Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, Luận án "Hoàn
thiện pháp luật vềkiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủnghĩa Việt Nam" đã đạt được mục đích và hoàn thành mục tiêu
nghiên cứu đềra. Kết quảnghiên cứu có thể được khái quát:
1. Trên cơsởnghiên cứu có hệthống những vấn đềlý luận của Chủnghĩa Mác
- Lênin, tưtưởng HồChí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam vềpháp
luật và pháp chếXHCN, Luận án đã xây dựng được khái niệm pháp luật kiểm toán
nhà nước, phân tích làm rõ đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật vềkiểm toán
nhà nước phù hợp với quan điểm của Đảng và thực tiễn hoạt động của KTNN.
2. Luận án cũng phân tích làm rõ những tiêu chí xác định mức độhoàn thiện và
những điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật vềkiểm toán nhà nước; yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền XHCN đối với việc hoàn thiện pháp luật vềkiểm toán nhà
nước. Đây là vấn đềhoàn toàn mới, có ý nghĩa vềlý luận và phương pháp luận trong
việc đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật vềkiểm toán nhà nước ởnước ta
hiện nay.
3. Luận án đã phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế
và bất cập của pháp luật vềkiểm toán nhà nước; đồng thời, luận giải những
nguyên nhân hạn chế, tồn tại của hệthống pháp luật vềkiểm toán nhà nước ở
nước ta hiện nay. Đây là cơsởthực tiễn để đềra các giải pháp có tính khảthi cao
nhằm hoàn thiện pháp luật vềkiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ởViệt Nam.
27 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán Nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý
hay tiếp nhận vốn của Liên bang.
d) Cơ chế hoạt động: KTNN Liên bang Đức hoạt động theo cơ chế đồng sự, có
các Hội đồng quyết định nằm trong cơ quan KTNN.
đ) Mô hình tổ chức và nhân sự: Kiểm toán Liên Bang bao gồm có các cơ quan
kiểm toán khu vực và các bộ phận kiểm toán. Tại các Bang thành lập cơ quan kiểm
toán riêng. Chủ tịch KTNNLB do Quốc hội liên bang và Hội đồng liên bang bầu
theo đề nghị của Chính phủ với nhiệm kỳ 12 năm và không tái cử.
e) Xử lý vi phạm: Luật Kiểm toán liên bang có 1 điều quy định về xử lý vi
phạm đối với các uỷ viên của KTNNLB.
2.5.1.2. Pháp luật kiểm toán nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
a) Địa vị pháp lý: Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN được quy định trong Hiến
pháp, KTNN là cơ quan do Quốc vụ viện thành lập, chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng
Quốc vụ viện. KTNN là cơ quan kiểm toán cao nhất của Nhà nước, thực hiện nhiệm
vụ kiểm toán một cách độc lập theo pháp luật.
b) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
- Chức năng, nhiệm vụ kiểm toán: Thực hiện kiểm toán đối với việc thực hiện
ngân sách của Chính phủ trung ương và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả hoạt
động kiểm toán của mình.
- Quyền hạn kiểm toán: Yêu cầu cung cấp thông tin, kiểm tra, điều tra, áp dụng
các biện pháp bắt buộc, kiến nghị chấn chỉnh sai phạm, công bố kết quả kiểm toán,
xử phạt vi phạm, chuyển hồ sơ cho các cơ quan chức năng...
c) Đối tượng và phạm vi kiểm toán: Các khoản thu, chi của các cơ quan thuộc
Quốc vụ viện, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức tài chính và tiền tệ của
nhà nước, các cơ quan và xí nghiệp. Việc kiểm toán trong quân đội do Quân ủy
Trung ương quy định.
9
d) Cơ chế hoạt động: Cơ chế hoạt động theo chế độ thủ trưởng, cơ quan kiểm
toán các cấp ở địa phương thực hiện quyền kiểm toán độc lập theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước UBND cùng cấp và cơ quan kiểm toán cấp trên.
đ) Mô hình tổ chức và nhân sự: KTNN được thành lập ở cấp trung ương và ở các
cấp chính quyền từ cấp huyện trở lên. Tổng KTNN do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch
nước bổ nhiệm.
e) Xử lý vi phạm: Luật Kiểm toán nước CHND Trung Hoa có 1 chương riêng
quy định về trách nhiệm pháp lý quy định khá đầy đủ và cụ thể về các biện pháp
ngăn chặn, xử phạt (hành chính, kỷ luật, hình sự) đối với các hành vi vi phạm.
2.5.1.3. Pháp luật kiểm toán nhà nước Hàn Quốc
a) Địa vị pháp lý: Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc (viết tắt là BAI) là
cơ quan hiến định, trực thuộc Tổng thống và độc lập trong khi thực hiện nhiệm vụ.
b) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn: BAI kiểm tra các quyết toán, khoản thu,
chi của Nhà nước, các quyết toán khác của Nhà nước, hoạt động của nền hành chính
nhà nước và các công chức của nó.
c) Đối tượng, phạm vi kiểm toán: Tài khoản của Nhà nước; tài khoản của chính
quyền tỉnh; tài khoản của Ngân hàng Trung ương và tài khoản của các pháp nhân có
số vốn quá bán của Nhà nước; tài khoản của các đơn vị mà theo quy định của các
luật khác phải chịu sự kiểm toán của BAI. Ngoài các đối tượng kiểm toán bắt buộc
nêu trên, BAI còn có các đối tượng kiểm toán tự nguyện.
d) Cơ chế hoạt động: BAI làm việc theo cơ chế đồng sự, hội đồng các thành
viên quyết định theo đa số về các công việc quan trọng.
đ) Mô hình tổ chức và nhân sự: BAI được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
thống nhất bao gồm các vụ chức năng, kiểm toán chuyên ngành cấp trung ương và
kiểm toán khu vực. Chủ tịch BAI do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Quốc
hội, nhiệm kỳ là 04 năm và chỉ có thể được tái bổ nhiệm một nhiệm kỳ.
e) Xử lý vi phạm: Luật KTNN Hàn Quốc, có 1 điều về xử phạt, quy định cụ thể về
mức phạt tù, phạt tiền hoặc xử lý kỷ luật đối với những hành vi vi phạm.
2.5.2. Những giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở Việt Nam
Một là, dù tổ chức theo mô hình nào thì KTNN cũng phải được thiết kế là hệ
thống kiểm soát từ bên ngoài đối với các đơn vị được kiểm toán.
Hai là, độc lập khách quan là vấn đề cốt tử có tính nguyên tắc trong hoạt động
kiểm toán.
Ba là, để đảm bảo tính độc lập của KTNN, Tổng KTNN do Quốc hội bầu với
nhiệm kỳ dài hơn nhiệm kỳ của Quốc hội; kinh phí hoạt động của KTNN do Quốc
hội quyết định theo đề nghị của KTNN.
Bốn là, KTNN thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán hoạt động đối với mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước.
Năm là, để KTNN hoạt động có hiệu quả cần phải quy định địa vị pháp lý của
KTNN trong Hiến pháp. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, các quy định về
thiết chế Kiểm toán Nhà nước có thể được quy định tại một chương, mục, phần
riêng hoặc xếp vào mục chung các thiết chế độc lập hoặc nằm trong cùng chương
10
với cơ quan thuộc nhánh quyền lực mà Kiểm toán Nhà nước trực thuộc, song,
nguyên tắc độc lập và tối cao trong kiểm toán của cơ quan KTNN vẫn là nội dung
hiến định phổ biến nhất.
Sáu là, cần có những quy định cụ thể về xử lý hành vi vi phạm pháp luật
KTNN, nhất là những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các kết
luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Kiểm toán Nhà
nước ở Việt Nam
KTNN được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của
Chính phủ và từ ngày 01/01/2006 hoạt động theo quy định của Luật KTNN. Sau gần
20 năm hoạt động, KTNN đã từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của mình
trong cơ cấu bộ máy nhà nước; khẳng định được sự cần thiết, tính tất yếu khách
quan đối với hoạt động của cơ quan KTNN với tư cách là một trong những công cụ
hữu hiệu của Nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động quản lý ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
3.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở Việt Nam
3.1.2.1. Giai đoạn từ khi thành lập đến khi Quốc hội khoá XI thông qua Luật Kiểm
toán nhà nước
Trong giai đoạn đầu, KTNN được tổ chức và hoạt động dựa trên 2 văn bản
QPPL là Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ
quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN.
Để đảm bảo cơ sở pháp lý cho KTNN hoạt động trong điều kiện chưa có Luật
KTNN, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam đã bổ sung một số QPPL trong các luật điều chỉnh các hoạt động thuộc
các lĩnh vực khác có phát sinh các mối quan hệ kiểm toán để đảm bảo tính đầy đủ về
mặt pháp lý cho hoạt động kiểm toán ở các lĩnh vực đó, cụ thể là: Luật NSNN, Luật
Doanh nghiệp nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… Tuy nhiên, cũng dễ
dàng nhận thấy hệ thống các quy định về KTNN trong giai đoạn đầu mới thành lập
được quy định tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau, nhìn chung còn rất thiếu và
chưa đồng bộ. Trực tiếp điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của KTNN mới chỉ
dừng ở Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nên xét về
hình thức văn bản thì giá trị pháp lý chưa cao, chưa bao quát đầy đủ các vần đề về tổ
chức và hoạt động của KTNN.
Nội dung pháp luật về kiểm toán nhà nước trong giai đoạn này cũng còn rất hạn
chế: Vị trí pháp lý của KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, hoạt động kiểm toán nhà
11
nước chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; KTNN mới chỉ được giao thực hiện
chức năng, nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính; đối tượng kiểm toán là số liệu kế
toán và báo cáo kế toán mới chỉ là đối tượng kiểm toán của loại hình kiểm toán báo
cáo tài chính, chưa bao quát hết đối tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên
quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Để khắc phục những
hạn chế nêu trên; đồng thời, hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt
động của KTNN cho phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, ngày
13/8/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KTNN. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP
của Chính phủ đã bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của KTNN, cụ thể là: KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ; quy định tương đối đầy
đủ và toàn diện chức năng của KTNN là kiểm toán báo cáo tài chính; kiểm toán
đánh giá tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lý, sử dụng NSNN và tài sản
công; bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực; tiếp tục khẳng định
mô hình tổ chức tập trung, thống nhất của KTNN, quy định cơ cấu tổ chức của
KTNN gồm 19 đơn vị, trong đó có 16 đơn vị giúp Tổng KTNN thực hiện chức năng,
nhiệm vụ và 3 đơn vị sự nghiệp; có một điều riêng quy định về Tổng KTNN
Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động, Nghị định 93/2003/NĐ-CP và các văn bản
QPPL về tổ chức và hoạt động của KTNN trong giai đoạn này đã bộc lộ những bất
cập và hạn chế:
Một là, chưa có một văn bản QPPL nào quy định đầy đủ về tổ chức và hoạt động
của cơ quan KTNN. Trực tiếp điều chỉnh hoạt động của KTNN là các văn bản dưới luật.
Hai là, địa vị pháp lý của KTNN còn thấp, chưa tương xứng với chức năng,
nhiệm vụ được giao.
Ba là, nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động của KTNN chưa được quy
định đầy đủ, đồng bộ hoặc chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu hội nhập quốc tế đối với việc
xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai và minh bạch như: Nguyên tắc hoạt động
kiểm toán; kiểm toán hoạt động; giá trị pháp lý của báo cáo kết quả kiểm toán; trách
nhiệm của đơn vị được kiểm toán và quy định về công khai kết quả kiểm toán...
Bốn là, nhiều vấn đề liên quan đến KTNN trong Luật NSNN và các văn bản
pháp luật có liên quan chỉ dừng ở mức quy định chung, chưa được cụ thể hoá dẫn tới
khó khăn trong quá trình thực hiện như quy định thời hạn gửi báo cáo quyết toán
NSNN; kiểm toán quyết toán ngân sách sau khi Quốc hội, HĐND phê chuẩn; trách
nhiệm của KTNN đối với báo cáo kiểm toán...
3.1.2.2. Giai đoạn từ khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực thi hành đến nay
Luật KTNN được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và
có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006. Đây là một đạo luật quan trọng trong hệ thống
pháp luật của Nhà nước ta, là công cụ pháp lý để tăng cường kiểm tra, kiểm soát các
nguồn lực tài chính nhà nước, đồng thời là cơ sở pháp lý cao nhất hiện nay quy định
một cách khá đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về tổ chức và hoạt động của KTNN.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.2.1. Thực trạng hình thức của pháp luật về kiểm toán nhà nước
12
Luật KTNN được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và
có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất hiện nay về tổ chức
và hoạt động của KTNN. Cùng với Luật KTNN, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Ban hành văn bản QPPL, Luật Cán bộ, công
chức… được ban hành trong thời gian này cũng đã quy định nhiều nội dung liên quan
đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN trong hệ thống các cơ quan kiểm tra,
kiểm soát của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở Luật KTNN, KTNN đã phối hợp tích cực
với các cơ quan của Chính phủ và của Quốc hội xây dựng trình các cơ quan có thẩm
quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
KTNN. Cho đến nay 10 Nghị quyết của UBTV Quốc hội, 03 Nghị định của Chính phủ,
01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 01 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an, 04
Thông tư và Thông tư liên tịch đã được ban hành hướng dẫn chi tiết Luật KTNN.
Trong phạm vi thẩm quyền, Tổng KTNN đã ban hành 36 văn bản QPPL dưới hình
thức quyết định để quy định chi tiết hướng dẫn Luật KTNN. Ngày 19/4/2010 Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 927/2010/NQ-UBTVQH12 về việc ban
hành Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh
phát triển KTNN đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, ngay trong sự hình thành nguồn pháp luật về kiểm toán nhà nước nêu
trên đã thể hiện và nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, hạn chế đòi hỏi phải được nghiên
cứu để tiếp tục hoàn thiện. Những bất cập và hạn chế đó thể hiện trên các mặt chủ
yếu sau:
Một là, địa vi pháp lý của KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp như ở
hầu hết các nước trên thế giới.
Hai là, chưa có sự phù hợp và đồng bộ về một số quy định giữa Luật KTNN
với các luật có liên quan, như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật
NSNN...
Ba là, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật KTNN chưa đầy đủ và
đồng bộ, chưa có những quy định cụ thể về chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp
luật KTNN.
Bốn là, Hệ thống chuẩn mực, các quy trình, phương pháp kiểm toán đã được
KTNN chú trọng và ngày càng hoàn thiện, có bước phát triển nhanh so với các cơ quan
KTNN khác trên thế giới và khu vực; tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ của hoạt động kiểm toán nhà nước.
3.2.2. Thực trạng nội dung của pháp luật về kiểm toán nhà nước
Với việc ban hành Luật Kiểm toán nhà nước, hệ thống pháp luật hiện hành về
KTNN ở nước ta về nội dung đã có những mặt tích cực như đã quy định nguyên tắc
hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan; đã
nâng cao địa vị pháp lý của KTNN; quy định khá đầy đủ và khá toàn diện về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của KTNN; lần đầu tiên, các vấn
đề về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán (Điều 9), trách nhiệm gửi và cung cấp
báo cáo kiểm toán (Điều 15), vấn đề công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện
các kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58, Điều 59) và giám sát hoạt động kiểm
13
toán (Điều 72) được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước là cơ sở pháp lý rất
quan trọng cho tổ chức và hoạt động kiểm toán nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu
quản hoạt động của KTNN. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng Luật Kiểm toán nhà
nước và các văn bản có liên quan đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Có thể đưa ra
những đánh thực trạng nội dung pháp luật về kiểm toán nhà nước thông qua các nội
dung chủ yếu sau đây:
3.2.2.1. Về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Kiểm
toán Nhà nước
a) Về địa vị pháp lý của KTNN
Với quy định tại Điều 13 của Luật Kiểm toán nhà nước, địa vị pháp lý của
KTNN đã được nâng cao một bước, cơ bản khắc phục tình trạng địa vị pháp của
KTNN còn thấp, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên,
quy định về địa vị pháp lý của KTNN chưa đúng với bản chất của KTNN là cơ quan
kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất.
b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN
Theo quy định tại Điều 14 Luật Kiểm toán nhà nước: KTNN có chức năng kiểm
toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ
chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Để thực hiện chức năng trên, KTNN có các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
Điều 15, Điều 16 của Luật Kiểm toán nhà nước, trong đó có nhiều nhiệm vụ mới
rất quan trọng. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động đã bộc lộ những tồn tại, vướng
mắc: Nhiệm vụ của KTNN chưa bao quát hết đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi
nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công; chưa thực hiện kiểm toán việc quản
lý và sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không
giữ cổ phần chi phối; chưa thực hiện kiểm toán nghĩa vụ thu nộp NSNN của các
tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế; chưa quy định nhiệm vụ phòng
ngừa, phát hiện tham nhũng…
c) Mô hình và cơ cấu tổ chức của KTNN
Qua thực tiễn hoạt động trong những năm qua của KTNN khẳng định mô hình
tổ chức, cơ cấu của KTNN như hiện nay là thích hợp và hiệu quả phù hợp với quy
định về quản lý, điều hành NSNN theo quy định của Luật NSNN và phù hợp thông
lệ quốc tế. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của KTNN vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện, chưa hoàn chỉnh.
3.2.2.2. Đối tượng và phạm vi kiểm toán
Điều 5 Luật Kiểm toán nhà nước quy định: “Đối tượng kiểm toán của Kiểm
toán Nhà nước là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước”. Quy định như vậy đã phân biệt rõ đối tượng kiểm toán của KTNN
với các đơn vị được kiểm toán là các cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Tuy nhiên, tồn tại chủ yếu của pháp luật kiểm
toán nhà nước hiện hành là việc xác định phạm vi và đối tượng kiểm toán chưa đầy
đủ, chưa bao quát hết các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công.
3.2.2.3. Về Tổng Kiểm toán Nhà nước, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước
14
Cùng với quy định về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN, lần đầu tiên địa vị
pháp lý của Tổng KTNN đã được Luật Kiểm toán nhà nước quy định rõ ràng, đầy
đủ. Tuy nhiên, để tăng thêm tính độc lập cho Tổng KTNN phù hợp với thông lệ
quốc tế, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cần có các quy định để bảo đảm tính
độc lập của Tổng KTNN, phân cấp mạnh và tăng cường trách nhiệm của Tổng
KTNN trong vấn đề thiết lập hệ thống tổ chức bộ máy và nhân sự phù hợp đặc thù
hoạt động của KTNN.
- Về Phó Tổng KTNN (Điều 20)
Luật Kiểm toán nhà nước quy định: Phó Tổng KTNN do Tổng KTNN đề nghị
UBTV Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của Phó Tổng KTNN
là bảy năm (Điều 20). Qua thực tiễn áp dụng đã cho thấy cơ chế bổ nhiệm Phó Tổng
KTNN theo quy định hiện hành là chưa thật rõ ràng, thủ tục rườm rà, không phù hợp
với thông lệ chung và yêu cầu cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
3.2.2.4. Quy định về Kiểm toán viên nhà nước
Luật Kiểm toán nhà nước đã dành một chương riêng (Chương III) và một số
điều khoản ở các chương khác có liên quan quy định về KTV nhà nước, như quy
định về chức danh KTV nhà nước (Đều 27), tiêu chuẩn chung và trách nhiệm của
KTV nhà nước (Điều 29, Điều 30); quy định những trường hợp KTV nhà nước
không được thực hiện kiểm toán (Điều 31); quy định nhiệm vụ, quyền hạn của KTV
nhà nước trong thực hiện kiểm toán (Điều 48); quy định các hành vi bị nghiêm cấm
đối với KTV nhà nước (khoản 1 Điều 12). Tuy nhiên, quy định ngạch KTV dự bị
đến nay không phù hợp với quy định về phân loại công chức của Luật Cán bộ, công
chức và thực tiễn hoạt động của KTNN.
3.2.2.5. Quy định về hoạt động kiểm toán nhà nước
Luật Kiểm toán nhà nước đã dành một chương riêng (Chương IV) gồm 7 mục
với 30 điều quy định về hoạt động kiểm toán của KTNN. Điểm mới của Luật Kiểm
toán nhà nước là quy định tương đối cụ thể về thủ tục, trình tự tiến hành hoạt động
kiểm toán, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của
KTNN. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, các quy định của Luật Kiểm toán nhà
nước về hoạt động kiểm toán đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại là: Thành phần Đoàn
kiểm toán (Điều 44) còn thiếu KTV; chưa quy định đầy đủ về trách nhiệm của Kiểm
toán trưởng trong chỉ đạo hoạt động kiểm toán; chưa có các quy định về kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán của KTNN.
3.2.2.6. Quy định về đơn vị được kiểm toán
Luật Kiểm toán nhà nước đã có một chương riêng quy định về đơn vị được
kiểm toán, quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán (Chương V). Do vậy, từ
khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực thi hành, các đơn vị được kiểm toán đã
nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật, đã thực hiện tốt hơn
nghĩa vụ cung cấp các thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán và thực hiện
đầy đủ, kịp thời hơn các kết luận, kiến nghị của KTNN. Tuy nhiên, qua thực tiễn
hoạt động kiểm toán, một số quy định về đơn vị được kiểm toán đã bộc lộ những bất
cập, tồn tại, cụ thể là: Các đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết phạm vi đối
tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan quản lý và sử dụng ngân sách,
15
tiền và tài sản nhà nước; chưa quy định rõ thời hạn đơn vị được kiểm toán thực hiện
quyền kiến nghị; quy định: "Người đứng đầu đơn vị được kiểm toán phải ký biên
bản kiểm toán”, không bảo đảm sự chuẩn xác về mặt pháp lý và làm ảnh hưởng đến
tính độc lập, khách quan của hoạt động kiểm toán nhà nước.
3.2.2.7. Quy định về bảo đảm hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Luật KTNN là một trong số ít các luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta
có chương riêng quy định về bảo đảm hoạt động của KTNN (Chương VI). Tuy hệ
thống trụ sở cơ quan KTNN đã được Nhà nước quan tâm xây dựng đáp ứng được
một phần nhiệm vụ, song nhìn chung cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện hiện
nay của KTNN còn rất thiếu thốn. Mặt khác, cơ chế, chính sách và chế độ đãi ngộ
cho KTV (bồi dưỡng và dưỡng liêm...) tuy đã được cải thiện một bước, song Nhà
nước chưa có chế độ chính sách đãi ngộ theo tính chất hoạt động đặc thù (như phụ
cấp lưu động và một số loại phụ cấp khác) của ngành.
3.2.2.8. Chưa có các quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp
luật kiểm toán nhà nước của đơn vị được kiểm toán và của tổ chức, cá nhân có
liên quan
Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành hầu như chưa có
các quy định về chế tài, trừ một số quy định rất chung như:“chịu trách nhiệm trước
pháp luật”; “đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp
luật”... vì vậy, hiệu lực của hoạt động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật
chưa đạt được như mong muốn, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu lực của hoạt
động kiểm toán nhà nước.
3.2.2.9. Chưa có sự phù hợp và đồng bộ về một số quy định giữa Luật Kiểm
toán nhà nước với các luật có liên quan
Do địa vị pháp lý của KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp, nên hiện
nay vẫn còn trình trạng chưa có sự phù hợp và đồng bộ trong một số quy định giữa
Luật Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan, nhất là các luật điều chỉnh về tổ
chức bộ máy nhà nước và NSNN.
3.2.3. Thực trạng về tổ chức thực hiện
Với khuôn khổ pháp lý dần hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt động
kiểm toán nhà nước ngày càng mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức
kiểm toán, nâng cao chất lượng kiểm toán và công khai kết quả kiểm toán theo quy định
của Luật KTNN. Qua hơn 7 năm thực hiện Luật KTNN, hoạt động kiểm toán của
KTNN đã đạt được những bước tiến như sau:
- Về quy mô kiểm toán
Từ khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành, mỗi năm KTNN thực hiện kiểm toán trên
100 cuộc kiểm toán (Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, tỉnh, thành phố, tập đoàn, tổng
công ty… ), bình quân tăng gấp 2 lần so với giai đoạn trước khi có Luật KTNN.
- Về loại hình và phương thức kiểm toán
Từ khi có Luật KTNN, KTNN đã thực hiện đầy đủ cả 3 loại hình kiểm toán:
Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động, chú trọng
đánh giá tình hình thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí. Bên cạnh phương thức hậu kiểm, KTNN đã thực hiện thẩm
16
định và trình bày ý kiến về dự toán NSNN hàng năm, dự án trọng điểm quốc gia
trình Quốc hội xem xét, quyết định.
- Về chất lượng kiểm toán
Chất lượng kiểm toán ngày càng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
thực tiễn. Những kiến nghị của KTNN ngày càng có chất lượng hơn, được Chính
phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem
xét, phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện
chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính, ngân sách;
các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ.
- Về kết quả kiểm toán
Qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã phát hiện nhiều vi phạm chính sách, chế độ
quản lý kinh tế, tài chính và kiến nghị xử lý tài chính với tổng số tiền 90.093 tỷ
đồng. Tính riêng 5 năm sau khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành, đã kiến nghị xử lý
tài chính 70.597 tỷ đồng, bằng 78,36% tổng số kiến nghị xử lý tài chính trong cả 16
năm thành lập và hoạt động động, trong đó: Tăng thu về thuế và các khoản thu khác
17.078 tỷ đồng, giảm chi NSNN 10.806 tỷ đồng, các khoản phải nộp, hoàn trả và
quản lý qua NSNN 29.133 tỷ đồng, phát hiện tăng thêm so với báo cáo của cơ quan
quản lý thu 7.871 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 9.344 tỷ đồng. Tổng hợp
kết quả kiểm toán 15 năm hoạt động của KTNN (1994 - 2008) cho thấy: Bình quân
01 đồng NSNN cấp cho KTNN đã góp phần tiết kiệm cho NSNN 58 đồng, gồm thu về
cho NSNN 36 đồng và giảm chi cho NSNN 22 đồng.
- Về công khai kết quả kiểm toán
Hàng năm, KTNN công bố công khai kết quả kiểm toán năm và kết quả kiểm
toán một số cuộc kiểm toán thông qua hình thức họp báo và đăng tải trên Trang
thông tin điện tử và Tạp chí Kiểm toán theo quy định. Việc công khai kết quả kiểm
toán đảm bảo đúng pháp luật, có tính định hướng, được dư luận đồng tình và đánh
giá cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc tổ chức thực hiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước cũng còn một số hạn chế, tồn tại sau đây:
Thứ nhất, quy mô kiểm toán của KTNN còn rất hạn chế so với yêu cầu kiểm
tra, kiểm soát các đối tượng sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước theo chức
năng, nhiệm vụ được giao, nhất là lĩnh vực kiểm toán NSNN.
Thứ hai, chất lượng và tiến độ kiểm toán còn khoảng cách so với yêu cầu của
Luật KTNN, chưa giải đáp thích đáng các vấn đề bức xúc về những hiện tượng tiêu
cực cũng như hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Thứ ba, hiệu lực kiểm toán chưa cao, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm
toán, nhất là việc xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân đối với các sai phạm chưa đầy đủ,
nghiêm minh và kịp thời. Chất lượng công tác quản lý tài chính, ngân sách, tiền và tài sản
nhà nước chưa được củng cố và hoàn thiện một cách tương xứng ở các đơn vị sau khi
được kiểm toán.
Thứ tư, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện hoạt động còn rất thiếu thốn.
17
Thứ năm, việc giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng kiểm toán và yêu cầu giữ gìn đạo đức, phẩm chất cán bộ, KTV luôn là một
thách thức lớn.
3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
3.2.4.1. Những nguyên nhân khách quan
- Hoạt động kiểm toán nói chung, hoạt động kiểm toán nhà nước nói riêng là
lĩnh vực hoạt động mới ở Việt Nam.
- Việc xác lập địa vị pháp lý của KTNN ở nước ta bị ràng buộc bởi môi trường
pháp luật hiện có của Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ
máy nhà nước với các thiết chế vốn có mà các đạo luật về các thiết chế này điều
chỉnh không thể nhanh chóng được thay đổi phù hợp với điều kiện có sự ra đời và
hoạt động của KTNN.
3.2.4.2. Những nguyên nhân chủ quan
- KTNN là lĩnh vực hoạt động còn rất mới mẻ, tổ chức và hoạt động của KTNN
chưa có tiền lệ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta; cơ quan KTNN
mới được thành lập, nên kinh nghiệm về xây dựng pháp luật, tổ chức và triển khai
hoạt động kiểm toán còn hạn chế.
- Nhận thức của các cấp, các ngành và của các nhà làm luật về lĩnh vực KTNN
còn nhiều hạn chế.
- KTNN được thành lập sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992 nên
chưa thể quy định địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải quán triệt và thể chế hoá
các quan điểm của Đảng về phát triển Kiểm toán Nhà nước.
4.1.2. Hoµn thiÖn ph¸p luËt về kiÓm to¸n nhµ n−íc phải nhằm xác định hợp lý
mô hình tổ chức của cơ quan KTNN ở nước ta.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm bảo đảm tính độc
lập của cơ quan KTNN.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm xây dựng KTNN
thực sự trở thành công cụ kiểm tra tài chính nhà nước có hiệu lực, hiệu quả.
4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm đáp ứng yêu cầu
chủ động hội nhập quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế và điều kiện
thực tế của Việt Nam.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung
4.2.1.1. Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
Pháp luật về kiểm toán nhà nước trước hết xác định địa vị pháp lý của cơ quan
KTNN trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Vấn đề xác định địa vị pháp lý và
18
tính độc lập của cơ quan KTNN được khẳng định tại Điều 5, Tuyên bố Lima: "Sự
thiết lập cơ quan kiểm toán tối cao và tính độc lập của nó phải được đảm bảo trong
Hiến pháp và các đạo luật khác". Có thể xem đây là một nguyên tắc quan trọng
trong việc thiết lập cơ quan KTNN ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
4.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước
a) Chức năng của KTNN
Pháp luật về kiểm toán nhà nước phải quy định rõ chức năng của KTNN trên cả
hai phương diện kiểm toán và tư vấn.
Về chức năng kiểm toán, KTNN phải thực hiện đồng thời cả ba loại hình kiểm
toán: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
Về chức năng tư vấn, KTNN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán năm với
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và gửi báo cáo kiểm toán cho Chính phủ và
các cơ quan, tổ chức có liên quan, thông qua đó tư vấn cho các cơ quan này về
những giải pháp nâng cao công tác quản lý, điều hành ngân sách, quản lý và sử dụng
tài sản, tiền vốn, kinh phí; về bổ sung, sửa đổi các cơ chế chính sách, chế độ tài
chính ngân sách, kế toán, quyết toán cho phù hợp.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN
- Cơ quan Kiểm toán tối cao phải được phép tiếp cận với tất cả các tài liệu có
liên quan đến công tác tài chính và có quyền yêu cầu các đơn vị được kiểm toán
cung cấp thông tin, tài liệu và báo cáo quyết toán cũng như các tài liệu có liên quan
khác đến công việc kiểm toán trong thời hạn nhất định.
- Cơ quan Kiểm toán tối cao có thể đưa ra những quyết định trong từng trường
hợp rằng việc kiểm toán tiến hành tại trụ sở đơn vị được kiểm toán hoặc tại trụ sở
của cơ quan Kiểm toán tối cao theo yêu cầu của mình.
- Trong một thời gian do luật pháp quy định, các đơn vị được kiểm toán phải có
ý kiến về các nhận xét, kết luận của cơ quan Kiểm toán tối cao và phải công bố, đưa
ra những biện pháp khắc phục, sửa chữa những sai sót trên cơ sở những kết luận đó.
- Đối với những cơ quan Kiểm toán tối cao không được đưa ra những kết luận
bằng những hình thức có hiệu lực pháp lý bắt buộc phải thi hành, thì cơ quan Kiểm
toán tối cao cần phải có quyền kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền để đưa ra
những biện pháp cần thiết và có hiệu lực bắt buộc.
- Cơ quan Kiểm toán tối cao có thể gửi tới Quốc hội, Chính phủ báo cáo những
vấn đề thẩm định quan trọng thông qua kinh nghiệm hoạt động của mình, kể cả
những nhận xét về các đạo luật, quy chế thuộc các vấn đề tài chính chung dự kiến
ban hành. Việc chấp thuận hay bác bỏ là tùy vào các cơ quan quyền lực Nhà nước,
tuy nhiên nhiệm vụ này không được dẫn tới sự ảnh hưởng, tới kết luận kiểm toán và
hoạt động của cơ quan Kiểm toán tối cao.
- Các quy chế về trình tự quyết toán chỉ được phép ban hành với sự thống nhất
của cơ quan Kiểm toán tối cao.
4.2.1.3. Đối tượng và phạm vi kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
Từ định hướng của Tuyên bố Lima, có thể tóm tắt phạm vi và đối tượng của
KTNN trên những nét chính như sau:
- KTNN kiểm toán các cơ quan Nhà nước, kể cả các cơ sở nhà nước đóng tại
nước ngoài, các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, các tổ chức kinh tế nhà nước, các
19
chương trình dự án quốc gia, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội nghề
nghiệp... có sử dụng nguồn kinh phí của NSNN.
- KTNN kiểm toán các khoản đóng góp của xã hội cho các công quỹ, trước hết là
kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của các khoản thu, khoản chi, kiểm tra việc sử dụng công
quỹ theo mục đích của từng quỹ đã được pháp luật quy định.
- KTNN kiểm tra các hợp đồng, các gói thầu xây dựng của các cơ quan nhà
nước với bên ngoài. Cụ thể là các khoản chi phí mà Nhà nước sử dụng cho các
hợp đồng dịch vụ và các công trình xây dựng ký với các cá nhân và tổ chức bên
ngoài để cung cấp các dịch vụ hoặc hoàn thành các chương trình dự án về kinh tế,
văn hoá, xã hội.
- KTNN kiểm tra việc tiếp nhận, sử dụng, thanh quyết toán các khoản viện trợ,
vay nợ của Chính phủ ở trong nước và nước ngoài.
- KTNN kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính mà Nhà nước tham gia trong
các hiệp ước quốc tế song phương và đa phương.
4.2.1.4. Mô hình tổ chức và nhân sự của Kiểm toán Nhà nước
a) Về mô hình tổ chức của KTNN
Ở 190 quốc gia là thành viên của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối
cao mô hình tổ chức KTNN rất đa dạng có thể là một cấp (đơn tuyến) tập trung
thống nhất bao gồm KTNN ở trung ương và KTNN khu vực trực thuộc KTNN trung
ương, không lập KTNN ở địa phương hoặc có thể là tổ chức đa cấp, ở mỗi cấp chính
quyền đều lập cơ quan KTNN của cấp mình, cơ quan kiểm toán các cấp hoàn toàn
độc lập với nhau. KTNN Việt Nam được tổ chức theo hình thức đơn tuyến. Đây là
mô hình tổ chức KTNN phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Để bảo đảm nguyên
tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động kiểm toán, phương hướng
hoàn thiện pháp luật KTNN cần tiếp tục phát triển hệ thống tổ chức bộ máy của
KTNN ở nước ta theo mô hình quản lý tập trung thống nhất, gồm: Các đơn vị tham
mưu, các KTNN chuyên ngành, các KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp.
b) Về nhân sự của KTNN
Theo khuyến cáo của INTOSAI: Sự độc lập của cơ quan Kiểm toán tối cao
không thể tách rời khỏi sự độc lập của nhân viên của nó. Sự độc lập của nhân viên
phải được đảm bảo bởi Hiến pháp. Cụ thể, quy trình miễn nhiệm cũng phải được
quy định trong Hiến pháp và không được ảnh hưởng đến tính độc lập của nhân viên.
Phương thức bổ nhiệm và bãi nhiệm nhân viên tuỳ thuộc vào cơ cấu hiến pháp của
mỗi quốc gia. Hiến pháp của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thẩm
quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN thuộc về cơ quan lập pháp; nhiệm
kỳ của Tổng KTNN thường dài hơn nhiệm kỳ của Quốc hội.
4.2.1.5. Cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Các luật kiểm toán của các nước trên thế giới quy định về cơ chế hoạt động của
cơ quan KTNN khác nhau, song về cơ bản theo hai hình thức là hình thức đơn tuyến
và hình thức đồng sự. KTNN Việt Nam được tổ chức theo hình thức đơn tuyến.
Đứng đầu KTNN là Tổng KTNN, do Quốc hội bầu. Ngoài ra, Luật KTNN cũng
chứa đựng những nhân tố nhất định của một cơ quan KTNN có quy chế đồng sự
thông qua quy định về Hội đồng KTNN.
20
4.2.1.6. Về xử lý vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước
Để có cơ sở pháp lý xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm, trước hết phải
xác định rõ trách nhiệm pháp lý của KTNN, của các chủ thể tham gia vào quan hệ
pháp luật về kiểm toán nhà nước. Nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm pháp luật là:
Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường
theo quy định của pháp luật.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật
4.2.2.1. Bổ sung quy định về Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp
a) Yêu cầu khách quan quy định về KTNN trong Hiến pháp
Việc bổ sung vào Hiến pháp những quy định về KTNN xuất phát từ các yêu cầu
khách quan sau đây:
- Yêu cầu từ vai trò, chức năng: KTNN có vai trò quan trọng trong quản trị
quốc gia thông qua các hoạt động kiểm toán nguồn lực, kiểm toán tài sản quốc gia
nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ
quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
- Yêu cầu từ tính chất độc lập của KTNN: Từ quy định KTNN “do Quốc hội
thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cho thấy: Vị trí pháp lý của
một cơ quan độc lập như vậy không thể quy định một nơi nào khác ngoài Hiến pháp.
b) Đề xuất nội dung bổ sung vào Hiến pháp quy định về KTNN
Về KTNN:
“1. KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất do Quốc hội thành
lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý,
sử dụng tài chính nhà nước, tài sản công.
2. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của KTNN do luật định”.
Về Tổng KTNN:
“1. Tổng KTNN là người đứng đầu KTNN, do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi
nhiệm. Nhiệm kỳ của Tổng KTNN là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá
hai nhiệm kỳ.
2. Tổng KTNN chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công
tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo
cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
4.2.2.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước phải quán triệt các quan điểm
chỉ đạo:
Một là, thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng về phát triển KTNN.
Hai là, bảo đảm tính độc lập cao đối với hoạt động kiểm toán nhà nước; hoàn
thiện địa vị pháp lý của KTNN bảo đảm tương xứng vị trí, vai trò của KTNN với tư
cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước do Quốc hội thành
lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Ba là, kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Luật Kiểm toán nhà nước
hiện hành; bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh hay quy định chưa rõ hoặc
21
thiếu thống nhất, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tế hoạt động
của KTNN; bảo đảm sự phù hợp và đồng bộ giữa Luật Kiểm toán nhà nước với Luật
tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật NSNN và các luật khác có liên quan
trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Bốn là, mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm toán của KTNN bảo đảm bao quát hết
nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà
nước và tài sản công.
Năm là, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt
động của KTNN bảo đảm phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm
toán nhà nước được thực hiện theo các nội dung định hướng như sau:
Thứ nhất: Địa vị pháp lý của KTNN
Trên cơ sở Hiến pháp được Quốc hội thông qua, sửa đổi lại Điều 13 của Luật
KTNN về địa vị pháp lý của KTNN cho phù hợp.
Thứ hai: Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN
- Bổ sung các nhiệm vụ: Kiểm toán thuế; kiểm toán nợ công; phòng, chống
tham nhũng; kiểm toán dự toán NSNN, dự án, công trình quan trọng quốc gia phục
vụ cho việc xem xét quyết định của Quốc hội.
- Bổ sung thẩm quyền của KTNN trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về kiểm toán nhà nước của tổ chức, cá nhân có liên quan.
Thứ ba: Đối tượng và phạm vi kiểm toán
Mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN, bảo đảm bao quát hết các
nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công, bao gồm: NSNN, tiền và tài sản nhà
nước, đất đai, tài nguyên khoáng sản và những đối tượng khác thuộc quyền sở hữu
hoặc quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Thứ tư: Về Tổng KTNN, Phó Tổng KTNN
Cần phân cấp mạnh hơn và tăng cường trách nhiệm cho Tổng KTNN trong một
số vấn đề về tổ chức và hoạt động của KTNN. Cần xem xét sửa đổi quy định về việc
bổ nhiệm Phó Tổng KTNN theo hướng: Phó Tổng KTNN do Tổng KTNN đề nghị
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Tổng KTNN là
5 năm cho phù hợp với quy định của Luật Cán bộ, công chức.
Thứ năm: Về Kiểm toán viên nhà nước
Xem xét bỏ ngạch KTV dự bị để bảo đảm sự phù hợp và tương thích với Luật
Cán bộ, công chức và khắc phục những hạn chế trong tuyển dụng và sử dụng đội
ngũ KTV của KTNN.
Thứ sáu: Về hoạt động kiểm toán nhà nước
- Bổ sung theo hướng luật hóa nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu KTNN
chuyên ngành, KTNN khu vực trong tất cả các bước của quy trình kiểm toán; nâng
cao trách nhiệm của Kiểm toán trưởng trong chỉ đạo khảo sát, thu thập thông tin lập
kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán, lựa chọn, bố trí nhân sự Đoàn kiểm toán
trình Tổng KTNN ban hành quyết định kiểm toán bảo đảm phù hợp về thời gian và
nhân sự với nội dung và phạm vi kiểm toán.
22
- Xác định một cách hợp lý đối tượng, quy mô, phạm vi của một cuộc kiểm
toán của KTNN; nghiên cứu quy định rõ các tiêu chí về thời gian, nhân sự và kinh
phí cho một cuộc kiểm toán nhằm bảo đảm tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán
nhà nước.
- Bổ sung quy định về nội dung, hình thức kiểm soát chất lượng kiểm toán và
trách nhiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán của các chủ thể có liên quan trong hoạt
động kiểm toán của KTNN.
- Đề cao trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán, các tổ chức, cá nhân có liên
quan trong việc thực hiện đầy đủ, kịp thời các kiến nghị kiểm toán của KTNN, nhằm
bảo đảm tính hiệu lực của hoạt động kiểm toán nhà nước.
Thứ bảy: Về đơn vị được kiểm toán
- Bổ sung thêm đơn vị được kiểm toán là các đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm
bảo toàn bộ kinh phí hoạt động vào khoản 7 Điều 63 của Luật KTNN.
- Đề nghị thay thế quy định tại khoản 11, Điều 63 của Luật KTNN về “Doanh
nghiệp nhà nước” bằng “Các doanh nghiệp có quản lý và sử dụng vốn và tài sản nhà
nước”. Quy định này nhằm bảo đảm sự phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2005;
đồng thời, bảo đảm bao quát nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm soát mọi nguồn
lực tài chính nhà nước và tài sản công.
4.2.2.3. Sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan
Nghiên cứu sửa đổi Luật KTNN và các luật có liên quan để phân định rõ vị trí,
chức năng của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra giám sát khác của Nhà
nước; đồng thời, bảo đảm sự đồng bộ và phù hợp giữa Luật KTNN với Luật tổ chức
Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật NSNN, Luật Cán bộ, công chức.
4.2.2.4. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà nước
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản QPPL hướng dẫn thi hành, Luật
KTNN, bao gồm: Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định vị trí làm
việc, cơ cấu chức danh công chức của KTNN; Nghị quyết của UBTV Quốc hội quy
định về tiêu chuẩn Tổng KTNN; Nghị định về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán
nội bộ tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản
nhà nước; Quy định về giải quyết kiến nghị của đơn vị được kiểm toán...
4.2.2.5. Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán
KTNN cần sớm hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán nhằm
ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán của KTNN; đến năm 2015, có
đầy đủ hệ thống chuẩn mực, các quy trình về kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động; từng bước cụ thể hoá quy trình kiểm toán theo chuyên
ngành hẹp phù hợp với các loại hình kiểm toán theo quy định của Luật KTNN.
4.2.2.6. Ban hành Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước
Nghị định của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực KTNN cần tập
trung vào 03 nhóm hành vi vi phạm sau đây:
23
Thứ nhất, hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có
liên quan vi phạm các điều cấm, vi phạm các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của
Luật KTNN trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Thứ hai, hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên
quan trong việc thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN.
Thứ ba, hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên
quan trong công khai kết quả kiểm toán.
4.2.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện
4.2.3.1. Nâng cao năng lực đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp
luật về kiểm toán nhà nước
Lực lượng soạn thảo các văn bản pháp luật về kiểm toán nhà nước cần có sự phối
hợp của ba nhóm chuyên gia: (1) Nhóm chuyên gia nghiệp vụ về kiểm toán của cơ
quan KTNN, một số trường đại học, viện nghiên cứu; (2) Nhóm các chuyên gia pháp lý
của KTNN, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội… và (3) Nhóm
chuyên gia tư vấn của nước ngoài. Sự phối hợp này nhằm bảo đảm cho hệ thống pháp
luật về kiểm toán nhà nước vừa kế thừa được kinh nghiệm nước ngoài, vừa phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.
4.2.3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm
toán nhà nước cho cán bộ, công chức của Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan, đơn
vị, tổ chức
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục sâu rộng Luật KTNN, các
văn bản hướng dẫn thi hành đến toàn thể cán bộ, công chức KTNN, các cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc
phạm vi kiểm toán của KTNN.
4.2.3.3. Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị đội ngũ
cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước
Phải có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công
chức, KTV nhà nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong
sáng, tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn, chuyên nghiệp, tương xứng với yêu cầu
của nghề nghiệp kiểm toán.
4.2.3.4. Phát triển đồng bộ và hiện đại cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán
Thứ nhất, phát triển cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ thoả đáng phù hợp đặc
thù nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức, KTV của KTNN.
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán.
4.2.3.5. Tăng cường công tác giám sát đối với hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Tăng cường kiểm tra, giám sát của Quốc hội, UBTV Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội nhằm bảo đảm tính khách quan và hiệu lực của hoạt động giám sát.
24
KẾT LUẬN
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, Luận án "Hoàn
thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã đạt được mục đích và hoàn thành mục tiêu
nghiên cứu đề ra. Kết quả nghiên cứu có thể được khái quát:
1. Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp
luật và pháp chế XHCN, Luận án đã xây dựng được khái niệm pháp luật kiểm toán
nhà nước, phân tích làm rõ đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về kiểm toán
nhà nước phù hợp với quan điểm của Đảng và thực tiễn hoạt động của KTNN.
2. Luận án cũng phân tích làm rõ những tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện và
những điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước; yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền XHCN đối với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước. Đây là vấn đề hoàn toàn mới, có ý nghĩa về lý luận và phương pháp luận trong
việc đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta
hiện nay.
3. Luận án đã phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế
và bất cập của pháp luật về kiểm toán nhà nước; đồng thời, luận giải những
nguyên nhân hạn chế, tồn tại của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước ở
nước ta hiện nay. Đây là cơ sở thực tiễn để đề ra các giải pháp có tính khả thi cao
nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
4. Căn cứ vào những yêu cầu khách quan và xuất phát từ thực trạng pháp luật
về kiểm toán nhà nước hiện nay, Luận án đã đề xuất những quan điểm định hướng
và các nhóm giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cụ thể là:
Nhóm giải pháp hoàn thiện nội dung và hình thức pháp luật về kiểm toán nhà
nước, bao gồm các giải pháp: Xác lập địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp -
đạo luật cơ bản của Nhà nước; sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước; sửa đổi,
bổ sung các luật có liên quan; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản để cụ thể
hoá và hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà nước; tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán; ban hành Nghị định quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Ngoài các nhóm giải
pháp hoàn thiện nội dung, hình thức pháp luật về kiểm toán nhà nước nêu trên, Luận
án còn đề xuất nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện: Nâng cao năng lực đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật về kiểm toán nhà nước; đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm toán nhà nước cho cán
bộ, công chức của KTNN và các cơ quan, đơn vị, tổ chức; đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn, phẩm chất chính trị đội ngũ cán bộ, công chức, KTV nhà nước; phát
triển đồng bộ và hiện đại cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động kiểm toán; tăng cường công tác giám sát đối với hoạt động của
KTNN.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA NCS
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đặng Văn Hải (2010), “Hoàn thiện cơ sở pháp lý đầy đủ và toàn diện cho tổ
chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước”, Tạp chí Kiểm toán, (7),
tr.47 - 49.
2. Đặng Văn Hải (2011), “Kinh nghiệm các nước trên thế giới xác lập địa vị
pháp lý của Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp và vận dụng cho
Việt Nam”, Tạp chí Kiểm toán, (3), tr. 40 - 43.
3. Đặng Văn Hải (2011), “Kinh nghiệm quốc tế trong quy định về xử lý hành
vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước và khả năng vận dụng ở Việt
Nam”, Tạp chí Kiểm toán, (5), tr. 54 - 56; (6), tr. 49 - 51.
4. Đặng Văn Hải (2012), “Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam đối với hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Kiểm toán, (2), tr. 36 - 39.
5. Đặng Văn Hải (2012), “Những tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của pháp
luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kiểm toán, (4),
tr.19 - 22.
6. Đặng Văn Hải (2012), “Quy định về Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp là
yêu cầu khách quan hỗ trợ thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc
hội”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (13), tr. 11 - 15.
7. Đặng Văn Hải (2012), “Yêu cầu khách quan và định hướng sửa đổi, bổ sung
Luật Kiểm toán nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (24), tr. 51
- 56.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Unlock-ttluan_an_sau_pbk__8906.pdf