Đây là lần đầu tiên thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài Sơn
trà poilane (E. Poilanei) được công bố ở Việt Nam và trên thế giới. Từ lá
cây Sơn trà poilane (E. poilanei J. E. Vid.) 12 hợp chất đã được phân lập
và xác định cấu trúc, bao gồm:
- 7 tritecpen, 5 chất thuộc khung ursan: 5, 120, 121, 123, 124 và 2 chất
khung oleanan: 125, 127, trong đó chất 121, 123, 124 và 127 được phân
lập dưới dạng sản phẩm axetyl;
- 2 flavonoid (chất 22 và 128 - một flavolignan ít gặp trong tự nhiên);
- 2 phytosterol (130 và 131) và 1 ancol béo (129).
Các chất 125, 128 và 129 được tìm thấy lần đầu tiên trong chi Eriobotrya.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2316 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học hai loài Sơn trà (Eriobotrya Lindl.) và một loài Cau chuột (Pinanga Blume) của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
I. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 
1. Đặt vấn đề 
Các hợp chất thiên nhiên đã và đang đóng một vai trò ngày càng quan 
trọng trong cuộc sống, đặc biệt là trong lĩnh vực y dược nhằm nâng cao sức 
khỏe, phòng và chống các căn bệnh hiểm nghèo. Nhiều loại thảo dược, các 
sản phẩm thiên nhiên được sử dụng trực tiếp làm thuốc chữa bệnh, hoặc 
được dùng làm tiền chất cho tổng hợp hóa dược, hoặc cấu trúc của chúng 
được sử dụng như các chất dẫn đường để tìm kiếm các dẫn xuất mới, có hoạt 
tính cao phục vụ việc phát triển thuốc chữa bệnh. 
 Sơn trà (Eriobotrya Lindl.) là một chi nhỏ thuộc họ Hoa hồng 
(Rosaceae), có xuất xứ từ Đông và Đông nam Châu Á. Kết quả nghiên cứu 
một vài loài Eriobotrya đã phát hiện ra nhiều hợp chất có cấu trúc hóa học và 
hoạt tính sinh học lý thú. 
 Cau chuột (Pinanga Blume) là một chi thực vật quan trọng của họ Cau 
(Arecaceae), có nhiều loài đặc hữu của Việt Nam. Một số loài thuộc chi 
Pinanga được ứng dụng trong y học cổ truyền và cho đến nay, hầu như chưa 
có công trình nào công bố về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của các 
cây trong chi này. 
 Những cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên đã định hướng cho chúng 
tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học hai loài 
Sơn trà (Eriobotrya Lindl.) và một loài Cau chuột (Pinanga Blume) của Việt 
Nam”. 
2. Mục tiêu của luận án 
 Nghiên cứu thành phần hóa học của loài Sơn trà poilane (Eriobotrya 
poilanei), loài Sơn trà nhật bản (Eriobotrya japonica) và loài Cau chuột núi 
(Pinanga duperreana) để tìm kiếm các hợp chất có cấu trúc hóa học và hoạt 
tính sinh học lý thú nhằm khai thác tốt hơn nguồn tài nguyên thực vật này. 
3. Nội dung nghiên cứu của luận án 
o Thu hái mẫu thực vật, xác định tên khoa học và xử lý mẫu; 
o Điều chế các cặn chiết từ các mẫu thực vật thu hái được; 
2 
o Phân lập các hợp chất từ các cặn chiết; 
o Xác định cấu trúc của các hợp chất phân lập được; 
o Chuyển hóa hóa học hợp chất phân lập được có hàm lượng lớn; 
o Thử hoạt tính sinh học của các chất phân lập và các dẫn xuất 
chuyển hóa. 
4. Ý nghĩa khoa học của luận án 
 Luận án đã đóng góp những kết quả nghiên cứu mới về thành phần hóa 
học và hoạt tính sinh học của 2 loài Sơn trà (Eriobotrya) và loài Cau chuột núi 
(Pinanga duperreana) của Việt Nam, cùng một số dẫn xuất bán tổng hợp từ 
axit ursolic. Các kết quả của luận án tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo 
về chi Sơn trà và chi Cau chuột nhằm khai thác và ứng dụng có hiệu quả các 
hoạt tính quý báu của chúng trong lĩnh vực y dược. 
5. Những đóng góp mới của luận án 
- Đây là nghiên cứu đầu tiên về thành phần hóa học và hoạt tính sinh 
học của loài Eriobotrya poilanei và Pinanga duperreana ở Việt Nam và trên 
thế giới. 
- Trong số các chất phân lập được từ 2 loài Eriobotrya có 7 chất lần 
đầu tiên tìm thấy trong chi này, gồm có 5 tritecpen: axit arjunic (125); metyl 
2α,3β-dihydroxyolean-12-en-28-oat (132); metyl 2α,3β-dihydroxyurs-12-en-
28-oat (133); axit 2-O-axetyl-3β-O-(p-axetyl-trans-coumaroyl) alphatolic 
(134) và axit 2α-O-axetyl-3β-O-(p-axetyl-cis-coumaroyl) alphatolic (135); 1 
flavolignan: catiguanin B (128) và 1 ancol béo: hexatetracontan-1-ol (129). 
- Dẫn xuất N-(3-axetoxyurs-12-en-28-oyl)-5-aminohexan-1-amin 
(145) và 3-succinoylurs-12-en-28-amit (146) là hai chất mới. 
6. Bố cục của luận án 
 Luận án gồm 144 trang, trong đó có 75 hình, 13 bảng. Bố cục của luận 
án: Mở đầu (2 trang); Chương 1: Tổng quan tài liệu (34 trang); Chương 2: 
Thực nghiệm (26 trang); Chương 3: Kết quả và thảo luận (59 trang); Kết luận 
và kiến nghị (2 trang). Phần Danh sách các hợp chất phân lập từ 3 cây nghiên 
cứu và các dẫn xuất chuyển hóa từ axit ursolic (9 trang); Danh mục các công 
3 
trình khoa học đã công bố trong khuôn khổ luận án (1 trang); Tài liệu tham 
khảo (11 trang) với 103 tài liệu cập nhật đến năm 2011. Ngoài ra còn có 35 
trang phần Phụ lục với các hình phổ. 
II. NỘI DUNG CỦA LUẬN ÁN 
MỞ ĐẦU 
 Phần Mở đầu đề cập đến ý nghĩa khoa học, tính thực tiễn, mục tiêu và 
nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. 
Chương 1 – TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
 Phần Tổng quan tài liệu tập hợp các nghiên cứu trong nước và quốc tế 
về các vấn đề: 
1.1. Đặc điểm thực vật và tình hình nghiên cứu về chi Sơn trà (Eriobotrya), họ 
Hoa hồng (Rosaceae) 
1.2. Đặc điểm thực vật và tình hình nghiên cứu về chi Cau chuột (Pinanga), 
họ Cau (Arecaceae) 
1.3. Các hợp chất tritecpen thiên nhiên khung oleanan và ursan 
1.4. Chuyển hóa hóa học của axit ursolic 
Chương 2 – THỰC NGHIỆM 
 Phần Thực nghiệm trình bày về nguyên liệu, phương pháp nghiên 
cứu, quá trình chiết tách, đặc điểm hóa lý và số liệu phổ của các chất được 
phân lập từ lá cây E. poilanei, E. japonica, thân cây P. duperreana và các 
chất chuyển hóa được từ axit ursolic. 
 Nguyên liệu: Mẫu cây Eriobotrya poilanei được thu hái tại rừng quốc 
gia Bì Dúp, Núi Bà thuộc tỉnh Lâm Đồng vào tháng 3 năm 2009; mẫu cây E. 
japonica được thu hái tại Tam Đảo, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc vào tháng 8 năm 
2010; mẫu cây Pinanga duperreana được thu hái tại Ba Vì, tỉnh Vĩnh Phúc 
vào tháng 8 năm 2009. Các mẫu thực vật được TS. Nguyễn Tiến Hiệp và CN. 
Ngô Văn Trại xác định tên khoa học. 
Quy trình chiết: Mẫu thực vật được làm sạch, sấy khô ở nhiệt độ 
4 
40 0C, xay nhỏ và ngâm chiết bằng hỗn hợp dung môi metanol/nước (85/15) 
ở nhiệt độ phòng sau đó chiết phân bố lần lượt với các dung môi n-hexan, 
etyl axetat (diclometan), n-butanol. Cất loại dung môi dưới áp suất thấp thu 
được các cặn chiết tương ứng. 
Phân lập các chất: Tinh chế các cặn chiết thu được bằng phương pháp 
sắc ký cột với các chất hấp phụ khác nhau như: silica gel, RP-18, sephadex LH-
20 và các hệ dung môi thích hợp. 
Xác định cấu trúc hóa học: Cấu trúc của các hợp chất được xác định 
bằng sự kết hợp các phương pháp phổ hiện đại như phổ hồng ngoại (FT-IR), 
phổ khối (ESI-, HR-MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều và hai 
chiều (COSY, HSQC, HMBC). 
Phương pháp thử hoạt tính sinh học: 
* Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định gồm 3 chủng vi khuẩn gram (-): 
Pseudomonas aeruginosa (Pa) ATCC 15442, Escherichia coli (Ec) ATCC 
25922, Salmonella enterica (Se); 3 chủng vi khuẩn gram (+): 
Staphylococcus aureus (Sa) ATCC 13709, Bacillus subtillis (Bs) ATCC 
6633, Lactobacillus fermentum N4 và 1 chủng nấm Candida albicans (Ca) 
ATCC 10198. 
* Hoạt tính gây độc tế bào: các dòng tế bào ung thư ở người được cung cấp 
bởi ATCC, gồm có: ung thư biểu mô (KB), ung thư gan (HepG2), ung thư 
phổi (Lu), ung thư vú (MCF7). 
Chương 3 – KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1.Các chất phân lập từ cây Eriobotrya poilanei J. E. Vid. 
 Từ lá cây E. poilanei, 12 chất đã được phân lập gồm 7 tritecpen, 2 
flavonoid, 2 phytosterol và 1 ancol béo. Trong khi tinh chế cặn chiết etyl axetat, 
có nhiều phân đoạn chứa hỗn hợp các chất có Rf sát nhau, rất khó khăn cho việc 
phân lập. Do vậy, để tăng khả năng phân tách, phản ứng axetyl hóa các phân 
đoạn đó đã được tiến hành. Vì vậy, trong số các chất phân lập được từ cặn chiết 
etyl axetat, có 4 chất thu được ở dạng sản phẩm axetyl. 
5 
3.1.1. Các hợp chất tritecpen 
 Khung ursan 
Chất Cấu tạo 
5 
R1 = R
2
 = R
4
 = H 
R3 = OH và R
5
 = COOH 
93 
R1 = R
2
 = R
4
 = H 
R3 = OAc và R
5
 = COOH 
120 
R1 = R
2
 = R
4
 = H 
R3 = OH và R
5
 = CHO 
121 
R1 = R
2
 = H; R
3
 = OAc; 
R4 = OH và R
5
 = COOH 
123 
R1 = R
3
 = OAc; R
2
 = O; 
R4 = OH và R
5
 = COOH 
124 
R1 = R
2
 = R
3
 = OAc 
R4 = OH và R
5
 = COOH 
 Axit ursolic (5): Chất 5 được phân lập dưới dạng bột màu trắng. Phổ FT-IR 
của nó cho đỉnh hấp thụ đặc trưng của nhóm hydroxyl tại 3448 và nhóm 
cacboxyl tại 1691 cm-1. Phù hợp với số liệu phổ IR, phổ 1H và 13C-NMR cho 
thấy phân tử chất 5 có chứa 1 nhóm axit (C = 178,23), 1 tín hiệu của nhóm 
hydroxymetin (H = 2,98 m, C = 76,85 d), 1 nối đôi dạng >C=CH- [H = 5,11 
(1H, t, J = 3,4), C = 138,17 s; 124,57 d] và 7 nhóm metyl, bao gồm 5 nhóm 
metyl bậc ba thể hiện qua các tín hiệu singlet ở H = 0,66; 0,73; 0,85; 0,88; 1,02 
và 2 nhóm bậc 2 thể hiện qua các tín hiệu doublet ở H = 0,79 (3H, d, J = 6,4), 
0,89 (3H, d, J = 8,7). Ngoài các tín hiệu kể trên, phổ 13C-NMR, DEPT còn cho 
thấy sự có mặt của 9 nhóm CH2, 3 nhóm CH cũng như 6 cacbon không gắn trực 
tiếp với hydro trong phân tử. Với các số liệu phổ như đã phân tích có thể đưa ra 
công thức phân tử của chất 5 là C30H48O3 và cấu trúc của nó được xác định là 
axit ursolic nhờ so sánh với số liệu đã công bố. 
 Andehid ursolic (120): Công thức phân tử của chất 120 là C30H48O2 được 
rút ra từ pic ion phân tử tại m/z = 441,37346 [M+H]+ trong phổ HR-ESI-MS 
(theo tính toán cho C30H49O2: 441,37326). Phổ IR cho các đỉnh hấp thụ ở 3421 
6 
(OH), 1718 cm-1 (CHO). Phổ 1H- và 13C-NMR rất tương tự như chất 5 chỉ có sự 
khác biệt duy nhất là nhóm axit trong chất 5 được thay bằng nhóm andehid ở 
chất 120. Điều này được thể hiện qua các tín hiệu ở H = 9,32 (1H, s) và C = 
207,4 d. Cấu trúc của chất 120 được xác định là andehid ursolic nhờ kết hợp so 
sánh với số liệu phổ khối và phổ 1D-NMR trong tài liệu. 
 Axit 3β-O-axetyl pomolic (121): Chất 121 được phân lập dưới dạng chất 
rắn màu trắng. Phổ HR-ESI-MS cho pic ion phân tử tại m/z = 515,37362 
[M+H]+ (theo tính toán cho C32H51O5: 515,37365). Phổ 
1H và 13C-NMR cho 
thấy nó cũng có khung axit urs-12-en-28-oic, nhưng trong phân tử xuất hiện 
thêm một nhóm hydroxyl gắn với C-19, điều này thể hiện qua tín hiệu cacbon 
bậc 3 tại C = 73,09 và tín hiệu singlet của H-18 (H = 2,53). Các số liệu phổ cho 
thấy trong phân tử chỉ chứa một nhóm axetyl [H = 2,05 (s, 3H); C = 21,30 q; 
171,03 s] và do đó suy ra phản ứng axetyl hóa chỉ thực hiện với nhóm hydroxyl 
bậc 2 ở vị trị C-3. Số liệu phổ của 121 hoàn toàn phù hợp với dữ liệu phổ của 
axit 3β-O-axetyl pomolic trong tài liệu. 
Bảng 3.1 - Số liệu 13C-NMR (125 MHz) của chất 5, 120, 121 và các chất 
tham khảo 
C 
Chất 5 
(DMSO-
d6) 
Axit 
ursolic 
(DMSO-
d6) 
Chất 120 
(CDCl3) 
Andehid 
ursolic 
(CDCl3) 
Chất 121 
(CDCl3) 
Axit 3-O-
axetyl 
pomolic 
(CDCl3) 
1 38,24 t 38,22 t 38,78 t 38,7 t 38,07 t 38,1 t 
2 26,96 t 26,79 t 27,26 t 27,3 t 23,52 t 23,6 t 
3 76,85 d 76,82 d 79,04 d 79,0 d 80,96 d 80,9 d 
4 38,36 s 38,35 s 39,87 s 38,8 s 37,54 s 37,7 s 
5 54,79 d 54,77 d 55,27 d 55,2 d 55,21 d 55,2 d 
6 17,99 t 17,97 t 18,31 t 18,4 t 18,28 t 18,2 t 
7 30,18 t 30,77 t 33,15 t 32,0 t 32,57 t 32,6 t 
8 39,09 s 39,09 s 42,01 s 39,9 s 39,97 s 39,9 s 
9 47,02 d 47,00 d 47,62 d 47,6 d 47,97 d 47,1 d 
10 36,51 s 36,51 s 36,98 s 37,0 s 36,94 s 36,9 s 
11 23,80 t 23,80 t 23,34 t 23,3 t 23,65 t 23,5 t 
12 124,57 d 124,54 d 126,24 d 126,1 d 129,30 d 129,3 d 
13 138,17 s 138,18 s 137,84 s 137,7 s 137,93 s 137,9 s 
7 
14 41,63 s 41,62 s 42,01 s 42,2 s 41,04 s 41,0 s 
15 32,70 t 32,69 t 29,70 t 28,2 t 28,19 t 28,2 t 
16 22,83 t 22,82 t 26,92 t 23,4 t 25,31 t 25,3 t 
17 46,82 s 46,81 s 50,16 s 50,2 s 47,76 s 47,8 s 
18 52,38 d 52,37 d 52,68 d 52,6 d 52,79 d 52,8 d 
19 38,49 d 38,42 d 39,02 d 39,0 d 73,09 s 73,1 s 
20 38,44 d 38,48 d 38,86 d 38,9 d 41,08 d 41,0 d 
21 27,53 t 27,52 t 30,21 t 30,2 t 25,98 t 25,9 t 
22 36,30 t 36,29 t 31,91 t 33,2 t 37,68 t 37,1 t 
23 28,24 q 28,23 q 28,17 q 29,8 q 27,43 q 27,4 q 
24 16,90 q 16,90 q 15,63 q 15,7 q 16,67 q 16,6 q 
25 16,03 q 16,03 q 15,53 q 15,6 q 15,32 q 15,3 q 
26 15,19 q 15,18 q 17,25 q 17,3 q 17,04 q 16,9 q 
27 23,25 q 23,24 q 23,25 q 23,3 q 24,48 q 24,4 q 
28 178,23 s 178,23 s 207,40 d 207,3 d 184,45 s 183,6 s 
29 16,97 q 16,97 q 16,67 q 16,7 q 28,03 q 28,0 q 
30 21,04 q 21,10 q 21,07 q 21,2 q 16,15 q 16,1 q 
OCOCH3 - - - - 171,03 s - 
 Axit 2-oxo-1,3-O-diaxetyl-19-hydroxyurs-12-en-28-oic (123): Công 
thức phân tử của chất 123 được xác định là C34H50O8 từ pic ion phân tử m/z 
= 587,35841 [M+H]+ (theo tính toán cho C34H51O8 là 587,35839) trong phổ 
HR-ESI-MS. Phổ 1H, 13C-NMR, DEPT cho thấy phân tử 123 cũng là 1 
tritecpen axit khung urs-12-en. Sự khác nhau rõ rệt của chất 123 so với các 
chất đã nêu là sự xuất hiện nhóm xeton C=O (C = 198,39) và 2 nhóm axetyl 
(H = 2,15 s, 6H; C = 20,47; 20,99 và 169,77; 169,90) trong phân tử. Ngoài 
ra, tương tự như chất 121, tín hiệu cacbon bậc 3 cộng hưởng ở 73,04 ppm, 
chứng tỏ có nhóm hydroxyl gắn ở C-19. Hai proton của hai nhóm axetoxy 
metin xuất hiện dưới dạng tín hiệu singlet ở H = 4,37 và 4,33 (mỗi tín hiệu 
1H) cho phép dự đoán hai nhóm axetyl được gắn vào C-1 và C-3, và nhóm 
xeton ở C-2. Các dự đoán trên được khẳng định khi so sánh số liệu phổ của 
chất 123 với số liệu đã công bố của axit 2-oxo-1,3-O-diaxetyl-19-
hydroxyurs-12-en-28-oic trong tài liệu. 
 Axit 1,2,3-O-triaxetyl-19-hydroxyurs-12-en-28-oic (124): Chất 
124 được tách ra ở dạng chất bột màu trắng, cho pic ion phân tử ở m/z = 
8 
631 [M+H]+ trong phổ ESI-MS. Phổ 1H và 13C-NMR của nó gần giống như 
của chất 123, chỉ khác nhau nhóm thế ở C-2. Nhóm xeton trong chất 123 
được thay thế bằng nhóm axetyl ở chất 124. Điều này thể hiện qua sự mất 
tín hiệu của nhóm xeton và xuất hiện thêm tín hiệu của một nhóm axetoxy 
metin và một nhóm axetyl. Tín hiệu triplet ở H = 5,45 (J = 3,7 Hz) được 
gán cho H-2; hai tín hiệu doublet ở H 4,77 và 4,70 (J = 3,7 Hz) là của H-1 
và H-3, tương ứng. 
 Bên cạnh đó, phổ COSY cho thấy tương tác giữa H-2 với H-1 và H-3 
và cấu hình của các nhóm thế O-axetyl ở C-1, C-2 và C-3 được xác định 
thông qua hằng số tương tác 3,7 Hz của các proton H-1, H-2 và H-3 thể hiện 
mối tương quan axial-equatorial-axial của chúng. Từ các số liệu phổ đã phân 
tích ở trên, cùng với phổ HSQC, HMBC và kết hợp với tài liệu, chúng tôi 
xác định chất 124 là axit 1,2,3-O-triaxetyl-19-hydroxy urs-12-en-28-
oic. 
Bảng 3.2- Số liệu 1H- (500 MHz) và 13C-NMR (125 MHz) của chất 123, 
124 và các chất tham khảo (CDCl3) 
C 
Chất 123 
Axit 2-oxo-
1,3-O-
diaxetyl-19-
hydroxy urs-
12-en-28-oic 
Chất 124 
Metyl 
1,2,3-O-
triaxetyl-19-
hydroxy urs-
12-en-28-oat 
δC δH, J (Hz) δH, J (Hz) δC δH, J (Hz) δH, J (Hz) 
1 85,44 d 5,08 (s) 5,08 ( s) 70,05 d 4,77(d, 3,7) 4,75 (d, 3,7) 
2 198,39 s - - 75,07 d 5,45 (t, 3,7) 5,44 (t, 3,7) 
3 81,98 d 5,04 (s) 5,04 (s) 78,24 d 4,70(d, 3,7) 4,70 (d, 3,7) 
4 43,05 s - - 40,50 s 
5 52,47 d 52,53 d 
6 17,83 t 25,16 t 
7 32,19 t 32,28 t - 
8 40,73 s 41,94 s - 
9 47,69 d 48,24 d - 
10 47,79 s 37,59 s - 
9 
11 25,92 t 25,92 t - 
12 128,90 d 5,28(t, 3,7) 5,30 (t, 3,0) 129,19 d 5,26 (t, 3,7) 5,26 (t,3,6) 
13 137,60 s 137,73 s - 
14 40,73 s 41,05 s 
15 28,32 t 28,27 t 
16 25,13 t 25,92 t 
17 46,79 s 47,63 s 
18 52,64 d 2,52 (s) 2,52 (s) 52,53 d 2,50 (s) 2,55 (br s) 
19 73,04 s 73,04 s 
20 41,09 d 41,05 d 
21 25,92 t 28,27 t 
22 37,45 t 37,59 t 
23 28,63 q 1,10 (s) 1,10 (s) 27,49 q 1,19 (s) 1,18 (s) 
24 17,15 q 0,72 (s) 0,73 (s) 17,55 q 1,07 (s) 1,07 (s) 
25 12,77 q 0,79 (s) 0,80 (s) 12,03 q 1,34 (s) 1,30 (s) 
26 16,84 q 0,99 (s) 0,99 (s) 17,55 q 0,73 (s) 0,69 (s) 
27 24,19 q 1,28 (s) 1,29 (s) 24,36 q 1,22 (s) 1,21 (s) 
28 184,20 s - - 184,12 s - - 
29 27,44 q 1,20 (s) 1,21 (s) 29,10 q 0,90 (s) 0,90 (s) 
30 16,07 q 0,95 (d, 6,6) 0,95 (d, 6,5) 16,12 q 0,94 (d,6,6) 0,93 (d, 6,4) 
AcO-C1 
169,77 s – 
20,47 q 
2,15 (s) 2,16 (s) 
170,05 s – 
20,71 q 
2,00 (s) 1,99 ( s) 
AcO-C2 - - - 
170,05 s – 
21,37 q 
2,08 (s) 2,08 (s) 
AcO-C3 
169,90 s – 
20,99 q 
2,15 (s) 2,16 (s) 
170,05 s – 
20,89 q 
2,02 (s) 2,02 (s) 
 Khung oleanan 
Chất R 
125 R
1= R2= R3= OH 
126 R
1= R2= OAc và R3= OH 
127 R
1= R2= OAc và R3= H 
 Axit arjunic (125): Phổ HR-ESI-MS của chất 125 có pic ion phân tử 
10 
 tại m/z 511,33940 [M+Na]+ (theo tính toán cho C30H48O5Na: 511,33994), 
tương ứng với công thức phân tử là C30H48O5. Số liệu phổ khối, kết hợp với 
phổ cộng hưởng từ hạt nhân cho phép dự đoán chất 125 là một tritecpen axit 
khung oleanan. Các tín hiệu singlet của 7 nhóm metyl bậc 3 ở H = 0,79; 
0,84; 0,96; 0,99; 1,02; 1,04; 1,31 (mỗi tín hiệu 3H, s) củng cố cho giả thiết 
trên. Ngoài ra phổ 1H- và 13C-NMR còn cho thấy sự có mặt của 1 nối đôi 
dạng >C=CH- [H = 5,30 (1H, t, J = 3,4, H-12)]; C = 124,73 (C-12), 144,70 
(C-13)]; 1 nhóm –COOH ở C = 182,65 và 3 nhóm oxymetin ở H = 3,63 
(m); 3,28 (d, J = 3,7); 2,94 (d, J = 9,6) và C = 69,53; 82,48; 84,55. Bên 
cạnh các tín hiệu kể trên, phổ 13C-NMR, DEPT còn cho thấy sự có mặt của 8 
nhóm CH2, 3 nhóm CH cũng như 6 cacbon không gắn trực tiếp với hydro 
trong phân tử. 
Hình 3.1 – Phổ 13C-NMR và DEPT (125 MHz) của chất 125 
 Để xác định ví trí nối kết của các nhóm hydroxyl trong phân tử, dữ 
liệu phổ 2D-NMR đã được phân tích. Phổ 1H-1H-COSY cho thấy tương tác 
giữa H-2/H-3, H-1/H-2, H-18/H-19 và H-11/H-12. Mặc dù tín hiệu của 
nhóm cacboxyl không được quan sát rõ trong phổ 1D-NMR, nhưng phổ 
HMBC cho thấy tương tác giữa H-18 với 28-COOH. Hơn nữa, phổ HMBC 
còn cho thấy tương tác giữa H-1 với C-2, C-3; giữa H-3 với C-2, C-4, C-
23, C-24. Điều này càng khẳng định sự gán ghép các tín hiệu phổ là hoàn 
toàn phù hợp. Ngoài ra, hằng số tương tác giữa H-2 và H-3 khá lớn (J = 9,6 
Hz), chứng tỏ 2 nhóm hydroxyl ở C-2 và C-3 không nằm trên cùng mặt 
phẳng phân tử. Với các số liệu đã nêu trên và các tương tác trong phổ 2D-
11 
NMR (HSQC, HMBC, COSY), kết hợp so sánh với các số liệu đã công bố, 
cấu trúc chất 125 được xác định là axit 2α,3β,19α-trihydroxyolean-12-en-
28-oic hay axit arjunic. Đây là lần đầu tiên axit arjunic được tìm thấy ở chi 
Eriobotrya. 
 Axit 2α,3β-O-diaxetylolean-12-en-28-oic (127): 
 So sánh phổ của chất 127 với chất 126 ta thấy rằng độ dịch chuyển hóa 
học và dạng vạch của các tín hiệu rất gần nhau, tuy nhiên phân tử 127 có ít 
hơn một nhóm hydroxyl so với chất 126. Điều này được thể hiện ở sự mất đi 
tín hiệu của một nhóm oxymetin trong phổ 1H- và 13C-NMR của 127. Tín hiệu 
doublet của nhóm oxymetin C-19 ở vùng trường thấp ( δC 80,57) trong chất 
126 đã bị thay thế bởi tín hiệu triplet (δC 46,2) ở phía vùng trường cao hơn. 
Như vậy phân tử 127 không có nhóm hydroxyl thế ở C-19. Mặc dù phổ 13C-
NMR của chất 127 không cho tín hiệu của nhóm cacboxyl, tuy nhiên độ 
dịch chuyển của cacbon không gắn trực tiếp với hydro ở C-17 về phía vùng 
trường thấp (C = 46,51) và pic ion phân tử tại m/z 557,38424 [M+H]
+ ứng 
với công thức phân tử C34H52O6 trong phổ khối phân giải cao đã chứng tỏ 
phân tử chất 127 có nhóm COOH ở C-17. Cấu hình của hai nhóm axetyl 
được xác định là 2,3dựa vào giá trị hằng số tương tác lớn của H-2 với H-1 
(J2a-1a = 11,0 Hz) và H-3 với H-2 (J2a-3a = 10,5 Hz) cùng 1 giá trị hằng số 
tương tác nhỏ (J2a-1e = 4,3 Hz), kết hợp so sánh với các chất tương tự trong tài 
liệu. Như vậy, cấu trúc của chất 127 được xác định là axit 2α,3β-O-
diaxetylolean-12-en-28-oic qua các số liệu phổ như đã phân tích và so sánh 
với tài liệu đã công bố. 
3.1.2. Các hợp chất flavonoid 
 Chất 22:(-)-Epicatechin Chất 128:Catiguanin B 
12 
 Catiguanin B (128): Chất 128 thu được ở dạng chất rắn, màu cam. Phổ 
IR của chất 128 cho các đỉnh hấp thụ ở 3413 (OH), 1728 cm-1 (C=O). Công 
thức phân tử là C25H22O10 được rút ra từ pic ion phân tử ở m/z = 483,12909 
[M+H]+ (theo tính toán cho C25H23O10 là 483,12912) trong phổ HR-ESI-MS. 
Phổ 1H-, 13C-NMR và DEPT cho thấy chất 128 có chứa một đơn vị 
epicatechin thể hiện qua các tín hiệu của vòng C, gồm có 2 nhóm metin gắn 
với oxy ở H = 4,92 (1H, br s, H-2); 4,25 (1H, m, H-3) và C = 80,07 (C-2); 
66,83 (C-3); tín hiệu của nhóm metylen CH2-4 ở H = 2,82; 2,92 và C = 
29,49. Bên cạnh đó, các proton thơm tương tác kiểu ABX của vòng B cũng 
được tìm thấy trong phổ 1H-NMR, gồm có 2 doublet ở H = 6,79 và 7,00 với 
hằng số tương tác lần lượt là 8,2 và 1,5 Hz; 1 doublet kép ở H = 6,86 (J = 
1,5 & 8,2 Hz). Các tương tác giữa H-2 với C-1' (132,08 ppm), C-2' (115,18 
ppm) và C-6' (119,20 ppm) trong phổ HMBC khẳng định sự có mặt của đơn 
vị epicatechin trong phân tử 128. 
 Ngoài ra, phổ NMR còn cho thấy các tín hiệu của 1 nhóm metin [H = 
4,48 (1H, dd, J = 3,0 & 9,0 Hz) và C = 31,15], 1 nhóm metylen [H = 2,98 
(1H, dd, J = 3,0 & 14,8 Hz); 2,50 (1H, dd, J = 9,0 & 14,8 Hz) và C = 
44,78], 1 vòng benzen bị thế 4 lần trong đó có 2 nhóm thế là hydroxyl thể 
hiện qua tín hiệu singlet của 2 proton thơm ở H = 6,47 và 6,62. Bên cạnh đó 
6 cacbon thơm trong đó có 2 cacbon dịch chuyển về vùng trường thấp ở C = 
142,10 và 146,41 cùng 1 nhóm –COOMe [H = 3,60 s, và C = 174,65 s; 
52,03 q] cũng được quan sát thấy trong phổ NMR. 
 Phổ HMBC chỉ ra các tương tác giữa H-9 với C-7, C-8, C-1", C-2" và 
C=O chứng tỏ rằng C-9 liên kết với C-8 của vòng A và C-1" của vòng thơm 
bị thế 4 lần. Ngoài ra, các tương tác giữa H-10 với C-9, C-1” và C=O khẳng 
định sự nối kết của C-10 với C-9 và –COOMe. Tương tác của một trong hai 
proton của nhóm CH2-10 ở 2,98 ppm với H-2’, H-6’ và H-6’’ trong phổ 
ROESY chứng minh hóa lập thể của chất 128 như trong hình vẽ. Cuối cùng 
cấu trúc chất 128 được xác định là catiguanin B khi so sánh với số liệu phổ 
trong tài liệu.Theo tra cứu tài liệu của chúng tôi, đây là lần đầu tiên 
catiguanin B được tìm thấy trong chi Eriobotrya. 
13 
Hình 3.2 – Phổ ROESY (75 MHz) của chất 128 
3.1.3. Các hợp chất phytosterol và ancol béo 
 Hexatetracontan-1-ol (129): Phổ FT-IR của chất 129 cho đỉnh hấp thụ đặc 
trưng của nhóm hydroxyl ở 3423 và C-O ở 1023 cm-1. Phổ HR-ESI-MS cho 
biết pic ion phân tử ở m/z 663,73831 [M+H]+ 
(theo tính toán cho C46H95O là 663,73829) 
tương ứng với công thức là C46H94O. Sự phân 
mảnh trong phổ khối thể hiện đặc điểm rất đặc 
trưng cho một hydrocacbon no qua các ion 
phân mảnh luôn mất một nhóm CH2 hay là một số nhóm CH2 tương ứng với 14 
đơn vị khối lượng hoặc bội số của 14. Ví dụ: m/z = 606 [M-C4H8]
+ 
(M-56 ); 578 
[M-C6H12]
+ (M-84); 522 [M-C10H20]
+ (M-140),.... Sự có mặt nhóm hydroxyl 
trong phân tử cũng được thể hiện rõ qua ion phân mảnh tại m/z 646 [M-OH+H]+ 
(M-16). Phổ 1H- và 13C-NMR khẳng định chất 129 là ancol béo mạch dài, thể 
hiện qua pic của rất nhiều nhóm CH2 cộng hưởng chồng chập ở δH = 1,26; δC = 
29,63; 1 nhóm metyl của mạch hydrocacbon no ở δH = 0,89 (t, 3H), δC = 14,12; 
1 nhóm CH2OH ở δH = 3,65 (t, 2H), δC = 63,13; 2 nhóm metylen bên cạnh nhóm 
CH2OH ở δH = 1,56 (4H), C = 32,85; 31,94. Dựa vào các tín hiệu phổ đã được 
phân tích ở trên kết hợp so sánh với số liệu trong tài liệu, cấu trúc chất 129 được 
14 
xác định là hexatetracontan-1-ol. Đây là lần đầu tiên chất này được tìm thấy ở 
chi Eriobotrya. 
 β-Sitosterol (130) và β-Sitosterol glucosid (131) 
Chất 130: β-Sitosterol 
Chất 131: β-Sitosterol glucosid 
3.2. Các chất phân lập từ cây Eriobotrya japonica Lindl. 
 Từ cây E. japonica, 7 tritecpen thuộc các khung oleanan, ursan và 
lupan, ở dạng nguyên gốc và dạng sản phẩm axetyl hóa đã được phân lập. 
Trong đó có 3 chất giống với các chất đã được chúng tôi tìm thấy trong cây 
E. poilanei, đó là chất 5 (axit ursolic), 93 (axit 3β-O-axetyl ursolic) và 121 
(axit 3β-O-axetyl pomolic). 
 EJ1 là hỗn hợp 2 đồng phân cấu tạo: Metyl 2α,3β-dihydroxyolean-
12-en-28-oat (132) và Metyl 2α,3β-dihydroxyurs-12-en-28-oat (133): Số 
liệu phổ 1D-NMR cho các cặp tín hiệu khá giống nhau về độ dịch chuyển hóa 
học và dạng vạch. Dựa vào tỉ lệ đường tích phân trong phổ 1H-NMR có thể 
thấy rằng chất EJ1 là hỗn hợp hai đồng phân với tỉ lệ khoảng 5 : 1 (132 : 133). 
Cấu trúc của hỗn hợp 2 đồng phân cấu tạo này được xác định dựa vào các 
phổ IR, ESI-MS và 1D-NMR. 
Chất 132: Metyl 2α,3β-
dihydroxy-olean-12-en-28-oat 
Chất 133: Metyl 2α,3β-
dihydroxy-urs-12-en-28-oat 
 EJ2-Ac là hỗn hợp 2 đồng phân hình học: Chất 134 và 135 
15 
 Công thức phân tử của chất EJ2-Ac là C43H58O8 được rút ra từ pic 
ion phân tử ở m/z = 701 [M-H]- trong phổ ESI-MS và số liệu phổ NMR. 
 Các tín hiệu trong phổ NMR của chất EJ2-Ac xuất hiện chủ yếu dưới 
dạng từng cặp có độ dịch chuyển hóa học và dạng vạch tương tự nhau với tỉ 
lệ 1: 0,9 (134 : 135) cho phép dự đoán đây là một hỗn hợp hai đồng phân. 
Phần giống nhau của 2 đồng phân này là khung lupan axit với tín hiệu 
cacboxyl ở δC = 182,23 (2xC); nhóm isopropenyl [δH = 4,73; 4,60 (mỗi tín 
hiệu br s, 2H); 1,69; 1,685 (mỗi tín hiệu s, 3H); δC = 109,79 (2xCH2); 
152,09 (C); 151,05 (C) và 19,27 (2xCH3)] cùng 5 nhóm metyl singlet cộng 
hưởng trong vùng từ 0,78 - 1,00 ppm. Độ dịch chuyển hóa học, dạng vạch 
cũng như hằng số tương tác của 2 proton oxymetin ở δH = 4,79; 4,86 (mỗi tín 
hiệu d, J = 10,3 Hz, H-3) và 5,08; 5,20 (mỗi tín hiệu dt, J = 10,3 & 4,5 Hz, 
H-2) trong phổ 1H-NMR đặc trưng cho cấu hình 2 của 2 nhóm thế chứa 
oxy khi so sánh với tài liệu. 
Hình 3.3–Phổ 1H-NMR (125 MHz) của chất EJ2-Ac 
16 
 Sự có mặt của 2 cặp nhóm axetyl trong phân tử cũng được quan sát 
thấy trong phổ NMR. Các tín hiệu của cặp thứ nhất là: δH = 2,31; 2,30 (mỗi 
tín hiệu s, 3H); và δC = 170,68; 170,59 (C=O); 21,08; 20,96 (CH3). Cặp 
nhóm axetyl thứ hai ở 1,91 ppm (s, 6H, CH3CO) và 166,68; 165,61 ppm 
(CH3CO); 21,08 ppm (CH3CO). Ngoài ra, các tín hiệu của 4 proton thơm đối 
xứng từng cặp ở δH = 7,66; 7,07 (mỗi tín hiệu d; J = 8,6 Hz; 2H) và 7,55; 
7,12 (mỗi tín hiệu d; J = 8,8 Hz; 2H) cùng với tín hiệu cacbonyl este ở δC = 
169,13 (2xC) chứng tỏ trong phân tử có chứa nhóm p-coumaroyl. 
 Với các số liệu phổ phân tích trên đây có thể giả thiết rằng chất EJ2-Ac 
là axit 2α-axetyl-3β-O-(p-axetyl-coumaroyl) alphitolic. Sự khác nhau của hai 
đồng phân này là do cấu hình của coumaroyl. Đồng phân 134 có nhóm thế 
trans-coumaroyl và 135 có nhóm cis-coumaroyl thể hiện qua hằng số tương tác 
giữa H-2' và H-3' là 16,0 và 12,7 Hz, tương ứng. Các số liệu phổ của chất 134 
và 135 gần như đồng nhất với số liệu của axit 2-O-axetyl-3β-O-(p-trans-
coumaroyl) alphatolic và axit 2α-O-axetyl-3β-O-(p-cis-coumaroyl) alphatolic, 
tương ứng trong tài liệu chỉ khác ở độ dịch chuyển hóa học của C-7' về phía 
trường cao với  ~ 7 ppm và xuất hiện thêm nhóm axetyl. Từ các số liệu phân 
tích ở trên, chúng tôi xác định chất 134 và 135 lần lượt là axit 2-O-axetyl-3β-
O-(p-axetyl-trans-coumaroyl) alphatolic và axit 2α-O-axetyl-3β-O-(p-axetyl-
cis-coumaroyl) alphatolic. 
3.3. Cây Cau chuột núi (Pinanga duperreana Pierre ex Becc.) 
3.3.1. Hàm lượng lipit tổng và thành phần axit béo trong mẫu hạt 
Hình 3.4 – Sơ đồ phân tích hàm lượng lipit tổng của hạt P. duperreana 
 Kết quả cho thấy hàm lượng lipit tổng trong mẫu hạt Cau chuột núi 
tương đối nhỏ (2,35% so với mẫu khô). 
Hình 3.5 – Sơ đồ phân tích thành phần axit béo trong dầu hạt P. duperreana 
17 
 Kết quả phân tích thành phần dầu béo cho thấy các axit béo sau có hàm 
lượng khá cao: axit octadecenoic (40,89%); axit tetradecanoic (19,48%) và axit 
dodecanoic (15,42%). 
3.3.2. Các chất phân lập từ thân cây Cau chuột núi 
 Từ cây P. duperreana, 4 hợp chất thuộc các lớp chất khác nhau đã được 
phân lập, gồm 1 polyphenol, 1 flavonoid và 2 phytosterol. Trong đó chất 22 
(epicatechin) và 130 (-sitosterol) là hai chất giống với chất đã phân lập từ cây 
E. poilanei. Hai chất không trùng lặp còn lại là (E)-3,5,3',4'-tetrahydroxystilben 
(136) và stigmasterol (137). 
 (E)-3,5,3’,4’-tetrahydroxystilben (136): Chất 136 thu được ở dạng chất 
rắn, màu nâu. Phổ ESI-MS cho pic ion phân tử tại m/z 243 [M-H]-, kết hợp với 
số liệu phổ 1D-NMR cho phép dự đoán chất 136 có công thức phân tử là 
C14H12O4. Phổ 1D-NMR cho biết phân tử 136 chứa bộ khung stilben trong đó 
mỗi vòng benzen có gắn 2 nhóm hydroxyl [δH 
8,13 (4H, br s, -OH)]. Hai vòng benzen được 
gắn kết với nhau qua 1 nhóm etylen với cấu hình 
trans thể hiện ở các tín hiệu [δH 6,94 (1H, d, 
16,3 Hz), 6,81 (1H, d, 16,3 Hz) và δC 129,72d, 
127,05d]. Vòng benzen thứ nhất bị thế 3 lần ở 
các vị trí 1, 3, 5 dựa vào độ bội của các tín hiệu 
[δH 6,52 (2H, d, 2,0 Hz), 6,26 (1H, t, 2,0 Hz) và δC 159,61s ×2, 141,32s, 
105,82d ×2], trong đó C-1 gắn với nhóm etylen, C-3 và C-5 gắn với hai nhóm 
hydroxyl. Vòng benzen thứ hai cũng bị thế 3 lần, trong đó C-1’ gắn với nhóm 
etylen và hai vị trí thế còn lại gắn với hai nhóm hydroxyl [δH 7,07 (1H, d, 2,0 
Hz), 6,90 (1H, dd, 8,0, 2,0 Hz), 6,80 (1H, d, 8,0 Hz) và δC 146,50s, 146,48s, 
131,12s, 120,19d, 116,47d, 113,90d]. Dạng vạch của các proton kết hợp với tài 
liệu cùng phổ mô phỏng cho phép xác định vòng benzen thứ hai chứa 2 nhóm 
hydroxyl ở vị trí C-3’ và C-4’. Từ các số liệu phân tích trên, cấu trúc chất 136 
được xác định là (E)-3,5,3’,4’-tetrahydroxystilben. 
Bảng 3.3- Số liệu phổ 1H- (500 MHz) và 13C-NMR (125 MHz) của chất 136 
và chất tham khảo 
18 
C 
Chất 136 
(E)-3,5,3’-trihydroxy-4’-
metoxystilben 
(CD3COCD3) 
(E)-3,5,3’,4’-
tetrahydroxy 
stilben (mô phỏng) 
δH(CD3COCD3) δC(CD3OD) δH [J(Hz)] δC δH δC 
1 - 141,31s - 140,8s - 141,3 
2 6,52 (d, 2,0) 105,82d 6,61 (d, 1,8) 105,8d 6,38 104,7 
3 - 159,61s - 159,4s - 159,8 
4 6,26 (t, 2,0) 102,69d 6,35 (br t, 1,8) 102,8d 6,212 102,8 
5 - 159,61s - 159,4s - 159,8 
6 6,52 (d, 2,0) 105,82d 6,61 (d, 1,8) 105,8d 6,38 104,7 
7 6,81 (d, 16,3) 129,72d 6,94 (d, 16,2) 129,4d 6,95 127,4 
8 6,94 (d, 16,3) 127,05d 7,04 (d, 16,2) 127,0d 6,95 127,4 
1’ - 131,12s - 130,4s - 130,9 
2’ 7,07 (d, 2,0) 113,90d 7,20 (d, 1,8) 110,1d 7,29 115,2 
3’ - 146,50s - 148,5s - 145,9 
4’ - 146,48s - 147,4s - 146,5 
5’ 6,80 (d, 8,0) 116,47d 6,85 (d, 8,3) 116,5d 6,98 117,2 
6’ 
6,90 (dd, 8,0, 
2,0) 
120,19d 
7,02 (dd, 8,3, 
1,8) 
121,1d 7,24 123,2 
OH 8,13 (s) - - - 5,35 - 
3.4. Các dẫn xuất từ sự chuyển hóa axit ursolic 
 Tám dẫn xuất của axit ursolic đã được tổng hợp. Sơ đồ phản ứng tổng 
hợp 3 dẫn xuất chuyển hóa nhóm C-3-OH, 4 dẫn xuất chuyển hóa nhóm 28-
COOH và 1 dẫn xuất chuyển hóa ở cả hai nhóm trên cùng với phần biện 
luận phổ để chứng minh cấu trúc của 2 dẫn xuất mới: 145 và 146 được trình 
bày dưới đây. 
3.4.1. Các dẫn xuất từ sự chuyển hóa nhóm 3-OH 
Hình 3.6- Sơ đồ tổng hợp các dẫn xuất 138, 139 và 140 
19 
3.4.2. Các dẫn xuất từ sự chuyển hóa nhóm 17-COOH 
Hình 3.7- Sơ đồ tổng hợp dẫn xuất 142 
Hình 3.8 – Sơ đồ tổng hợp dẫn xuất 143 và 144 
Hình 3.9 – Sơ đồ tổng hợp dẫn xuất amit 145 
 N-(3-axetoxyurs-12-en-28-oyl)-5-aminohexan-1-amin (145) 
Phổ ESI-MS cho pic ion phân tử tại 
m/z 595 [M-H]- tương ứng với CTPT 
của chất 145 là C38H64O3N2. So sánh 
phổ 1D-NMR của chất 145 với 93 cho 
thấy phân tử 145 có thêm tín hiệu của 
cầu nối amit CO-NH [δH = 6,00 (1H, br s, NH) và δC = 178,5s (C=O)] và 
một số tín hiệu cho thấy phản ứng amit hóa xảy ra tại nhóm amino liên kết với 
nguyên tử cacbon bậc một của tác nhân hexan-1,5-diamin [δH = 3,31, 2,99 (2H, 
mỗi tín hiệu m, H-1’); 2,73, 2,62, (2H, mỗi tín hiệu m, H-2’) và δC = 39,71t (C-
20 
1’), 47,48t (C-2’)]. Từ các số liệu phân tích như đã nêu, chúng tôi kết luận 
chất 145 là N-(3-axetoxyurs-12-en-28-oyl)-5-aminohexan-1-amin. 
3.4.3. Các dẫn xuất từ sự chuyển hóa ở cả hai nhóm 3-OH và 17-COOH 
Hình 3.10–Sơ đồ tổng hợp dẫn xuất 146 
 3-succinoylurs-12-en-28-amit (146) 
 Khi thực hiện phản ứng este hóa của chất 144 với axit succinic đã thu 
được chất 146. Phổ IR của chất này cho thấy các tín hiệu 3459 (N-H), 1735 
(C=O este), 1713 (C=O axit) và 1641 
(C=O amit). Phổ 1D-NMR cho thấy 
phân tử 146 có chứa 1 nhóm –CONH2 
[H 6,78, 5,93 (mỗi tín hiệu 1H, br s, 
NH2) và C 182,81s (C=O)] và 1 nhóm 
succinoyl [H 2,64 (4H, br s, 2H-2’ và 2H-3’); C 176,32 và 171,84 (mỗi tín 
hiệu s, C=O)]. Thêm vào đó, H-3 của chất 146 có giá trị H cao hơn 1,3 ppm 
so với H-3 của chất 144. Điều này chứng tỏ rằng nhóm succinoyl được gắn 
vào vị trí C-3. Pic ion phân tử tại m/z = 554 [M-H]- trong phổ ESI-MS tương 
ứng với công thức phân tử là C34H53O5N khẳng định thêm cấu trúc của 146 
là 3-succinoylurs-12-en-28-amit. 
3.5. Kết quả thử hoạt tính sinh học 
3.5.1. Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định 
 Kết quả thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định cho thấy 3 cặn chiết 
lá E. poilanei không thể hiện hoạt tính kháng các chủng vi sinh vật đem thử; 
2 dẫn xuất mới 145 và 146 có hoạt tính với chủng Bacillus subtillis ở mức 
độ trung bình, trong đó chất 145 có hoạt tính mạnh hơn chất 146 ở cả nồng 
độ 1 µM và 10 µM. 
21 
3.5.2. Hoạt tính gây độc tế bào 
 Các dòng tế bào ung thư người dùng để thử hoạt tính bao gồm ung 
thư biểu mô (KB); ung thư gan (HepG2); ung thư vú (MCF7) và ung thư 
phổi (Lu). 
Bảng 3.4- Kết quả thử hoạt tính độc tế bào của các cặn chiết, chất sạch phân 
lập từ lá cây E. poilanei và các dẫn xuất của axit ursolic 
STT 
T n mẫu 
Giá tr IC50 tr n các dòng tế bào (g/ml) 
KB HepG2 MCF 7 Lu 
Các cặn chiết lá cây E. poilanei 
1 EPoH 73,84 111,46 84,30 74,53 
2 EPoE 58,62 79,71 54,00 30,05 
3 EPoB 116,88 >128 94,49 119,77 
Các chất phân lập từ lá cây E. poilanei 
4 128 >100 >100 >100 >100 
5 93 8,0 4,73 27,50 34,79 
6 5 10,23 11,75 8,0 12,23 
Các chất chuyển hóa từ axit ursolic (5) 
7 138 5,31 4,36 25,36 19,79 
8 140 4,32 4,31 3,43 5,44 
9 142 11,60 17,90 14,44 17,56 
10 143 >128 >128 >128 >128 
11 144 62,92 53,46 43,44 71,23 
12 145 4,90 5,03 4,78 4,96 
13 146 26,0 9,14 44,58 33,57 
14 5 10,23 11,75 8,0 12,23 
Chất 
tham 
khảo 
Ellipticin 
0,51 
0,79 
0,72 
0,68 
22 
 Kết quả thử hoạt tính độc tế bào cho thấy cả 3 cặn chiết n-hexan 
(EPoH), etyl axetat (EPoE) và n-butanol (EPoB) đều có hoạt tính với các 
dòng tế bào ung thư thử nghiệm, trừ cặn EPoB là không thể hiện hoạt tính 
với dòng tế bào ung thư gan HepG2. 
Axit ursolic (5) và 7 trong số 8 dẫn xuất của nó có hoạt tính với 4 
dòng tế bào đem thử. Trong đó, chất 140 và dẫn xuất mới 145 có hoạt tính 
mạnh hơn chất ban đầu (5) đối với tất cả các dòng tế bào thử nghiệm. 
3.5.3. Hoạt tính chống oxy hóa của các cặn chiết lá cây E. poilanei 
Bảng 3.5 - Kết quả thử hoạt tính chống oxy hóa các cặn chiết lá cây 
E. poilanei 
Cặn chiết IC50 (g/ml) 
EPoH >128 
EPoE 92,63 
EPoB 65,97 
Resveratrol 5,24 
 Cặn chiết etyl axetat và n-butanol lá E. poilanei có hoạt tính chống 
oxy hóa nhưng không mạnh. 
23 
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
KẾT LUẬN 
1. Đây là lần đầu tiên thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài Sơn 
trà poilane (E. Poilanei) được công bố ở Việt Nam và trên thế giới. Từ lá 
cây Sơn trà poilane (E. poilanei J. E. Vid.) 12 hợp chất đã được phân lập 
và xác định cấu trúc, bao gồm: 
- 7 tritecpen, 5 chất thuộc khung ursan: 5, 120, 121, 123, 124 và 2 chất 
khung oleanan: 125, 127, trong đó chất 121, 123, 124 và 127 được phân 
lập dưới dạng sản phẩm axetyl; 
- 2 flavonoid (chất 22 và 128 - một flavolignan ít gặp trong tự nhiên); 
- 2 phytosterol (130 và 131) và 1 ancol béo (129). 
 Các chất 125, 128 và 129 được tìm thấy lần đầu tiên trong chi 
Eriobotrya. 
2. Từ lá cây Sơn trà nhật bản (E. japonica Lindl.) 7 hợp chất tritecpen khung 
ursan, oleanan, lupan đã được phân lập, bao gồm: chất 132, 133, 5, 93, 
121, 134 và 135. 
 Đây là lần đầu tiên các chất 132, 133, 134, 135 được tìm thấy trong chi 
Eriobotrya. 
3. Lần đầu tiên cây Cau chuột núi (Pinanga duperreana Pierre ex Becc.) 
được nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới. 
- Đã xác định hàm lượng lipit tổng trong hạt (2,35% so với mẫu khô) và 
thành phần axit béo trong dầu hạt Cau chuột núi bằng phương pháp 
GC/MS. 
- Từ thân cây này đã phân lập và xác định cấu trúc 4 hợp chất, đó là: 
(E)-3,5,3’,4’-tetrahydroxystilben (136); (-)-epicatechin (22); β-
sitosterol (130) và stigmasterol (137). 
4. Từ axit ursolic, được phân lập từ lá E. poilanei với hàm lượng khá cao 
(0,065%), đã tổng hợp được 8 dẫn xuất thông qua các phản ứng chuyển 
hóa tại: 
24 
- Nhóm 3-OH tạo ra 1 dẫn xuất oxo (138), 2 dẫn xuất oxim (139, 140) và 
- Nhóm 17-COOH tạo ra 1 dẫn xuất este (146), 4 dẫn xuất amit (142, 
143, 144, 145). 
 Trong đó dẫn xuất 145 và 146 là hai chất mới. 
5. Kết quả thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định và hoạt tính gây độc tế 
bào của các cặn chiết, hợp chất sạch tách được và dẫn xuất tổng hợp cho 
thấy: 
- Cặn chiết n-hexan và etyl axetat từ lá cây E. poilanei có hoạt tính độc 
với cả 4 dòng tế bào ung thư thử nghiệm ( HepG2, KB, Lu và MCF7) ở 
mức trung bình. 
- Axit ursolic (5) và 7 trong số 8 dẫn xuất của nó có hoạt tính ức chế 4 
dòng tế bào ung thư thử nghiệm, trong đó dẫn xuất 140, 145 có hoạt 
tính tương đối tốt với cả 4 dòng tế bào (IC50< 5,5 µM). 
KIẾN NGHỊ 
• Nghiên cứu thêm một số hoạt tính khác của 2 dẫn xuất mới 145, 146 
cùng các phản ứng chuyển hóa tiếp theo từ các chất này. 
• Tiếp tục nghiên cứu hoạt tính sinh học và thành phần hóa học của cặn 
chiết diclometan của lá cây Cau chuột núi (P. duperreana). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dinhgiathien_tt_1907.pdf dinhgiathien_tt_1907.pdf