Các doanh nghiệp là những chủ thể quan trọng hàng đầu của nền kinh tế. Pháp
luật về doanh nghiệp đóng vai trò then chốt cho việc tổ chức và hoạt động có hiệu quả
của các doanh nghiệp, của việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp cho thấy:
1. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp là khái niệm chỉ toàn bộ các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ với nhau theo những nguyên tắc pháp lý nhất định, tạo nên chỉnh
thể pháp luật về doanh nghiệp. Tựu chung lại, các nhóm quy phạm chủ yếu của pháp
luật về doanh nghiệp bao gồm: Các quy định về các loại hình doanh nghiệp; cách thức
thành lập doanh nghiệp; cơ cấu và hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp; một số
quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp; tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
2. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của nước
CHDCND Lào đã từng bước được xây dựng và phát triển qua bốn giai đoạn, ngày
càng hoàn thiện, đóng góp thiết thực vào sự phát triển của doanh nghiệp ở Lào. Tuy
nhiên, pháp luật về doanh nghiệp ở CHDCND Lào, bên cạnh các ưu điểm và thành
công, vẫn còn có một số nhược điểm và bất cập, gây ảnh hưởng bất lợi cho sự phát
triển của các loại hình doanh nghiệp ở Lào. Pháp luật về doanh nghiệp ở Lào đang
đứng trước yêu cầu cấp thiết phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng kịp thời những đòi
hỏi của thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
3. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp góp phần quan trọng vào việc xây
dựng một hệ thống pháp luật thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng NDCM
Lào về phát triển kinh tế nói chung, về phát triển các loại hình doanh nghiệp nói riêng.
Do đó, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cần được cấu trúc lại trên quan điểm mới
về tiêu chí phân loại doanh nghiệp, phù hợp với điều kiện cụ thể của Lào và xu hướng
phổ biến trên thế giới. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp cần được hoàn thiện
với các giải pháp cơ bản sau: Cần sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền thành lập
doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ và
thủ tục thành lập doanh nghiệp; cần sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại
hình doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh
nghiệp. Cùng với đó, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể để thực thi có hiệu quả
LDN (2013) trong thực tiễn./.
27 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật doanh nghiệp ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
- Kết luận.
- Danh mục các công trình đã công bố.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
Qua thời gian tìm hiểu về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tác giả luận
án thấy rằng, Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” là đề tài chưa được nghiên cứu ở
trình độ tiến sĩ luật học. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển hàng trăm năm trên thế giới
cũng như ở Lào và Việt Nam, vấn đề hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đã được
nhiều nhà khoa học bàn luận đến, với những hình thức đa dạng, từ các giáo trình; sách
tham khảo; một số đề tài khoa học; các luận án, luận văn; bài viết đăng trên các tạp chí
khoa học và các hội thảo khoa học... Có thể chia các công trình nghiên cứu thành hai
nhóm là các công trình khoa học tại Việt Nam và công trình khoa học ở nước ngoài
(chủ yếu tại Lào). Trong đó:
Thứ nhất, nghiên cứu về pháp luật doanh nghiệp không phải vấn đề mới ở Việt
Nam. Các học giả Việt Nam đã nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp
một cách toàn diện, dưới nhiều khía cạnh khác nhau, với các hình thức đa dạng. Đây là
nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả luận án.
Thứ hai, ở các nước trên thế giới, nghiên cứu về pháp luật doanh nghiệp không
phải vấn đề mới. Tuy nhiên, tại nước CHDCND Lào, cùng với lịch sử phát triển và
hình thành của pháp luật về doanh nghiệp non trẻ, sự quan tâm của Nhà nước Lào đối
với doanh nghiệp còn chưa đúng mức, đã dẫn đến việc pháp luật về doanh nghiệp còn
chưa được quan tâm nghiên cứu ở Lào. Trong giai đoạn hiện nay chưa có các công
trình nghiên cứu một cách toàn diện về pháp luật doanh nghiệp cũng như vấn đề hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp tại Lào. Các công trình là sách mới chỉ đề cập đến
những vấn đề cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp, còn các công trình là luận án,
luận văn, báo, tạp chí lại nghiên cứu chuyên sâu về một số khía cạnh cụ thể của pháp
luật về doanh nghiệp.
2. ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
Tác giả luận án nhận thấy: ở các mức độ khác nhau, các công trình khoa học trên
đều có chứa đựng những kết quả nghiên cứu liên quan đến nội dung của đề tài luận án.
2.1. Về những vấn đề lý luận
2.1.1. Vấn đề khái niệm của doanh nghiệp
Với tính chất là một thực thể kinh tế - xã hội, khái niệm doanh nghiệp là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó có khoa học pháp lý. Xung
6
quanh khái niệm doanh nghiệp cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết
triệt đề cả trên phương diện lý luận cũng như luật thực định. Pháp luật hiện hành ở Lào
cũng đã đưa ra định nghĩa pháp lý về doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được ĐKKD theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong khi đó, các
nhà nghiên cứu khoa học, dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, lại đưa ra các quan
điểm về khái niệm doanh nghiệp khác nhau. Như vậy, có thể thấy quan niệm về doanh
nghiệp ở Lào hiện nay chưa có sự thống nhất. Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ để tác giả luận
án tiến hành nghiên cứu giải quyết.
2.1.2. Vấn đề các loại hình doanh nghiệp
Việc xác định các loại hình doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được
dựa trên các tiêu chí khác nhau. Các công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn
doanh nghiệp ở Việt Nam và trên thế giới đã đưa ra các cách phân loại doanh nghiệp
phổ biến. Tuy nhiên, ở nước CHDCND Lào, các nhà nghiên cứu lại chưa thực sự quan
tâm và đi sâu vào vấn đề phân loại doanh nghiệp, do đó, chưa có những luận giải hợp
lý để phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật hiện hành về doanh nghiệp.
2.1.3. Vấn đề pháp luật về doanh nghiệp
- Trên bình diện nghiên cứu, pháp luật về doanh nghiệp là một nội dung rất cơ
bản trong chương trình nghiên cứu và giảng dạy pháp luật, nhưng cho đến nay vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về bộ phận pháp luật này. Đây là một trong những
nội dung mà luận án cần phải làm rõ.
- Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp là khái niệm chỉ toàn bộ các bộ phần cấu
thành có mối quan hệ với nhau theo những nguyên tắc pháp lý nhất định, tạo nên chỉnh
thể pháp luật về doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cần được tiếp cận
từ hai phương diện: hệ thống văn bản pháp luật về doanh nghiệp và hệ thống cấu trúc
bên trong.
Tuy nhiên, tất cả những vấn đề này đều chưa được các nhà nghiên cứu về pháp
luật kinh tế của Lào đề cập đến. Đối với các công trình các nước khác (đặc biệt là Việt
Nam) nếu áp dụng vào Lào thì phải cân nhắc, điều chỉnh như thế nào để phù hợp. Đây
là những vấn đề lý luận quan trọng chưa được giải quyết tốt nên cơ sở lý luận của các
công trình nghiên cứu về pháp luật doanh nghiệp ở Lào chưa thực sự thuyết phục.
2.2. Về thực trạng pháp luật về doanh nghiệp của Lào
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về doanh nghiệp ở Lào
Ngay từ thời phong kiến, tại Lào đã hình thành những quy định điều chỉnh việc tổ
chức và hoạt động doanh nghiệp. Trải qua những biến động của lịch sử, pháp luật về
doanh nghiệp ở Lào đã có những thay đổi nhất định. Quá trình hình thành và phát triển
7
pháp luật doanh nghiệp có ảnh hưởng quan trọng đối với nội dung pháp luật về doanh
nghiệp ở từng thời kỳ, nên hầu hết các luận án, luận văn và các công trình nghiên cứu về
doanh nghiệp ở Lào đều có sự phân tích và tổng hợp về quá trình hình thành và phát triển
của pháp luật về doanh nghiệp. Đây là cơ sở để rút ra những bài học kinh nghiệm phù hợp
với thực tiễn để hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp của Lào trong thời gian tới.
2.2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp (2013) của Lào mới có hiệu lực chưa lâu nên số lượng các
công trình nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật về doanh nghiệp sau khi đạo
luật này ra đời còn hạn chế. Có một số công trình đề cập đến vấn đề này, nhưng nhìn
chung chỉ là ở mức sơ khảo và chủ yếu đánh giá các điểm mới của LDN (2013) so với
LDN (2005) của Lào.
Như vậy, các nội dung nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng LDN (2013)
trong giai đoạn hiện nay, những thành tựu đã đạt được, những hạn chế, bất cập còn tồn
tại và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này là vấn đề còn bỏ ngỏ mà tác giả
luận án cần phải giải quyết. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật về
doanh nghiệp của một số nước để rút ra được những bài học kinh nghiệm cho việc
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào cũng là vấn đề quan
trọng mà luận án này cần nghiên cứu.
2.3. Về phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đã và đang
được Việt Nam và các nước quan tâm nghiên cứu. Tại Việt Nam đã có các công trình
nghiên cứu nghiên cứu chuyên sâu và đưa ra nhiều giải pháp mang tính khả thi để
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay. Trong khi đó, tại nước CHDCND Lào hiện nay chưa có công trình nghiên
cứu chuyên sâu đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Chính vì
vậy, trên cơ sở nghiên cứu các công trình khoa học của Việt Nam, tác giả luận án sẽ
đúc rút ra những bài học kinh nghiệm cho Lào vận dụng.
3. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN GIẢI QUYẾT TRONG LUẬN ÁN
3.1. Về vấn đề lý luận
Nhiệm vụ của luận án là kế thừa, chọn lọc và phát triển những vấn đề lý luận,
tiếp thu các ý kiến tranh luận của các nhà nghiên cứu về những quy định bất cập trong
pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay. Những
nghiên cứu về lý luận pháp luật doanh nghiệp, cũng như quá trình hình thành và phát
triển doanh nghiệp tại Lào qua các thời kỳ lịch sử là cơ sở để đánh giá thực trạng của
8
pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào, từ đó nghiên cứu, xây dựng nên
những nguyên tắc, giải pháp hoàn thiện hợp lý.
3.1.1. Các vấn đề lý luận về doanh nghiệp
Theo pháp luật hiện hành ở Lào, khái niệm doanh nghiệp không đồng nghĩa với
khái niệm chủ thể kinh doanh. Sự hình thành các doanh nghiệp bắt nguồn từ việc thực
hiện quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các nhà đầu tư. Xét cho cùng, pháp
luật không tạo ra các hình thức doanh nghiệp; vai trò cơ bản của pháp luật là ghi nhận
và đảm bảo các điều kiện pháp lý cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước, tác giả luận án sẽ tập trung làm rõ các
vấn đề sau: Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp; Các loại hình doanh nghiệp; Vai
trò của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.2. Những vấn đề lý luận của pháp luật về doanh nghiệp
Pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận của pháp luật kinh doanh, quy định
các việc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Để làm rõ các vấn đề lý luận về pháp
luật doanh nghiệp, tác giả luận án sẽ giải quyết các vấn đề sau:
- Khái niệm và đặc trưng của pháp luật về doanh nghiệp.
- Khái quát cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp.
- Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp.
- Các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp.
- Pháp luật về doanh nghiệp của một số nước (Singapore, Thái Lan, Việt Nam)
và bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào.
3.2. Về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về doanh
nghiệp của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Tác giả luận án khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về doanh
nghiệp ở nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay, có sự so sánh với pháp luật
thời kỳ trước. Theo đó, các vấn đề được nghiên cứu là:
- Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của
CHDCND Lào. Trong đó, tác giả chia quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
về doanh nghiệp ở CHDCND Lào thành 4 giai đoạn, tương ứng với từng thời kỳ phát
triển của kinh tế - xã hội Lào.
- Thực trạng các quy định pháp luật về doanh nghiệp của CHDCND Lào ở các
khía cạnh: các loại hình doanh nghiệp; quyền thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp; hồ
sơ và thủ tục thành lập doanh nghiệp; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp; tổ chức,
quản lý nội bộ các doanh nghiệp; tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về doanh nghiệp của nước CHDCND Lào
9
3.3. Về vấn đề hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp và pháp
luật về doanh nghiệp có thể thấy pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào
đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng kịp thời những
đòi hỏi của thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Để thực hiện được việc này cần tham khảo những nội dung kiến nghị trong các
công trình nghiên cứu của Việt Nam và các nước có thể vận dụng cho Lào, cũng như
các giải pháp trong các công trình khoa học của Lào vẫn còn phù hợp với tình hình
hiện nay.
Luận án xây dựng phương hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Trên cơ
sở phương hướng hoàn thiện pháp luật đã được nêu, tác giả luận án trình bày các giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào. Cùng
với đó, tác giả luận án cũng xây dựng và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm thực thi có
hiệu quả LDN (2013) trong thực tiễn.
3.4. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu
Luận án phải giải quyết các câu hỏi chính sau:
Câu hỏi 1: Doanh nghiệp là gì? Hệ thống các loại hình doanh nghiệp theo pháp
luật nước CHDCND Lào?
Câu hỏi 2: Hệ thống pháp luật nước CHDCND Lào đã trải qua mấy giai đoạn?
Đặc điểm của mỗi giai đoạn?
Câu hỏi 3: Cấu trúc hình thức và nội dung pháp luật doanh nghiệp nước
CHDCND Lào hiện nay?
Câu hỏi 4: Tình hình thực thi LDN (2013) của Lào?
Câu hỏi 5: Những giải pháp cần phải thực hiện để hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào?
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
Chương 1, tác giả luận án tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau đây:
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Hiện nay, trong điều kiện nước CHDCND Lào đang tiến vào thời kỳ hội nhập,
với ý nghĩa tạo tiền đề lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp, quan điểm về doanh nghiệp cần được tiếp cận phù hợp với xu hướng phổ biến,
đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên cơ sở xem xét khái niệm doanh nghiệp từ hai góc độ: kinh tế - xã hội và pháp
lý, gắn với những yếu tố của nền kinh tế thị trường, có thể thấy rằng: thuật ngữ “doanh
nghiệp” được dùng để chỉ một chủ thể kinh doanh độc lập, được thành lập và hoạt động
dưới nhiều mô hình cụ thể với những tên gọi khác nhau nhưng chủ thể này phải có đủ
những đặc trưng pháp lý và thoả mãn những điều kiện do pháp luật quy định.
1.1.1.2. Các đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, bản chất pháp lý của doanh nghiệp nói chung thể
hiện qua các đặc trưng chủ yếu sau: (1) Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế hay đơn
vị sản xuất kinh doanh; (2) Doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật; (3) Doanh
nghiệp được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo thủ tục do pháp
luật quy định; (4) Doanh nghiệp có nghề nghiệp kinh doanh; (5) Doanh nghiệp phải là
tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động dưới một hình thức pháp lý nhất định do
pháp luật qui định.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được dựa trên các
tiêu chí khác nhau. Lý luận và thực tiễn đã biết đến các cách phân loại doanh nghiệp
phổ biến sau: (1) Căn cứ theo tính chất sở hữu và mục đích hoạt động của doanh
nghiệp; (2) Căn cứ vào tư cách pháp lý của doanh nghiệp; (3) Căn cứ vào phạm vi
trách nhiệm tài sản (mức độ chịu trách nhiệm tài sản trong hoạt động kinh doanh của
chủ sở hữu doanh nghiệp); (4) Căn cứ vào cơ cấu chủ sở hữu và phương thức góp vốn
vào doanh nghiệp; (5) Căn cứ vào loại hình tổ chức và hoạt động.
Theo quy định của LDN (2013), các loại hình doanh nghiệp tại Lào bao gồm:
Doanh nghiệp Nhà nước; Doanh nghiệp tư nhân; Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao
11
gồm công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên); Công ty
cổ phần; Công ty hợp danh.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, doanh nghiệp trên toàn thế giới nói chung, trên lãnh thổ
Lào nói riêng, đã có sự phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng, đưa lại những kết
quả quan trọng sau: (1) Doanh nghiệp là khu vực chủ yếu tạo ra giá trị gia tăng, thu
nhập cho nền kinh tế, qua đó tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nguồn thu này
tăng nhanh trong những năm qua là điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát
triển các hoạt động xã hội công (y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo,...); (2) Giải quyết
việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động; (3) Doanh nghiệp
tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng trưởng cao và ổn định của nền
kinh tế những năm qua; (4) Doanh nghiệp phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu
trong nền kinh tế quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của pháp luật về doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp
Trên bình diện nghiên cứu, pháp luật về doanh nghiệp là một nội dung rất cơ bản
trong chương trình nghiên cứu và giảng dạy pháp luật. Nhưng cho đến nay vẫn chưa
có một định nghĩa thống nhất về bộ phận pháp luật này. Từ góc độ lý luận, có thể tiếp
cận khái niệm pháp luật về doanh nghiệp theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Trên cơ sở nghiên cứu các khía cạnh này, có thể đưa định nghĩa sau: Pháp luật về
doanh nghiệp là hệ thống các quy tắc xử sự, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình gia nhập thị trường, quản trị
hoạt động và rút khỏi thị trường của các doanh nghiệp.
1.2.1.2. Đặc trưng của pháp luật về doanh nghiệp
Từ định nghĩa pháp luật về doanh nghiệp có thể rút ra những đặc trưng cơ bản
của pháp luật về doanh nghiệp như sau: (1) Pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận
cấu thành của pháp luật kinh tế, là một chế định pháp luật quan trọng của ngành luật
kinh tế; (2) Pháp luật về doanh nghiệp chỉ hình thành và phát triển trong điều kiện kinh
tế thị trường khi có sự thừa nhận của Nhà nước về quyền tự do kinh doanh của nhà đầu
tư; (3) Nội dung pháp luật doanh nghiệp có chứa đựng quy định về thủ thủ tục hành
chính đối với doanh nghiệp, phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp
khi doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ luật định; (4)
Pháp luật về doanh nghiệp là một thành tố của thượng tầng kiến trúc nên chịu sự chi
phối có tính quyết định của kinh tế.
12
1.2.2. Khái quát cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp
Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cần được tiếp cận từ hai phương diện: Hệ
thống cấu trúc bên trong và hệ thống văn bản pháp luật về doanh nghiệp.
1.2.2.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp cần được xem xét theo
hai góc độ: theo chiều ngang và theo chiều dọc. Với quan điểm tiếp cận đó, có thể xác
định pháp luật về doanh nghiệp là hệ thống các VBPL thuộc nhiều cấp độ hiệu lực
khác nhau, chứa đựng các quy phạm pháp luật về doanh nghiệp. Các VBPL về doanh
nghiệp có thể rất phong phú, đa dạng và được ban hành vào các thời điểm khác nhau,
nhưng đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và tạo thành một hệ thống. Trung tâm của
hệ thống pháp luật về doanh nghiệp là các VBPL về tổ chức doanh nghiệp.
Hệ thống VBPL về doanh nghiệp tại Lào bao gồm:
- Hiến pháp nước CHDCND Lào năm 2015;
- Luật: LDN (2013), Luật Khuyến khích đầu tư (2009); Luật Phá sản (1994);
Luật Đất đai (2003); Luật Lao động (2012); Luật Thuế; và các luật kinh doanh chuyên
ngành khác. Tuy nhiên, liên quan đến những nội dung nghiên cứu của đề tài, luận án
này chỉ nghiên cứu các quy định trong LDN (2013);
- Văn bản dưới luật: Kế từ khi LDN (2013) được ban hành, đến nay, Chính phủ
Lào mới chỉ ban hành Nghị định số 22/2015/GOV ngày 20/02/2015 quy định hướng
dẫn về ĐKKD, mà chưa ban hành Nghị định hướng dẫn về các vấn đề liên quan khác
được quy định trong LDN (2013). Do đó, liên quan đến những nội dung nghiên cứu,
luận án sẽ nghiên cứu quy định của Nghị định số 22/2015/GOV cùng một số văn bản
pháp luật được ban hành trước khi có LDN (2013) trong các vấn đề liên quan.
1.2.2.2. Cấu trúc bên trong của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
doanh nghiệp
Về cấu trúc bên trong, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được cấu thành bởi
các quy phạm, các chế định pháp luật liên quan đến tổ chức doanh nghiệp (gia nhập thị
trường, quản trị doanh nghiệp và rút khỏi thị trường). Các nhóm quy phạm chủ yếu
của pháp luật về doanh nghiệp bao gồm:
- Các quy định về bản chất pháp lý của loại hình doanh nghiệp.
- Các quy định về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh.
- Các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.
- Các quy định về tổ chức, quản lý doanh nghiệp.
- Các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
13
1.2.3. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu bắt nguồn từ
chính đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở
những mặt sau: (1) Pháp luật về doanh nghiệp có nhiệm vụ quan trọng nhất là bảo vệ
doanh nghiệp, nhưng thực chất là bảo vệ nhà đầu tư và bảo vệ nhà đầu tư là mục đích
quan trọng nhất của pháp luật về doanh nghiệp; (2) Pháp luật về doanh nghiệp đảm
bảo quyền tự do của cá nhân, tổ chức trong thành lập doanh nghiệp và các quyền tự do
của doanh nghiệp trong tổ chức, hoạt động kinh doanh; (3) Pháp luật về doanh nghiệp
đảm bảo quyền sở hữu vốn và tài sản trong kinh doanh của các nhà đầu tư; (4) Pháp
luật về doanh nghiệp đảm bảo các hoạt động kinh doanh vận hành theo các quy luật
của thị trường; (5) Pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
1.2.4. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp
Pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống
pháp luật kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử, tùy thuộc
vào tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội tồn tại một cách khách quan mà pháp
luật doanh nghiệp tại mỗi nước được quy định khác nhau. Hay nói cách khác, nền tảng
của việc xây dựng nội dung pháp luật doanh nghiệp là việc đánh giá tổng thể, toàn
diện các yếu tố ảnh hưởng. Vậy tại Lào các yếu tố đó là gì? Trả lời cho câu hỏi này,
trong khuôn khổ luận án này, tác giả sẽ đánh giá theo một số yếu tố sau: (1) Tính chất
của nền kinh tế; (2) Tính chất chuyển đổi của cơ chế kinh tế; (3) Nền kinh tế Lào trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay; (4) Điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội.
1.3. PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Việc nghiên cứu pháp luật về doanh nghiệp của các nước giúp Nhà nước, Chính
phủ, các cơ quan có thẩm quyền và các doanh nghiệp của Lào rút ra một số bài học
kinh nghiệm để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp của Lào.
Tác giả luận án đã tiến hành nghiên cứu pháp luật về doanh nghiệp của các nước:
1.3.1. Pháp luật về doanh nghiệp của Singapore
Pháp luật của Singapore về các hình thức tổ chức kinh doanh bao gồm luật thành
văn và luật bất thành văn (án lệ). Nguồn chủ yếu của pháp luật về doanh nghiệp của
của Singapore là Luật công ty năm 1967 (gần như được sửa đổi hàng năm). Bên cạnh
đó, Singapore còn ban hành hàng loạt văn bản pháp luật khác điều chỉnh các hình thức
kinh doanh như Luật về ĐKKD (Luật số 32 - Tuyển tập năm 2004), Luật về Hợp danh
(Partnership Act - Luật số 391 - Tuyển tập năm 1994); Luật về Hợp danh Trách nhiệm
hữu hạn (Limited Liability Partnerships Act - Luật số 163A - Tuyển tập năm 1994);
14
Luật về Hợp danh Hữu hạn (Limited PartnershipsAct 2008 - Luật số 35 năm 2008),
Luật Phá sản (Luật số 20 - Tuyển tập năm 2000)
1.3.2. Pháp luật về doanh nghiệp của Thái Lan
Thái Lan là một trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á có hệ thống pháp luật
dựa trên cơ sở hệ thống Dân luật (Civil law), tuy nhiên vẫn có sự ảnh hưởng của truyền
thống luật án lệ (Common law) và pháp luật Thái Lan cổ điển. Nguồn chủ yếu của pháp
luật về doanh nghiệp của Thái Lan là Luật Công ty (1993); Luật về Hợp danh (1993).
1.3.3. Pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam
Là nước láng giềng, anh em thân thiết với Lào, pháp luật Việt Nam và Lào có
những điểm tương đồng nhất định. Cũng trải qua quá trình hình thành và phát triển qua
nhiều giai đoạn với những điều kiện khác nhau về chính trị, kinh tế và xã hội. Nguồn
chủ yếu của pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam là LDN (2014). LDN (2014) đã
có những quy định mới nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho
doanh nghiệp, với những quy định quan trọng mang tính đột phá mà pháp luật của Lào
có thể học tập.
1.3.4. Các bài học kinh nghiệm cho Lào trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp
Thông qua việc nghiên cứu pháp luật về doanh nghiệp của các nước trên, tác giả
luận án đã đúc rút một số bài học kinh nghiệm để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp của Lào là:
- Việc xây dựng một khung pháp lý linh hoạt, mềm dẻo với các hình thức kinh
doanh đa dạng cùng với những thủ tục hành chính thông thoáng đã tạo nên những tiền
đề cơ bản để các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài ở các quốc gia trên thế
giới bỏ vốn kinh doanh.
- Coi trọng và tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
- Luật Doanh nghiệp cần trở thành một "hình mẫu" về cách thức soạn thảo Luật
theo tinh thần dân chủ, có nội dung phù hợp với thực tế, phù hợp với cơ chế thị trường
và cả các thông lệ quốc tế, về quyết tâm của Chính phủ trong tổ chức thực hiện kết hợp
với sự ủng hộ rộng rãi của người dân.
- Khi xây dựng Luật Doanh nghiệp cần đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp
luật, đây là một nhân tố mang tính chất quyết định khi xây dựng khung pháp lý.
- Cần phải mở rộng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức.
- Pháp luật về doanh nghiệp của các nước đã từng bước được hoàn thiện hơn các
quy định về quản trị doanh nghiệp theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính
đáng của nhà đầu tư, đưa doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh an toàn hơn,
hấp dẫn hơn.
15
Trong các quốc gia trên, có thể thấy, các điều kiện về chính trị, xã hội, kinh tế
của Việt Nam khá tương đồng với các điều kiện về chính trị, xã hội, kinh tế của Lào.
Do đó, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của Việt Nam trong việc xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp của Lào nên là hướng cần được ưu tiên.
Kết luận chương 1
Trên cơ sở xác định những mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài, Chương 1 luận án đã
phân tích và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chủ yếu của đề tài, như: Khái niệm,
đặc điểm, hệ thống các loại hình, vai trò của doanh nghiệp; Khái niệm, đặc trưng, vai
trò và cấu trúc của pháp luật về doanh nghiệp; những yếu tố tác động đến quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp; Pháp luật về doanh nghiệp của một số
nước trên thế giới từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Lào. Những nội dung nghiên
cứu này cho thấy, pháp luật về doanh nghiệp nói chung, pháp luật về doanh nghiệp của
Lào nói riêng chịu sự chi phối sâu sắc bởi cơ sở kinh tế. Nội dung của pháp luật về
doanh nghiệp phản ánh trình độ phát triển của thị trường. Mặt khác, với tư cách là một
bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, pháp luật về doanh nghiệp còn có mối
liên hệ mật thiết và chịu sự tác động của các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng,
mà trước hết là chế độ chính trị. Những yếu tố này đã tác động đến nội dung pháp luật
về doanh nghiệp và là căn cứ để nghiên cứu thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ở
Lào cũng như tìm ra các nguyên nhân của những bất cập và hạn chế của vấn đề này
được tập trung nghiên cứu ở chương thứ hai của luận án.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
LUẬT DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Chương 2, tác giả luận án tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau đây:
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Để có cơ sở đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về doanh
nghiệp, tác giả luận án đã nghiên cứu và chia quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về doanh nghiệp ở CHDCND Lào thành 4 giai đoạn, tương ứng với từng thời
kỳ phát triển của kinh tế - xã hội Lào:
- Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1994 trước khi Luật Kinh doanh (1994) được
ban hành.
- Giai đoạn từ khi có Luật kinh doanh (1994) đến trước khi Luật Doanh nghiệp
(2005) được ban hành.
16
- Giai đoạn từ khi có Luật Doanh nghiệp (2005) đến trước khi Luật Doanh
nghiệp (2013) được ban hành.
- Giai đoạn từ khi Luật Doanh nghiệp (2013) được ban hành đến nay.
Từ khi được ban hành cho tới nay, LDN (2013) đã tạo ra những thay đổi khá tích
cực, góp phần vào việc cải thiện môi trường kinh doanh ở Lào. Bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, nội dung quy định pháp luật và việc thực thi LDN (2013) vẫn còn
những tồn tại, bất cập, đòi hỏi phải có những sửa đổi, bổ sung nhanh chóng, phù hợp,
tạo khung pháp lý hoàn thiện cho sự thành lập, hoạt động của doanh nghiệp. Những
nội dung này sẽ được nghiên cứu trong các tiểu mục dưới đây.
2.2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ DOANH NGHIỆP
2.2.1. Thực trạng quy định về các loại hình doanh nghiệp
Theo LDN (2013) của Lào, tại Lào có các loại hình doanh nghiệp cơ bản sau:
Doanh nghiệp nhà nước (Điều 196); Doanh nghiệp tư nhân (Khoản 3 Điều 3); Công ty
cổ phần (Khoản 4 Điều 3); Công ty trách nhiệm hữu hạn (Khoản 8 Điều 3); Công ty
hợp danh (Điều 184 LDN). Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá đặc trưng, những hạn chế
hay lợi thế của từng loại hình doanh nghiệp này cho thấy, quy định về các loại hình
doanh nghiệp của Lào khá tương đồng với thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, việc phân biệt điều chỉnh về mặt tổ chức các loại hình doanh nghiệp
dựa trên tiêu chí tính chất sở hữu và thành phần kinh tế đã dẫn đến những bất cập sau:
(1) Pháp luật về doanh nghiệp không đảm bảo tính hệ thống và thống nhất; (2) Không
đáp ứng được việc tạo ra những điều kiện, cơ hội bình đẳng cho các nhà đầu tư thuộc
các hình thức sở hữu khác nhau gia nhập thị trường, quản trị doanh nghiệp cũng như rút
khỏi thị trường. (3) Quan điểm phân loại doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành dẫn đến
hệ quả tất yếu là nhiều loại doanh nghiệp có cùng bản chất, nhưng thuộc các hình thức
sở hữu và các thành phần kinh tế khác nhau, nên được đổi xử không giống nhau.
2.2.2. Thực trạng quy định về quyền thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào
doanh nghiệp
Quyền thành lập doanh nghiệp có thể được hiểu là quyền của tổ chức, cá nhân
trong việc tạo lập tư cách pháp lý thông qua các thủ tục thành lập và ĐKKD. Tác giả
luận án đã nghiên cứu và đưa ra đánh giá các quy định về quyền thành lập doanh
nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp ở các khía cạnh: (1) Chủ thể có quyền thành lập,
góp vốn vào doanh nghiệp; (2) Về quyền lựa chọn loại hình, mô hình doanh nghiệp;
(3) Về quyền lựa chọn ngành, nghề kinh doanh; (4) Về quyền lựa chọn địa điểm đặt
trụ sở, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp, lựa chọn tên của doanh nghiệp; (5) Về
quyền trong việc thực hiện thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp.
17
2.2.3. Thực trạng quy định về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp
Tác giả luận án đã nghiên cứu, đánh giá ưu điểm, hạn chế trong các quy định về
hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp ở các khía cạnh: (1) Điều kiện cho việc đăng ký
thành lập doanh nghiệp; (2) Hồ sơ và trình tự tiến hành thủ tục thành lập doanh nghiệp.
2.2.4. Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp là nội dung cơ bản cấu thành địa vị pháp lý
của doanh nghiệp. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được xác định từ nhiều chế
định khác nhau của pháp luật kinh tế, song cơ bản vẫn là các quy định về quyền, nghĩa
vụ tại LDN (2013). Tác giả luận án đã triển khai nghiên cứu, đánh giá về: (1) Quyền
của doanh nghiệp được quy định tại tại Điều 7 LDN (2013). Có thể thấy, pháp luật Lào
chưa quy định cụ thể các quyền của doanh nghiệp như LDN (2014) của Việt Nam. Các
quy định tại Điều 7 LDN (2013) của Lào chỉ mang tính nguyên tắc đảm bảo quyền
kinh doanh của doanh nghiệp; (2) Về nghĩa vụ của các doanh nghiệp được quy định tại
Điều 6 LDN (2013).
2.2.5. Thực trạng quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại hình doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp cả về quy mô và số lượng,
đặc biệt là sự hình thành các doanh nghiệp lớn, tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp
đang ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp và các nhà xây dựng
pháp luật về doanh nghiệp.
Tác giả luận án đã nghiên cứu, đánh giá ưu điểm, hạn chế trong các quy định về
tổ chức quản lý nội bộ các loại hình doanh nghiệp cụ thể trong LDN (2013) như sau:
(1) Doanh nghiệp nhà nước: cơ cấu của DNNN gồm: Hội đồng quản trị - cơ quan
có quyền quyết định cao nhất của DNNN, Giám đốc (TGĐ), Kiểm toán viên.
(2) Doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp là người chủ sở hữu duy nhất và là
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, có toàn quyền định đoạt tài sản cũng
như quyết định việc tổ chức, quản lý doanh nghiệp, có thể tự mình quản lý doanh
nghiệp hoặc thuê người khác quản lý.
(3) Công ty cổ phần: cơ cấu thông thường của CTCP gồm có ĐHĐCĐ, HĐQT,
Giám đốc (TGĐ) và Kiểm toán viên.
(4) Công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Công ty TNHH hai thành viên trở lên: tổ chức quản lý nội bộ gồm: Hội đồng
thành viên, Giám đốc (TGĐ), HĐQT và Kiểm toán viên.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: việc quản lý công ty TNHH một
thành viên là người quản lý (GĐ).
(5) Công ty hợp danh: về cơ bản, cơ cấu tổ chức của công ty hợp danh bao gồm:
HĐTV và GĐ (TGĐ).
18
2.2.6. Thực trạng quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp
2.2.6.1. Các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp
Tổ chức lại doanh nghiệp là tái cấu trúc lại doanh nghiệp sao cho phù hợp hơn
với mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới. Tác giả luận án đã nghiên cứu và đánh giá
quy định về những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp theo LDN (2013) của Lào: (1)
Hợp nhất doanh nghiệp; (2) Sáp nhập doanh nghiệp; (3) Chuyển đổi doanh nghiệp.
2.2.6.2. Quy định về giải thể doanh nghiệp
Giải thể doanh nghiệp là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp theo ý chí
của doanh nghiệp hoặc cơ quan có thẩm quyền với điều kiện doanh nghiệp phải đảm
bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Việc giải thể doanh nghiệp
được quy định tại Điều 58 LDN (2013). Tác giả luận án đã đánh giá các quy định về
giải thể doanh nghiệp ở các khía cạnh: (1) Về các trường hợp giải thể: Pháp luật của
Lào quy định về hai trường hợp giải thể doanh nghiệp, đó là giải thể doanh nghiệp tự
nguyện và giải thể doanh nghiệp bắt buộc; (2) Về thủ tục giải thể doanh nghiệp: Việc
giải thể doanh nghiệp phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
2.3. THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT DOANH NGHIỆP
2.3.1. Khái quát tình hình doanh nghiệp Lào trong thời gian qua
Trong những năm qua, doanh nghiệp trên lãnh thổ nước CHDCND đã có sự phát
triển nhanh cả về quy mô và chất lượng. Đến năm 2014 cả nước Lào có 139.953 doanh
nghiệp, trong đó có 173 doanh nghiệp Nhà nước, chiếm 0,12% tổng số doanh nghiệp.
Tác giả luận án đã khái quát tình hình doanh nghiệp Lào trong thời gian qua ở các khía
cạnh: số lượng doanh nghiệp đang hoạt động; số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm
ngừng hoạt động; số lượng doanh nghiệp phân theo ngành; hình thức pháp lý của
doanh nghiệp đăng ký; tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp; quy mô tài
sản của doanh nghiệp. Trong đó, về hình thức pháp lý của doanh nghiệp đăng ký, số
liệu cho thấy, hình thức công ty TNHH vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, hình thức CTCP
ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn, ngược lại, hình thức DNTN ngày càng bị
thu hẹp, trong khi đó, công ty hợp danh gần như có rất ít ở Lào.
2.3.2. Thực trạng thực hiện Luật Doanh nghiệp (2013)
2.3.2.1. Những kết quả đã đạt được
Trong việc thi hành LDN (2013), tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nước CHDCND Lào đều đã khẩn trương và tích cực triển khai thi hành LDN
(2013). Thông qua báo cáo Tổng kết thi hành LDN (2013) hàng năm, có thể thấy được
rằng, cho đến nay, so với các mục tiêu đề ra khi soạn thảo LDN (2013) thì về cơ bản,
LDN (2013) đã đáp ứng được mục tiêu đề ra khi soạn thảo Luật ở các khía cạnh: (1)
Mục tiêu đề ra và phát triển quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp;
19
(2) Mục tiêu hiện thực hóa nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế..
2.3.2.2. Những bất cập, khó khăn trong việc thi hành Luật Doanh nghiệp (2013)
Việc thi hành LDN (2013) cũng cho thấy các bất cập, khó khăn trong tổ chức thi
hành và nội dung của LDN (2013) cần phải được nhanh chóng giải quyết và hoàn
thiện. Tác giả luận án đã chỉ ra những bất cập, khó khăn và nguyên nhân dẫn đến
những bất cập, khó khăn này. Cụ thể là những bất cập, khó khăn sau:
Thứ nhất, các văn bản hướng dẫn thi hành LDN (2013) chưa đầy đủ.
Thứ hai, hạn chế trong việc thực hiện các quy định liên quan đến quyền thành lập
doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp.
Thứ ba, vẫn còn những tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về
hồ sơ và thủ tục thành lập doanh nghiệp.
Thứ tư, vẫn còn những vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về tổ chức
quản lý nội bộ doanh nghiệp - là một dung quan trọng của LDN (2013) thể hiện số
lượng lớn nhất về quy định trong Luật.
Thứ năm, những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về tổ
chức lại, giải thể doanh nghiệp.
Kết luận chương 2
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều hình thức pháp lý
khác nhau. Theo pháp luật hiện hành ở Lào, quy định về tổ chức và hoạt động doanh
nghiệp được thể hiện khá chi tiết và rõ ràng trong LDN (2013). Những sự phân tích và
chứng minh ở Chương 2 cho thấy trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được tổ chức
theo nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Theo pháp luật hiện hành ở Lào, khái niệm
doanh nghiệp không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể kinh doanh. Sự hình thành các
doanh nghiệp bắt nguồn từ việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của
các nhà đầu tư. Xét cho cùng, pháp luật không tạo ra các hình thức doanh nghiệp; vai
trò cơ bản của pháp luật là quy định và đảm bảo các điều kiện pháp lý cho doanh
nghiệp tồn tại và phát triển. Ở Chương này, trên cơ sở nghiên cứu về quá trình hình
thành và phát triển pháp luật về doanh nghiệp của Lào qua các giai đoạn, tác giả đã
giải quyết các vấn đề trong cấu trúc của pháp luật về doanh nghiệp của CHDCND Lào:
các loại hình doanh nghiệp; quyền thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp; hồ sơ và thủ
tục thành lập; các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp; các quy định về tổ chức quản
lý nội bộ doanh nghiệp; các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp. Cùng với
đó, tác giả đã nghiên cứu, khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật về doanh nghiệp ở
CHDCND Lào trong thời gian vừa qua, chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực tiễn
thi hành pháp luật và các nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém đó. Trên cơ sở đó, tác giả
20
luận án xây dựng định hướng và kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp ở Lào trong Chương 3 của luận án.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Chương 3, tác giả luận án tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau đây:
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Từ những cơ sở lí luận và thực tiễn ở Lào, tác giả cho rằng, pháp luật về doanh
nghiệp của Lào cần được hoàn thiện theo phương hướng sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp bảo đảm thực hiện quyền tự do
kinh doanh của công dân.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phù hợp với điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội của CHDCND Lào.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ,
khả thi, dễ tiếp cận và chi phí tuân thủ thấp.
Thứ năm, trong việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phải tham khảo các
quy định pháp luật về doanh nghiệp của các nước khác và vận dụng một cách sáng tạo,
phù hợp vào hoàn cảnh của Lào.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.2.1. Về cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp
Pháp luật về doanh nghiệp của Lào hiện nay cần được hoàn thiện với cấu trúc
bao gồm các cấu thành cơ bản là: Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân; Pháp luật về
công ty hợp danh; Pháp luật về công ty cổ phần; Pháp luật về công ty TNHH. Với cấu
trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp như vậy, việc hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp có nội dung cơ bản là vấn đề thành lập doanh nghiệp cùng các quy định về
doanh nghiệp tư nhân và các loại hình công ty. Việc quy về một hệ thống cấu trúc hình
thức doanh nghiệp thống nhất cũng hạn chế, giảm thiểu sự bất bình đẳng trong đối xử
giữa các loại hình doanh nghiệp ở Lào hiện nay.
21
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền thành lập doanh nghiệp, góp
vốn vào doanh nghiệp
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định của
LDN (2013) liên quan đến vấn đề thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp, có thể thấy,
LDN (2013) cần sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau: (1) Hoàn thiện các quy định về
quyền thành lập và góp vốn vào doanh nghiệp; (2) Hoàn thiện các quy định về quyền
lựa chọn loại hình, mô hình doanh nghiệp; (3) Hoàn thiện các quy định về quyền lựa
chọn ngành, nghề kinh doanh; (4) Hoàn thiện các quy định về quyền lựa chọn địa điểm
đặt trụ sở, địa điểm kinh doanh, lựa chọn tên của doanh nghiệp; (5) Hoàn thiện các quy
định về quyền thực hiện thủ tục ĐKKD.
3.2.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ và thủ tục thành lập doanh nghiệp
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ và trình tự ĐKKD của
doanh nghiệp: (1) Về hồ sơ ĐKKD, nên quy định chặt chẽ hơn về các loại giấy tờ cần
thiết cho việc quản lý nhà nước như: Đơn đề nghị ĐKKD, điều lệ công ty, danh sách
các thành viên trong công ty, xác định vốn pháp định; (2) Để đảm bảo những điều
kiện và thủ tục pháp lý thuận lợi, thống nhất cho việc thành lập và ĐKKD, cần phải cải
cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp; (3) Nên sửa đổi và rút ngắn
thời hạn giải quyết yêu cầu ĐKKD theo lộ trình, trước mắt là rút ngắn thời gian xuống
còn 7 ngày làm việc; (4) Cần giảm bớt chi phí đối với hoạt động ĐKKD; (5) Áp dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động ĐKKD; (6) Rà soát và bổ sung quy định về ngành,
nghề kinh doanh, đặc biệt là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; (7) Xây dựng và
thắt chặt hơn nữa cơ chế “hậu kiểm” sau khi cấp Giấy chứng nhận ĐKKD.
Thứ hai, cần bổ sung thêm các quy định về xử lý vi phạm trong đăng ký thành
lập doanh nghiệp: (1) Cần bổ sung quy định xử lý vi phạm về sở hữu trí tuệ trong
ĐKKD để ngăn chặn hành vi xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa và tên thương mại đang
ngày càng trở nên phổ biến trong hoạt động ĐKKD ở nước CHDCND Lào; (2) Cần
quy định rõ vấn đề cấm đặt tên doanh nghiệp gây nhầm lẫn, và mở rộng phạm vi áp
dụng điều cấm đặt tên; (3) Xây dựng các quy định cụ thể về hình thức, chế tài, trình tự
và thủ tục xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về ĐKKD.
Thứ ba, đối với cơ quan ĐKKD, pháp luật cần quy định các cơ quan ĐKKD là
các cơ quan nhà nước sự nghiệp có thu, hạch toán độc lập và tự chủ về tài chính.
3.2.4. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
Pháp luật cần quan tâm phát triển và mở rộng quyền của doanh nghiệp, cũng như
đảm bảo nghĩa vụ của doanh nghiệp một cách chặt chẽ. Trong đó:
Thứ nhất, cần bổ sung một điều luật quy định cụ thể về quyền của doanh nghiệp.
Thứ hai, sửa đổi Điều 6 LDN (2013) về nghĩa vụ của doanh nghiệp.
22
Mặt khác, Nhà nước cần phải xây dựng và vận hành các cơ chế cần thiết để bảo
đảm giá trị thực tế của các quyền của doanh nghiệp mà pháp luật quy định.
3.2.5. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại hình
doanh nghiệp
Nhìn chung, cơ cấu tổ chức của các loại hình doanh nghiệp ở Lào được quy định
tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích thực trạng quy định pháp luật tại
Chương 2 cho thấy, cần có thêm những sự sửa đổi, bổ sung sau:
Thứ nhất, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các loại hình doanh nghiệp trong
khu vực tư nhân (CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh, DNTN). Trong vấn đề
này, cần lưu ý và liên hệ với các vấn đề doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, cần sửa đổi, hoàn thiện các quy định về quản lý nội bộ doanh nghiệp
theo hướng: (1) Không nên bắt buộc người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp
phải là người thường trú tại Lào; (2) Cần đưa ra các chế tài rõ ràng đối với các thành
viên không góp vốn vào doanh nghiệp như đã cam kết; (3) Cần phải bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các cổ đông góp ít vốn trong CTCP.
3.2.6. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp
Thứ nhất, bổ sung thêm một số quy định đối với pháp luật về tổ chức lại doanh
nghiệp hiện nay.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về giải thể doanh nghiệp.
3.3. KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG CƠ CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT, NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CỦA PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
Theo tác giả luận án, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau để thực thi có
hiệu quả LDN (2013) trong thực tiễn:
Thứ nhất, Chính phủ Lào cần ban hành thêm các nghị định hướng dẫn thi hành
Luật doanh nghiệp (2013).
Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền của Lào cần tổ chức việc nghiên cứu sâu
rộng, quán triệt đầy đủ và áp dụng kịp thời các quy định của Luật doanh nghiệp (2013)
và các văn bản hướng dẫn thi hành trong các cơ quan quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp, trong các doanh nghiệp và đối với các nhà đầu tư.
Thứ ba, cần cơ cấu lại (sắp xếp lại) các doanh nghiệp, chuyển đổi các doanh
nghiệp theo các quy định của Luật doanh nghiệp (2013) và các văn bản hướng dẫn thi
hành cho phù hợp với tình hình mới và đáp ứng được các yêu cầu mới.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính.
23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật về doanh
nghiệp ở Chương 1 và thực tiễn về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp ở
Chương 2 cho thấy pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào đang đứng trước
yêu cầu cấp thiết là phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của
thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, Chương 3 của luận án đã đề ra các phương hướng của việc hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào. Cụ thể là: hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân; hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của CHDCND
Lào; hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi,
dễ tiếp cận và chi phí tuân thủ thấp; trong việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
phải tham khảo các quy định pháp luật về doanh nghiệp của các nước khác và vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào hoàn cảnh của Lào. Từ phương hướng trên, tác
giả luận án đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở
nước CHDCND Lào phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, tác giả luận án cũng đề xuất
một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả LDN (2013).
24
KẾT LUẬN
Các doanh nghiệp là những chủ thể quan trọng hàng đầu của nền kinh tế. Pháp
luật về doanh nghiệp đóng vai trò then chốt cho việc tổ chức và hoạt động có hiệu quả
của các doanh nghiệp, của việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp cho thấy:
1. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp là khái niệm chỉ toàn bộ các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ với nhau theo những nguyên tắc pháp lý nhất định, tạo nên chỉnh
thể pháp luật về doanh nghiệp. Tựu chung lại, các nhóm quy phạm chủ yếu của pháp
luật về doanh nghiệp bao gồm: Các quy định về các loại hình doanh nghiệp; cách thức
thành lập doanh nghiệp; cơ cấu và hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp; một số
quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp; tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
2. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của nước
CHDCND Lào đã từng bước được xây dựng và phát triển qua bốn giai đoạn, ngày
càng hoàn thiện, đóng góp thiết thực vào sự phát triển của doanh nghiệp ở Lào. Tuy
nhiên, pháp luật về doanh nghiệp ở CHDCND Lào, bên cạnh các ưu điểm và thành
công, vẫn còn có một số nhược điểm và bất cập, gây ảnh hưởng bất lợi cho sự phát
triển của các loại hình doanh nghiệp ở Lào. Pháp luật về doanh nghiệp ở Lào đang
đứng trước yêu cầu cấp thiết phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng kịp thời những đòi
hỏi của thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
3. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp góp phần quan trọng vào việc xây
dựng một hệ thống pháp luật thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng NDCM
Lào về phát triển kinh tế nói chung, về phát triển các loại hình doanh nghiệp nói riêng.
Do đó, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cần được cấu trúc lại trên quan điểm mới
về tiêu chí phân loại doanh nghiệp, phù hợp với điều kiện cụ thể của Lào và xu hướng
phổ biến trên thế giới. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp cần được hoàn thiện
với các giải pháp cơ bản sau: Cần sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền thành lập
doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ và
thủ tục thành lập doanh nghiệp; cần sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại
hình doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh
nghiệp. Cùng với đó, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể để thực thi có hiệu quả
LDN (2013) trong thực tiễn./.
25
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Xaykham Vannaxay (2017), “Quy định về hồ sơ, thủ tục đăng kí kinh doanh ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Luật học (5),
tr.71-77.
2. Xaykham Vannaxay (2017), “Quyền thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp của
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát (04), tr.
53-61.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_hoan_thien_phap_luat_ve_doanh_nghiep_o_nuoc.pdf