng trưởng tương đối tốt, các doanh nghiệp đang sử dụng vốn với mức chi phí hợp lý. Tuy
nhiên, những kết quả bước đầu đó chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng của ngành và nhất là chưa
thể hiện bước chuẩn bị tốt cho việc thực hiện hiệp định TPP trong thời gian tới. Thực trạng cấu trúc vốn của
các doanh nghiệp dệt may (Vinatex) vẫn còn nhiều điểm bất cập như: (i) Cấu trúc vốn chủ sở hữu của các
Doanh nghiệp còn sự tham gia sở hữu vốn nhà nước, cho nên vẫn mang nặng hình thức quản lý của doanh
nghiệp nhà nước chưa thật phù hợp với cơ chế thị trường. (ii) Cấu trúc vốn chưa tối ưu thể hiện hiệu quả hoạt
động của nhiều doanh nghiệp dệt may thấp, không tương xứng về tiềm năng, thế mạnh của của các doanh
nghiệp tập đoàn dệt may. (iii) Cấu trúc vốn vay chưa hợp lý thể hiện vốn vay dài hạn thấp, tỷ trọng vốn vay
ngắn hạn cao. (iv) Chính sách huy động vốn vay của các doanh nghiệp dệt may cũng chưa hợp lý các hạn
chế trên đây có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là tiếp tục đẩy mạnh tái
cấu trúc vốn các doanh nghiệp dệt may sau quá trình cổ phần hóa, chuyển đổi doanh nghiệp, theo chủ trương
của chính phủ, phải cố gắng, nỗ lực phát triển sản xuất kinh doanh và đổi mới cấu trúc vốn trong bản thân
mỗi doanh nghiệp mới đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn sắp tới.
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TÁI CẤU TRÚC VỐN DOANH NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
4.1 Định hướng phát triển và quan điểm tái cấu trúc vốn của doanh nghiệp dệt may thời gian tới (đến
năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030)
4.1.1 Định hướng phát triển.
Ngành Dệt may Việt Nam, những năm gần đây, đã có nhiều đoàn DN từ Hồng Kông, Đài Loan,
Trung Quốc đến Việt Nam tìm hiểu cơ hội xúc tiến đầu tư vào ngành dệt may. Bên cạnh đó, còn có làn
sóng các đơn hàng may, nguyên liệu cũng tìm về Việt Nam Đây được xem như là một làn sóng dịch chuyển
đầu tư và đơn hàng dệt may từ các nước, vùng lãnh thổ sang Việt Nam. Theo đánh giá của các nhà nhập khẩu
nước ngoài, Việt Nam là điểm đến để ưu tiên lựa chọn, vì năng suất lao động tại Việt Nam cao hơn các nước
Campuchia, Indonesia, Lào. Hơn nữa, Việt Nam vốn đã có “thương hiệu” là nước có khả năng sản xuất hàng
dệt may những loại khó, mang tính kỹ thuật, chất lượng cao. Việc xuất hiện một “làn sóng” đặt hàng và đầu
tư mới vào ngành DM đang đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Về cơ hội, Các DN DM Việt
Nam có nhiều đơn hàng để lựa chọn và có quyền chọn những đơn hàng tốt nhất để sản xuất, gia công. Với
làn sóng dịch chuyển DM vào Việt Nam
4.1.2 Quan điểm phát triển ngành dệt may Việt nam đến 2015, tầm nhìn 2020.
4.1.2.1 Quan điểm, mục tiêu phát triển ngành Dệt May Việt Nam.
(i) Quan điểm phát triển ngành Dệt May Việt Nam.
Thứ n h ấ t l à : T á i c ấ u t r ú c v ố n đ ể doanh nghiệp ngành dệt may theo hướng hoạt động
hiệu quả và phát triển bền vững
Thứ hai , T á i c ấ u t r ú c v ố n doanh nghiệp ngành dệt may phải gắn với hội nhập quốc tế ,
Thứ ba: Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động phải có liên kết với nhau thành chuỗi giá trị
doanh nghiệp ngành dệt may,
Thứ tư, Tái cấu trúc vốn Doanh nghiệp Dệt may trên cơ sở đa dạng hóa nguồn vốn,
Thứ năm, Tái cấu trúc vốn để Doanh nghiệp Dệt may Việt Nam phát triển gắn với hiệu quả kinh tế, xã
hội, tăng lao động, nâng cao thu nhập đồng thời gắn với bảo vệ môi trường
(ii) Mục tiêu phát triển ngành Dệt May Việt Nam.
(iii) Bảng 4.1 Phân tích SWOT về cấu trúc vốn các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam
Điểm mạnh
1. Sau nhiều năm được nhà nước ưu đãi đầu tư và
khuyến khích phát triển, tập đoàn dệt may Việt Nam đã
xây dựng được một cơ ngơi đồ sộ, quĩ đất lớn ở những
vị trí có giá trị thương mại cao, quĩ đất trên 540 ngàn
m2 có thể đáp ứng được tốc độ SXKD và tăng vốn CSH
của tập đoàn trong các năm tới.
- Với khối lượng vốn và tài sản lớn, có đầy đủ ở các
khâu sản xuất, từ bông sợi dệt, vải nhuộm, may, xuất
khẩu... Đây là thế mạnh đảm bảo cho tập đoàn đẩy
mạnh sản xuất, đồng thời là cơ sở để tiếp tục huy động
vốn bằng trái phiếu hoặc cổ phiếu.
2. Tập đoàn dệt may Việt Nam, có năng lực nghiên
cứu phát triển công nghệ, thiết kế và đào tạo nguồn
nhân lực cho toàn ngành dệt may Việt Nam, đây là cơ
sở cho tập đoàn có thể tạo việc làm, thu hút lao động,
tiết kiệm chi phí, tham gia vào chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu, nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm
dệt may.
3. Tăng trưởng bền vững và ấn tượng, giai đoạn 2009
– 2011 doanh thu tăng 17-19%, trong đó doanh thu nội
địa đạt khoảng 12.000 tỷ đồng (tương đương 600 triệu
USD); kim ngạch xuất khẩu đạt 2,6 tỷ USD; ROE đạt
12-14%. Đây là thế mạnh của tập đoàn dệt may có thể
thu hút thêm nhiều nhà đầu tư, chiến lược để tái cấu
trúc vốn, tái cấu trúc quản trị, thu hút thêm lao động
cho phát triển và bảo vệ môi trường.
4. Tập đoàn và một số doanh nghiệp dệt may như:
TCT Việt Tiến, TCT Việt Thắng có riêng kênh phân
phối trong nội địa; có hệ thống khách hàng tốt tại một
số thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU có lợi thế cạnh
tranh về vị trí địa lý ở cả thị trường nội địa và xuất
khẩu. Lợi thế này tạo ra khả năng cho tập đoàn và các
doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo
thêm việc làm mới trong các năm tới.
Cơ hội
Điểm yếu
1. Cấu trúc vốn không hợp lý, đầu tư dàn trải ra
ngoài ngành (bất động sản, chứng khoán, ngân
hàng) làm phân tán vốn, hiệu quả thấp, ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán, nguy cơ rủi ro tài
chính cao.
- Một số đơn vị thành viên hoạt động chưa hiệu
quả, dùng vốn ngắn hạn, đầu tư cho dài hạn, làm
tăng nguy cơ rủi ro tài chính.
- Công ty mẹ chưa làm tốt việc điều phối vốn giữa
các đơn vị thành viên, nên có đơn vị thừ vốn, có
đơn vị thiếu vốn.
2. Nguồn vốn vay chủ yếu là của các Ngân hàng
thương mại, cho nên thiếu vốn dài hạn.
Công ty tài chính của tập đoàn chưa được củng cố
tốt, để bố trí vốn vay cho các doanh nghiệp trong
tập đoàn. Mỗi doanh nghiệp trong tập đoàn phải tự
lo vay vốn nên hiệu quả thấp.
3. Thương hiệu của tập đoàn còn manh mún ở
từng đơn vị thành viên, chưa có thương hiệu mạnh
mang đặc trưng của tập đoàn, để tăng khả năng tiêu
thụ sản phẩm và tăng uy tín trong huy động vốn.
4. Các doanh nghiệp thành viên và tập đoàn còn
phụ thuộc nhiều vào Nhà nước, Tập đoàn và các
doanh nghiệp thành viên chưa chủ động trong việc
tái cấu trúc vốn của đơn vị mình.
Thách thức
1. Trên thị trường quốc tế, cánh cửa cho mặt hàng dệt
may Việt Nam ngày càng rộng mở, nhất là TPP với các
thị trường rộng lớn như Mỹ, Nhật, Canada... các FTA
với EU, với Belarut và Nga, kazakhstan
- Thị trường nội địa với dân số hơn 90 triệu dân và mức
sống, nhu cầu may mặc cho người dân, thời trang cho
giới trẻ, ngày càng được nâng cao là cơ hội lớn cho các
DN dệt may, doanh thu tăng, vốn kinh doanh sẽ tăng..
2. Thực hiện chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng,
tái cấu trúc nền kinh tế, hoạt động kinh doanh của các
tập đoàn sẽ được cấu trúc lại theo hướng hiệu quả, chất
lượng, là cơ hội để phát triển mạnh, tăng vốn, tăng lao
động trong thời gian tới.
3.Cơ cấu Vốn đầu tư sẽ tăng do DNDMVN đang quá
trình hội nhập, nhất là Hiệp định TPP và các FTA, cơ
cấu vốn DNDM sẽ nghiêng về đầu tư chiều sâu, lâu
dài, triển vọng phát triển.
- Qui mô vốn của DNDM sẽ tăng, khi Chính
phủ định vị ngành này là ngành công nghiệp chủ lực
của Việt Nam. Những cam kết của Việt Nam đối với
cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới
và các quan hệ hợp tác quốc tế mới.
4. Việt Nam là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất,
qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các
DNDM về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ
các quốc gia phát triển. Nguồn vốn Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào dệt may Việt Nam (FDI) liên tục tăng,
đặc biệt trong giai đoạn gần đây khi kỳ vọng về TPP và
FTA EU-Việt Nam tăng lên. Các doanh nghiệp FDI
thường có trình độ công nghệ, kỹ thuật cao sẽ giúp
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt
may Việt Nam.
1. Trong thời gian ngắn, phải thoái hết vốn Nhà
nước là một khó khăn, thử thách đối với tập đoàn.
Tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp và là áp lực to
lớn của tập đoàn và các doanh nghiệp dệt may.
2. Trong 2-3 năm sắp tới, tập đoàn vừa phải lo
huy động vốn từ thị trường, vừa phải tổ chức lại sản
xuất kinh doanh để có thể tiếp cận được lợi thế từ
TPP. Đó là khối lượng công việc vừa to lớn, vừa
khó khăn.
3. Các doanh nghiệp dệt may chịu sự canh tranh
mãnh mẽ từ nhiều phía, nhất là làn sóng dịch
chuyển từ các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan
vòa Việt Nam.
- Vốn ít, công nghệ phụ trợ của Việt Nam còn
yếu, giá cả đầu vào phụ thuộc thị trường thế giới
biến động khó lường. N g u y ê n p h ụ l i ệ u của
ngành hiện nay còn phụ thuộc vào nước ngoài.
- Chi phí kinh doanh cao do có rủi ro tiềm
ẩn ở những thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản
bởi những qui định ngày càng khắt khe.
- Chi phí vốn tăng, hiệu quả thấp, do sự yếu
kém của ngành công nghiệp phụ trợ cho d ệ t
may là nguyên nhân căn bản khiến Việt Nam
trong nhiều năm vẫn chỉ là một xưởng sản xuất
thuê cho các DN khác trên thế giới.
4. Vốn DN FDI tăng vừa là thách thức, vủa là
động lực để phát triển, tạo ra sự cạnh tranh đáng kể
với các DN trong nước về đơn hàng, nguyên liệu
đầu vào, lao động.
4.2 Một số giải pháp chủ yếu tái cấu trúc vốn doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.
4.2.1 Một số giải pháp vĩ mô của nhà nước
4.2.1.1 Đề nghị thực hiện lộ trình thoái toàn bộ vốn nhà nước tại tập đoàn Vinatex vì các lý do sau:
- Sản phẩm của ngành Dệt may không phải là hàng hóa công, không thuộc diện nhà nước phải nắm cổ phần
chi phối, khả năng tư nhân có thể làm và muốn làm, thậm chí còn làm tốt hơn nhà nước, cho nên Nhà Nước
cần có “lộ trình thoái hết vốn nhà nước”, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may chủ động
tái cấu trúc vốn đồng thời tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp theo yêu cầu của thị trường thì doanh nghiệp dệt
may sẽ phát triển với chất lượng cao hơn.
- - Ngành dệt may hiện nay đang kinh doanh có lãi, đang có nhiều thuận lợi để phát triển, cho nên cần nhanh
chóng đa dạng hóa sở hữu để không bỏ lỡ thời cơ nhất là hiệp định TTP và cộng đồng ASEAN. TTP yêu cầu
là các doanh nghiệp tham gia, không được ưu tiên ưu đãi gì. Nếu doanh nghiệp còn thuộc sở hữu Nhà nước
tức là còn được nhà nước cấp vốn, đó cũng có thể coi là một dạng ưu đãi, trợ cấp của nhà nước. Nếu để khi
doanh nghiệp có khó khăn, kinh doanh thua lỗ rồi mới đa dạng hóa thì vừa lỡ thời cơ, vừa phải trả giá đắt,
tốn kém chi phí hơn N
- Khi cổ phần hóa xong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam có điều kiện phát triển nguồn nhân lực quản
trị trung cao cấp đến từ các đối tác cổ đông chiến lược và cổ đông ngoài, bởi xu thế khi đầu tư vốn các cổ
đông luôn muốn theo dõi, tham gia, hỗ trợ quản trị doanh nghiệp đã đầu tư. Đây là một nhân tố rất quan
trọng để các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam có thêm nguồn lực quản trị và đẩy mạnh đầu tư vì đầu tư là
phải tính đến nhân sự quản trị đầu tiên.
4.2.1.2 Tìm các biện pháp để tiệm cận nhanh, chính xác giá trị giá trị DN dệt may
- Xác định giá trị doanh nghiệp là vấn đề lớn nhất trong quá trình cổ phần hóa các DNNN. Kết quả xác định
chính xác giá trị doanh nghiệp tạo điều kiện xác định số vốn của Nhà Nước hiện còn tại doanh nghiệp, xác
định các nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán sau khi cổ phần hóa, đồng thời cũng
xác định được quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong doanh nghiệp.
- Đối với đất đai: Hiện tập đoàn Dệt may đang được giao sử dụng trên 540.000m2 phi nông nghiệp. Đề nghị
Hội đồng định giá tài sản cần thực hiện kiểm kê đánh giá lại tổng số đất đai đã giao cho tập đoàn sử dụng,
phân loại và tách phần đang sử dụng vào sản xuất, kinh doanh Dệt may để chuyển sang cơ chế cho thuê đất
của Nhà nước như các doanh nghiệp SXKD khác. Riêng phần đất sử dụng vào các hoạt động sự nghiệp, phúc
lợi như: Nhà trường, bệnh viện, các Viện nghiên cứu.. sẽ giải quyết sau cho phù hợp với các đơn vị sự
nghiệp khác.
4.2.1.3 Nhà nước có chính sách phát triển thị trường chứng khoán, khuyến khích thu hút vốn đầu tư để tái
cấu trúc vốn kích thích phát triển doanh nghiệp dệt may.
- Kênh huy động vốn, để tái cấu trúc vốn các doanh nghiệp dệt may qua thị trường chứng khoán là kênh các
nước phát triển trên thế giới vẫn áp dụng (như phần kinh nghiệm quốc tế chương 2 đã phân tích). Việt Nam
chúng ta hiện tại kênh huy động vốn này còn rất kém, vì nhiều lý do khác nhau, bởi vậy:
Đối với chính phủ cần làm 2 việc:
a. Đối với những doanh nghiệp Dệt may chưa cổ phần hóa xong thì tiếp tuc cổ phần hóa, đối với những
doanh nghiệp đã cổ phần hóa rồi thì nhất thiết phải khẩn trương công bố niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán, có thể sàn Hà Nội hoặc sàn thành phố Hồ Chí Minh. Đối với những đơn vị có thể mạnh, thương hiệu
tốt, quản trị giỏi cần phải có kế hoạch, chiến lược để niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc tế.
b. Đối với các công ty chứng khoán:
Hiện nay vấn đề năng lực tài chính và hoạt động của các công ty chứng khoán tham gia trên thịt
trường cũng là yếu tố đáng báo động. Do vậy các công ty chứng khoán được theo dõi sát sao và quản lí
chặt chẽ. Bước đầu việc yêu cầu các tổ chức chứng khoán cập nhật định kì thông tin về tỉ lệ an toàn tài
chính theo thông tư 52 đã phát huy những tác dụng tích cực. Những công ty có tỷ lệ an toàn tài chính thấp
được kiểm soát đặc biệt giúp nhà đầu tư hiểu rõ tình trạng của các công ty mà mình chọn để giao dịch.
Việc giám sát này sẽ giúp cơ quan quản lí thúc đẩy hợp nhất, sáp nhập hoặc sàng lọc những công ty
chứng khoán yếu kém để tăng quy mô hoạt động, giảm số lượng cho phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Sự sàng lọc này sẽ giúp phát triển các công ty chứng khoán phát triển ổn định và bền vững theo mô hình
kinh doanh đa năng, theo hướng chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ đó từng bước nâng cao năng lực
cung cấp dịch vụ chứng khoán ra các thị trường khu vực.
4.2.2 Nhóm giải pháp vi mô, do các doanh nghiệp thực hiện
4.2.2.1 Nhóm các giải pháp về tài chính
a.) Nhóm giải pháp tái cấu trúc vốn chủ sở hữu
(i). Tích tụ, tập trung vốn chủ sở hữu, nâng dần tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn kinh
doanh của doanh nghiệp dệt may.
Như chương 3 đã phân tích, vốn chủ sở hữu đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại của một
doanh nghiệp, đăc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguồn vốn này có tác dụng bảo hộ giúp doanh
nghiệp đứng vững trong giai đoạn khủng hoảng, điển hình trong giai đoạn 2011-2013 nền kinh tế nhiều bất
ổn do lạm phát, biến động vĩ mô khiến nhiều doanh nghiệp Dệt may vừa và nhỏ lâm vào tình trạng ứ đọng
hàng, dẫn đến phá sản. Do vậy, vấn đề tất yếu mà các doanh nghiệp dệt may cần làm trước nhất là tích tụ, tập
trung vốn, nâng cao vốn chủ sở hữu. Tích tụ, tập trung vốn cho doanh nghiệp dệt may là nâng cao sức khỏe
của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp cùng ngành nghề, trong khu vực và
thế giới nhằm mục tiêu tồn tại và phát triển trong bối cảnh hội nhập.
(ii). Tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp
(iii). Tiếp tục lành mạnh hóa vốn chủ sở hữu, giảm dần và tiến tới xóa bỏ “Sở hữu chéo” giữa các Tổng
công ty, công ty thành viên của tập đoàn Dệt may.
(iv). Tích cực thoái vốn đầu tư ngoài ngành
b) Nhóm giải pháp tái cấu trúc vốn vay.
Các giải pháp mà doanh nghiệp dệt may có thể thực hiện để huy động vốn hiệu quả tạo điều kiện để
doanh nghiệp dệt may Việt Nam phát triển được bền vững gồm:
(i) Thay đổi chính sách huy động vốn theo nguyên tắc thị trường.
+ Hàng loạt các nguyên tắc khác của thị trường vẫn chưa thực sự áp dụng đối với DNNN nói chung
và doanh nghiệp nhà nước ngành dệt may nói riêng.
+ Thứ nhất là nguyên tắc “lời ăn lỗ chịu”. Hiện nay, doanh nghiệp dệt may có vốn nhà nước chi phối
kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được các khoản nợ đến hạn, không bị phá sản. Từ đó, những
người có liên quan, như đại diện chủ sở hữu, người quản lý,... cũng không chịu trách nhiệm gì, không bị
ảnh hưởng bởi sự khắt khe, khắc nghiệt và công bằng của thị trường. Ngược lại, nhà nước với tư cách là
nhà đầu tư lại không nhận phần còn lại cuối cùng (tức lợi nhuận) về mình; số lợi tức có được từ DNNN
ngành dệt may không thành nguồn thu của Ngân sách nhà nước. Như vậy, “lời” nhà nước không lấy, lỗ thì
dân chịu, còn những người có liên quan quản lý điều hành doanh nghiệp trực tiếp thì không gánh chịu trách
nhiệm gì. [18]
+ Thứ hai là, doanh nghiệp dệt may nhà nước không áp dụng đầy đủ giá thị trường của vốn. Cụ thể là,
ngoài việc còn được hưởng một số tín dụng ưu đãi, lợi tức / vốn chủ sở hữu chỉ cần một số dương (+) tối
thiểu là đủ; doanh nghiệp dệt may nhà nước không buộc phải tạo ra khoản lợi tức/vốn chủ sở hữu ít nhất
bằng giá vốn trên thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp dệt may không cần thiết phải cân nhắc, tính toán và
đánh đổi các chi phí cơ hội để có được danh mục đầu tư tốt nhất, hiệu quả nhất.
+ Thứ ba là, Doanh nghiệp dệt may chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường một phần
do những rào cản thể chế, bảo vệ vị thế và lợi ích của DNDM và các bên có liên quan, ngăn cản gia nhập
thị trường đối với các thành phần kinh tế khác. Về chủ trương phát triển kinh tế nhà nước, thì DNDM phải
giữ vai trò chi phối trong các ngành, nghề quan trọng của nền kinh tế; và các tập đoàn, tổng công ty được
thành lập là để hiện thực hóa chủ trương nói trên.
(ii) Tăng cường vay dài hạn, giảm dần ngắn hạn, tái cấu trúc vốn vay.
Vốn tín dụng là nguồn vốn mang nhiều rủi ro nhưng nếu trong điều kiện nền kinh tế ổn định, doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả thì đây là một nguồn vốn huy động hiệu quả, có chi phí sử dụng vốn thấp và có
tác dụng như một “lá chắn thuế”.
Các giải pháp tái cấu trúc vốn vay.
- Nâng cao chất lượng vốn vay của doanh nghiệp: tăng tỷ trọng vay nợ nhằm hướng tới một cấu trúc vốn tối
ưu nhưng không làm tăng quá mức rủi ro cho doanh nghiệp do vay nợ mang lại, bởi vậy cần quản lý hiệu quả
nợ, nâng cao chất lượng vốn vay của doanh nghiệp.
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát vốn vay của doanh nghiệp và xây dựng qui trình, qui chế nhằm quản
lý nợ: khi vay, khi sử dụng vốn vay và kế hoạch trả nợ vay.
- Xây dựng cơ cấu vốn vay hợp lý trên cả 2 giác độ: kỳ hạn, loại hình vốn vay. Các biện pháp cụ thể về vốn
nợ cho các doanh nghiệp chuyển dịch giảm dần tỷ trọng vốn vay / vốn chủ sở hữu:
- Hạn chế vay nợ, tăng vốn chủ sở hữu bằng cách đẩy mạnh đa dạng hóa sở hữu tăng tính hiệu quả của cổ
phần hóa doanh nghiệp, có thể đưa tỷ trọng vốn vay từ khoảng 70% xuống 50% và vốn chủ sỡ hữu từ 30%
lên 50%.
- Không dùng vay ngắn hạn đề đầu tư tài sản dài hạn, vì đây là điều nguy hiểm về mặt tài chính, điều này sẽ
dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp Dệt may mất khả năng thanh toán khi nợ vay ngắn hạn đến thời hạn đáo hạn.
(iii) Thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài, nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn.
Đa dạng hóa kênh huy động vốn thông qua hình thức mở rộng quan hệ hợp tác, liên doanh liên kết với
các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may trong và ngoài nước, có thể liên kết với các công ty đa quốc gia,
có tiềm lực và kinh nghiệm về kinh doanh bông, xơ, sợi, vải, may sẽ chủ động hơn về nguồn nguyên liệu
và kế hoạch kinh doanh trong tương lai cũng dễ dàng hơn, góp phần tiết kiệm chi phí mà còn tăng thêm lợi
nhuận. Mặt khác có thể hợp tác với các quỹ đầu tư nước ngoài, tìm kiếm các đối tác chiến lược, các đơn đặt
hàng từ những khách hàng tiềm năng qua việc tham gia các hội thảo về đầu tư.
4.2.2.2 Nhóm các giải pháp hỗ trợ
a. Xây dựng chính sách quản trị tài chính doanh nghiệp, kế toán quản trị.
Cấu trúc vốn tối ưu sẽ đạt được khi tại đó giá trị công ty là lớn nhất, tức là chi phí vốn nhỏ nhất và lúc đó tối
đa hóa lợi nhuận của DN. Như lý thuyết chương 2 đã trình bày, doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì
chi phí vốn sẽ càng thấp do doanh nghiệp được hưởng lợi từ lá chắn thuế. Tuy nhiên vốn vay nhiều thì sẽ gặp
rủi ro tài chính cao, như vậy chính rủi ro tài chính sẽ là lực cản để tiến tới một cấu trúc vốn tối ưu của doanh
nghiệp Dệt may Việt Nam.
Nâng cao năng lực quản trị tài chính, kế toán quản trị
Quản trị tài chính, kế toán là vấn đề rất quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của một
doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, các doanh nghiệp dệt may Viêt Nam đa phần vẫn có quy
mô vừa và nhỏ nên quan điểm tư duy quản trị tài chính, kế toán còn lạc hậu,Do đó việc tập trung nâng cao
năng lực quản trị tài chính, kế toán tìm hiểu và vận dụng các biện pháp quản trị tài chính, kế toán theo tiêu
chuẩn quốc tế để áp dụng vào các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là điều vô cùng cần thiết để góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp dệt may trong nước.
b) Thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển qui mô của doanh nghiệp, tập trung vào ngành nghề sản
xuất chính.
(i) Phát triển qui mô doanh nghiệp: Tái cấu trúc vốn thành công và tăng trưởng, phát triển qui mô của
doanh nghiệp có tác động qua lại, một mặt doanh nghiệp hướng tới cấu trúc vốn tối ưu nhằm đảm bảo cho
doanh nghiệp phát triển và tăng trưởng một cách hiệu quả, ổn định, phát triển bền vững, thì quá trình tái cấu
trúc vốn sẽ được dễ dàng, thuận lợi hơn những doanh nghiệp có sự tăng trưởng và có qui mô lớn.
(ii) Phát triển doanh nghiệp tập trung vào ngành nghề sản xuất chính.
Bản thân mỗi doanh nghiệp Dệt may Việt Nam cần xác định và xây dựng lại định hướng chiến lược
phát triển theo hướng bám sát và gắn chặt với lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, ngành chính của doanh
nghiệp Dệt may, để từ đó doanh nghiệp cần thoái vốn các dự án, các hoạt động liên doanh, liên kết ngoài lĩnh
vực kinh doanh chính như: dự án Bất động sản, tài chính, ngân hàng, chứng khoán hay những loại hình
dịch vụ khác, không nằm trong ngành nghề SXKD chính của doanh nghiệp Dệt may.
c) Củng cố phát triển Công ty Tài chính
Khi quy mô của tập đoàn phát triển gia tăng với cấu trúc phức tạp, có nhiều công ty con và công ty
cháu, lúc này việc tiếp tục đảm nhận điều phối dòng tiền thường gây quá tải cho công ty mẹ. Khi đó, các tập
đoàn cần củng cố, phát triển công ty tài chính nhằm giúp công ty mẹ chuyên môn hóa điều phối dòng tiền và
hỗ trợ vốn cho các công ty thành viên để công ty mẹ có thể chuyên tâm hơn vào việc hoạch định chiến lược
kinh doanh trong toàn tập đoàn. Bởi vậy để tái cấu trúc quản trị, vinatex cần tái định vị, đổi mới quản trị
doanh nghiệp đối với công ty tài chính Vinatex, cụ thể:
Thứ nhất, các công ty tài chính tập trung chủ yếu vào tìm nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn đối
với các công ty thành viên và các dự án của tập đoàn Vinatex. Công ty tài chính có chức năng chính là tài trợ
vốn cho công ty thành viên dưới hình thức cho vay trung và dài hạn. Trong khi đó, việc tài trợ vốn cổ phần
cho các công ty con sẽ vẫn chủ yếu do công ty mẹ thực hiện.
Thứ hai, chức năng đầu tư tài chính nhàn rỗi cho tập đoàn Vinatex: Nguồn tiền nhàn rỗi của các công ty
thành viên trong tập đoàn thường được gửi tại công ty tài chính, Công ty tài chính thường đảm nhận chức
năng đầu tư vốn nhàn rỗi cho tập đoàn thông qua việc đầu tư vào một danh mục các chứng khoán. Tuy nhiên,
các khoản đầu tư cổ phiếu trong danh mục chứng khoán của công ty tài chính cũng chủ yếu nên tập trung vào
cổ phiếu các công ty thành viên thuộc tập đoàn.
Thứ ba, công ty tài chính giúp tập đoàn Vinatex và các đơn vị thành viên chủ động hơn trong việc đáp
ứng các nhu cầu vốn: Việc phụ thuộc hoàn toàn vào tài trợ vốn từ các định chế bên ngoài có thể khiến cho
tập đoàn bị động về nguồn vốn trong trường hợp ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ hoặc thị trường tài
chính bị khủng hoảng. Khi gặp những tình huống này, các công ty tài chính sẽ thu hẹp diện cho vay với các
đối tác bên ngoài và dành vốn ưu tiên hỗ trợ vốn cho tập đoàn, điều này giúp tập đoàn chủ động hơn trong
việc đáp ứng các nhu cầu vốn.
Thứ tư, Chuyên môn hóa trong việc cung cấp thông tin thị trường tài chính phục vụ cho hoạch định
chiến lược tài chính trong tập đoàn Vinatex: “Việc xây dựng chiến lược tài trợ của công ty mẹ và các công ty
thành viên thường đòi hỏi những phân tích chuyên sâu về thị trường tài chính”. Đối với các công ty thành
viên chuyên môn hóa trong lĩnh vực sản xuất, họ sẽ có ít kinh nghiệm và ít thông tin hơn về sự thay đổi
thường xuyên của thị trường tài chính và việc từng công ty thực hiện thông tin là khá tốn kém. Do đó, công
ty tài chính thường đảm nhiệm việc nghiên cứu chuyên sâu về thị trường tài chính trong nước và quốc tế, tư
vấn cho công ty mẹ cũng như các công ty thành viên hoạch định chiến lược tài chính phù hợp nhất.
Thứ năm là, hỗ trợ tập đoàn Vinatex: Xác định danh mục công ty con nắm giữ và thoái vốn cổ phần. Bằng
các luận chứng kinh tế-tài chính, các báo cáo phân tích tối ưu, khách quan, để đưa Danh mục các công ty con
thoái vốn là những công ty con có quy mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ hoặc sinh lời kém hoặc các công ty con
không thuộc ngành kinh doanh cốt lõi. Việc thoái vốn có thể là bán một phần hoặc toàn bộ vốn được thực
hiện bán cho các công ty con chủ lực, để phát triển các công ty con chủ lực này theo mô hình tổng công ty
hoặc bán hẳn cho đối tác bên ngoài.
c) Tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp
Định hướng chiến lược về quản trị doanh nghiệp cần “Tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp” là một trong
những nội dung cốt lõi của tái cấu trúc doanh nghiệp nói chung, tái cấu trúc vốn nói riêng.
(i) Nội dung tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp của tập đoàn dệt may cần tập trung vào một số công việc
chính sau:
+ Thứ nhất là, tái định vị lại vị trí, vai trò của Vinatex trong tập đoàn theo hướng: các công ty thành viên tập
trung vào SXKD. Còn các công việc chung như: Chiến lược phát triển sản xuất, thị trường, sản phẩm, dịch
vụ, vốn do Vinatex lo chung (kể cả ký kết hợp đồng sản xuất, xuất nhập khẩu).
+ Thứ hai là, củng cố sức mạnh tài chính của tập đoàn, hiện tại bên cạnh một số DNDM có tiềm lực tốt, vẫn
còn có một số doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả, mất cân đối nguồn vốn, khi dùng vốn ngắn hạn để đầu
tư dài hạn, giảm cạnh tranh trên thị trường.
+ Thứ ba là, đầu tư vào các lĩnh vực cốt lõi để tránh phân tán nguồn lực, do đó không tạo ra được thay đổi
mang tính bước ngoặt. Vinatex sẽ phải tiếp tục thoái vốn ở ngoài ngành như: tài chính, ngân hàng và bất
động sản (biểu số liệu 3.18);
+ Thứ tư là, nâng cao vai trò của công ty mẹ Vinatex điều phối vốn đối với các công ty thành viên: tiếp tuc
thoái vốn ở các đơn vị SXKD không có hiệu quả, đồng thời tăng vốn ở những đơn vị SXKD nòng cốt, có
hiệu quả kinh tế cao.
+ Thứ năm là, Cấu trúc lại vốn Doanh nghiệp May theo hướng nâng cao năng lực thiết kế sản phẩm để góp
phần xây dựng thương hiệu và đẩy mạnh các sản phẩm mang giá trị gia tăng cao. Hiện nay, các DNDM chủ
yếu gia công theo đơn hàng của các đối tác mà chưa chủ động với việc thiết kế các sản phẩm.
+ Thứ sáu là, ưu tiên và tập trung vốn vào các khâu Sợi - Dệt- Nhuộm hoàn tất đáp ứng nhu cầu ngành Dệt
may, tăng tỷ lệ nội địa hóa đón đầu và đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế sắp tới nhất là TPP đã cận kề.
(ii) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho DNDMVN
4.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp và kiến nghị.
4.3.1 Điều kiện để thực hiện giải pháp: Để có thể thực hiện thành công các pháp tái cấu trúc vốn tại các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có các điều kiện sau:
(i) Giữ vững ổn định tăng trưởng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định thi trường tiền tệ, tài chính,
tín dụng.
(ii) Hòan thiện hệ thống pháp luật, hệ thống cơ chế chính sách của Nhà nước.
(iii) Lành mạnh hóa và thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khóan.
4.3.2 Một số kiến nghị
4.3.2.1 Kiến nghị đối với Nhà nước
Thứ nhất, khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của TPP, đề nghị Chính phủ tiếp tục có những
chính sách hỗ trợ chiến lược để phát triển ngành công nghiệp DMVN phù hợp với những qui định TPP sắp
diễn ra và các hiệp định hội nhập khác
Thứ hai, Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường,
chống buôn lậu, trốn thuế và gian lận thương mại nhằm bảo vệ thị trường trong nước và tạo dựng môi trường
cạnh tranh lành mạnh.
Thứ ba, Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng một cửa, một dấu, đơn giản hóa các thủ
tục tạo điều kiện cho việc thành lập các DNDMVN mới.
Thứ tư, Hỗ trợ vốn ngân sách cho việc đầu tư, hỗ trợ các viện nghiên cứu đóng vai trò là các trung tâm tư
vấn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm phụ trợ Dệt may, các sản phẩm
thân thiện với môi trường, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
Thứ năm, Nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng như thủy lợi; điện; thông tin liên lạc, giao thông thủy
bộ,...theo qui hoạch phát triển vùng nguyên liệu, nhằm góp phần đảm bảo nguồn nguyên liệu, nâng cao năng
suất, chất lượng, đồng thời hạ giá thành nguyên liệu nhằm đảm bảo nguồn nguyên, phụ liệu cho sản xuất và
xuất khẩu.
4.3.3.2 Kiến nghị đối với chính quyền các địa phương liên quan
Thứ nhất, Chính quyền địa phương khi lập quy hoạch đất đai cần dành quỹ đất để phát triển vùng nguyên
liệu cho ngành dệt may, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính trong vấn đề ưu tiên quỹ đất.
Thứ hai, ưu đãi về giá thuê mặt bằng sản xuất, kinh doanh của những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
ngành nguyên phụ liệu ngành dệt may và dệt may có kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa.
Thứ ba, trong việc dời các doanh nghiệp sản xuất ngành dệt may như: sợi, vải nhuộm,.ra khỏi khu dân cư,
chính quyền địa phương cần có chế độ hỗ trợ việc di dời, để giúp các doanh nghiệp này tiếp tục hoạt động
tốt, đóng góp chung vào sự phát triển ngành dệt may.
Thứ tư, mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải
quan, xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hóa các thủ tục, và tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương
mại quốc tế cho doanh nghiệp xuất khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may.
Thứ năm, hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách địa phương cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo và vốn
đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cho các Viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo dệt
may nói chung, đồng thời dành vốn tín dụng của nhà nước, vốn ODA và vốn của quỹ môi trường cho các dự
án đầu tư xử lý môi trường trong ngành dệt may.
Thứ sáu, ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá
nhân sản xuất, kinh doanh nguyên phụ liệu ngành dệt may tiết kiệm chi phí cơ bản, không phải quan tâm
nhiều đến vấn đề này mà sẽ tập trung cho việc huy động các nguồn lực khác để sản xuất, kinh doanh.
KẾT LUẬN
Trong nhiều năm vừa qua ngành Dệt may Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn, đóng góp đáng kể
vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, tạo được nhiều việc làm, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Nhưng do chậm tái cấu trúc vốn kinh doanh, với nguồn
vốn dựa chủ yếu vào ngân sách và vay ngân hàng, có sự bảo trợ của nhà nước, sản xuất lại chủ yếu là làm gia
công, cho nên hiệu quả đạt được còn rất thấp, khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế.
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng đã và đang đặt ra những cơ hội và thách thức rất lớn đối
với các doanh nghiệp của ngành dệt may ở nước ta. Để tận dụng tốt những cơ hội về xuất khẩu và vượt qua
những thách thức về xuất xứ hàng hóa, thì không có con đường nào khác là phải khẩn trương tái cấu trúc vốn
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Từ nghiên cứu, khảo sát, phân tích số liệu, đánh giá thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp dệt may Việt Nam, tôi đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp tái cấu trúc vốn của doanh nghiệp Dệt
may Việt Nam trong thời gian tới, trong đó nổi lên một số giải pháp rất sát thực như tiếp tục đẩy mạnh tái cấu
trúc vốn, đa dạng hóa nguồn huy động vốn trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong thời gian tới, đây
là những giải pháp vừa mang tính khả thi, vừa rất thiết thực và cấp bách đối với các doanh nghiệp dệt may ở
nước ta.
Tuy nhiên đối với mỗi giải pháp cụ thể cũng cần tiếp tục có đề án nghiên cứu đầy đủ và chi tiết hơn
nữa mới có thể đưa vào áp dụng trong thực tế. Mặt khác, do cách viết, cách diễn giải của tác giả còn nhiều
hạn chế, thiếu sót nên có thể còn những khía cạnh chưa được làm rõ hoặc còn khiếm khuyết. Rất mong nhận
được những lời chỉ dẫn của các thầy, các cô trong hội đồng để nghiên cứu sinh hoàn thiện hơn nữa bản luận
án này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_giai_phap_tai_cau_truc_von_doanh_nghiep_det.pdf