Các đặc trưng về ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ trong thơ ca dân gian thể hiện ở các phương diện mà luận án đã chỉ ra hy vọng chúng có ý nghĩa góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị ngôn ngữ - văn hóa của địa phương NB nói riêng, xây dựng nền “văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nói chung. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ trở thành những tư liệu bổ ích cho việc giảng dạy môn học “Ngôn ngữ và văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long” ở các trường đại học của vùng Nam Bộ trong tương lai gần. Tuy nhiên, do vấn đề nghiên cứu của chúng tôi chỉ giới hạn ở từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian nên đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương vùng Nam Bộ vẫn còn nhiều khía cạnh chưa được khai thác hết. Hi vọng những khía cạnh mới đó sẽ được nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ và toàn diện hơn trong một công trình nghiên cứu khác./.
27 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 6271 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa từ ngữ địa phương Nam Bộ (trong thơ ca dân gian Nam Bộ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ xét ở phương diện nghệ thuật sáng tạo thơ ca dân gian.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ - văn hoá của từ địa phương ở Việt Nam
Phương ngữ (PN) tiếng Việt, nhất là vấn đề ngữ âm, từ lâu đã có nhiều tác giả nước ngoài và trong nước quan tâm nghiên cứu. Riêng hướng nghiên cứu ngữ nghĩa của TĐP gắn với văn hoá của từng vùng gần đây mới được chú ý.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ - văn hoá của từ địa phương ở vùng Nam Bộ
PNNB đã được các tác giả: Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Đức Dương, Trần Thị Ngọc Lang, Nguyễn Văn Ái, Lê Trung Hoa... quan tâm theo hướng thu thập vốn từ hoặc nghiên cứu sự khác biệt về từ vựng - ngữ nghĩa so với từ toàn dân; gần đây một số nhóm từ vựng PNNB được các tác giả như Lý Tùng Hiếu, Huỳnh Công Tín, Hồ Xuân Tuyên...nghiên cứu theo hướng NN-VH.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ - văn hoá từ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ
Trong nhiều năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu cũng đã tìm hiểu yếu tố PN trong TCDGNB theo hai hướng: một là, chú ý các đặc điểm của PN (Nguyễn Thị Phương Châm, Trần Phỏng Diều, Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Văn Nở, Trần Thị Diễm Thúy, Trần Minh Thương...); hai là, nghiên cứu một vài biểu hiện về ngôn ngữ và văn hóa của TĐP (Trần Văn Nam, Bùi Thị Tâm, Huỳnh Công Tín...). Nhìn chung, cho đến thời điểm hiện tại, đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa TĐP trong PNNB nói chung và trong TCDGNB nói riêng chưa được nghiên cứu sâu và hệ thống; vai trò của từ ngữ địa phương trong sáng tạo TCDG cũng như những giá trị văn hóa của nó thì vẫn chưa tác giả nào tập trung làm rõ. Do vậy, cần có một sự nghiên cứu sâu hơn, bao quát và hệ thống hơn TĐP trong TCDGNB từ phương diện NN-VH.
1.2. Những tiền đề lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ - văn hóa
1.2.1.1. Từ ngôn ngữ đến ngôn ngữ thơ ca
Theo F. de Saussure: “ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu nhiều tầng được người bản ngữ chấp nhận, ghi nhớ, hiểu và sử dụng trong khi giao tiếp với cộng đồng”.
Văn học nghệ thuật là một dạng giao tiếp đại chúng nên chất liệu ngôn ngữ được sử dụng là ngôn ngữ tự nhiên. Trong TCDG, ngôn ngữ được sử dụng có nguồn gốc dân dã, thể hiện bản chất bình dị, chất phác, hồn nhiên của người dân lao động. Ngôn ngữ gắn liền với địa bàn cư trú và mang đặc trưng văn hoá của cộng đồng đó.
1.2.1.2. Quan niệm về văn hóa và các vùng văn hóa Việt Nam
a. Các quan niệm về văn hóa
Sau khi trình bày quan niệm về văn hóa cho tới nay chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu nước ngoài và trong nước là do nhiều nguyên nhân, dựa trên các định nghĩa đã chọn nêu, để thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dữ liệu khi nghiên cứu, chúng tôi quan niệm: Văn hóa là một hệ thống tất cả những giá trị vật chất và tinh thần mang tính biểu tượng do con người tạo ra qua quá trình đấu tranh sinh tồn và phát triển. Văn hóa được tạo ra bởi cộng đồng người theo từng nơi cư trú và làm cho cộng đồng người đó có những đặc trưng riêng biệt.
b. Các vùng văn hóa Việt Nam
Sau khi nêu cách phân chia vùng văn hóa Việt Nam của các nhà nghiên cứu và cho thấy tuy kết quả phân chia số lượng vùng văn hóa không giống nhau nhưng phần đông các nhà khoa học đều xem Nam Bộ là một vùng văn hóa. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi chấp nhận quan điểm xem NB là một vùng văn hóa lớn.
1.2.1.3. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Ngôn ngữ và văn hóa có quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này được thể hiện ở 5 phương diện: Ngôn ngữ là bộ phận của văn hóa; Văn hóa vừa có tính phổ quát vừa có tính đặc trưng hay tính nhân loại và tính đặc thù; Ngôn ngữ là một phần của văn hóa; Ngôn ngữ biến đổi chậm hơn văn hóa; Quá trình tiếp xúc với các dân tộc khác dẫn đến sự thay đổi ít nhiều của văn hóa.
Ngôn ngữ vừa là thành tố vừa là phương tiện biểu hiện văn hóa vì thế nội dung luận án này nghiên cứu đặc trưng văn hoá thể hiện ngay trong bản thân các từ ngữ địa phương. Dưới góc độ NN -VH, qua vốn từ ngữ địa phương NB, luận án nêu và phân tích những sự khác biệt về thói quen ứng xử, thói quen tư duy liên tưởng của cộng đồng người dân địa phương NB so với các vùng địa phương khác.
1.2.2. Phương ngữ tiếng Việt và từ ngữ địa phương Nam Bộ
1.2.2.1. Phương ngữ và lịch sử nghiên cứu phương ngữ
PN đã được các nhà văn hóa và các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu từ thời kỳ Trung cổ. Ở Việt Nam, PN bắt đầu được đề cập đến từ những năm đầu thế kỉ XX, đến nay đã có nhiều học giả và nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm, nghiên cứu trên nhiều bình diện với quy mô khác nhau, như: Nguyễn Trọng Hoàn, Bình Nguyên Lộc, Nguiễn Ngu Í, Cao Xuân Hạo, Hoàng Thị Châu, Đinh Lê Thư, Hoàng Cao Cương, Võ Xuân Trang, Phạm Văn Hảo, Nguyễn Quang, Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Đức Dương, Nguyễn Văn Ái, Trần Thị Ngọc Lang, Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Trọng Canh, Nguyễn Văn Nguyên, Huỳnh Công Tín
1.2.2.2. Các vùng phương ngữ tiếng Việt
Ngoài đặc điểm chung, mỗi vùng phương ngữ luôn có những đặc trưng riêng. Cho nên nghiên cứu phương ngữ phải gắn với từng vùng phương ngữ cụ thể. Cho đến nay, ý kiến của các nhà nghiên cứu là không giống nhau về số lượng, ranh giới các vùng PN tiếng Việt. Có tác giả chia PN Việt thành hai vùng, có tác giả chia thành bốn vùng, có tác giả lại chia thành năm vùng,Quan điểm chia PN tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ lớn (PN Bắc (Bắc Bộ), PN Trung (Bắc Trung Bộ) và PN Nam (Nam Trung Bộ và Nam Bộ) là cách chia được phần đông tác giả thể hiện trong các nghiên cứu. Vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu trong luận án liên quan đến một PN cụ thể là PNNB, thuộc vùng PN Nam. PNNB được hình thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển lịch sử 300 năm của vùng đất mới Nam Bộ.
1.2.2.3. Khái niệm từ địa phương và từ ngữ địa phương Nam Bộ
Về khái niệm từ địa phương, mỗi tác giả có cách định nghĩa riêng nhưng giữa các tác giả đều thống nhất trên hai nét cơ bản: Thứ nhất, từ địa phương là những từ bị hạn chế về phạm vi địa lí sử dụng; Thứ hai, từ địa phương có sự khác biệt nhất định về ngữ âm, từ vựng hay ngữ pháp so với ngôn ngữ toàn dân.
Về khái niệm từ ngữ địa phương NB, chúng tôi xác định: từ ngữ địa phương NB là những từ ngữ được người dân vùng NB quen dùng, có sự khác biệt nhất định về âm, nghĩa hay ngữ pháp so với ngôn ngữ toàn dân.
1.2.3. Thơ ca dân gian với việc sử dụng từ ngữ địa phương
1.2.3.1. Vùng đất và con người Nam Bộ
a. Khái quát về vùng đất Nam Bộ
NB là một vùng đất cuối cùng phía Nam của Tổ quốc, nằm chủ yếu ở hạ lưu của hai con sông Đồng Nai và Cửu Long. Về địa lý tự nhiên, NB được chia thành hai khu vực lớn, bao gồm: các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Về tên gọi, mảnh đất NB đã có nhiều tên gọi khác nhau qua các thời kì lịch sử. NB là địa bàn cư trú của nhiều tộc người khác nhau, gồm Việt, Hoa, Chăm, Khmer nên văn hóa - tín ngưỡng của mọi cộng đồng đều có sự giao thoa lẫn nhau.
b. Về con người Nam Bộ
Con người NB là con người tứ chiếng bởi họ đến đây sinh tồn lập nghiệp từ nhiều vùng đất khác nhau. Do hoàn cảnh lịch sử, địa lí, xã hội, cùng sống trong môi trường sông nước đặc trưng, do đó, người Nam Bộ có đặc trưng tính cách riêng. Nói đến con người NB là nói đến tính cách: trọng nghĩa khinh tài, lạc quan, bộc trực, thẳng thắn, hào phóng và hiếu khách...
1.2.3.2. Khái quát về thơ ca dân gian Nam Bộ
Cùng với TCDG các vùng, TCDGNB cũng có các mảng chủ đề chung mang tính thống nhất làm thành dòng chảy của TCDG dân tộc. Tuy nhiên, trong dòng chảy chung và thống nhất ấy, TCDGNB lại thể hiện những sắc thái riêng mang tính địa phương độc đáo.
1.2.3.3. Khái quát về từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ
TCDGNB là những câu hò bài hát được tạo ra trực tiếp trong lao động nên hơn bất cứ sáng tạo nghệ thuật nào, TCDGNB sử dụng rất nhiều từ địa phương, những từ ngữ mà người lao động vốn quen dùng trong cuộc sống hàng ngày. Từ ngữ địa phương trong TCDGNB là từ ngữ của người lao động vùng sông nước đi mở mang chinh phục vùng đất mới nên luôn đầy sức sống, tác động mạnh vào mọi giác quan của người nghe, mang đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của vùng.
1.3. Tiểu kết chương 1
Trên đây là những tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lí thuyết liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án. Chúng tôi vận dụng các cơ sở lí thuyết này trong việc khảo sát, phân tích và lí giải các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa, định danh, biểu trưng cũng như vai trò của từ ngữ địa phương NB trong TCDG NB.
Chương 2
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ XÉT Ở PHƯƠNG DIỆN BIẾN THỂ NGỮ ÂM VÀ TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA
2.1. Dẫn nhập
Để tìm hiểu các phương diện của từ ngữ NB, chúng tôi khảo sát vốn từ ngữ địa phương có trong 6 tác phẩm chính (xem mục 4). Tổng số từ ngữ thu được trong các tác phẩm là 1667 đơn vị, với 16016 lần xuất hiện, trong đó có 1200 từ ngữ địa phương, với 14852 lần xuất hiện và 467 từ ngữ chỉ địa danh, với 1164 lần xuất hiện.
2.2. Biến thể ngữ âm của từ địa phương Nam Bộ trong thơ ca dân gian
2.2.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.1. Lớp từ biến thể ngữ âm
Lớp từ biến âm
Biến thể âm đầu
Biến thể vần
Biến thể thanh điệu
Biến thể âm đầu và thanh điệu hoặc vần và thanh điệu
Tổng
Số lượng
46
231
13
4
294
Tỉ lệ %
15,6%
78,6%
4,4%
1,4%
100
2.2.2. Các dạng biến thể ngữ âm của từ địa phương Nam Bộ
2.2.2.1. Dạng biến thể phụ âm đầu của từ địa phương Nam Bộ
Biến thể phụ âm đầu xảy ra ở các cặp phụ âm: s/x, r/d/gi, tr/ch; d/đ; kh/g; l/nh; nh/c; v/ng; th/s,...
2.2.2.2. Dạng biến thể phần vần của từ địa phương Nam Bộ
- Hiện tượng biến thể có quan hệ đối ứng 1/1 gồm: biến thể ở âm chính, biến thể ở âm cuối, âm đệm - âm chính, âm chính - âm cuối, cả âm đệm - âm chính - âm cuối.
- Hiện tượng biến thể có quan hệ đối ứng 1/ hơn 1, như: chơn - chưn - chân; doan - dươn - duyên; dìa - vìa - về; hạp - hiệp - hợp; ngãi - ngỡi - nghĩa...
2.2.2.3. Dạng biến thể thanh điệu của từ địa phương Nam Bộ
Trong TCDGNB, thanh ngã phát âm thành thanh hỏi xuất hiện không nhiều. song vẫn có cả từ biến âm rút gọn từ các cụm từ ở ngôi thứ ba, một hình thức biến thêr rất điển hình của cách phát âm “thanh hỏi hóa” đặc trưng Nam Bộ: ổng/ ông ấy, bả/ bà ấy, trển/ trên ấy, bển/ bên ấy...
Ngoài ra, hiện tượng biến âm còn được thể hiện rất đa dạng ở những nhóm thanh điệu khác như: bợ ngợ / bỡ ngỡ (. / ~); dọ / dò (. / \); vầy / vậy (\ /.),...
2.2.2.4. Dạng biến thể âm đầu và thanh điệu hoặc vần và thanh điệu của từ địa phương Nam Bộ
Trong PNNB, lớp từ biến âm còn có dạng biến thể nhiều hơn một bộ phận của âm tiết như: ghiền/ nghiện; hẩng hờ/ hững hờ; nghe/ nhé...
Tóm lại, hiện tượng biến âm của PNNB tạo nên sự khác biệt về hình thức so với từ toàn dân. Sự xuất hiện nhiều về số lượng các loại biến thể ngữ âm trong TCDGNB cho thấy diện mạo và đặc trưng riêng về NN-VH của lớp TĐP trong PNNB.
2.3. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ qua các hiện tượng biến thể từ vựng - ngữ nghĩa
2.3.1. Lớp từ ngữ địa phương chỉ địa danh vùng Nam Bộ
2.3.1.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện loại địa danh trong TCDGNB
STT
Loại địa danh
Số lượng
Tỉ lệ %
Tần số
Tỉ lệ %
1
Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên
104
22,3
136
11,7
2
Địa danh chỉ các đối tượng nhân văn
363
77,7
1028
88,3
Tổng
467
100
1164
100
Trong TCDGNB, địa danh NB chủ yếu liên quan đến địa hình sông nước. Từ ngữ chỉ địa danh nhân văn có số lượng lớn và tần số xuất hiện cao; điều đó phản ánh vai trò của con người trong việc chinh phục vùng đất mới.
Thành tố chung và thành tố riêng của địa danh vùng NB
Các thành tố địa danh NB có sự đa dạng về cấu tạo. Trong tổng số 467 từ ngữ chỉ địa danh, có 157 từ có chứa thành tố chung, tần số xuất hiện là 253 lần. Cấu tạo của thành tố chung chủ yếu là cấu tạo đơn (trên 99%). Về thành tố riêng, vùng đồng bằng có số lượng từ nhiều nhất là 350 từ, thường gắn liền với địa danh kiến tạo, tiếp đến là vùng sông nước với 87 từ, ít nhất là vùng đồi núi chỉ với 30 từ.
Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi địa danh vùng NB
Các từ ngữ chỉ địa danh NB có nguồn gốc rất đa dạng, nhiều nhất là địa danh gốc Hán (51,6%), tần số 726 lần (62,4%); địa danh thuần Việt có 106 từ (22,7%), với 169 lần xuất hiện (14,5%); địa danh gốc Khmer có 74 từ (15,8%), với 210 lần xuất hiện (18%). Ít nhất địa danh nguồn gốc hỗn hợp, chỉ 21 từ (4,5%), xuất hiện 24 lần (2,1%). Kết quả trên cho thấy NB là vùng đất có sự kết hợp và giao thoa đa NN-VH.
2.3.1.2. Dấu ấn ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ chỉ địa danh vùng Nam Bộ
a. Địa danh thể hiện đặc điểm địa chất và các dạng địa hình qua các yếu tố chung, chẳng hạn: ấp Trung, cù lao ông Chưởng, giồng Trôm...
b. Trong TCDGNB, văn hóa tín ngưỡng thể hiện rất rõ qua các địa danh chỉ di sản vật thể liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, sự tri ân các anh hùng dân tộc, tên các công trình do chế độ cũ để lại, tục kiêng húy tên của thần linh, vua chúa, hoàng tộc...
c. Về văn hóa sinh hoạt, TCDGNB đã ghi lại những địa danh gắn liền với đặc điểm vị trí quần cư của người dân nơi đây, như: cù lao, giồng, gò, núi, hòn...
d. Địa danh trong TCDGNB phản ánh diện mạo văn hóa của vùng đất NB với những lễ hội truyền thống nổi tiếng, những sản phẩm của các làng nghề truyền thống và sản vật của địa phương nổi tiếng.
e. Các tên gọi địa danh được dùng để thể hiện nguyện vọng, ước mơ của người dân trong công cuộc khẩn hoang và phát triển vùng đất mới.
f. Các tác giả dân gian sử dụng địa danh với ý nghĩa ẩn dụ, biểu trưng nghệ thuật. Chẳng hạn: Châu Đốc, Nam Vang, Cầu Ô, Sài Gòn, Mĩ Tho, Bến Thành
2.3.2. Lớp từ ngữ địa phương chỉ sông nước vùng Nam Bộ
2.3.2.1. Xét về cấu tạo
Bảng 2.6. Số lượng và tần số xuất hiện xét về phương diện cấu tạo
của từ ngữ chỉ sông nước trong TCDGNB
Cấu tạo
Số lượng
Tỉ lệ %
Tần số xuất hiện
Tỉ lệ %
Từ đơn
28
22,6
547
59,1
Từ ghép
Chính phụ
81
65,3
339
36,6
Ghép láy
4
3,2
6
0,6
Đẳng lập
0
0
0
0
Từ láy
11
8,9
34
3,7
Tổng
124
100%
926
100%
Số liệu ở bảng trên cho thấy cấu tạo của từ địa phương chỉ sông nước trong TCDGNB chủ yếu là từ ghép chính phụ, không có từ ghép đẳng lập; những từ mà chúng tôi gọi là ghép láy là do các yếu tố phụ có quan hệ ngữ âm theo dạng láy nhưng thực chất cấu tạo của từ là ghép chính phụ nên có thể nói từ ngữ chỉ sông nước có tính biệt loại, tính cá thể, cụ thể cao về nghĩa. Điều đó góp phần làm cho bức tranh hiện thực về thiên nhiên và đời sống hiện lên trong TCDGNB rất cụ thể và sinh động.
2.3.2.2. Xét về từ loại
Trong 124 từ ngữ chỉ sông nước, danh từ có số lượng nhiều nhất, gồm 103 từ, chiếm 83,1%; tiếp đến là động từ, gồm 17 từ, chiếm 13,7%; ít nhất là nhóm tính từ, gồm 4 từ, chỉ chiếm 3,2%.
2.3.2.3. Dấu ấn ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ chỉ sông nước trong TCDGNB
a. Đây là lớp TĐP gọi tên đối tượng phong phú, đa dạng mang đậm sắc thái địa phương. Chẳng hạn, xáng, ghe...
b. Qua tên gọi, ta thấy hiện lên mảnh đất NB với đặc điểm điểm địa lý nổi bật là hệ thống kênh rạch chằng chịt, gồm: rạch, xẻo, bưng, láng, lung, gành, xáng...
c. Nhiều từ ngữ liên quan đến sông nước trong TCDGNB được sử dụng theo phương thức chuyển nghĩa nhằm thể hiện cách tri nhận của các tác giả dân gian về sự vật, hiện tượng vùng sông nước mang đặc trưng địa phương, như: sình, cù lao, lội, chịu sào, lịch, láng cò...
d. Những sự vật gắn vơi vùng sông nước quen thuộc đi vào TCDGNB và đã trở thành hình ảnh biểu trưng (chúng tôi sẽ phân tích cụ thể ở chương 4).
Như vậy, Qua lớp từ ngữ chỉ sông nước, chúng ta thấy được phần nào cách lựa chọn các đặc trưng sự vật, cách phân cắt hiện thực khách quan, cùng với cách lựa chọn hình ảnh của tác giả dân gian với những đặc trưng rất độc đáo nhưng lại rất gần gũi với cộng đồng người dân vùng sông nước NB.
2.3.3. Lớp từ ngữ địa phương chỉ thiên nhiên, miệt vườn vùng Nam Bộ
2.3.3.1. Xét về cấu tạo
Bảng 2.8. Số lượng và tần số xuất hiện xét về phương diện cấu tạo
của từ ngữ chỉ thiên nhiên, miệt vườn trong TCDGNB
Cấu tạo
Số lượng
Tỉ lệ %
Tần số xuất hiện
Tỉ lệ %
Từ đơn
43
34,4
786
69,7
Từ ghép
Chính phụ
78
62,4
334
29,6
Đẳng lập
1
0,8
1
0,08
Từ láy
3
2,4
7
0,62
Tổng
125
100%
1128
100%
2.3.3.2. Xét về từ loại
Trong 125 từ ngữ đã thống kê, danh từ là nhóm có số lượng nhiều nhất (106 từ (chiếm 84,8%), tần số sử dụng cao, nhóm tính từ chỉ có 16 từ (chiếm 12,8%), ít nhất là nhóm từ động từ, chỉ có 3 từ (chiếm 2,4%).
2.3.3.3. Những dấu ấn ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ chỉ thiên nhiên, miệt vườn trong TCDGNB
a. Trước hết, TCDGNB đã ghi lại cảnh thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt, gồm các tên gọi như: bưng, biền, bưng biền,...
Đó là vùng đất hoang sơ, sình lầy, cây cối rậm rạp với những loài thú hung dữ, nguy hiểm, luôn rình rập, đe dọa tính mạng con người: sấu, cọp, ác, rít,...
b. Tác giả dân gian cũng đã dùng một lớp TĐP đa dạng để gọi tên thực vật như: bần, bàng, còng, lác, tràm, bình bát, kèo nèo, lúa ma, xa cừ,... tên gọi động vật như: ác, cọp, rít, bồng bồng, chim quyên, cò ma, cồng cộc, le le, thằng chài,...
c. Ngoài những sản vật từ thiên nhiên ban tặng, TCDGNB còn giới thiệu sự giàu có về sản vật từ các miệt vườn, như: chôm chôm, mãng cầu, sầu riêng...
d. Con người NB chủ yếu gắn bó với các miệt vườn nên những món ăn hàng ngày của họ rất đạm bạc, cá và các loại rau trồng trong vườn.
Như vậy, qua sự đa dạng của các tên gọi phản ánh thiên nhiên, miệt vườn chúng ta nhận thấy khả năng tri nhận sâu sắc về các sự vật, cách lựa chọn hình ảnh đặc trưng của các tác giả dân gian độc đáo, gần gũi, ngôn ngữ chân chất như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân địa phương. Tất cả đã tạo nên cái văn minh miệt vườn tiêu biểu của vùng đất phương Nam của Tổ quốc.
2.3.4. Lớp từ ngữ xưng hô địa phương Nam Bộ
2.3.4.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.10. Số lượng và số lần xuất hiện của các nhóm từ xưng hô
Nhóm từ xưng hô
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lần xuất hiện
Tỉ lệ %
Danh từ thân tộc
9
36
189
19,9
Thứ tự sinh
9
36
38
4,0
Đại từ nhân xưng
7
28
723
76,1
Tổng
25
100
944
100
2.3.4.2. Các nhóm từ xưng hô trong thơ ca dân gian
a. Dùng danh từ thân tộc
Một đặc điểm rất nổi bật về xưng hô trong TCDGNB là từ xưng hô chỉ quan hệ trong gia đình được dùng phổ biến ngoài xã hội, như: cậu - con, mợ - con, bà - con,
Ngoài ra, danh từ thân tộc con có thể kết hợp với tính từ nhỏ (như: con nhỏ, thằng nhỏ, vợ nhỏ) lâm thời làm từ xưng gọi, dùng khá phổ biến.
b. Dùng nhóm từ xưng hô theo thứ tự sinh
Xưng hô theo từ chỉ thứ tự sinh hay xưng hô kết hợp giữa danh từ thân tộc và từ gọi theo thứ tự sinh cũng là một lối xưng hô độc đáo của người dân NB, kiểu như: Tư, Năm,má Bảy,... cậu Ba, mợ Ba, cô Năm, em Hai... Phải chăng, đây cũng là một nét biểu hiện của văn hóa cởi mở, mộc mạc, hòa đồng của người NB.
c. Dùng đại từ nhân xưng
Trong TCDGNB, các tác giả dân gian sử dụng từ xưng hô là các đại từ biến âm rút gọn: ổng, bả, chỉ với sắc thái nghĩa trung tính để chỉ người ở ngôi thứ ba. Đây là các đại từ đặc biệt của PNNB. Trong TCDGNB còn có đại từ xưng hô bậu, qua. Đây là những từ có nguồn gốc từ tiếng Triều Châu đã được Việt hóa hoàn toàn.
Như vậy, cách dùng từ xưng hô để xưng gọi ở đây thể hiện sự mộc mạc, bình dân, rất cởi mở, phóng khoáng và luôn thấm đậm tình cảm thân thiết. Đó là những nét sắc thái văn hóa riêng của người dân NB trong xưng hô.
2.3.5. Lớp từ ngữ địa phương đồng nghĩa với từ toàn dân
2.3.5.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.11. Số lượng từ ngữ địa phương NB đồng nghĩa trong TCDG
phân theo các tiểu loại
Các tiểu loại đồng nghĩa của từ địa phương trong TCDGNB
Số lượng
Tỉ lệ %
Đồng nghĩa phong cách
294
75,0
Đồng nghĩa ý niệm
43
11,0
Đồng nghĩa ý niệm - phong cách
55
14,0
Tổng
392
100
2.3.5.2. Các nhóm từ đồng nghĩa trong thơ ca dân gian Nam Bộ
a. Nhóm từ đồng nghĩa phong cách
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy từ địa phương NB đồng nghĩa phong cách với từ toàn dân ở nhiều từ loại, gồm:
- DT: heo - lợn; nón - mũ; sáo - mành; sình - bùn ...
- ĐgT: mướn - thuê; xá - vái; ẵm - bồng - bế; leo - trèo; nói láo - nói dối...
- TT: ốm - gầy; cứng - rắn; lẹ - nhanh chóng; mắc - đắt; sình - ươn...
- ĐT: bay - bọn mày, chúng mày; chi - gì; chi vầy - gì vậy...
Nằm trong sự đối lập đồng nghĩa, từ toàn dân thường trung hòa về phong cách, còn TĐPNB lại mang tính biểu cảm, thể hiện rõ nét sắc thái văn hóa địa phương. Nguyên nhân của sự khác nhau này một phần là do hiện thực được phản ánh là hiện thực NB, một phần là do thói quen nói năng của người ĐP vẫn dùng nhiều từ cổ của tiếng Việt, như: bể (vỡ), bợ (đỡ), bông (hoa), heo (lợn), lẹ (nhanh), lượm (nhặt), lu (mờ), giỡn (đùa), mùng (màn)...
b. Nhóm từ đồng nghĩa ý niệm
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy có các từ đồng nghĩa ý niệm như: ác - quạ; chỉ điều - chỉ đỏ; chú ủi - lợn; cù lần - chậm chạp; eo - teo tóp; vườn - quê....
Các từ đồng nghĩa ý niệm trong TCDGNB có sự phân biệt với nhau về những sắc thái nghĩa cơ bản nên chúng có vai trò hết sức quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng, tình cảm của chủ thể sử dụng ngôn ngữ, đồng thời làm cho lời thơ trở nên ý nhị, sâu xa hơn. Ví dụ: đành thể hiện sự hài lòng, chấp nhận vì thỏa mãn với các tiêu chí đã đề ra; ưng thể hiện sự ưng thuận, đồng ý ở phương diện tình cảm.
c. Nhóm từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách
Đây là loại từ đồng nghĩa phân biệt với nhau cả về sắc thái ý nghĩa chung và cả về màu sắc phong cách, như: dơ - bẩn; cưng - chiều; lục bình - bèo tây; nhậu - ăn/ uống... Các TĐPNB hầu hết có nghĩa biểu hiện rộng hơn và mang sắc thái biểu cảm tinh tế hơn so với từ toàn dân, phù hợp với thực tế và thói quen ứng xử VH của người dân nơi đây.
2.4. Tiểu kết chương 2
Ở chương này, luận án đã phân tích các lớp từ ngữ có hiện tượng biến thể ngữ âm, biến thể từ vựng - ngữ nghĩa. Qua mỗi lớp từ, chúng tôi thấy từ địa phương NB có sự thể hiện đa dạng cả về số lượng và ngữ nghĩa và có sự khác biệt với NNTD. Điều này đã tạo nên đặc trưng NN-VH riêng biệt của từ ngữ địa phương NB.
Chương 3
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ
XÉT Ở PHƯƠNG DIỆN ĐỊNH DANH
3.1. Khái niệm về định danh
Luận án đã chọn nêu định nghĩa về định danh của một số tác giả trong và ngoài nước với cách hiểu chung: “Định danh chính là đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng” (Nguyễn Đức Tồn, 2008) và chỉ ra đặc trưng sự vật được lựa chọn qua tên gọi và cách thể hiện chúng trong ngôn ngữ là thể hiện đặc trưng văn hóa dân tộc và vùng miền.
3.2. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa thể hiện qua “độ sâu phân loại” trong “sự phạm trù hóa hiện thực” của từ ngữ địa phương NB
3.2.1. Thống kê định lượng
Bảng 3.1. Số lượng từ ngữ NB biểu thị “độ sâu phân loại”
Độ sâu phân loại của các nhóm từ
Số lượng
Tỉ lệ %
Nhóm từ biểu thị chủng
DT
113
51
30,8
45,1
ĐgT
39
34,5
TT
23
20,4
Nhóm từ biểu thị loại
DT
254
170
69,2
66,9
ĐgT
53
20,9
TT
31
12,2
Tổng
367
100
3.2.2. Nhóm từ biểu thị khái niệm chủng
3.2.2.1. Nhóm từ loại danh từ
So sánh với từ TD, nhóm từ này có 2 khác biệt:
Thứ nhất, những từ ngữ địa phương biểu thị những nội dung mà NNTD không có từ ngữ tương ứng, như: bưng, bưng biền, châu thành, miệt vườn, tài công, tàu kê (tào kê), lạch... Đây là những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong giao tiếp của vùng NB.
Thứ hai, những từ địa phương NB mang đặc điểm chủng thì từ toàn dân lại mang đặc điểm của loại, như: kẽm (sắt, thép), kiếng (kính, gương), nón (nón, mũ)...
3.2.2.2. Nhóm từ loại động từ và tính từ
So sánh với từ TD, nhóm từ này có 2 khác biệt:
Thứ nhất, những từ ngữ địa phương không có từ ngữ tương ứng trong NNTD, như: chịu sào, láng nguyên, lạt nhách, lu câm, muồi, riu ríu, rối nùi, hân hấn... Trong đó, nhiều nhất là các từ thuộc từ loại TT.
Thứ hai, từ địa phương NB mang đặc điểm chủng thì từ toàn dân lại mang đặc điểm của loại, như: cắn (đốt, chích); lụi (xiên, đâm, tiêm, chích); lội (bơi, đi); la (nói, gọi, kêu, mắng)... Trong đó, nhiều nhất là các từ thuộc từ loại ĐgT.
Có những từ mang đặc điểm của hai từ loại trở lên khác nhau. Chẳng hạn, từ ngộ: xinh đẹp (TT), gặp nhau (ĐgT); láng cò: vùng trũng lớn ngập nước (DT), trắng xóa, khắp cả một diện rộng (TT)...
3.2.3. Nhóm từ biểu thị khái niệm loại
Về độ sâu phân loại, chúng tôi mô hình hoá, cụ thể như sau:
Yếu tố chỉ loại
Yếu tố phân loại
Mô hình bậc 1:
Yếu tố chỉ loại
Yếu tố phân loại
Bậc 1
Bậc 2
Mô hình bậc 2:
3.2.3.1. Nhóm danh từ
- Đối với các từ được phân loại ở mức độ loại, nhóm từ này chủ yếu là từ đơn.
- Đối với các từ được phân loại ở mức độ tiểu loại, nhóm từ này thể hiện độ sâu phân loại theo hướng chi tiết hoá ở hai mức độ: bậc 1 và bậc 2.
Những từ thuộc mô hình bậc 1 chiếm số lượng nhiều nhất, với 174/ 183 từ. Chẳng hạn, từ ghe, xuồng, Đối chiếu với từ thuyền trong NNTD, ghe lại được chia thành 26 loại và xuồng được chia thành 4 loại khác nhau. Sự đa dạng này đã phản ánh rõ môi trường tự nhiên và môi trường hoạt động cụ thể của sông nước NB.
Những từ thuộc mô hình bậc 2 có số lượng không nhiều, chỉ có 9/ 183 từ, như: áo vá quàng, bánh bò bông, bánh tầm xe, giông khói đèn, thuốc bìa son... Tuy nhiên, đây lại là lớp từ góp phần biểu đạt tinh tế về hiện thực của người dân NB.
3.2.3.2. Nhóm động từ
Đối với nhóm từ thuộc cấp độ loại, chúng có số lượng không nhiều, chỉ có 5/ 56 từ, gồm: bủa, gay, rổn, trót. Những từ này không có từ tương ứng trong NNTD.
Đối với nhóm từ thuộc cấp độ tiểu loại, những từ này chiếm số lượng lớn với 48/ 53 từ, như: bú thép, buộc đùm, chiều lòn, chim chạ, đánh đèo, kho tiêu... Về độ sâu phân loại, các ĐgT chỉ được phân loại ở bậc 1 mà không phân loại đến bậc 2.
Trong nhóm ĐgT, có những từ trong PNNB chỉ tiểu loại dựa trên cơ sở từ chỉ chủng hoặc từ chỉ loại của NNTD. Chẳng hạn, buộc đùm, kho tiêu...
Có thể thấy, trong PNNB, những từ ngữ được phân loại theo mức độ tiểu loại có số lượng nhiều hơn trong NNTD. Trong đó, nhiều nhất là các từ phân loại dựa trên yếu tố cơ sở là các từ toàn dân như: nướng trui, thả lèo, vá quàng, xé phay...
3.2.3.3. Nhóm tính từ
Nhóm TT cũng là những từ phản ánh đặc trưng riêng của hiện thực NB mà không thể nhầm lẫn với các địa phương khác, như: chơm bơm, đèo, êm rìu, héo xàu, non èo, ốm o, rã rượi, tèm hem... Trong đó, đặc trưng nhất là các TT chỉ mức độ.
Về độ sâu phân loại, nhóm TT cũng được phân loại theo hai mức độ: loại và tiểu loại. Tuy nhiên, nhóm TT chỉ loại chỉ có 2 từ: đèo và lang, các trường hợp còn lại là những từ thuộc tiểu loại. Trong tiểu loại, TT chỉ được phân loại ở bậc 1 mà không phân chia đến bậc 2, chẳng hạn: ốm o, héo queo, héo xàu...
Như vậy, các từ ngữ chỉ tiểu loại có số lượng nhiều hơn cả. Điều này chứng tỏ độ sâu phân loại của từ ngữ NB được chi tiết hóa rõ ràng hơn, sâu hơn so với NNTD.
3.3. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương NB qua cách định danh sự vật
3.3.1. Thống kê định lượng
Bảng 3.2. Số lượng và số lần xuất hiện các nhóm từ chỉ sự vật
Nhóm từ chỉ sự vật
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lần xuất hiện
Tỉ lệ %
Nhóm từ chỉ đồ vật, vật dụng
80
47,6
417
41,8
Nhóm từ chỉ động vật
48
28,6
250
25,05
Nhóm từ chỉ thực vật
33
19,6
299
29,95
Nhóm từ chỉ địa hình, địa vật
7
4,2
32
3,2
Tổng
168
100
998
100
3.3.2. Các nhóm từ chỉ sự vật trong thơ ca dân gian Nam Bộ
3.3.2.1. Nhóm từ chỉ đồ vật, vật dụng
Trong nhóm từ này, chủ thể định danh đã dựa vào các đặc trưng khác nhau để gọi tên, đó là: hình dạng, kích thước, chất liệu, công dụng, động tác, âm thanh, cấu tạo, màu sắc, hoạt động...
Khi định danh, chủ thể định danh có thể nêu trực tiếp thuộc tính của sự vật. Chẳng hạn, lồng đèn, khăn lông...
Có khi thuộc tính của đối tượng được gọi tên không chỉ có một đặc trưng mà có thể có hai đặc trưng, như: khăn bàng lông thì ta có thể dễ dàng nhận thấy được hai đặc trưng chính là kích cỡ (bàng) và hình dạng (lông).
3.3.2.2. Nhóm từ chỉ động vật
Các tên động vật trong TCDGNB gắn liền với môi trường sống ở NB và quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của những người dân lao động như: cá, lịch, tép, nhái, cu, cưỡng... Đặc trưng hình thức được lựa chọn của nhóm từ chỉ động vật ở đây chủ yếu là: hình dạng, kích thước, cấu tạo, màu sắc và hoạt động.
Cách định danh các loài động vật khác gắn liền với môi trường sống tự nhiên của vùng đất NB cũng đa dạng không kém, như: nhái bầu (bụng to), tép bạc (màu trắng tươi), tôm đất (giống màu của đất), tôm rằn (có vằn đen trên lưng)...
3.3.2.3. Nhóm từ chỉ thực vật
Trong TCDGNB, chỉ có 33 từ ngữ gọi tên các loại thực vật như: bông súng, bần, kèo nèo, bắp, gòn, mận, so đũa, bông hường, bông lài...
Về phương thức định danh, chủ thể định danh đã dùng tên gọi vừa có chức năng gọi tên, vừa có chức năng nêu thuộc tính của loại thực vật. Có nhóm từ được định danh bằng cách kết hợp giữa yếu tố chỉ loại với yếu tố chỉ thuộc tính. Có những từ tự thân vừa mang chức năng chỉ loại, vừa mang chức năng chỉ thuộc tính. Kiểu tên gọi này chỉ có một thành tố: bắp, mận, bần, lác...
Về cách định danh, chủ thể định danh nơi đây căn cứ vào nhiều thuộc tính khác nhau để gọi tên, đó có thể là công dụng (bình linh, vông nem, vạn thọ), đặc điểm (lục bình, nhãn lồng, rau dừa, bình bát), mùi vị (bạc hà, giấp cá, bông lài)...
3.3.2.4. Nhóm từ chỉ địa hình, địa vật
Trong TCDGNB, nhóm từ chỉ địa hình, địa vật có số lượng và tần số xuất hiện ít nhất, chỉ có 7 từ. Tuy nhiên, mỗi một từ đều mang một giá trị có tính đặc trưng, thể hiện đặc điểm riêng trong tên gọi của người dân vùng NB, như: ba rò, bờ đắp, bưng biền, con hói, cù lao, kinh xáng, miệt vườn.
Cơ sở định danh của các từ loại này có thể căn cứ vào các đặc điểm khác nhau của sự vật, trong đó chủ yếu là dựa vào cấu tạo (cù lao), số lượng (ba rò)... Những căn cứ này cũng giống như cách định danh trong NNTD và các vùng PN khác. Tuy nhiên, xét cụ thể hơn về cách gọi tên thì PNNB có sự khác biệt.
Như vậy, từ những dẫn dụ trên chúng ta thấy điều kiện tự nhiên NB đã ảnh hưởng không nhỏ vào quá trình tri nhận và cách định danh của người dân nơi đây.
3.4. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa thể hiện qua nhóm từ ngữ địa phương Nam Bộ định danh đánh giá mức độ đặc tính sự vật
3.4.1. Thống kê định lượng
Bảng 3.3. Số lượng các nhóm từ ngữ chỉ mức độ đánh giá sự vật
Các nhóm từ ngữ chỉ sự đánh giá mức độ các đặc tính sự vật
Số từ
Tỉ lệ %
Nhóm từ ngữ đánh giá theo mức độ cao
91
73.4
Nhóm từ ngữ đánh giá theo mức độ giảm nhẹ
33
26.6
Tổng
124
100%
3.4.2. Các nhóm từ ngữ chỉ mức độ đánh giá sự vật
3.4.2.1. Nhóm từ đánh giá theo mức độ cao
Nhóm từ này bao gồm cả từ ghép và từ láy.
Xét về cấu tạo, các từ ghép có nghiã đánh giá trong TCDGNB gồm có hai yếu tố. Để tiện miêu tả, chúng tôi gọi tổ hợp này là AX. Trong đó, yếu tố X trong kết cấu AX có nguồn gốc từ NNTD (rũ liệt); yếu tố X có nguồn gốc từ PNNB (héo xàu, mỏng dánh, héo don...)
Ngoài ra, trong TCDGNB còn có một số từ láy mà nghĩa của chúng cũng hàm nghĩa đánh giá mức độ cao đặc tính sự vật: ốm o, tèm hem, chơm bơm, rặc ròng, rũ rượi, tùm lum...
3.4.2.2. Nhóm từ đánh giá theo mức độ giảm nhẹ
Nhóm từ này chủ yếu là từ láy, như: hân hấn, lăng líu, le the, lẩn đẩn..
Một số từ mang đặc trưng riêng, chỉ sử dụng ở địa phương NB, có thể người ở các vùng khác nghe không hiểu được ý nghĩa của chúng, như: hân hấn, lăn líu...
Như vậy, hai nhóm từ được sử dụng ở đây là những lớp từ bình dị, thân quen nhưng gây ấn tượng bởi vừa gợi hình vừa gợi cảm. Đó là những từ gắn liền với những nếp nghĩ, thói quen sử dụng hàng ngày nhưng thể hiện văn hóa ứng xử mang đặc trưng riêng của người Việt ở vùng đất NB.
3.5. Tiểu kết chương 3
Ở chương này, luận án đã phân tích độ sâu phân loại, cách định danh và đánh giá sự vật. Nhìn chung, người NB định danh sự vật chi tiết hơn so với NNTD và các vùng PN khác.
Chương 4
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ
XÉT Ở PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO THƠ CA DÂN GIAN
4.1. Từ ngữ địa phương Nam Bộ - công cụ nghệ thuật sáng tạo thơ ca dân gian
4.1.1. Từ ngữ địa phương được sử dụng với vai trò thể hiện nội dung ngữ nghĩa
4.1.1.1. Vai trò phản ánh hiện thực
Trong TCDG, chúng tôi thu được kết quả: 409 DT, với 3129 lần xuất hiện; 262 ĐgT, với 3873 lần xuất hiện; 164 TT, với 1037 lần xuất hiện; và 25 ĐT, với 1238 lần xuất hiện.
Như vậy, với một hệ thống vốn từ địa phương xuất hiện dày đặc, hiện thực đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người dân NB mang những nét đặc thù của vùng sông nước đã hiện lên một cách sinh động. Đồng thời, vốn từ ngữ trên còn cho thấy TCDGNB gắn bó chặt chẽ với môi trường văn hoá tự nhiên của vùng đất mới.
4.1.1.2. Vai trò biểu hiện sắc thái nghĩa tinh tế phù hợp với văn hóa Nam Bộ
Qua sự so sánh giữa từ địa phương trong TCDGNB với từ toàn dân, chúng tôi thấy có những từ có thể có sự tương đồng nhau về nghĩa nhưng chúng thường phân biệt nhau về sắc thái nghĩa hoặc sắc thái biểu cảm nhất định, như: đụng, tởn, xá, thắc thẻo; tèm hem; xuê; eo; gầy; lận Điều này cho thấy từ ngữ NB đã phản ánh lối tư duy mang đặc trưng riêng của người dân nơi đây.
4.1.1.3. Vai trò biểu cảm phù hợp với văn hóa Nam Bộ
TCDGNB có các tiểu từ tình thái và động từ tình thái phù hợp với đặc điểm dùng từ mang tính cách riêng của người dân NB, như: dữ, hoài, lận, phải dè
Ngoài ra, tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong TCDGNB cũng là lớp từ đặc trưng mang sắc thái biểu cảm của người địa phương mà trong NNTD hay các phương ngữ khác không có các yếu tố này, như: nghen, hông, không dè, bộ...
Trong TCDGNB, từ láy cũng là lớp từ có giá trị biểu cảm mạnh mà người ở các vùng địa phương khác khó có thể tìm thấy từ tương ứng và khó hình dung về nghĩa của nó, như: tùm lum (bừa bãi), chàng ràng (quanh quẩn), lương khương (do dự)...
Lớp tính từ thể hiện mức độ đánh giá cao đặc điểm tính chất sự vật cũng là một trong các lớp từ địa phương thể hiện tính biểu cảm phong phú của từ ngữ địa phương NB.
4.1.2. Từ ngữ địa phương được sử dụng với vai trò thể hiện nghệ thuật
4.1.2.1. Vai trò hiệp vần, ngắt nhịp
Theo khảo sát của chúng tôi qua các tư liệu, trong tổng số 294 từ biến âm, có 246 từ biến âm tham gia hiệp vần. Cách gieo vần trong TCDGNB rất biến hoá và đa dạng. Phần lớn vần được gieo trong sự phối hợp với nhịp, tạo nên điểm nhấn nghệ thuật, gây ấn tượng cho người nghe và đồng thời tạo nên sắc thái văn hóa riêng biệt.
Bên cạnh việc sử dụng hình thức gieo vần trong các thể thơ lục bát và song thất lục bát quen thuộc thì rất nhiều bài ca dao NB còn sử dụng hình thức gieo vần trong cả thể thơ hỗn hợp và thể thơ tự do.
Như vậy, nhờ sự lựa chọn, tổ chức khá đa dạng các vần trong sự phối hợp hài hoà với ngắt nhịp nên từ địa phương đã đóng vai trò nghệ thật góp phần tạo nên sắc thái địa phương riêng biệt cho TCDGNB.
4.1.2.2. Vai trò tạo cấu trúc sóng đôi và biểu tượng nghệ thuật
Trong TCDGNB, chúng ta bắt gặp các biểu tượng sóng đôi mang tính địa phương, như: áo vá vai - áo vá quàng; miễu - chùa, đình, trang; phụng - loan, nút - khuy mang đặc trưng NN-VH rất riêng cho TCDGNB.
4.1.2.3. Vai trò nghệ thuật chơi chữ
a. Chơi chữ bằng hình thức điệp âm
Trong TCDGNB, chơi chữ bằng hình thức điệp âm được thể hiện ở hai cách: điệp một bộ phận của âm tiết (chủ yếu điệp phần vần) và điệp hoàn toàn âm tiết.
b. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương đồng âm
Đây cũng là cách chơi chữ thể hiện khả năng sáng tạo nhạy bén trong quá trình ứng tác của người dân NB.
c. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương cùng nghĩa
Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng nghĩa; trước hết thể hiện ở cặp từ tương ứng về nghĩa giữa một từ toàn dân với một từ địa phương. Chẳng hạn: sợ - kinh...; thứ hai, dùng các cặp từ có sự tương ứng giữa từ địa phương với từ địa phương. Chẳng hạn: đành - ưng.
d. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương trái nghĩa
Đây là cách thức khai thác yếu tố đồng âm địa phương để nói tới yếu tố thứ hai nào đó. Chẳng hạn: chua lét - ngọt; non èo - già...
e. Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng trường nghĩa
Đây cũng là một trong những hình thức chơi chữ độc đáo trong TCDGNB. Ví dụ:
Rô, trê, sặt, dầy dầy,
Ròng ròng, hủng hỉnh lộn bầy lia thia.
f. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương đa nghĩa
Đây cũng là một hình thức chơi chữ quen thuộc của các tác giả dân gian trong TCDGNB. Chẳng hạn: tượng (ảnh, tranh)
Tóm lại, từ ngữ địa phương NB được sử dụng trong các hình thức chơi chữ không nhiều bằng từ toàn dân. Tuy nhiên, lớp từ ngữ này đã cho thấy vai trò của nó nhằm thể hiện sắc thái địa phương rất rõ.
4.2. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương NB thể hiện qua ý nghĩa biểu trưng nghệ thuật
4.2.1. Biểu trưng bằng hình thức so sánh tu từ
4.2.1.1. Thống kê định lượng
Bảng 4.1. Số lượng và tỉ lệ % các kiểu kết cấu của từ ngữ địa phương
NB trong TCDG
Kiểu kết cấu
DT
Cụm DT
ĐgT
ĐT
TT
Kết cấu C-V
Tổng
Số lượng
106
41
14
13
6
2
182
Tỉ lệ %
58,24
22,52
7,7
7,14
3,3
1,1
100
4.2.1.2. Từ địa phương Nam Bộ trong vế so sánh và vế được so sánh
Những hình ảnh được so sánh trong TCDGNB là những hình ảnh xuất phát từ thực tế của một vùng đất vốn gắn bó với sông nước, miệt vườn và thói quen của người dân NB như: trái bần trôi; bông hường; bông gòn; cá lý ngư; nhành mai khô...
Hình ảnh khác mang giá trị NN-VH riêng của vùng NB, không thấy trong ca dao các vùng khác cũng thường được đưa ra đối chiếu so sánh trong TCDGNB đó là: đỉa - bánh canh, em - bì nem gỏi cuốn, qua - chùm gởi,
4.2.1.3. Từ địa phương làm từ so sánh
Về từ so sánh, ngoài cách dùng quen thuộc từ so sánh như mà ca dao các vùng thường sử dụng thì trong TCDGNB ta còn bắt gặp những từ so sánh bằng từ địa phương: tợ; tợ như mang đậm sắc thái địa phương NB.
4.2.1.4. Giá trị biểu trưng của quan hệ so sánh có sử dụng từ địa danh, từ địa phương
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy có nhiều từ chỉ địa danh trong vế so sánh mang nghĩa biểu trưng. Chẳng hạn: địa danh Nam Vang biểu trưng cho sự xa xôi, cách trở, nguy hiểm.
Các hình ảnh so sánh mang nghĩa biểu trưng là thực vật như: vạn thọ, bông sen, chùm gởi... được dùng để chỉ về các cô gái trong tình yêu đôi lứa.
Trong TCDGNB các hình ảnh so sánh mang nghĩa biểu trưng là động vật như: cá lý ngư, cá lia thia, cá liệt, phụng hoàng, gỏi cá kìm.
Các vật thể nhân tạo cũng là những hình ảnh biểu trưng quen thuộc trong cấu trúc so sánh như: bánh canh, đờn, ghe, nút, khuy...
Như vậy, trong cấu trúc so sánh, các vật mẫu được dùng để so sánh là những cái cụ thể vốn có trong tự nhiên hay trong cuộc sống gần gũi, quen thuộc với người dân NB.
4.2.2. Biểu trưng bằng ẩn dụ tu từ
4.2.2.1. Khái niệm ẩn dụ và ẩn dụ tu từ
Hiện nay, một số nhà nghiên cứu cho rằng, về mặt hình thái - cấu trúc, ẩn dụ tu từ có hai nhóm: 1) ẩn dụ tu từ là từ ngữ và 2) ẩn dụ tu từ là phát ngôn. Đối tượng nghiên cứu của luận án chúng tôi thuộc nhóm 1.
4.2.2.2. Thống kê định lượng
Bảng 4.2. Số lượng các nhóm ẩn dụ tu từ theo nghĩa biểu trưng
Các nhóm ẩn dụ tu từ
theo nghĩa biểu trưng
Số lượng
Tỉ lệ %
Thế giới con người
Đồ dùng cá nhân
49
20
53,8
40,8
Dụng cụ sinh hoạt gia đình
13
26,5
Công trình kiến thiết
8
16,3
Dụng cụ sản xuất
5
10,2
Điển tích
2
4,08
Tình cảm con người
1
2,04
Thế giới
tự nhiên
Thực vật
42
21
46,2
50,0
Động vật
13
31,0
Địa danh
5
11,9
Hiện tượng tự nhiên
3
7,1
Tổng
91
100
4.2.2.3. Các ẩn dụ tu từ theo nghĩa biểu trưng
a. TĐP được dùng biểu trưng cho hiện thực cuộc sống vùng Nam Bộ
Để biểu thị hiện thực cuộc sống vùng đất NB, tác giả dân gian đã sử dụng phong phú các hình ảnh biểu trưng khác nhau, như: miễu biểu trưng cho sự linh thiêng trong văn hoá tâm linh; Sài Gòn, Gia Định biểu trưng cho cuộc sống văn minh, nơi phồn hoa đô hội; đèn Huê Kỳ biểu trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ; rẫy biểu trưng cho sự khó khăn, vất vả...
a1. Biểu trưng châu thành
Trong tâm thức văn hoá dân gian của mình, người Việt vùng NB xem châu thành biểu trưng cho chốn phồn hoa, đô hội, nơi đông đúc, nhộn nhịp, văn minh. Do đó, địa danh Châu Thành có thể là tên huyện của một tỉnh bất kì trong vùng đất NB.
a2. Biểu trưng vườn, miệt vườn
Trong TCDGNB, tác giả dân gian không chỉ dùng từ vườn, miệt vườn với nghĩa phản ánh hiện thực NB mà còn dùng với nghĩa biểu trưng về vùng nông thôn xa xôi, nơi lao động vất vả nhưng chân tình. Có khi, từ vườn vừa được dùng để chỉ nơi chốn quê mùa, vừa hàm ý coi thường. Nhưng, vườn hay miệt vườn còn được dùng để biểu trưng cho sự sung túc, dân dã, yên bình.
a3. Biểu trưng cầu
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy có tên gọi hai cây cầu mang ý nghĩa biểu trưng là cầu ván, cầu tre biểu trưng cho cuộc sống, đường đời khó khăn, vất vả, gian truân. Hình ảnh cầu ván và cầu tre còn biểu trưng cho sự khó khăn, trắc trở trong quan hệ tình yêu nam nữ.
b. Từ địa phương được dùng biểu trưng cho con người vùng Nam Bộ
b1. Biểu trưng áo
Trước hết, áo bà ba là hình ảnh biểu trưng cho sự giản dị, nền nã của người NB. Ngược lại, áo bành tô là sản phẩm được du nhập từ phương Tây, nên nó được dùng biểu trưng cho sự sang trọng, quý phái. Áo chẹt, áo vá quàng biểu trưng cho sự nghèo khổ của người dân.
b2. Biểu trưng bần
Khi nói tới bần, trong ý niệm, người dân NB thường nghĩ tới sự tầm thường, khổ sở, nghèo hèn của những người bình dân thời xưa.
Thứ hai, trái bần biểu trưng cho sự nhỏ bé, bất hạnh, bầm dập, lạc lõng, vô định của những số phận, những cuộc đời.
Thứ ba, cây bần biểu trưng cho sự quyết tâm đến với nhau trong tình yêu, dù cho số phận có lênh đênh, trôi dạt đến đâu.
b3. Biểu trưng lục bình
Trong TCDGNB, lục bình biểu trưng về thân phận của người phụ nữ không nơi nương tựa, trôi dạt như bèo. Hình ảnh của cây lục bình còn biểu trưng cho sự sống, sự vươn lên vượt qua hoàn cảnh.
Như vậy, bức tranh PNNB hiện lên với những biểu hiện cảm xúc, trạng thái tâm lí, tình cảm của người địa phương rõ nét. Những biểu trưng trong ẩn dụ tu từ có sự gắn kết chặt chẽ với văn hoá của địa phương tạo nên đặc trưng riêng biệt.
4.2.3. Biểu trưng bằng hoán dụ tu từ
4.2.3.1. Khái niệm hoán dụ tu từ
Hoán dụ là “hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc hiện tượng này sang sự vật hoặc hiện tượng khác dựa trên mối quan hệ logic giữa các sự vật hoặc hiện tượng ấy” (Nguyễn Thiện Giáp, 2010).
4.2.3.2. Thống kê định lượng
Bảng 4.3. Số lượng các nhóm hoán dụ theo nghĩa biểu trưng
Các nhóm hoán dụ tu từ
theo nghĩa biểu trưng
Số lượng
Tỉ lệ %
Thế giới con người
Dụng cụ sản xuất
13
9
59,1
69,2
Đồ dùng cá nhân
2
15,4
Cơ thể người
2
15,4
Thế giới
tự nhiên
Địa danh
9
8
40,9
88,9
Thực vật
1
11,1
Tổng
22
100
4.2.3.3. Các hoán dụ tu từ theo nghĩa biểu trưng
a. Biểu trưng ghe, xuồng
Trong TCDGNB, ghe được dùng để biểu trưng cho cả người nam và người nữ trong tình yêu. Trong đó, ghe tôm và ghe cá đều là những hình ảnh di chuyển, chủ động đi tìm hạnh phúc cho mình.
b. Biểu trưng địa danh
Địa danh mang tính chất đại diện cho con người ở vùng đất đó. Địa danh Bạc Liêu biểu trưng cho những người dân ở vùng quê; còn địa danh Sài Gòn biểu trưng cho những người ở vùng đô thị hiện đại.
Địa danh có thể biểu trưng cho con người với tinh thần cách mạng của vùng đất đó. Chẳng hạn, hình ảnh Tam Nông và Tháp Mười biểu trưng cho nhân dân với tinh thần cách mạng của dân tộc.
Đối lập với tinh thần cách mạng đó, tác giả dân gian đã dùng địa danh không cụ thể là Tây để biểu trưng cho giặc Pháp trong thời kì kháng chiến.
4.3. Tiểu kết chương 4
Qua những nội dung đã phân tích, chúng tôi thấy từ ngữ địa phương NB đã phát huy được khả năng nghệ thuật đa dạng của nó, góp phần làm cho sáng tác thơ ca dân gian có giá trị nhiều mặt về nội dung và nghệ thuật, đồng thời mang đặc trưng NN-VH riêng rõ nét. Từ các hình ảnh biểu trưng, chúng ta thấy rõ hơn, cụ thể hơn cái nhìn, quan niệm, sự liên tưởng phong phú, hồn hậu, ý nhị của tâm hồn phóng khoáng của người dân Nam Bộ về cuộc sống, nhân sinh.
KẾT LUẬN
Qua thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá từ ngữ địa phương Nam Bộ (trong thơ ca dân gian Nam Bộ)”, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Từ ngữ địa phương Nam Bộ là biến thể của ngôn ngữ toàn dân nên chịu sự tác động chung của quy luật tiếng Việt trên các phương diện: ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp... Tuy vậy, từ ngữ địa phương Nam Bộ là vốn từ quen thuộc được người Nam Bộ dùng để phản ánh hiện thực Nam Bộ, cho nên, từ ngữ địa phương Nam Bộ có những đặc điểm riêng do có quan hệ mật thiết với các đặc trưng về tự nhiên, lịch sử, văn hoá của địa phương nơi đây. Thơ ca dân gian Nam Bộ là tài sản tinh thần vô giá của người dân Nam Bộ. Mỗi một bài ca đều in đậm dấu ấn địa phương, nét đặc trưng đó được thể hiện ở nhiều phương diện, trong đó có vai trò của từ ngữ địa phương. Từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ không chỉ phản ánh các đặc điểm của phương ngữ mà còn thể hiện bản sắc văn hóa địa phương Nam Bộ qua việc lưu giữ những hình ảnh thiên nhiên, sản vật, văn hóa vật chất, tinh thần và những phong tục tập quán gắn bó lâu đời của người dân nơi đây.
2. Từ ngữ địa phương Nam Bộ trong thơ ca dân gian Nam Bộ có số lượng lớn, điều đó không chỉ phản ánh sự phong phú của vốn từ phương ngữ Nam Bộ mà còn cho thấy vai trò của chúng trong thơ ca dân gian địa phương. Qua vốn từ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ chúng ta thấy được các đặc trưng về ngôn ngữ - văn hóa được thể hiện trên các phương diện khác nhau, về biến thể ngữ âm, ngữ nghĩa của từ, về độ sâu phân loại, về định danh và biểu trưng... Từ các phương diện khác nhau của từ được miêu tả như vậy chúng ta có được một hình dung nhất định về những nét đặc trưng về ngữ âm và ngữ nghĩa của từ địa phương Nam Bộ, những nét đặc trưng văn hóa, cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống về vật chất và tinh thần, tính cách tâm hồn của con người vùng sông nước Nam Bộ.
3. Từ ngữ địa phương Nam Bộ trong các sáng tác thơ ca dân gian được tổ chức theo những cách thức khác nhau, mang tính nghệ thuật phong phú, tạo cho thơ ca dân gian Nam Bộ có dáng vẻ riêng với những đặc trưng địa phương rõ rệt. Từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ xuất hiện một cách tự nhiên vì thơ dân gian là sản phẩm “bộc phát” của người lao động nhưng đi vào thơ lại được dùng lựa chọn theo cách tổ chức của ngôn ngữ thơ. Tất cả đều thể hiện thói quen phát âm, dùng từ, thói quen tư duy mộc mạc, trực quan mang đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá riêng của người Việt vùng Nam Bộ, đồng thời mang tính lựa chọn cao trong sáng tạo nghệ thuật thơ ca dân gian. Rõ ràng, từ địa phương Nam Bộ không chỉ là sản phẩm được dùng giao tiếp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày mang tính khẩu ngữ mà nó còn là phương tiện sáng tạo của thơ ca.
4. Việc lựa chọn những từ ngữ địa phương có giá trị nghệ thuật trong sáng tác thơ ca dân gian Nam Bộ đã góp phần làm cho các sáng tác thơ ca dân gian nơi đây không chỉ có giá trị nhiều mặt về nội dung và nghệ thuật mà còn mang đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa riêng rõ nét. Điều này đã làm cho những người dân địa phương nơi đây luôn yêu quý và tự hào về thơ ca dân gian của địa phương mình. Ngày nay, trong xu thế hội nhập của địa phương Nam Bộ, thơ ca dân gian Nam Bộ còn là địa chỉ lưu giữ lại tất cả những biến thể và những giá trị ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ trước những tác động của tiếng Việt toàn dân và toàn cầu hóa, góp phần khẳng định vai trò của tiếng địa phương Nam Bộ trong sự đa dạng của ngôn ngữ dân tộc.
5. Các đặc trưng về ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ trong thơ ca dân gian thể hiện ở các phương diện mà luận án đã chỉ ra hy vọng chúng có ý nghĩa góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị ngôn ngữ - văn hóa của địa phương NB nói riêng, xây dựng nền “văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nói chung. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ trở thành những tư liệu bổ ích cho việc giảng dạy môn học “Ngôn ngữ và văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long” ở các trường đại học của vùng Nam Bộ trong tương lai gần. Tuy nhiên, do vấn đề nghiên cứu của chúng tôi chỉ giới hạn ở từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian nên đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của từ ngữ địa phương vùng Nam Bộ vẫn còn nhiều khía cạnh chưa được khai thác hết. Hi vọng những khía cạnh mới đó sẽ được nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ và toàn diện hơn trong một công trình nghiên cứu khác./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Trần Đức Hùng (2008), “Từ địa phương trong ca dao - dân ca Nam Bộ”, Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr.486-491.
2. Trần Đức Hùng (2011), “Các từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ trong ca dao, dân ca”, Ngôn ngữ & Đời sống (8), tr. 32-37.
3. Trần Đức Hùng (2013), “Lớp từ xưng hô trong thơ ca dân gian Nam Bộ”, Từ điển học & Bách khoa thư (2), tr. 58-64.
4. Trần Đức Hùng (2013), “Lớp từ khẩu ngữ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ”, Ngôn ngữ miền sông nước, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 184-196.
5. Trần Đức Hùng (2014), “Dấu ấn văn hóa của người Nam Bộ biểu hiện qua nhóm từ đánh giá sự vật”, Ngôn ngữ & Đời sống (8), tr. 37-42.
6. Trần Đức Hùng (2015), “Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của từ địa phương Nam Bộ qua các dạng biến thể ngữ âm trong thơ ca dân gian”, Việt Nam học: Những phương diện văn hoá truyền thống, tập 2, tr. 855-861.
7. Trần Đức Hùng (2015), Đặc điểm và dấu ấn văn hóa của từ địa phương Nam Bộ (qua khảo sát thơ ca dân gian Nam Bộ), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Đồng Tháp.
8. Trần Đức Hùng (2015), “Vai trò của từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Ngữ học toàn quốc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 1255-1264.
9. Trần Đức Hùng (2016), “Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa qua lớp từ địa phương chỉ địa danh trong thơ ca dân gian Nam Bộ”, Giảng dạy, nghiên cứu Việt Nam học và tiếng Việt: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.300-306.
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS Hoàng Trọng Canh
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường
họp tại Trường Đại học Vinh
vào hồi.giờphút, ngàytháng.năm
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam;
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào thuộc Trường Đại học Vinh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_tieng_viet_tran_duc_hung_6818.doc