Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, trong đó Công giáo là tôn giáo lớn, có số lượng tín đồ đông đảo (khoảng khoảng 6 triệu tín đồ). Tuyệt đại bộ phận tín đồ Công giáo ở nước ta là nhân dân lao động, có lòng yêu nước, cần cù, chăm chỉ trong làm ăn kinh tế và tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, ủng hộ sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực tế hiện nay, đồng bào Công giáo đã và đang tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt hoạt động từ thiện bác ái nhằm hạn chế những tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường. Tại các vùng Công giáo, tình hình chính trị, xã hội ổn định, ít có các tệ nạn xã hội nảy sinh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do đồng bào Công giáo ở nước ta đã biết sống Phúc Âm, đem tinh thần của Phúc Âm vào xây dựng xã hội mới ngày nay./.
27 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 6274 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Nhân học kitô giáo và vai trò của nó trong đời sống đạo của người công giáo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
NGUYỄN CÔNG OÁNH
NHÂN HỌC KITÔ GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG ĐỜI SỐNG ĐẠO
CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Hồng Dương
2. PGS. TS. Nguyễn Quang Hưng
Hà Nội - 2015
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
2. PGS.TS. Nguyễn Quang Hưng
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp cơ sở Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn vào hồi: ....... giờ .... ngày ..... tháng ...... năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kitô giáo là một tôn giáo lớn, có ảnh hưởng sâu rộng đến tín đồ của mình trên khắp thế giới. Cộng đồng tín đồ Công giáo Việt Nam sống và làm việc nhờ tuân thủ nghiêm ngặt các nền tảng nhân sinh quan Kitô giáo. Kitô giáo chủ yếu luận bàn về những vấn đề nhân sinh quan của cộng đồng người. Đây là khác biệt mang tính nguyên tắc của Kitô giáo và quy định bản chất, nội dung và giá trị của triết học Kitô giáo. Song, nó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu nhân học xã hội (cộng đồng) của Kitô giáo và rút ra những bài học hữu ích cho sinh hoạt xã hội của tín đồ Công giáo ở nước ta hiện nay.
Nhân học xã hội Kitô giáo đề cập tới những giá trị nằm trong miền sâu nhất, có liên quan tới xã hội tính của bản thể người. Do vậy, nhiều luận điểm (giá trị) của nhân học xã hội Kitô giáo giữ nguyên tính cấp thiết và giá trị của mình. Kinh thánh trở thành cuốn sách “vĩnh hằng” chủ yếu nhờ nội dung nhân học xã hội sâu sắc của nó. Kinh thánh luôn “mặc khải” những điều quan trọng cho sinh hoạt cộng đồng “tốt lành”. Nói cách khác, nhân học xã hội Kitô giáo bao hàm các giá trị tinh thần phổ biến của tồn tại người cộng đồng và qua đó có thể là hành trang cho con người bước vào cuộc sống cộng đồng.
Sự tồn tại lâu dài và sự ảnh hưởng sâu rộng nhất của Kinh thánh đến các thế hệ người khẳng định những giá trị cần thiết để hoàn thiện đạo đức, lối sống của con người trong cộng đồng. Xét về mặt nhân học xã hội, học thuyết Kitô hàm chứa những “chân lý” nhân văn cho phép con người trụ vững trước những thăng trầm của lịch sử. Nói cách khác, tư tưởng nhân học xã hội của Kitô giáo bao chứa những nguyên lý của tồn tại người trong cộng đồng, những cơ sở bản thể cho con người cộng đồng (xã hội).
Việc tìm hiểu nội dung nhân học xã hội của học thuyết Kitô không chỉ có giá trị khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Mỗi thời đại đều có một cái nhìn riêng của mình về nhân học xã hội Kitô giáo do điều kiện sinh tồn của con người ở thời đại tương ứng quy định. Bước vào thiên niên kỷ mới, cùng với những vấn đề mới của cộng đồng người và về cộng đồng người, tiếp thu những thành tựu mới của các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn đề cập tới con người, không thể không tìm hiểu những tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo.
Kitô giáo đã xuất hiện ở nước ta từ lâu và đã được nghiên cứu từ các góc độ khác nhau, song tư tưởng nhân học xã hội của nó chưa được phân tích sâu rộng, mặc dù nó có ý nghĩa cấp thiết cho mục tiêu xây dựng xã hội nhân văn hiện nay. Nhiều vấn đề của công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay rất đòi hỏi phải nghiên cứu, kế thừa, phát huy những giá trị nhân học xã hội của Kitô giáo, góp phần vào việc hoàn thiện con người mới, xã hội mới. Đây là vấn đề đặc biệt cấp bách, vì các thành tố văn hóa của nhân cách người ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của loài người nói chung, của mỗi xã hội nói riêng. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tuy được du nhập vào nước ta chưa lâu, nhưng Kitô giáo có số lượng tín đồ đáng kể. Niềm tin tôn giáo, tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, văn hóa Kitô giáo có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống tôn giáo nước ta. Trong xu hướng hội nhập hiện nay, việc tiếp thu những giá trị văn hóa chung của nhân loại đòi hỏi phải tính đến những nét văn hóa riêng của các tôn giáo, trong đó có văn hóa Kitô giáo.
Với lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Nhân học Kitô giáo và vai trò của nó trong đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam” cho Luận án Tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là phân tích làm rõ quan điểm nhân học xã hội Kitô giáo, từ đó làm sáng tỏ vai trò của nó trong đời sống của người Công giáo Việt Nam nhằm phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của Kitô giáo vào việc thực hiện đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và sống “tốt đời đẹp đạo” của tín đồ Công giáo ở Việt Nam hiện nay.
Từ mục đích trên, luận án xác định những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tổng quan những tài liệu nghiên cứu có liên quan đến nội dung nhân học xã hội Kitô giáo, vai trò của nó đối với đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam để nêu ra các vấn đề sẽ được giải quyết trong luận án;
Thứ hai, làm rõ những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị văn hóa và những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành nhân học xã hội Kitô giáo;
Thứ ba, phân tích các phương diện nội dung cơ bản của nhân học xã hội Kitô giáo.
Thứ tư, làm rõ vai trò của nhân học xã hội Kitô giáo đối với cuộc sống của tín đồ Công giáo Việt Nam.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm mác xít về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Ngoài phương pháp luận nghiên cứu lịch sử tư tưởng Mácxít, luận án còn sử dụng phương pháp khảo cứu, phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánh, văn bản học, v.v.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo được trình bày trong Phúc âm.
Vì vấn đề của luận án rất phong phú và phức tạp, nên luận án chỉ tập trung đề cập đến hai nội dung cơ bản là tư tưởng nhân học xã hội về địa vị của con người trong xã hội và quan hệ giữa con người với nhau. Tư tưởng nhân học xã hội của Kitô giáo sẽ được làm sáng tỏ qua các tài liệu cơ bản là Kinh thánh Cựu ước và Tân ước - Lời Chúa cho mọi người của Hội đồng Giám mục Việt Nam (Nxb. Tôn giáo, 2011), có tham khảo các bản dịch Kinh thánh khác và Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo như luận giải chính thống của Tòa thánh Vatican đối với nhân học xã hội Kitô giáo trong thế giới hiện đại.
5. Đóng góp của luận án
Luận án phân tích và trình bày cách có hệ thống tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo, qua đó góp phần nêu bật giá trị của tư tưởng ấy đối với Kitô hữu nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực hành của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án có thể được sử dụng để bổ sung nội dung của tôn giáo học, nhân học xã hội, triết học tôn giáo.
Ý nghĩa thực tiễn: luận án có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu nội dung triết học xã hội Kitô giáo, làm cơ sở lý luận để hoạch định chính sách nhằm phát huy những giá trị nhân học xã hội Kitô giáo trong việc tổ chức và định hướng giá trị cho đời sống đạo của Kitô hữu ở nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương và 10 tiết.
Chương 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Để đạt tới mục đích của luận án, NCS sẽ giới thiệu những kết quả cơ bản đã đạt được của các các tác giả đi trước trong việc nghiên cứu đề tài “nhân học xã hội Kitô giáo” và ý nghĩa của nó để qua đó nêu bật các thành tựu sẽ được tiếp thu trong luận án và chỉ ra những vấn đề liên quan đến đề tài còn bỏ ngỏ và NCS sẽ giải quyết trong luận án này.
Cụ thể, chương tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài luận án sẽ bao gồm những nội dung cụ thể sau đây.
1.1. Tài liệu về các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời nhân học xã hội Kitô giáo
1.1.1. Tài liệu về các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa cho sự ra đời nhân học xã hội Kitô giáo
Có thể khẳng định, các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa cho sự ra đời của Kitô giáo chưa được quan tâm thỏa đáng. Chỉ một vài tác phẩm đề cập đến vấn đề này là: “Các phạm trù văn hoá trung cổ” (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1987) của A.Ja.Gurevich đề cập tới điều kiện văn hóa cho sự ra đời của văn hóa trung cổ nói chung và chủ yếu là văn hóa Kitô giáo nói riêng như hạt nhân của nó. Công trình này có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận vì nó cung cấp cách tiếp cận thỏa đáng và thích hợp với văn hóa Kitô giáo mà, cốt lõi, hạt nhân tư tưởng là tư tưởng nhân học xã hội của nó; “Tôn giáo học nhập môn” (NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2006) do Đỗ Minh Hợp (chủ biên) coi nhân học xã hội Kitô giáo là quan điểm về các phẩm chất của con người thể hiện trên các mặt sinh hoạt chính trị - xã hội, kinh tế và đạo đức được luận chứng về mặt triết học và thần học nhờ viện dẫn vào Kinh thánh. Nhân học này biểu hiện khủng hoảng giá trị của văn hóa nhân sinh Hy La cổ đại: thói ích kỷ, thái độ thờ ơ đối với đau khổ của tha nhân, và cho rằng các giá trị tinh thần của Kitô giáo với cốt lõi là “tình yêu tha nhân” chính là lối thoát khỏi ra khỏi cuộc khủng hoảng ấy.
1.1.2. Tài liệu về các tiền đề tư tưởng cho sự ra đời nhân học xã hội Kitô giáo
Ở đây cần kể tới “Công giáo và Đức Kitô: Kinh Thánh qua cái nhìn từ Đông phương” (NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2003) và “Đức Giêsu cái nhìn từ Cựu ước” (NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2013) của Lý Minh Tuấn nghiên cứu rất sâu sắc về tư tưởng nhân học Kitô giáo. Tác giả phân tích quá trình ra đời, hình thành và phát triển của tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo như sự phản ánh quá trình hình thành những giá trị tinh thần - đạo đức chung của nhân loại diễn ra ở tất cả các nền văn hoá phương Đông và phương Tây.
1.2. Tài liệu nghiên cứu về các nội dung cơ bản của nhân học xã hội Kitô giáo
1.2.1. Tài liệu thần học Kitô giáo
Tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo chủ yếu được trình bày trong Kinh thánh như tài liệu gốc cho mọi suy lý tiếp theo, do vậy các nhà thần học Kitô giáo tập trung chính vào nó để chú giải tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo. “Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo” do Tòa thánh Vatican soạn thảo và Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1992 trình bày tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo qua quan niệm về những vấn đề của con người và xã hội.
Nguồn tài liệu thần học quan trọng khác là Thông điệp của các Giáo hoàng: Rerum novarum (Thông điệp Tân sự, 15.5. 1891) của Giáo hoàng Lêô XIII thể hiện rõ nhân học xã hội Kitô giáo qua “lựa chọn ưu tiên về phía người nghèo”; Populorum Progressio (Thông điệp Phát triển các dân tộc) của Giáo hoàng Phaolô VI (26.3.1967) nhấn mạnh tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo thể hiện ở việc mở rộng quyền bình đẳng của mỗi cá nhân trước Thiên Chúa ra lĩnh vực quan hệ giữa các dân tộc nhằm tạo dựng một thế gian bình đẳng, an bình và hạnh phúc; Humanae Vitae (Thông điệp Sự sống Con người) của Giáo hoàng Phaolô VI (1969).
Nguồn tài liệu Thần học Công giáo xoay quanh quan hệ Thiên Chúa và con người. Với nhân học xã hội Kitô giáo, nó nói về con người trong lịch sử cứu độ (nhân học thần học) và đào sâu những yêu sách của phẩm giá con người khi sống trong xã hội, và phát triển thành học thuyết xã hội.
Tài liệu đặc biệt quan trọng để làm sáng tỏ nội dung của nhân học xã hội Kitô giáo là Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo (NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2009). Nó làm rõ những vấn đề nhân học xã hội Kitô giáo qua các nội dung về phẩm giá của con người, bổn phận cá nhân trên hàng loạt phương diện hoạt động xã hội và tương tác với môi trường xã hội như phương tiện bảo vệ và nâng cao phẩm giá con người.
1.2.2. Tài liệu của các tác giả bên ngoài Giáo hội
“Đạo Công giáo Thiên niên kỷ thứ 3” (NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2010) của tác giả Thomas P.Rausch viết về cách tiếp cận Kinh Thánh như phê phán lịch sử, phê phán thể loại, phê phán bản văn, phê phán nguồn văn và phê phán biên soạn [tr.30]; “Đức Giêsu trong các Tin Mừng – Kitô học Kinh Thánh” (NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2009) của Rudlf Schnackenburg bàn về tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo thông qua việc đánh giá về vai trò của Chúa Giêsu Kitô là giải thoát nhân loại nhờ hành động để thay đổi bộ mặt trái đất [tr.8].
1.3. Tài liệu nghiên cứu về vai trò của nhân học xã hội Kitô giáo đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam
1.3.1. Những nghiên cứu của các học giả dưới nhãn quan Kitô giáo
“Dẫn vào thần học” (do S.J.Thomasp Rausch chủ biên, Nxb. Tôn giáo, HN, 2008) khái quát nhân học thần học Kitô giáo qua các vấn đề về con người và vũ trụ, về sự hình thành con người, về các động lực của con người, về bổn phận của con người, về Thiên Chúa trong quan hệ với con người, v.v. [tr. 201].
Những tài liệu liên quan đến ảnh hưởng của nhân học xã hội Kitô giáo đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam.
1.3.2. Những nghiên cứu dưới nhãn quan của khoa học nhân văn
Có một số tác phẩm quan trọng nói về nội dung nhân học của Kinh Thánh (“Kinh nghiệm xây dựng từ điển tên riêng trong Kinh Thánh” gồm 5 tập (Sant Peterburg, 1879 - 1887), “Bách khoa thư phổ thông về Kinh Thánh” (Contral, 1989), “Từ điển chú giải Kinh Thánh” gồm 3 tập (Stockhom 1987), “Từ điển Thần học Kinh thánh” (Brusel, 1990), v.v.) cố tái hiện nội dung nhân học xã hội của Kinh thánh thông qua việc làm rõ những khái niệm, thuật ngữ mang tính chất nền tảng của nó.
1.4. Những vấn đề luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra
1.4.1. Những vấn đề luận án kế thừa
1.4.1.1. Đối với việc nghiên cứu tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo
Nội dung cơ bản của nhân học Kitô giáo xoay quanh vấn đề: Con người là gì? Các công trình nghiên cứu đi trước đã làm rõ các nội dung cơ bản sau: nguồn gốc và cấu tạo của con người, mối quan hệ giữa các yếu tố của con người; thân phận của con người (các phẩm cách thiêng liêng cao quý, những yếu đuối bất toàn của con người); con người trong tương quan với cái siêu việt (Chúa – đối thần), với tha nhân và với chính mình (đối nhân); mục đích tối hậu của con người; con đường để con người đạt tới mục đích tối hậu.
1.4.1.2. Đối với việc nghiên cứu ảnh hưởng của nhân học Kitô giáo đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam
Đó là các nghiên cứu, đánh giá không chỉ của Giáo hội Công giáo Việt Nam mà còn của các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam. Những nghiên cứu này đã chỉ ra cơ sở tư tưởng (nhân học Kitô giáo), không gian văn hóa, bối cảnh lịch sử, tâm lý, v.v. ảnh hưởng trên đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam.
1.4.2. Những vấn đề nghiên cứu đặt ra
1.4.2.1. Đối với việc nghiên cứu tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo
Luận án sẽ khắc phục nhãn quan mang nặng tính “qui Kitô”, tính phê phán, chưa đánh giá đúng mức “hạt nhân hợp lý”, những giá trị có tính phổ quát trong việc luận giải những giá trị khách quan của nhân học xã hội Kitô giáo theo con đường làm rõ các vấn đề con người là gì, phải trở nên như thế nào và bằng cách nào.
1.4.2.2. Đối với việc nghiên cứu ảnh hưởng của nhân học Kitô giáo đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam
Ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung vào việc tìm hiểu vai trò của nhân học Kitô giáo đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam, do vậy luận án sẽ làm rõ vai trò đó, đánh giá mức độ ảnh hưởng, nguyên nhân tác động của nhân học Kitô giáo đến đời sống của người Công giáo Việt Nam.
Chương 2:
SỰ RA ĐỜI CỦA NHÂN HỌC XÃ HỘI KITÔ GIÁO
2.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và các tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của nhân học xã hội Kitô giáo
2.1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa
Những điều kiện kinh tế - xã hội: Kitô giáo xuất hiện ở Palestina vào đầu thế kỷ I SCN. Palestina là một miền đất nhỏ hẹp nằm bên cạnh các nước láng giềng rộng lớn là Syria ở phía bắc, Caldea, Assyria và Ba Tư ở phía đông, Ai Cập ở phía nam.
2.1.2. Các tiền đề tư tưởng
Nhân học xã hội Kitô giáo là sự tiếp nối, cách tân và phát triển tư tưởng nhân học xã hội của Cựu ước được thể hiện rõ nhất trong 10 điều răn của Chúa như cơ sở để điều tiết quan hệ liên cá nhân trong cộng đồng theo hệ chuẩn “đối thần – đối nhân”.
Ngoài Mười điều răn, nhân học xã hội Kitô giáo có thể còn chịu ảnh hưởng của triết học Hy La cổ đại.
2.2. Khái quát nội dung triết học của Kinh thánh như cơ sở lý luận của nhân học xã hội Kitô giáo
2.2.1. Tư tưởng “đối nhân và đối thần” – xuất phát điểm để xây dựng nhân học xã hội Kitô giáo
Toàn bộ tư tưởng nhân học xã hội của Kitô giáo được triển khai qua “hệ chuẩn đối thần – đối nhân”. Tư tưởng trung tâm của nó được triển khai qua khái niệm “di huấn”, tức là “lời giao ước” của Thiên Chúa đã ký kết với loài người. Kitô giáo đặc biệt đề cao nhân đức đối thần theo ba chiều cạnh là đức tin, đức cậy và đức mến.
2.2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng nhân học triết học trong Kinh thánh
Kitô giáo là tôn giáo có nội dung đạo đức học yêu thương tha nhân rất đậm nét. Tình yêu Kitô giáo là ân sủng, được phổ biến không những cho những người yêu thương Chúa mà còn cho cả kẻ thù. Chính tình yêu Kitô giáo làm cho con người trở nên hoàn hảo. Kitô giáo đã tiếp thu, chỉnh lý 10 điều răn của Moise trên một tinh thần mới.
2.2.3. Các phương diện nội dung triết học cụ thể của Kinh thánh
Kitô giáo đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy triết học nhờ dựa trên những nội dung triết học cơ bản của Kinh Thánh. Đó là, (1) quan niệm về Chúa như một nhân cách; (2) quan niệm về sáng thế từ hư không; (3) chủ nghĩa con người là trung tâm; (4) các giá trị niềm tin, tình yêu và hy vọng như mở đầu cho một chiều kích mới trong thước đo giá trị nhân văn, trong định hướng giá trị cho con hệ “đối thần – đối nhân”.
Tiểu kết chương 2:
Kinh Thánh bao gồm Cựu ước và Tân ước là một trong những tác phẩm lớn với 73 quyển sách lớn nhỏ, có lịch sử hình thành lâu dài (1000 năm), do nhiều người (hàng trăm tác giả) thuộc nhiều thời đại tham gia. Đó là một tác phẩm nói về khoảng thời gian từ thuở hồng hoang cho tới ngày tận thế xuyên qua lịch sử của dân tộc Do Thái, trải rộng trong không gian, có liên hệ với khu vực địa lý bao trùm vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Địa Trung Hải, Tiểu Á và Italia. Quá trình san dịch, tuyển chọn cũng diễn ra hàng trăm năm và vô cùng phức tạp. Điều đó phần nào nói lên giá trị to lớn của tác phẩm này trên nhiều phương diện, trong đó tư tưởng nhân học xã hội được thể hiện khá rõ nét.
Nội dung xuyên suốt của Kinh thánh là câu chuyện về lịch sử cứu độ với tư tưởng trung tâm là “di huấn” (giao ước) của Chúa với loài người và việc thực hiện di huấn đó.
Chương 3:
NỘI DUNG CỦA NHÂN HỌC XÃ HỘI KITÔ GIÁO
3.1. Khái quát về nhân học xã hội và nhân học xã hội Kitô giáo
3.1.1. Nhân học xã hội: sự hình thành và nội dung đối tượng
3.1.1.1. Sự hình thành nhân học xã hội
Bước ngoạt triệt để quay lại với hệ vấn đề nhân học trong triết học ở thời cận hiện đại gắn liền với tên tuổi Kant (1724-1804). Chính ông đã đưa con người vào triết học với tính cách chủ thể nhận thức trung tâm, qua đó tạo dựng nền tảng của nhân học triết học hiện đại. Triết học Mác có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển tiếp theo của nhân học xã hội vì nó đề cập tới “bản chất tộc loại” của con người.
Một giai đoạn mới của nhân học xã hội hình thành ở cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX (I.Sechenov, I.Pavlov, S.Freud, A.Adler, W.Bechterev), nó tìm kiếm các con đường và các hình thức hình thành loài Homo Sapiens về mặt nhân chủng học và dân tộc học.
3.1.1.2. Nội dung đối tượng của nhân học xã hội
Khái niệm “nhân học xã hội” chỉ có nội dung độc lập và độc đáo khi đi từ con người, tính chủ quan của con người đến các hình thức xã hội khách quan của tồn tại người. Nhân học xã hội là tự nhận thức của con người, không tách rời sự tự đánh giá của họ, không cho phép loại bỏ tính chủ quan của bản thân cách tiếp cận mang tính phản tư.
Nhân học xã hội không chia cắt bản chất của con người và xã hội, tất nhiên cũng không phủ định bản chất xã hội của con người, tính được quy định của nó bởi các quan hệ xã hội. Đồng thời nó cũng không biến con người thành một sự cô đặc giản đơn của các quan hệ xã hội, thành “nguyên tử vô nhân cách và vô cá tính của các quan hệ xã hội. Sự đặc thù của nhân học xã hội là nó xem xét con người trong tính tự trị tương đối của con người. Tự do ý chí của con người, trách nhiệm và năng lực của con người tác động đến diễn biến của các sự kiện trong tự nhiên và xã hội chính là cái biểu thị sự tự trị của con người. Sự tự trị này đặc trưng cho sự hiện diện trong bản tính người một sự “siêu việt hóa” đặc biệt của con người đối với thế giới tự nhiên (các dục vọng) và thế giới văn hóa xã hội, sự tách rời, sự không phụ thuộc vào chúng trong những trường hợp cụ thể.
3.1.2. Nhân học xã hội Kitô giáo
3.1.2.1. Nhân học tôn giáo
Nhân học tôn giáo là các quan niệm về con người trong quan hệ của nó với các thần, với Chúa, với cái thần thánh (đối thần) trong các tôn giáo dân tộc và các tôn giáo thế giới; chúng cũng thường thể hiện là một bộ phận hay một bộ môn của thần học và của triết học tôn giáo, là học thuyết về bản chất, nguồn gốc và sứ mệnh của con người dựa trên các sách thánh và truyền thống lý luận tôn giáo.
3.1.2.2. Nhân học Kitô giáo
Nhân học Kitô giáo là học thuyết về con người. Nó thể hiện dưới hình thức thần học và hình thức chủ nghĩa khắc kỷ. Thần học hóa giải các phương diện bản thể luận của nhân học, ghi nhận mối liên hệ giữa nhân học với bản thể luận, làm sáng tỏ thực chất của tồn tại người và bối cảnh người. Nhân học khắc kỷ thể hiện trên phương diện thực tiễn, nhưng trực tiếp kế tục nhân học Kitô luận, làm sáng tỏ cách thức con người hiện thực hóa mối liên hệ nêu trên.
3.1.2.3. Nhân học xã hội Kitô giáo
Nhân học xã hội Kitô giáo là tổng thể các quan niệm và học thuyết về con người công đồng xuất hiện trong khuôn khổ thần học và triết học Kitô giáo. Theo Augustino, con người thể hiện là một thực thể có được mục đích tồn tại của mình nhờ trực giác Chúa cùng với các phương diện Thống nhất, Hạnh phúc, Chân lý và Đẹp, có can hệ với tính vĩnh hằng và đồng thời cũng được triển khai trong không - thời gian, mang trong mình thời hiện tại đang biến mất, gắn liền với quá khứ và tương lai.
3.2. Các phương diện nội dung cơ bản của nhân học Kitô giáo
Mỗi con người đều tồn tại trên ba chiều cạnh cơ bản là gia đình, tự thân và xã hội, nói cách khác, con người ra đời và hình thành trong hệ thống quan hệ dòng họ, con người tự ý thức, tự nhận thức mình để dần dần có được cá tính và nhân cách riêng, độc đáo của mình (trở thành một nhân vị, một nhân cách, một cá nhân) và, cuối cùng, con người tham gia vào hệ thống quan hệ với những cá nhân khác. Đức Kitô chủ yếu quan tâm tới con người – công đồng với “Tình yêu tha nhân” là gốc. Chính điều này cho thấy định hướng nhân học xã hội chiếm ưu thế của nhân học Kitô giáo.
3.2.1. Địa vị của con người trong xã hội
Theo Kitô giáo, cội nguồn và mục đích hàng đầu của đời sống xã hội là bảo vệ, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người, là giúp đỡ cá nhân thực hiện chính xác những yêu cầu, giá trị của đạo đức và văn hóa đã được Chúa xác lập cho mỗi người và cho toàn thể loài người. “Cá nhân đứng trên xã hội” – luận điểm cấu thành nội dung của chủ nghĩa nhân văn Kitô giáo. Kitô giáo không phủ nhận vai trò của xã hội tác động tới lương tâm, song không phải xã hội tạo nên lương tâm, do vậy những yêu cầu cơ bản phải gắn với những giá trị tôn giáo và văn hóa. Đây cách tiếp cận nhân học văn hóa, vì nó coi con người trước hết và trên hết là một thực thể văn hóa, còn tôn giáo cấu thành hạt nhân của văn hóa, tức cấu thành những giá trị nhân văn cơ bản của nếp sống con người. Như vậy, việc bắt xã hội phục tùng lợi ích của cá nhân thể hiện là việc khẳng định vai trò hàng đầu của tôn giáo trong đời sống xã hội của con người. Do vậy hệ giá trị đạo đức Kitô giáo (10 điều răn) chủ yếu có liên quan đến những giá trị nhân văn mà người Kitô hữu đều phải tuân thủ. Vấn đề quan hệ giữa cá nhân và xã hội chủ yếu được Kinh thánh bàn đến sự công bằng, vừa theo nghĩa phán xét, vừa theo nghĩa đức độ thanh liêm của con người theo mẫu mực là Thiên Chúa
3.2.2. Quan hệ giữa người với người về tài sản
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt của loài người. Lao động, tự nó không phải là hoạt động đạo đức, nhưng thái độ đối với lao động và sản phẩm lao động làm ra, xử sự mối quan hệ với người khác trong lao động là đối tượng của đạo đức nhân học. Mặt khác, chính thông qua lao động, con người hình thành và phát triển các mối quan hệ xã hội. Theo Kinh thánh, lao động nằm trong trật tự sáng tạo của Thiên Chúa, con người phải có bổn phận bắt chước Đấng tạo hóa bằng cách dành sáu ngày trong tuần để lao động. Cựu ước không coi lao động là điều hèn kém, làm hạ phẩm giá con người.
Tân ước quan niệm lao động cách cởi mở hơn về mặt xã hội. Chúa Giêsu coi lao động là một hoạt động tất yếu và là bổn phận chung giữ vị trí quan trọng trong đời sống con người. Mục tiêu của lao động là tạo ra của cải (vật chất và tinh thần) để phục vụ cho cuộc sống con người. Khi nói đến của cải là nói đến quyền sở hữu tài sản, cái gì đó không có chủ sở hữu thì cũng không được gọi là của cải. Sở hữu của cải vật chất không phải là giá trị tự thân, mà chúng dùng để phục vụ cho các nhu cầu của con người. Giáo hội Công giáo dựa vào Kinh Thánh để xây dựng học thuyết xã hội nhằm bảo vệ chế độ tư hữu xem đó như một quyền bất khả xâm phạm Chúa ban tặng cho con người. Song, tư hữu không phải là quyền tuyệt đối và vô hạn mà bị chi phối bởi nhu cầu của cá nhân và cộng đồng. Của cải tạo hóa ban cho con người là để phục vụ cho mọi người chứ không chỉ riêng cho một thiểu số lựa chọn.
3.2.3. Quan hệ giữa người với người về chính trị
Kinh thánh không phủ nhận sự phân cấp xã hội mà nó chỉ kêu gọi mỗi người hãy an bài với thân phận của mình do Chúa đã sắp đặt. Đồng thời kêu gọi giai cấp hãy đối xử tử tế với nhau vì tất cả đều là con Thiên Chúa ở trên trời. Theo Kinh thánh, sự giàu có không chỉ bó hẹp trong phạm vi vật chất mà còn cả ngôn ngữ và tri thức nữa. Cao hơn nữa, sự giàu có mang tính chất tôn giáo. Để giàu có, con người phải có nhân đức siêng năng. Kinh thánh đặc biệt chú ý đến người nghèo khổ, vì đó là những người bị đè nén, mồ côi, quả phụ. Giáo hội Công giáo không phủ nhận sự hiện diện của các giai cấp trong xã hội, thừa nhận cái hố không vượt qua được giữa các giai cấp trong xã hội hiện đại, không thể xóa bỏ được nó. Để đạt tới sự hài hòa xã hội, học thuyết xã hội Công giáo đưa ra hàng loạt biện pháp đạo đức và kinh tế xã hội.
3.2.4. Quan hệ giữa người với người về đạo đức
Quan hệ giữa người với người về mặt đạo đức thể hiện cách toàn diện và sâu sắc nhất trong “Bài giảng trên núi” như văn bản thể hiện rõ nhất sự “cách tân” của Đức Kitô trong vấn đề nhân học xã hội so với Cựu ước, nó quy định toàn bộ nội dung nhân học xã hội Kitô giáo. Việc làm sáng tỏ nội dung của bài giảng này còn góp phần làm rõ những mặt mạnh và những hạn chế của nhân học xã hội Kitô giáo, cũng như ý nghĩa, vị trí của Kinh thánh trong bối cảnh xã hội hiện đại ở nước ta.
Mối phúc thứ nhất “tâm hồn nghèo khó” không phải là yêu cầu sống bần cùng mà chống lại cuộc sống xa hoa phù phiếm, chạy theo những ham muốn dục vọng tầm thường làm suy đồi đạo đức con người, yêu cầu tinh thần cần kiệm, không tham của tha nhân, tập trung toàn bộ nỗ lực vào việc hoàn thiện tinh thần.
Mối phúc thứ hai “hiền lành” khẳng định con người cần phải loại bỏ “ác tâm”, âm mưu hại người và chiếm đoạt của người, không có thói quen quy trách nhiệm cho người khác, phải khiêm nhường, có ngôn ngữ thật thà, ôn hòa, tạo dựng được tình yêu thương đoàn kết, không làm việc ác, không kiêu ngạo, sống tế nhị, dễ tha thứ, giúp đỡ người khác
Mối phúc thứ ba “sầu khổ” là năng lực trải nghiệm trở ngại, đau đớn của tâm hồn để nhẫn nại phấn đấu vượt lên trên chúng đến với chân tâm, đồng cảm với đau khổ của tha nhân, phát huy tinh thần nhân ái.
Mối phúc thứ tư “khát khao công chính” là phải sống nhờ định hướng tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi của mình vào hệ giá trị thiện lành như một cứu cách, thể hiện qua ngôn ngữ hòa khí, yêu thương, tương thân tương ái.
Mối phúc thứ năm “xót thương người” là cần thiết để thể hiện “yêu thương tha nhân”, qua đó có lòng nhân từ, công bằng, độ lượng, quảng đại, hy sinh.
Mối phúc thứ sáu “tâm hồn trong sạch” nhấn mạnh sự thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng.
Mối phúc thứ bảy “hiếu hòa” là “hòa” với bản thân, tha nhân, thiên nhiên và Thiên Chúa.
Mối phúc thứ tám “bị bách hại vì sống công chính” nói lên tinh thần kiên cường bất khuất trong cuộc chiến chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện. Như vậy, quan trọng nhất trong quan điểm nhân học xã hội Kitô giáo là định hướng lối sống của cá nhân vào tha nhân như giá trị tối cao.
Tiểu kết chương 3:
Tư tưởng nhân học xã hội được Kinh thánh đề cập tới rất nhiều khía cạnh khác nhau, như vấn đề vị trí con người trong xã hội, về mối con người giữa con người trong xã hội. Những nội dung tư tưởng ấy bên cạnh những mặt tích cực cần được nghiên cứu kế thừa phát huy để xây dựng xã hội mới, con người hiện nay ở nước ta, song do khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan, nó cũng bộc lộ những mặt hạn chế cần được khắc phục.
Chương 4:
VAI TRÒ CỦA NHÂN HỌC XÃ HỘI KITÔ GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
4.1. Những bài học về định hướng giá trị của nhân học xã hội Kitô giáo đối với người Công giáo Việt Nam
Nhân học xã hội Kitô giáo chứa đựng định hướng giá trị tích cực cho nhân loại. Đó là các bài học hướng thiện, tránh ác, yêu thương tha nhân, yêu thương con người, lòng bác ái, tính vị tha, trung thực, nhân ái. Tình yêu trong Kinh thánh được đề cập đến ở ba bình diện quan hệ con người: với cái cao hơn mình (Thiên Chúa), với cái ngang mình (con người với con người) và với cái thấp hơn mình (thế giới vạn vật). Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm hữu hiệu theo khả năng của mỗi người, không chấp nhận bất cứ điều gì làm phương hại đến danh dự, sự sống của con người. Giá trị này cần được kế thừa, phát huy trong việc xây dựng con người và nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
Bài học khác có giá trị tích cực của Kitô giáo là hướng thiện, bỏ ác. Để đạt mục đích này, con người phải không ngừng tự rèn luyên, tu dưỡng, trải qua thử thách về tự do ý chí trong khu biệt thiện ác. Bất lực, không tự chủ, không chế ngự dục vọng, thì tội lỗi, tật xấu, cái ác xuất hiện và nhân đức sẽ lu mờ, dẫn đến cái ác (kiêu ngạo, hà tiện, dâm ô, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng).
4.2. Những biểu hiện cụ thể vai trò của nhân học xã hội Kitô giáo trong đời sống của người Công giáo Việt Nam
Nội dung nhân văn sâu sắc của nhân học xã hội Kitô giáo thể hiện qua các nội dung cụ thể về vai trò của nó trong nhận thức và hành động của tín đồ trên các phương diện sinh hoạt cơ bản sau: (1) nhận thức và hành động theo nguyên tắc “phẩm giá con người là giá trị tối cao” trong cộng đồng; (2) xây dựng quan hệ giữa người với người về mặt tài sản vì phẩm giá của tha nhân; (3) tổ chức quan hệ giữa người với người về mặt chính trị vì những giá trị nhân văn; (4) tạo dựng quan hệ giữa người với người về mặt đạo đức hướng tới “bác ái”; (5) xây dựng tiếp cận thích hợp với tôn giáo.
Tiểu kết chương 4:
Nhân học xã hội Kitô giáo mang trong mình nhiều giá trị nhân văn sâu sắc, qua đó đã trở thành một trong 3 “đế” (cùng với Apollo và Dionyssos) của văn hóa phương Tây. Nó góp phần tạo dựng “văn hóa tình yêu”, trong đó tình yêu, sự hiệp thông với Chúa và với tha nhân như hiện thân của Chúa trở thành cốt lõi của lẽ sống con người. Sự mở rộng tình yêu từ cái Thiện tối cao (Chúa) qua tộc loại (tha nhân) đến tự nhiên cho thấy bản chất nhân văn sâu xa và sức sống của Kitô giáo trong điều kiện “Linh Vật” đang ngự trị, sự cần thiết phải quay lại với “Linh Đạo”. Đây cũng là tiền đề để tiếp cận với những chân giá trị của các tôn giáo mà định hướng cơ bản là “hướng thiện”, là “Linh Đạo”.
KẾT LUẬN
Nhân học xã hội Kitô giáo kế thừa những giá trị của các nền văn hóa Do Thái giáo, văn hóa Ai Cập cổ, văn hóa Lưỡng Hà cổ, văn hóa Babilon cổ, hợp nhất trong mình các kiểu văn hóa đa dạng (văn hóa du mục, văn hóa nông nghiệp, văn hóa thành bang và văn hóa quân chủ). Chính vì vậy mà nó hàm chứa nhiều giá trị mang tính chất chung nhân loại. Song, thực tế đó không bác bỏ tính chất độc đáo về mặt tư tưởng nhân học xã hội Kitô giáo.
Nhân học xã hội Kitô giáo ra đời trong bối cảnh khủng hoảng của văn hóa Hy Lạp cổ đại, cụ thể là văn hóa đa thần giáo như nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự thiếu vắng một hệ giá trị thống nhất và duy nhất, phản ánh nhân cách toàn vẹn của con người. Tư tưởng cơ bản của nhân học xã hội Kitô giáo xuất phát từ tư tưởng về một Chúa duy nhất biểu thị một hệ thống giá trị nhân văn toàn vẹn, chung đối với loài người. Hệ thống giá trị này phải bao hàm những giá trị biểu thị địa vị đặc biệt của con người trong thế giới: con người không chỉ là “tiểu vũ trụ”, trung tâm của vũ trụ mà còn vượt lên trên, đứng trên vũ trụ, mang trong mình “tính thần thánh”, con người là sinh thể được tạo ra từ hư vô, do vậy, con người có tự do, trước hết là tự do sáng tạo ra bản chất của mình, tức những giá trị nhân văn chỉ vốn có ở con người. Nhưng, con người còn có tính xác thịt, do vậy cần có một hệ thống giá trị lý tưởng, “mẫu lý tưởng” chung để con người hướng tới đó, có được định hướng giá trị cho lối sống của mình. Từ đó, niềm tin vào Chúa (hệ giá trị nhân văn chung nhân loại, đối thần) trở thành yếu tố quan trọng nhất đối với tồn tại người như một tồn tại văn hóa tinh thần. Thực chất của niềm tin này là thái độ đối với hệ giá trị nhân văn mang tên Chúa, do vậy nó cần được bộc lộ ra là tình yêu tha nhân. Đây là mấu chốt của nhân học xã hội Kitô giáo, là cái phân biệt nó với hệ giá trị văn hóa duy lý, chủ trí về đạo đức của người Hy Lạp.
Xuất phát từ những luận điểm nhân học triết học như vậy, Kitô giáo xác lập hàng loạt nguyên tắc ứng xử giữa người với người trong cộng đồng, trong xã hội, tức là xây dựng một nhân học xã hội độc đáo tương ứng.
Xuất phát điểm của nhân học Kitô giáo là quan điểm về cá nhân, địa vị của cá nhân trong xã hội. Cá nhân là tạo phẩm của Chúa, do vậy nó là trung tâm của đời sống xã hội. Xét đến cùng, tất cả mọi hoạt động xã hội đều phải quy chiếu về cá nhân, phát triển nhân cách toàn vẹn của cá nhân như một thực thể văn hóa. Không một lực lượng xã hội nào có thể biến cá nhân thành phương tiện để đạt tới bất kỳ mục đích nào, vì cá nhân là giá trị lớn nhất. Luận điểm này cũng khẳng định vị trí của tôn giáo trong xã hội là hạt nhân của văn hóa nhân văn, vì nó tích tụ trong mình những giá trị quan trọng nhất về nhân tính. Song, điều này cũng dẫn tới lập trường thụ động của tôn giáo trong việc cải biến xã hội và đấu tranh chống lại cái ác.
Tôn trọng nhân cách của mỗi cá thể người cũng quy định quan điểm của Kitô giáo về địa vị ngang nhau của mỗi người trong xã hội, tức là nó định hướng giải pháp cho vấn đề công bằng xã hội. Công bằng xã hội đòi hỏi mỗi người đều phải được đối xử cách công minh, không có phân biệt đối xử. Như vậy, con người trong nhân học xã hội Kitô giáo đã được đặt lên địa vị làm chủ thể và mục đích của mọi hoạt động xã hội. Đây là nội dung nhân văn sâu xa của nhân học xã hội Kitô giáo, khẳng định sự trường tồn của nó, vì quan điểm như vậy cho phép loại bỏ mọi ảo tưởng phản nhân văn (duy khoa học, duy kỹ thuật, kỹ trị, v.v.), bắt buộc mọi định hướng hoạt động của xã hội phải lấy cá nhân làm xuất phát điểm và mục đích tối hậu.
Mặc dù chủ yếu định hướng cá nhân vào những giá trị tinh thần, song Kitô giáo cũng không bỏ qua một vấn đề nhân học xã hội quan trọng khác là vấn đề thái độ đối với tài sản. Nhân học xã hội Kitô giáo chủ yếu quan tâm đến thái độ đối với tài sản do lao động làm ra, xử sự quan hệ với người khác về tài sản như nhân tố góp phần hình thành và phát triển các quan hệ xã hội đích thực có nhân tính, căn cứ trên hệ chuẩn “đối thần quy định đối nhân”. Nhân học xã hội Kitô giáo nhận thấy lao động là nguồn gốc của tài sản, là phương tiện sinh tồn, loại bỏ cảnh nhàn rỗi như nguyên nhân của cái ác, giáo dục thể chất và tạo ra của cải để làm việc thiện. Lao động bắt nguồn từ chính bản chất tương tự với Chúa của con người, do vậy nghiêm cấm việc người này tước đoạt sản phẩm lao động của người khác mà không lao động. Song, cũng không nên bị những giá trị vật chất do lao động tạo ra mà quên mất sứ mệnh tinh thần thiêng liêng của mình. Từ đó, tư hữu được xem là một trong cở sở quan trọng nhất để con người bảo vệ các quyền tự do và các nhân quyền của mình, né tránh cảnh tranh giành tài sản cách bất chính do lạm dụng tư hữu như phương tiện. Nhưng, tài sản dư thừa cũng cần được đem phân chia cho những người nghèo đói, vì xét đến cùng, chúng cũng là tạo phẩm, ân sủng của Chúa. Đây là một luận điểm có ý nghĩa rất quan trọng xét trên phương diện nội dung nhân học xã hội. Vì nó khẳng định vai trò của cá nhân con người trong việc sử dụng sở hữu riêng của mình nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất của bản thân, qua đó góp phần giải phóng khỏi sự lệ thuộc vật chất vào tự nhiên và vào người khác. Nói cách khác, sự lệ thuộc vật chất chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng người áp bức người, do vậy vấn đề sở hữu có liên hệ mật thiết với một trong những nội dung của sự nghiệp giải phóng con người về mặt xã hội.
Quan điểm nhân học xã hội này của Kitô giáo còn phản ánh một trong những giải pháp tối ưu cho vấn đề quan hệ giữa phần xác và phần hồn của con người trong quan hệ với tha nhân. Theo quan điểm nhân học xã hội Kitô giáo, việc bảo vệ chế độ tư hữu còn có ý nghĩa quan trọng vì nó không những xuất phát từ sự thống trị của con người đối với tự nhiên, mà còn gắn liền quyền tư hữu với những chuẩn tắc đạo đức chung nhân loại, như “không ham muốn của người”, “không lấy của người”, “không ăn trộm”, “không tham của trái lẽ”. Chính điều này khẳng định tính chất tự nhiên, hợp pháp của quyền tư hữu.
Nhân học xã hội Kitô giáo quan tâm đặc biệt đến vấn đề “xã hội hóa” như việc tăng cường quan hệ giữa các hình thức sinh hoạt và hoạt động tập thể khác nhau với sự chế định chúng về mặt pháp lý trong cuộc sống cộng đồng của con người, làm gia tăng vai trò của các thể chế nhà nước và các thể chế xã hội khác. Song, luận điểm rất quan trọng ở đây là cảnh báo phương diện nguy hiểm của quá trình này - hạn chế tự do của con người, thậm chí còn biến con người thành những cỗ máy tự động. Luận điểm này trở nên đặc biệt cấp bách trong điều kiện xã hội công nghệ, khi mà con người đã đánh mất các cội nguồn văn hóa tôn giáo của mình, trở thành đám đông bị giới cầm quyền nhào nặn thành những kẻ nô lệ về mặt tinh thần. Nói cách khác, đây chính là quá trình tha hóa tinh thần – một trong những vấn đề trầm trọng nhất của nền văn minh hiện đại.
Cốt lõi của nhân học xã hội Kitô giáo chính là những giá trị đạo đức, văn hóa tinh thần đóng vai trò nền tảng cho lối sống của con người trong cộng đồng, xã hội, định trước vị trí ưu tiên của nhân tính so với xã hội tính. Đó là những giá trị cơ bản được bản thân Đức Kitô giảng trước khi rời thế gian: tính hướng thiện, tránh ác, yêu thương tha nhân, yêu thương con người, lòng bác ái, tính vị tha, trung thực, nhân ái. Những giá trị cơ bản đó của nhân loại đã được nhân học xã hội Kitô giáo tiếp thu, đồng thời thông qua sinh hoạt tôn giáo mà chuyển tải đến với tín đồ và in dấu ấn vào đời sống xã hội ở những nơi Kitô giáo truyền bá đến. Cần phải nhấn mạnh rằng, yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm nhân học xã hội Kitô giáo, yêu tha nhân được coi là một trong hai giới răn quan trọng nhất, vì mọi lề luật của Tân ước đều quy hướng đến mục tiêu mến Chúa và yêu người, qua đó nó định trước sức sống của nó ở mọi thời đại lịch sử, làm cho nó trở nên gần gũi với mọi người thuộc tất cả các nền văn hóa khác nhau.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, trong đó Công giáo là tôn giáo lớn, có số lượng tín đồ đông đảo (khoảng khoảng 6 triệu tín đồ). Tuyệt đại bộ phận tín đồ Công giáo ở nước ta là nhân dân lao động, có lòng yêu nước, cần cù, chăm chỉ trong làm ăn kinh tế và tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, ủng hộ sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực tế hiện nay, đồng bào Công giáo đã và đang tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt hoạt động từ thiện bác ái nhằm hạn chế những tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường. Tại các vùng Công giáo, tình hình chính trị, xã hội ổn định, ít có các tệ nạn xã hội nảy sinh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do đồng bào Công giáo ở nước ta đã biết sống Phúc Âm, đem tinh thần của Phúc Âm vào xây dựng xã hội mới ngày nay./.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Công Oánh (2008), “Kinh thánh và văn hóa hòa bình”, Tạp chí Công tác Tôn giáo (11), tr. 39 - 41.
2. Nguyễn Công Oánh (2011), “Thần học thế kỉ XX: Những cách tiếp cận khác nhau về tồn tại người”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (4), tr. 28 - 34.
3. Nguyễn Công Oánh (2011), “Mối quan hệ giữa tôn giáo và đạo đức từ góc độ giá trị luận”, Một số vấn đề triết học tôn giáo hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo đương đại, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Tôn giáo, Hà Nội, tr. 417 - 427.
4. Nguyễn Công Oánh (2015), “Tôn giáo với những vấn đề của con người và xã hội hiện đại”, Tạp chí Triết học (10), tr. 65 – 70.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_hoc_kito_giao_va_vai_tro_cua_no_trong_doi_song_dao_cua_nguoi_cong_giao_viet_nam_8024.doc