Nhìn chung, sự chuyển hướng chiến lược trong đổi mới kinh tế
cũng như chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa đã có
vai trò lớn giúp nước ta phá thế bao vây cô lập vào cuối thập kỷ 1980 từng
bước tạo dựng vị thế trên trường quốc tế. Đến tháng 3/2017, Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với 187 nước và quan hệ kinh tế, thương mại với 220
nước và vùng lãnh thổ. Nước ta cũng đã ký 12 Hiệp định thương mại tự do
cả đa phương và song phương. là thành viên của nhiều tổ chức đa phương
lớn như APEC, WTO, cũng như đóng vai trò tích cực, chủ động trên
nhiều diễn đàn khu vực, quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa
diễn ra mạnh mẽ dưới trợ lực của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ;
những điều chỉnh chính sách đối ngoại đúng hướng của Đảng ta đã và đang
giúp đất nước hội nhập tích cực, tận dụng được các lợi ích của quá trình
toàn cầu hóa, khu vực hóa phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và đài loan từ cuối thập kỷ 1980 đến nay và tác động đến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Review, No. 
6(140)/2010. 
Tạp chí và sách tiếng Việt 
6. Phí Hồng Minh (2017), “Nan đề Đài Loan của Trung Quốc : Nguồn gốc lịch sử, 
nhân tố Hoa Kỳ và những biến động bên trong Đài Loan”, Tạp chí Nghiên cứu 
Đông Bắc Á, Số 8(198)/2017. 
7. Phí Hồng Minh (2017), “Động thái mới trong tam giác quan hệ Mỹ-Trung-Đài 
và triển vọng trong thời gian tới”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 
7(191)/2017. 
8. Phí Hồng Minh (2017), “Từ chiến lược ‘Con đường tơ lụa mới’ nhìn về sự gia 
tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên khu vực Châu Á-Thái Bình Dương”, Tạp chí 
Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 3(193)/2017. 
9.Phí Hồng Minh (2016), “Từ mô hình ‘đàn nhạn bay’ đến ‘hai bánh xe Đông Á’: 
Thay đổi trong trật tự kinh tế khu vực và hàm ý cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên 
cứu Trung Quốc, Số 9/2016. 
10.Phí Hồng Minh (2016), “Những điều chỉnh mới trong chính sách ngoại giao 
láng giềng của Trung Quốc từ sau Đại hội Đảng lần thứ 18”, Tạp chí Nghiên cứu 
Đông Bắc Á, Số 9(187)/2016. 
11.Phí Hồng Minh (2016), “Sự can dự của Đài Loan vào Tiểu vùng sông Mê 
Kông”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 7(185)/2016. 
12.Phí Hồng Minh (2015), “Chuyển biến quan hệ hai bờ Eo biển Đài Loan dưới 
thời Mã Anh Cửu”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 6(172)/2015. 
13.Phí Hồng Minh (2015), “Khả năng tham gia của Đài Loan trong Hiệp định đối 
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 
4(170)/2015. 
14.Phí Hồng Minh (2015), “TPP hay RCEP: Lựa chọn của các quốc gia, vùng lãnh 
thổ Đông Bắc Á và hàm ý đối với Việt Nam”, Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, Số 
2(203)/2015. 
 15.Thành viên cuốn sách do Dương Minh Tuấn (Cb) (2016),Sự hình thành Hiệp 
định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tác động đối với các nước Đông 
Bắc Á, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 
16. Thành viên cuốn sách do Nguyễn Thị Thắm (Cb) (2015),Sự can dự của các 
nước Đông Bắc Á vào Tiểu vùng sông Mê Kông, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 
17.Thành viên cuốn sách do Hoàng Minh Hằng (Cb) (2015),An ninh Đông Bắc Á 
trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, Nhà 
xuất bản Khoa học xã hội. 
18.Phí Hồng Minh (2014), “Cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc 
trong định hình kiến trúc thể chế kinh tế châu Á-Thái Bình Dương”, Tạp chí 
Nghiên cứu Trung Quốc, Số 12/2014. 
19.Phí Hồng Minh và Lê Minh Đông (2014), “Chính sách ‘láng giềng thứ ba’ của 
Mông Cổ từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 
9(163)/2014. 
20.Phí Hồng Minh (2014), “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Đài Loan”, Tạp chí 
Những vấn đề Kinh tế & Chính trị Thế giới, 6(218)/2014. 
21.Phí Hồng Minh (2014), “Tác động từ sự can dự của Đài Loan vào Tiểu vùng 
sông Mekong”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 7(172)/2014. 
22.Phí Hồng Minh (2014), “Quan hệ kinh tế giữa hai bờ Eo biển Đài Loan từ khi 
Mã Anh Cửu lên nắm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 5(159)/2014. 
23.Phí Hồng Minh và Nguyễn Cao Đức (2013) “Cơ chế Thầu phụ trong Phát triển 
Công nghiệp Hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan”, Tạp chí Các vấn đề Kinh 
tế và Chính trị Thế giới, Số 8(208)/2013. 
24. Phí Hồng Minh (2013), “Mối quan hệ giữa Mông Cổ và Đài Loan từ sau Chiến 
tranh Thế giới thứ hai”, Tc Nghiên cứu Đông Bắc Á, 7(149). 
25.Phí Hồng Minh (2013), “Chiến lược FTA của Đài Loan trong bối cảnh hội nhập 
kinh tế khu vực Đông Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 1(143)/2013 và 
2(144)/2013. 
26.Thành viên cuốn sách do Phạm Quý Long (Chủ biên) (2013),Đối sách của một 
số quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về sự thay đổi mô hình tăng trưởng và 
thúc đẩy hội nhập trong giai đoạn 2011-2020, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 
1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Là một điểm nóng trên khu vực Đông Á, quan hệ giữa Trung Quốc đại 
lục và Đài Loan (hay quan hệ Hai bờ) đã trải qua nhiều thăng trầm từ xung 
đột, ngăn trở cho đến cởi mở từ từ, ấm lên từ 2008, rồi đột ngột đảo chiều 
căng thẳng từ giữa 2016. Tuy nhiên, khác với tình trạng căng thẳng quân sự 
leo thang giữa hai miền Triều Tiên, quan hệ Hai bờ duy trì trạng thái quan hệ 
kinh tế hội nhập sâu rộng đối lập với tương quan chính trị thăng giáng bất 
ngờ. Trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy và hành xử ngày một quyết đoán 
hơn, những diễn biến kinh tế-chính trị trên Eo biển Đài Loan đều được các 
nước trong khu vực và thế giới theo dõi sát sao. Bởi lẽ cả Trung Quốc và Đài 
Loan đều là hai chủ thể kinh tế chính trị lớn với tỷ trọng đáng kể trong dòng 
thương mại, đầu tư và công nghệ ở khu vực Đông Á, nhất là thương mại và 
đầu tư vào khu vực Đông Nam Á. Do đó, bất kỳ chuyển biến nào trong quan 
hệ Hai bờ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh chính trị mà còn có 
những tác động lớn về kinh tế, thương mại, đầu tư trong khu vực. Việc hai 
bên có quan hệ nồng ấm thời kỳ 2008-2016 với hàng loạt các hiệp định quan 
trọng đã có tác động thúc đẩy mạnh các hoạt động trao đổi thương mại, đầu 
tư, tài chính ngân hàng và du lịch giữa hai nền kinh tế. Tuy nhiên, những 
căng thẳng Hai bờ hiện tại lại tiềm ẩn những tác động tiêu cực tới các dòng 
lưu chuyển trên toàn khu vực. Từ sau 2012, sự kế tục thế hệ lãnh đạo thứ năm 
của Trung Quốc với vai trò hạt nhân của Chủ tịch Tập Cận Bình đang đẩy 
nhanh nhiều đại chương trình nhằm điều chỉnh chiến lược và chuyển đổi 
phương thức phát triển của Trung Quốc. Đối với Đài Loan, Trung Quốc đã sử 
dụng các công cụ kinh tế hết sức linh hoạt để vừa lôi kéo vừa đe dọa nhằm 
từng bước thu phục hòn đảo phục vụ mục tiêu thống nhất lâu dài. Vì vậy, việc 
nghiên cứu quan hệ kinh tế Hai bờ có ý nghĩa quan trọng không chỉ giúp hiểu 
2 
sâu hơn một điểm nóng khu vực mà còn góp phần hiểu rõ hơn cách thức ứng 
xử của Trung Quốc trong trường hợp cụ thể là vùng lãnh thổ Đài Loan. 
Đối với Việt Nam, cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan đều là những 
đối tác thương mại, đầu tư và du lịch hết sức quan trọng. Theo số liệu của 
Tổng cục Thống kê, năm 2014, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất 
của nước ta (là thị trường nhập khẩu lớn nhất và thị trường xuất khẩu lớn thứ 
4 của Việt Nam). Trung Quốc còn là nhà đầu tư lớn thứ 9 vào Việt Nam với 
tổng vốn đăng ký là 253,6 triệu USD. Tương tự, Đài Loan cũng là một trong 
5 đối tác đầu tư lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, 
tổng vốn đăng ký lũy kế các dự án đầu tư còn hiệu lực đến ngày 31/12/2013 
của Đài Loan ở Việt Nam là khoảng 28,02 tỷ USD giai đoạn 1988-2013, 
đứng vị trí thứ 4 sau Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc. Đài Loan cũng là đối 
tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam năm 2014 với kim ngạch thương mại 
đạt 13,391 tỷ USD. Do vậy, những động thái thay đổi bên trong Trung Quốc 
đại lục và bên trong Đài Loan cũng như những biến động trong quan hệ kinh 
tế Eo biển sẽ ảnh hưởng cả trực tiếp lẫn gián tiếp tới nền kinh tế Việt Nam. 
Mặc dù mối quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan có tầm quan 
trọng to lớn như là một điểm nóng an ninh và trụ cột kinh tế ở khu vực châu 
Á-Thái Bình Dương cũng như tiềm năng tác động đến nền kinh tế Việt Nam, 
song hiện tại chưa có nghiên cứu trong nước và quốc tế nào phân tích một 
cách toàn diện và hệ thống tới mối quan hệ kinh tế này và tác động của nó tới 
kinh tế Việt Nam. Đây chính là lý do tác giả quyết định lựa chọn chủ đề 
nghiên cứu: “Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan từ 
cuối thập kỷ 1980 đến nay và tác động đến Việt Nam”. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
+ Mục đích của nghiên cứu:nhằm hiểu rõ thực trạng mối quan hệ kinh 
tế bất đối xứng giữa Trung Quốc đại lục và vùng lãnh thổ Đài Loan, từ đó chỉ 
ra tác động của mối quan hệ kinh tế Hai bờ đến sự phát triển kinh tế của Việt 
Nam, và đưa ra một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam. 
3 
+ Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm: (i) Hệ thống hóa cơ sở lý luận và 
thực tiễn về quan hệ kinh tế bất đối xứng giữa Trung Quốc đại lục và Đài 
Loan và khả năng tác động tới nước thứ ba; (ii) Phân tích thực trạng quan hệ 
thương mại, đầu tư giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan từ cuối thập kỷ 
1980 đến nay;(iii) Chỉ ra các nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới mối quan 
hệ kinh tế bất đối xứng giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan từ cuối thập 
kỷ 1980 đến nay;(iv) Phân tích tác động của mối quan hệ kinh tế bất đối 
xứng giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan đối với nền kinh tế Việt Nam; 
và (v) Đề xuất một số giải pháp giúp Việt Nam tận dụng tối đa những cơ 
hội mới và khắc phục hiệu quả các thách thức mới từ biến động trong quan 
hệ kinh tế Trung Quốc - Đài Loan đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 
 a. Đối tượng nghiên cứu:là quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục 
và vùng lãnh thổ Đài Loan, và những tác động đến kinh tế Việt Nam. 
 b. Phạm vi nghiên cứu 
 Về nội dung: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu quan hệ kinh tế trên 
phương diện thương mại và đầu tư giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan, có 
kết hợp đánh giá tác động tới Việt Nam.Về không gian: Luận án chỉ tập trung 
nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan trên phạm 
vi cả nền kinh tế Trung Quốc đại lục, lãnh thổ Đài Loan, vàkênh tác động 
kinh tế đến Việt Nam.Về thời gian:Luận án nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa 
Trung Quốc và Đài Loan từ khi bắt đầu manh nha vào thập kỷ 1980, có tập 
trung vào giai đoạn từ 1991 đến nay khi quan hệ kinh tế Hai bờ đã ổn định 
và có đầy đủ dữ liệu. Luận án sử dụng các cứ liệu và số liệu thứ cấp giai 
đoạn 1990-2015 để thực hiện mô hình phân tích, đánh giá định lượng tác 
động của quan hệ kinh tế Trung-Đài đến kinh tế Việt Nam qua kênh 
thương mại và đầu tư. Thời hạn của các dự đoán về quan hệ kinh tế Trung 
Quốc-Đài Loan cùng với các cơ hội, thách thức đối với Việt Nam để đưa 
ra hàm ý chính sách cho Việt Nam là trong giai đoạn tới năm 2020. 
4 
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án 
Về phương pháp luận, luận án sẽ sử dụng phương pháp duy vật biện 
chứng và duy vật lịch sử, chú trọng kết hợp các cách tiếp cận trong kinh tế 
chính trị quốc tế và kinh tế quốc tế để phân tích ở cấp độ nhà nước trên các 
tương tác kinh tế giữa các nhà nước trong hệ thống quốc tế và ở cấp độ thị 
trường là thực tế diễn biến hoạt động kinh tế dưới sự tương tác của các lực 
lượng thị trường. Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp cả 
phương pháp phân tích định tính (là chủ yếu) và phân tích định lượng dựa trên 
cách tiếp cận liên ngành, chú trọng các phương pháp trong kinh tế chính trị 
quốc tế và kinh tế quốc tế. Phương pháp định tính sẽ bao gồm: phương pháp 
logic kết hợp với lịch sử trong phân tích quan hệ kinh tế theo dòng lịch sử trong 
khoảng thời gian dài, có kết hợp phương pháp thống kê mô tả, phương pháp 
phân tích tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp so sánh nhằm 
giúp mô tả rõ thực trạng quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài 
Loan từ cuối thập kỷ 1980 đến nay cũng như xác định những nhân tố chủ 
yếu có ảnh hưởng quyết định tới mối quan hệ kinh tế này, và chỉ rõ các 
kênh tác động của mối quan hệ kinh tế Hai bờ tới nền kinh tế Việt Nam. 
Trong phương pháp định lượng, tác giả sẽ áp dụng kỹ thuật đồng 
tích hợp và ước lượng mô hình VECM để kiểm định chiều tác động và mức 
độ ảnh hưởng của mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài 
Loan tới nền kinh tế Việt Nam. Luận án sẽ sử dụng cơ sở dữ liệu thứ cấp kể 
từ cuối thập kỷ 1980 đến nay (có tập trung vào giai đoạn 1990 - 2015) và 
được thu thập chủ yếu từ các nguồn thống kê chính thống của Tổng cục 
Thống kê nhà nước Trung Quốc (NBS) cũng như của Đài Loan (DGBAS), 
Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO), và Cơ sở Thống kê dữ liệu thương mại 
hàng hóa của Liên hợp quốc (UN COMTRADE), Ngân hàng Thế giới (WB), 
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Cơ sở dữ liệu thứ cấp từ năm 1990 đến 2015 về 
mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan sẽ được hệ thống 
hóa trên phần mềm thống kê kinh tế lượng Eviews và SPSS. 
5 
5. Những đóng góp khoa học của luận án 
Thứ nhất,hệ thống hóa có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về mối 
quan hệ kinh tế bất đối xứng giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan cũng như 
khả năng tác động đến một chủ thể thứ ba là Việt Nam.Thứ hai, xây dựng 
khung phân tích về quan hệ kinh tế bất đối xứng giữa Trung Quốc đại lục và 
Đài Loan có liên hệ tác động đến Việt Nam. Thứ ba,nêu lên được những dịch 
chuyển trong quan hệ kinh tế bất đối xứng (trên phương diện thương mại và 
đầu tư) giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan từ cuối thập kỷ 1980 đến nay có 
liên hệ với khung nền kinh tế chung của khu vực và tác động từ nhân tố Mỹ, 
và đưa ra đánh giá triển vọng quan hệ kinh tế giữa Hai bờ đến 2020.Thứ tư, 
sử dụng mô hình kiểm định tác động quan hệ kinh tế Trung-Đài tới Việt Nam 
với kết quả: quan hệ Hai bờ nồng ấm tác động tích cực tới cán cân thương 
mại và thu hút FDI của Việt Nam; đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc tác 
động thuận chiều không gây hiệu ứng lấn át tới đầu tư của Đài Loan vào Việt 
Nam.Thứ năm,khuyến nghị chính sách nhằm giúp Việt Nam tận dụng tối đa 
những cơ hội mới để phát triển và khắc phục hiệu quả những thách thức mới 
bắt nguồn từ mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan. 
6. Kết cấu luận án 
 Luận án gồm có 4 chươngngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo và 
Phụ lục.Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu quan hệ kinh tế Trung-
Đài. Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ kinh tế Trung-Đài và 
tác động đến nền kinh tế thứ 3. Chương 3: Thực trạng quan hệ kinh tế Trung 
–Đàikể từ cuối thập kỷ 1980 đến nay. Chương 4: Tác động của quan hệ kinh 
tế Trung-Đài đến kinh tế Việt Nam. Cuối cùng là Kết luận và Kiến nghị. 
Chương 1 
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên Thế giớivà Việt Nam 
6 
Các nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa Trung Quốc đại 
lục và Đài Loan hết sức phong phú trên cả phương diện kinh tế, chính trị và 
đặc biệt là khía cạnh an ninh. Điều này xuất phát từ các chủ thể có liên quan 
trên khu vực này đều vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế-chính trị 
toàn cầu, đó là yếu tố Trung Quốc đang trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ, nhân 
tố Đài Loan chịu vòng kim cô về chính trị nhưng phát triển về kinh tế, và 
một vai trò trung gian của Hoa Kỳ trong đảm bảo an ninh cân bằng trên 
điểm nóng này. Về cơ bản, mặc dù khác nhau về quy mô, phạm vi nghiên 
cứu cũng như cách tiếp cận, song các nhiên cứu trong và ngoài nước đều 
khá nhất quán trên những điểm sau: Thứ nhất, cùng với sự trỗi dậy của 
Trung Quốc và gia tăng bản sắc riêng của Đài Loan, Eo biển Đài Loan vẫn 
tiếp tục là một điểm nóng thường trực nguy cơ mất an ninh trên khu vực 
châu Á-Thái Bình Dương. Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm trên, sự can dự 
của Hoa Kỳ vẫn hết sức cần thiết nhằm đảm bảo an ninh, ổn định và hòa 
bình trong khu vực. Thứ ba, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc đang làm 
thay đổi quan hệ kinh tế hai bờ với sự phụ thuộc hơn của Đài Loan và nguy 
cơ an ninh kinh tế của hòn đảo trước sự nâng cấp công nghiệp nhanh chóng 
của các công ty Trung Quốc. Thứ tư, nhằm ứng phó với một Trung Quốc 
đang gia tăng quyền lực và tiếp tục củng cố quan hệ với Đài Loan, các quốc 
gia trong khu vực cũng như trên thế giới đều hết sức thận trọng lựa chiều 
thái độ Bắc Kinh. Thứ năm, Việt Nam duy trì một mối quan hệ gắn bó về 
chính trị sâu sắc về kinh tế với Trung Quốc đồng thời với giao lưu kinh tế 
ngày càng đa dạng, mở rộng với Đài Loan trong khi gắn liền với nguyên tắc 
“một Trung Quốc”. 
Nhìn chung, các công trình quốc tế đã cung cấp bức tranh khá đa 
dạng, hoàn chỉnh về các quan hệ xung quanh Eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, 
các nghiên cứu thường xoáy theo các trọng điểm nhất định như an ninh trên 
Eo biển, hợp tác kinh tế trong từng lĩnh vực cụ thể hay trong một giai đoạn 
nhất định. Ngoài ra, nhiều học giả đã chỉ ra đặc trưng kinh tế bất đối xứng 
7 
và tính dễ tổn thương của Đài Loan, song các nghiên cứu phân tích những 
dịch chuyển cụ thể trong quan hệ kinh tế bất đối xứng hai bờ trong một giai 
đoạn nghiên cứu dài và cập nhật lại chưa có. Thêm nữa, nghiên cứu về tác 
động của mối quan hệ kinh tế giữa hai bờ Eo bờ đến kinh tế khu vực lại 
không đáng kể, và chưa hề có một nghiên cứu quốc tế nào đề cập tới tác 
động của quan hệ kinh tế Hai bờ đến Việt Nam. Trong khi đó, các công 
trình trong nước khá tập trung vào mối quan hệ Việt-Trung và có quan tâm 
tới các quan hệ giao lưu kinh tế Việt-Đài. Tuy nhiên, các nghiên cứu về 
quan hệ Hai bờ trong nước lại khá mỏng, chưa thực sự được chú trọng, nhất 
là trên khía cạnh kinh tế. Đặc biệt, cho đến nay vẫn chưa hề có công trình 
công phu nào nghiên cứu một cách toàn diện về quan hệ kinh tế Hai bờ và 
tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam. 
1.2. Những vấn đề đặt ra đối với Luận án 
Tiếp tục kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có trong nước và quốc tế 
xung quanh ba chủ thể Trung Quốc – Đài Loan – Việt Nam, luân án sẽ tập 
trung giải quyết những nội dung sau: (i) Hệ thống hóa có chọn lọc lý luận 
về các mối quan hệ bất đối xứng cùng những hệ quả kinh tế chính trị của nó 
từ đó xây dựng được khung phân tích của mối quan hệ kinh tế Trung-Đài và 
tác động tới kinh tế Việt Nam; (ii) Hệ thống lại và phân tích các cứ liệu, dữ 
liệu thứ cấp để nêu lên được những dịch chuyển trong mối quan hệ kinh tế 
hai bờ từ cuối thập kỷ 1980 đã diễn ra như thế nào, tính bất đối xứng dịch 
chuyển ra sao; (iii) Sử dụng các công cụ lý thuyết và mô hình để đánh giá 
các kênh và chiều tác động của quan hệ kinh tế hai bờ tới kinh tế Việt Nam; 
và (iv) Trên tiền đề Việt Nam là một quốc gia tầm trung và có mối quan hệ 
gắn bó chính trị-kinh tế với Trung Quốc và trên cơ sở các kết quả phân tích 
ở trên, cần dưa ra được những hàm ý chính sách cho Việt Nam trước bối 
cảnh vận động đầy bất ngờ của quan hệ hai bờ Eo biển Đài Loan. 
Chương 2 
8 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ 
GIỮATRUNG QUỐC ĐẠI LỤC VÀ ĐÀI LOAN 
2.1. Cơ sở lý luận 
Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Đài Loan là một mối quan hệ 
đặc biệt giữa hai thực thể bị chia cắt trên một điểm nóng quan trọng ở Đông 
Bắc Á. Mối quan hệ này mặc dù vẫn vận động theo quy luật kinh tế thông 
thường, song lại thể hiện một sự tương tác qua lại rất mạnh giữa chính trị và 
kinh tế, giữa chủ thể nhà nước và lực lượng thị trường. Những tương tác 
này đã tạo thành bức tranh hai mảng đối lập trong quan hệ Hai bờ: hội nhập 
kinh tế sâu rộng trong khi vẫn duy trì tình trạng chính trị căng thẳng tiềm ẩn 
xung đột. Vì vậy, luận án sẽ phân tích cơ sở lý luận của quan hệ kinh tế Hai 
bờ theo 2 cấp độ chính. Cấp độ thứ nhất chủ yếu dựa trên cách tiếp cận và 
phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế (IPE), là các lý luận nhằm 
luận giải các tương tác kinh tế chính trị giữa chính phủ Trung Quốc và 
chính quyền Đài Loan đối với quan hệ kinh tế Hai bờ. Trên nền tảng bất đối 
xứng về chính trị-kinh tế, mỗi bên đều có những định hướng nhằm điều 
chỉnh hiện trạng quan hệ kinh tế đi theo mục tiêu của riêng mình trong bối 
cảnh kinh tế quốc tế chung. Những tương tác này sẽ có những tác động nhất 
định, với mức độ và cường độ khác nhau đến quan hệ kinh tế Hai bờ. Cấp 
độ thứ hai nhằm phân tích các tương tác kinh tế thuần túy giữa các lực 
lượng thị trường. Cấp độ này dựa trên các cách tiếp cận, lý thuyết, phương 
pháp nghiên cứu kinh tế quốc tế (IE) nhằm thiết lập cơ sở lý giải chủ yếu 
các động thái đã và đang diễn ra trong quan hệ kinh tế Hai bờ. Xuất phát từ 
phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ chỉ điểm các cụm lý thuyết chủ yếu có ứng 
dụng trực tiếp trong quá trình phân tích thực trạng kinh tế ở các phần sau. 
Thêm nữa, dù có nhiều lý thuyết cả về thương mại quốc tế và đầu tư quốc 
tế, song chúng có sự đan xen, tương liên với nhau. Các lý luận về thương 
mại quốc tế như lợi thế so sánh, thuyết thương mại mới, địa lý kinh tế mới 
cũng lý giải một số đặc trưng đầu tư như đầu tư theo chiều dọc chủ yếu dựa 
9 
trên khác biệt về lợi thế so sánh, sự tích tụ tập trung đầu tư vào các cụm 
công nghiệp chủ yếu nhằm có được lợi tức tăng dần theo quy mô. Các lý 
thuyết thương mại quốc tế không đơn thuần lý giải các hoạt động thương 
mại mà nó còn là cơ sở giải thích cho sự phân bố sản xuất trên toàn cầu. 
Vì vậy, các cụm lý thuyết chính yếu gồm:(i) Lý luận về sự bất đối 
xứng và tương tác kinh tế chính trị giữa các chủ thể nhà nước bao gồm: 
Chính trị của sự bất đối xứng, Nền tảng kinh tế của sự bất đối xứng, Tương 
thuộc bất đối xứng và quyền lực, Tương tác hai cấp độ giữa nhà nước và thị 
trường.(ii)Nền tảng lý luận về hoạt động sản xuất-thương mại xuyên quốc 
gia bao gồm: Thương mại dựa trên lợi thế so sánh, Thương mại dựa trên lợi 
thế kinh tế nhờ quy mô, Lý thuyết cạnh tranh quốc gia, Mô hình lực hấp 
dẫn trong thương mạivà đầu tư quốc tế. (iii) Thuyết hội nhập kinh tế và hội 
nhập giữa các nền kinh tế bất đối xứng.(iv) Đặc trưng cơ bản của cấu trúc 
sản xuất hiện đại bao gồm: Phân đoạn sản xuất và sự hình thành mạng sản 
xuất toàn cầu, Lý luận “đàn nhạn bay” và cấu trúc thương mại-đầu tư ở 
châu Á. (v)Khả năng tác động của mối quan hệ kinh tế tới chủ thể thứ ba: 
Trên cách tiếp cận kinh tế chính trị quốc tế và kinh tế quốc tế. 
2.2. Cơ sở thực tiễn 
Lịch sử Vấn đề Đài Loan và quan điểm các bên liên quan:Theo 
nhiều học giả Đài Loan và quốc tế, quan hệ Hai bờ cần được nhìn nhận từ 
tam giác quan hệ Mỹ-Trung-Đài, xuất phát từ lịch sử đặc biệt và vai trò của 
Hoa Kỳ trên Eo biển. Hua Shiping cũng cho thấy những diễn biến của quan 
hệ Hai bờ trong những thập kỷ vừa qua chịu ảnh hưởng lớn bởi ba nhân tố 
chủ yếu là: (1) quan điểm, chính sách của Bắc Kinh đối với Đài Loan, (2) 
chính sách Hai bờ của Washington, và (3) chính trị nội bộ của Đài Loan. Vì 
vậy, phần này sẽ phân tích “vấn đề Đài Loan” trên góc độ lịch sử và quan 
điểm của các bên có liên quan nhằm làm rõ đặc tính quan hệ giữa hai thực 
thể bị chia cắt trên Eo biển Đài Loan và vị thế “vùng lãnh thổ” Đài Loan. 
10 
Dựa trên phân tích tổng quan mang tính hệ thống hóa về cơ sở lý 
luận và cơ sở thực tiễn về quan hệ kinh tế, chương này đã làm rõ một số vấn 
đề chính sau đây: Một là, về mặt cơ sở lý luận, chương này đã phân tích các 
vấn đề lý luận cơ bản nhất trong tương tác kinh tế chính trị giữa các nhà 
nước (cả chính thức–de jure và trên thực tế-de facto), đặc biệt là cách thức 
các nhà nước tương tác với nhau, chi phối nhau thông qua các công cụ kinh 
tế để đạt được mục tiêu đối ngoại của mình. Hai là, việc hệ thống hóa khoa 
học các lý thuyết chính về kinh tế quốc tế nói chung cũng như thương mại 
và đầu tư nói riêng đã giúp cung cấp luận cứ khoa học cần thiết để nghiên 
cứu rõ bản chất và giải quyết quan hệ kinh tế giữa chủ thể Trung Quốc và 
Đài Loan trong một cấu trúc kinh tế quốc tế đầy khăng khít với nhau. Ba là, 
những phân tích về bối cảnh quốc tế, quan hệ chính trị và sự bổ sung về 
kinh tế, văn hóa đã cho thấy những yếu tố quốc tế và bên trong đã góp phần 
dịch chuyển tương quan kinh tế-chính trị giữa hai bờ Eo biển Đài Loan và 
định hình sự phát triển quan hệ kinh tế Hai bờ, góp phần vào sự trỗi dậy của 
Trung Quốc. Bốn là, việc phân tích lịch sử vấn đề Đài Loan và các quan 
điểm cốt lõi của ba chủ thể chính yếu (Trung Quốc, Mỹ, và Đài Loan) đã 
tạo nên bức tranh quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan đặc trưng, 
đồng thời tiềm ẩn những yếu tố bất ổn trong quan hệ Trung-Đài và tam giác 
lớn Mỹ-Trung-Đài cả hiện tại và tương lai. Các tương tác này đã tạo nên sự 
đặc thù riêng có trong quan hệ kinh tế (chủ yếu là thương mại và đầu tư) 
cũng như quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và Đài Loan. 
Chương 3 
THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA TRUNG QUỐC ĐẠI 
LỤC VÀ ĐÀI LOAN TỪ CUỐI THẬP KỶ 1980 
3.1. Chính sách của Trung Quốc và Đài Loan với quan hệ Hai bờ 
11 
a. Chính sách của Trung Quốc 
Tư tưởng đối với vấn đề Đài Loan của Trung Quốc đã có những 
chuyển biến lớn từ giữa thập kỷ 1970 song song với quá trình thai nghén và 
bắt đầu công cuộc “mở cửa”. Trung Quốc đã thực hiện nhiều cải cách kinh 
tế chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đồng thời ông Đặng Tiểu Bình cũng 
thay đổi quan điểm then chốt trong giải quyết vấn đề Đài Loan, chuyển từ 
“giải phóng bằng vũ lực” sang phương châm mới “thống nhất hòa 
bình”.Quan điểm chủ đạo được thể hiện trong “Thông điệp gửi tới Đồng 
bào ở Đài Loan” của ông nhân ngày đầu năm mới năm 1979 và Đề xuất 9 
điểm của tướng Diệp Kiếm Anh về giải quyết vấn đề Đài Loan tháng 
9/1981, với nội dung kêu gọi đối thoại, hợp tác, nối lại các liên kết kinh tế, 
cũng như đề xuất thống nhất dân tộc theo mô hình “một nước, hai chế độ”. 
Trọng tâm là việc chuyển sang sử dụng chính sách can dự kinh tế, thúc đẩy 
mở rộng các mối liên kết kinh tế với Đài Loan để thay đổi hành vi của đối 
thủ, cải thiện quan hệ hai bên và thu được các lợi ích chính trị của mình. 
Những tiền đề này đã tạo nền tảng mới cho sự phát triển quan hệ kinh tế 
giữa Hai bờ, đưa các trao đổi kinh tế vốn bị cấm hoặc thực hiện ngầm dần 
được công nhận và đẩy mạnh. Bên cạnh việc sử dụng chính sách “củ cà 
rốt”, Bắc Kinh cũng rất cứng rắn với chính sách “cây gậy” gắn liền với 
nguyên tắc “một Trung Quốc” nhằm cô lập Đài Loan đồng thời ngăn chặn 
bất kỳ nỗ lực nào cổ xúy “Đài Loan độc lập” (Đài độc) hay dẫn tới sự hình 
thành “hai Trung Quốc” hay “một Trung Quốc, một Đài Loan”. Phương 
châm này được áp dụng xuyên suốt từ thời Đặng Tiểu Bình, đến Giang 
Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và cả Tập Cận Bình hiện nay. Trong chính sách 
với Đài Loan, Trung Quốc thực hiện chiến lược ba hướng song song: 
“phong tỏa Đài Loan về ngoại giao, ngăn chặn Đài Loan về quân sự, và lôi 
kéo Đài Loan về kinh tế”. 
12 
b. Chính sách của Đài Loan 
Sau những cú sốc ngoại giao kể từ khi Tổng thống Mỹ R. Nixon 
bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh, Tưởng Kinh Quốc chỉ đáp lại với 
chính sách “Ba không” – không tiếp xúc, không thương lượng, không thỏa 
hiệp. Đến năm 1985, đứng trước hoạt động xuất khẩu ngầm vào Trung 
Quốc dần tăng nhanh, Đài Loan từng bước cho phép hoạt động xuất khẩu 
gián tiếp đi qua các điểm trung chuyển như Hong Kong và thể hiện quan 
điểm không tiếp xúc, không khuyến khích, nhưng cũng không can thiệp. 
Chính quyền Lý Đăng Huy liên tiếp ban hành chính sách “hướng Nam” với 
định hướng mở rộng quan hệ với các nước phía Nam năm 1993, rồi tới 
chính sách “không vội vàng, hãy bình tĩnh” năm 1996. Năm 2000 ông Trần 
Thủy Biển thắng cử và đã xúc tiến chính sách “mở cửa tích cực, quản lý 
hiệu quả” ban hành vào cuối 2001. Đến thời kỳ Mã Anh Cửu, chính sách 
thân thiện Bắc Kinh đã giúp hai bờ mở lại các kênh đối thoại, đạt được hai 
đồng thuận và ký được 23 hiệp định hợp tác mang tính thể chế hóa quan hệ 
kinh tế Hai bờ, đáng chú ý nhất là ECFA ký kết vào tháng 6/2010. Với hoạt 
động thương mại Hai bờ, Đài Loan đơn phương áp đặt một số hàng rào phi 
thuế nhằm quản lý, kiểm soát và hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc. Năm 
1993, Đài Loan xây dựng một hệ thống quy định về quan hệ thương mại với 
Đại lục cho phép xuất khẩu gần như không bị hạn chế ngoại trừ một số mặt 
hàng nhạy cảm có khả năng đe dọa an ninh đối với đảo Đài Loan. Còn hoạt 
động nhập khẩu từ Trung Quốc tới Đài Loan lại bị giới hạn trong 13 danh 
mục chủ yếu là hàng hóa trung gian và các mặt hàng văn hóa nghệ thuật ít 
có khả năng đe dọa an ninh và kinh tế Đài Loan. Sau đó, “danh sách cho 
phép” này được chuyển sang “danh sách cấm” chỉ liệt kê các danh mục 
không được phép nhập vào năm 1996. Tháng 4/1998 thì chính quyền Đài 
Bắc thông qua “Danh sách phân loại hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu của 
Trung Hoa dân Quốc (ROC - Đài Loan)” và “Danh sách các hạng mục 
13 
nhập khẩu có điều kiện” xây dựng trên các nguyên tắc về “an ninh quốc 
gia” và không gây hệ quả tiêu cực lớn tới các ngành nội địa có liên quan. 
c. Khuôn khổ thể chế cho quan hệ kinh tế Hai bờ 
Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan không mang 
tính chất của một mối quan hệ song phương giữa hai quốc gia mà là quan 
hệ giữa chủ thể Trung Quốc với đầy đủ vị thế pháp lý với Đài Loan như 
một vùng lãnh thổ bị chia cắt khỏi Trung Quốc. Thời kỳ Lý Đăng Huy lãnh 
đạo đảo Đài Loan, hai bên đã thiết lập hai cơ quan bán chính thức có nhiệm 
vụ bàn bạc, trao đổi, quản lý các vấn đề đề kinh tế là Quỹ trao đổi Hai bờ eo 
biển (SEF) của Đài Loan thành lập tháng 2/1991 và Hiệp hội Quan hệ Hai 
bờ Eo biển Đài Loan (ARATS) của Đại lục thành lập ngay sau đó vào tháng 
12/1991. Đầu thập kỷ 1990, SEF và ARATS đã tổ chức được một vài cuộc 
gặp gỡ và hai bên đạt được một đồng thuận chung về việc cùng thừa nhận 
chỉ có một Trung Quốc, và cả Trung Quốc và Đài Loan đều cùng thuộc về 
thực thể Trung Quốc này trong cuộc gặp tại Singapore năm 1992. Nhìn 
chung, các chính sách của Trung Quốc nhằm đẩy mạnh giao lưu, giao 
thương kinh tế với Đài Loan có tính chất như những nỗ lực đơn phương mở 
cửa, thúc đẩy tự do hóa kinh tế. Trong khi đó, phía Đài Loan ở vị thế ứng 
phó bị động trước sức hút kinh tế mạnh mẽ của thị trường Hoa lục. Sự mở 
rộng tự do hóa của Trung Quốc và tình trạng cô lập của Đài Loan cũng biến 
Trung Quốc trở thành trục chính kết nối (hub) và Đài Loan như một nan 
hoa nhỏ bị cô lập (spoke). Do đó, việc Bắc Kinh thực thi chính sách bằng 
mọi giá thúc đẩy gắn kết kinh tế và cô lập chính trị, ngăn cản Đài Loan mở 
rộng không gian kinh tế đã khiến Đài Loan chỉ còn một kênh là xúc tiến các 
kết nối kinh tế với Đại lục để tránh những tổn hại lợi ích khi bị đứng ngoài 
tất cả các xu hướng hình thành các thỏa thuận thương mại cả song phương, 
khu vực và đa phương. Ở vị thế yếu hơn, Đài Loan phải tiếp tục hội nhập 
sâu với Đại lục để hưởng lợi ích từ sự tích tụ của một công xưởng thế giới, 
đồng thời nỗ lực tìm các kênh đa dạng hóa nhằm cân bằng với sự phụ thuộc 
14 
quá mức vào Trung Quốc và gắng sức kìm giữ để đảm bảo sự hội nhập kinh 
tế với Đại lục không đe dọa tới an ninh kinh tế của hòn đảo. 
3.2. Động thái quan hệ kinh tế giữa hai bờ Eo biển Đài Loan 
Phân tích quan hệ kinh tế Hai bờ sẽ được chia thành 4 thời kỳ sau: 
(i)Giai đoạn trước năm 1992: Đây là thời kỳ Đặng Tiểu Bình là hạt nhân 
lãnh đạo với nhiều quyết sách lớn của Trung Quốc, còn phía Đài Loan thì 
dưới sự lãnh đạo của Tưởng Kinh Quốc (1978-1988) và Lý Đăng Huy 
(1988-2002). Thời kỳ này, quan hệ Hai bờ ban đầu bị ngăn cấm rồi dần 
manh nha trong thập kỷ 1980 song vẫn chịu nhiều cấm đoán từ Đài 
Loan.(ii)Giai đoạn 1992-2001: Đây là thời kỳ trải qua lãnh đạo thế hệ thứ 
ba của Trung Quốc dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Giang Trạch Dân, còn Đài 
Loan là Lý Đăng Huy. Trung Quốc có nhiều cải cách kinh tế lớn và đạt 
thành tựu quan trọng sau chuyến “Tuần du phương Nam” của Đặng Tiểu 
Bình hướng tới nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung 
Quốc. Đài Loan thực hiện điều chỉnh lớn, thúc đẩy nâng cấp ngành, phát 
triển ngành ICT. Thời kỳ này chứng kiến nhiều sóng gió, va chạm với quan 
hệ Hai bờ.(iii)Giai đoạn 2002-2011: Thời kỳ này trải qua thế hệ lãnh đạo 
thứ tư của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, còn 
phía Đài Loan là Trần Thủy Biển (2002-2008) và Mã Anh Cửu (2008-
2016). Việc Trung Quốc thuộc WTO như lá phiếu đảm bảo cho hội nhập 
của Trung Quốc, kéo nền kinh tế khu vực và toàn cầu ngày càng cuốn vào 
thị trường này, dần hình thành nên cấu trúc kinh tế khu vực hướng tâm 
Trung Quốc. (iv) Giai đoạn 2012-2015: Thời kỳ này chứng kiến thế hệ lãnh 
đạo thứ năm với vai trò hạt nhân của Tập Cận Bình. Trung Quốc có nhiều 
thay đổi về điều chỉnh chiến lược và chuyển đổi phương thức phát triển để 
tạo dựng vị thế mới. Đài Loan là nhiệm kỳ thứ 2 của Mã Anh Cửu với 
chính sách thân Bắc Kinh nhưng đối mặt với sự phản đối gia tăng trong xã 
hội Đài Loan. 
15 
 Giai đoạn trước năm 1992 là “thời kỳ manh nha” trong quan hệ kinh tế 
Hai bờ với đặc trưng: Quan hệ thương mại “chủ yếu gián tiếp, hai chiều” 
qua Hồng Kông (Đài Loan thặng dư lớn); Quan hệ đầu tư “một chiều” từ 
Đài Loan tới Trung Quốc với trọng tâm vào chế biến lương thực và chế 
tạo sản phẩm nhựanhằm chủ yếu tìm kiếm lao động giá rẻ và thăm dò thị 
trường. 
 Giai đoạn 1992-2001 là“thời kỳ thăm dò” trongquan hệ kinh tế Hai bờ 
với đặc trưng: Quan hệ thương mại “gián tiếp, 2 chiều” vẫn lớn hơn 
quan hệ thương mại “trực tiếp, hai chiều” (Đài Loan tương ứng đạt thặng 
dư lớn và thâm hụt nhỏ trong quan hệ thương mại “gián tiếp” và “trực 
tiếp”); Quan hệ đầu tư “một chiều” từ Đài Loan tới Trung Quốc đã bùng 
nổ (với trọng tâm vào ngành chế tạo linh kiện, phụ tùng điện tử, máy 
tính - điện tử - quang học và thiết bị điện) nhằm chủ yếu tìm kiếm lao 
động giá rẻ và thị trường. 
 Giai đoạn 2002-2011 là“thời kỳ tăng tốc” trongquan hệ kinh tế Hai bờ 
với đặc trưng: Quan hệ thương mại “trực tiếp, 2 chiều” lớn hơn quan hệ 
“gián tiếp, hai chiều” (thặng dư thương mại “trực tiếp” đã vượt xa thặng 
dư “gián tiếp” của Đài Loan với Đại lục); Dù quan hệ đầu tư “một 
chiều” (2001-2008) đã chuyển sang quan hệ đầu tư “hai chiều” (2009-
2011) nhưng chiều chi phối vẫn là từ Đài Loan tới Trung Quốc đại lục 
với trọng tâm vào ngành công nghiệp chế tạo (nhất là ngành sản xuất 
linh kiện, phụ tùng điện tử, máy tính, điện tử, và quang học) nhằm chủ 
yếu tìm kiếm thị trường và tìm kiếm hiệu quả (một phần là nhằm tìm 
kiếm tài nguyên lao động rẻ). 
 Giai đoạn 2012-2016 là“thời kỳ chín muồi” trongquan hệ Hai bờ với 
đặc trưng: quan hệ thương mại “trực tiếp, 2 chiều” vượt xa quan hệ 
thương mại “gián tiếp, hai chiều” (thặng dư “trực tiếp” đang suy giảm, 
còn thặng dư “gián tiếp” của Đài Loan với Đại lục vẫn tăng); Quan hệ 
đầu tư “hai chiều” bị chi phối từ Đài Loan tới Trung Quốc đã chuyển 
16 
dần từ công nghiệp chế tạo sang dịch vụ, nhằm chủ yếu tìm kiếm thị 
trường và hiệu quả (một phần là tài sản chiến lược). 
* Tóm lại, về phía Bắc Kinh, dù có một phương châm “thống nhất hòa 
bình” và thúc đẩy hội nhập kinh tế làm tiền đề cho tương lai thống nhất lâu 
dài là quan điểm nhất quán của các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc, song các 
đối sách cụ thể cũng như các biện pháp chế tài ở mỗi thời kỳ lại có sự khác 
biệt theo đặc tính riêng của mỗi lãnh đạo. Trung Quốc mặc dù vẫn tiếp tục 
đe dọa quân sự với Đài Loan nhưng động lực kết nối kinh tế giữa hai Eo bờ 
luôn được xem như một kênh hữu hiệu nhất xúc tiến hai bờ gia tăng hợp 
tác, thiết lập lòng tin tạo nền tảng cho đối thoại. Các động lực ấy đã làm cho 
hai bờ ngày càng phụ thuộc chặt chẽ hơn về kinh tế. Sự quyến rũ từ thị 
trường Đại lục cùng những lợi ích hội nhập kinh tế hai bờ góp phần đáng kể 
vào quá trình tăng trưởng đang bị trì trệ của hòn đảo này trong thập kỷ 2000 
đến nay khiến cho Đài Loan dù muốn đa dạng hóa các lựa chọn, giảm sự 
phụ thuộc nhưng những nỗ lực ấy dường như không khả thi. Kết quả tất yếu 
là sự hội nhập kinh tế hai bờ gia tăng và cũng gia tăng sự tương thuộc kinh 
tế bất đối xứng với thế trận yếu hơn nghiêng về phía Đài Loan. 
Đứng trước chiến lược ngoại giao ba hướng của Bắc Kinh vừa cô 
lập chính trị Đài Bắc, đe dọa quân sự vừa cổ vũ hội nhập kinh tế đã khiến 
Đài Loan phải đối mặt với những lựa chọn khắt khe giữa: một bên là các 
liên kết ngày càng chặt chẽ với Đại lục và lệ thuộc hơn với Bắc Kinh, và hai 
là bị cô lập khỏi kinh tế chính trị khu vực – nằm ngoài lề tất cả các xu 
hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Việc trở thành “công xưởng 
của thế giới” đã khiến hội nhập kinh tế vào Trung Quốc trở thành một xu 
hướng tất yếu của thế giới, mà Đài Loan không thể đứng ngoài dù cho giới 
tinh hoa hòn đảo mong muốn đa dạng hóa các luồng thương mại và đầu tư 
để tránh các rủi ro kinh tế và chính trị. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã tái 
cấu trúc nền kinh tế khu vực và toàn cầu, hút các luồng thương mại, đầu tư 
về phía mình. Sự dịch chuyển các hoạt động kinh tế của Đài Loan cũng là 
17 
một phần trong sự dịch chuyển quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc vớiĐông 
Á, Mỹ và thế giới. Nếu như trong thời kỳ manh nha quan hệ hai bờ, Đài 
Loan có được quyền lực mặc cả đáng kể nhờ lợi thế vượt trội về công nghệ, 
vốn so với nền kinh tế Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu phát triển và bị tù 
túng trong cấm vận từ phương Tây. Cùng với sự trỗi dậy, lớn mạnh và hành 
xử cứng rắn của Bắc Kinh, sự tương thuộc kinh tế hai bờ ngày càng trở nên 
bất đối xứng với sự phụ thuộc hơn của Đài Loan thì quyền lực mặc cả của 
hòn đảo ngày càng trở nên yếu thế trước một cường quốc xét lại đang tìm 
mọi nỗ lực tìm kiếm vị thế mới trên toàn cầu. Chính quyền Đài Loan, dù 
thuộc đảng phái nào cũng cần hết sức cẩn trọng về chính sách kinh tế với 
Đại lục để vừa đảm bảo lợi ích kinh tế vừa cố gắng tránh để Trung Quốc sử 
dụng đây làm con bài mặc cả đánh đổi tự chủ. 
Trong khi đó, do tính nhạy cảm của vấn đề Đài Loan và vai trò của 
Mỹ trong đảm bảo ổn định Eo biển, quan hệ hai bờ chịu ảnh hưởng lớn bởi 
chu kỳ lãnh đạo không chỉ ở hai phía Trung Quốc và Đài Loan mà còn bị 
ảnh hưởng lớn bởi chu kỳ bầu cử Mỹ. Đặc biệt đứng trước sự trỗi dậy mạnh 
mẽ của Trung Quốc với nhiều chiến lược lớn đầy tham vọng, ưu thế của Mỹ 
về kinh tế, chính trị và quân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đảm 
bảo hòa bình bền vững ở Đông Á. Và những chiến lược co cụm, chống tự 
do thương mại, đặt lợi ích Mỹ lên trên của Tổng thống Trump hiện tại đang 
dấy lên lo ngại trong khu vực. Với Đài Loan, hòn đảo cần có sự ủng hộ của 
Mỹ về an ninh, mở rộng sự tham gia quốc tế, và ngay trong chính sách hai 
bờ. Những thay đổi chính sách của Mỹ với Đài Loan chắc chắn sẽ gây ảnh 
hưởng lớn đến tương quan kinh tế chính trị Hai bờ cũng như cả khu vực. 
Chương 4 
TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA TRUNG QUỐC ĐẠI 
LỤC VÀ ĐÀI LOAN TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 
4.1. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc và Đài Loan 
18 
a. Chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam 
Nhìn chung, sự chuyển hướng chiến lược trong đổi mới kinh tế 
cũng như chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa đã có 
vai trò lớn giúp nước ta phá thế bao vây cô lập vào cuối thập kỷ 1980 từng 
bước tạo dựng vị thế trên trường quốc tế. Đến tháng 3/2017, Việt Nam có 
quan hệ ngoại giao với 187 nước và quan hệ kinh tế, thương mại với 220 
nước và vùng lãnh thổ. Nước ta cũng đã ký 12 Hiệp định thương mại tự do 
cả đa phương và song phương. là thành viên của nhiều tổ chức đa phương 
lớn như APEC, WTO, cũng như đóng vai trò tích cực, chủ động trên 
nhiều diễn đàn khu vực, quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa 
diễn ra mạnh mẽ dưới trợ lực của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ; 
những điều chỉnh chính sách đối ngoại đúng hướng của Đảng ta đã và đang 
giúp đất nước hội nhập tích cực, tận dụng được các lợi ích của quá trình 
toàn cầu hóa, khu vực hóa phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 
b. Quan hệ kinh tế Việt Nam-Trung Quốc 
+ Quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc gồm đặc trưng sau: 
Thứ nhất, quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã và 
đang phát triển theo hướng tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng 
cũng như chuyển đổi mạnh về phương thức giao dịch song. Thứ hai, sự mở 
rộng quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong gần 3 thập kỷ qua 
vẫn chủ yếu do thương mại liên ngành gây ra.Thứ ba, cán cân thương mại 
của Việt Nam với Trung Quốc đang có chiều hướng rơi vào trạng thái thâm 
hụt với quy mô ngày càng trầm trọng hơn kể từ năm 2001 cho đến nay.Thứ 
tư, quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc vẫn mang đặc trưng của mối 
quan hệ ngoại thương “Bắc–Nam” điển hình ngay từ khi bình thường hóa 
quan hệ năm 1991 cho đến nay.Thứ năm, mối quan hệ thương mại Việt 
Nam-Trung Quốc đã và đang chuyển hướng tích cực sang chủ yếu dựa vào 
phương thức trao đổi “thương mại chính ngạch” kể từ 1994 cho đến nay. 
19 
+ Quan hệ đầu tư Việt Nam-Trung Quốc bao gồm đặc trưng sau: 
Thứ nhất,mối quan hệ đầu tư giữa Trung Quốc và Việt Nam đang được cải 
thiện không chỉ về quy mô mà còn cả về hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, 
và vị thế nhà đầu tư lớn. Thứ hai, mặc dù quy mô FDI của Trung Quốc vào 
Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với Hồng Kông, nhưng vị thế nhà đầu tư 
lớn của Trung Quốc đang có những thay đổi trong nửa đầu của thập kỷ 
2010. Thứ ba,nếu như trong thập kỷ 1990, các dự án FDI của Trung Quốc 
thường tập trung lớn nhất vào lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động 
sản, thì đến thập kỷ 2000 và nửa đầu thập kỷ 2010 đã có sự chuyển hướng 
đầu tư rõ rệt sang các lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến-
chế tạo.Thứ tư, hình thức đầu tư của Trung Quốc cũng đã có sự thay đổi 
đáng kể để sang việc “kết hợp” giữa hình thức liên doanh với hình thức 
100% vốn nước ngoài trong nửa đầu thập kỷ 2000 và rồi tiến tới chủ yếu 
dựa vào hình thức 100% vốn nước ngoài kể từ nửa cuối thập kỷ 2000 cho 
đến nay.Thứ năm, địa bàn đầu tư của FDI Trung Quốc vào Việt Nam đã 
chuyển hướng sang Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam trong 
thập kỷ 2000, rồi tiếp tục chuyển hướng tập trung vào Vùng kinh tế trọng 
điểm phía Nam và các tỉnh biên giới gắn với “Hai hành lang, một vành đai 
kinh tế” và “Hành lang kinh tế Bắc-Nam” trong thập kỷ 2010. 
c. Quan hệ kinh tế Việt Nam-Đài Loan 
+ Quan hệ thương mại Việt Nam-Đài Loan gồm các đặc trưng sau: 
Thứ nhất,mối quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Đài Loan có 
đặc trưng thiên về “tính chất bổ sung” (theo chiều từ Đài Loan tới Việt 
Nam) nhiều hơn là “tính chất cạnh tranh” (theo chiều từ Việt Nam tới Đài 
Loan) trong suốt 3 thập kỷ.Thứ hai, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam 
và Đài Loan không ngừng phát triển sau gần 3 thập kỷ.Thứ ba, cán cân 
thương mại của Việt-Đài đang có xu hướng gia tăng thâm hụt, chủ yếu bắt 
nguồn từ thâm hụt thương mại hàng hóa chế tạo. Thứ tư, sự mở rộng quan 
hệ thương mại Việt – Đài chủ yếu do thương mại liên ngành gây ra. 
20 
+ Quan hệ đầu tư Việt Nam-Đài Loan gồm đặc trưng: Thứ 
nhất,quan hệ đầu tư giữa Việt - Đài là quan hệ 1 chiều từ Đài Loan tới Việt 
Nam.Thứ hai, sau gia nhập WTO, vốn FDI của Đài Loan vào Việt Nam đã 
tăng rất nhanh.Thứ ba, so với các quốc gia ở châu Á thì Việt Nam là một 
trong những địa điểm hấp dẫn nhất FDI của Đài Loan trong 3 thập kỷ vừa 
qua. 
4.2. Tác động của quan hệ kinh tế Trung-Đài đến kinh tế Việt Nam 
a. Đánh giá các tác động kinh tế chính trị 
Quan hệ Hai bờ tác động đến kinh tế Việt Nam chủ yếu qua các 
kênh sau: (1) Nhân tố Trung Quốc luôn có nguy cơ gây cản trở phương hại 
đến quan hệ kinh tế Việt Nam có liên quan tới yếu tố Đài Loan, nhất là khi 
quan hệ Hai bờ gặp sóng gió; (2) Hiệu ứng mạng sản xuất về quyết định lựa 
chọn địa điểm đầu tư và hệ quả là dịch chuyển các luồng thương mại; (3) 
Tính bổ trợ giữa đầu tư và thương mại từ Đài Loan và Trung Quốc trên lãnh 
thổ Việt Nam có thể gây ảnh hưởng (cả tích cực và tiêu cực) đến nước ta. 
b. Mô hình đánh giá tác động đến Việt Nam qua kênh “Thương mại”: 
Chứng tỏ tồn tại mối quan hệ “dài hạn” giữa cán cân thương mại của 
Việt Nam (với cả Trung Quốc và Đài Loan) và tỷ giá “thực” của VND (so 
với USD) cùng với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc. 
 Mối quan hệ thương mại Trung-Đài có tác động “dài hạn, cùng 
chiều” tới cải thiện cán cân thương mại Việt Nam với 2 đối tác này. 
 Mối quan hệthương mại Trung-Đài không tác động “ngắn hạn” (có ý 
nghĩa thống kê) tới cán cân thương mại Việt Nam với 2 đối tác này. 
 Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có tác động “dài hạn, cùng 
chiều” tới cải thiện cán cân thương mại Việt Nam với 2 đối tác này. 
 Tỷ giá “thực” của VND so với USD có tác động “dài hạn, ngược 
chiều” tới cải thiện cán cân thương mại Việt Nam với 2 đối tác này. 
21 
c. Mô hình đánh giá tác động đến Việt Nam qua kênh “Đầu tư” 
Chứng tỏ tồn tại mối quan hệ “dài hạn” giữa thu hút FDI của Đài 
Loan vào Việt Nam với tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và tỷ giá 
hối đoái “thực” của đồng VND (so với đồng TWD của Đài Loan) cũng như 
thu hút FDI của Đài Loan vào Trung Quốc đại lục. 
logFDITW_VN=-181+2,8logFDITW_CN-
1,4logEXTW_CN+3,9logGDPVN++15logRERVN_TW+1,8DMCNTW
 Trong dài hạn, mối quan hệ Trung-Đài ấm lên có tác động “dài 
hạn, cùng chiều” tới thu hút FDI của Đài Loan vào Việt Nam. 
 Trong ngắn hạn, mối quan hệ Trung - Đài ấm lên không tác động 
(có ý nghĩa thống kê) tới thu hút FDI của Đài Loan vào Việt Nam. 
 FDI của Đài Loan vào Trung Quốc có tác động “dài hạn,cùng 
chiều” tới FDI của Đài Loan vào Việt Nam, tức là không gây ra 
“hiện tượng lấn át đầu tư” tới FDI của Đài Loan vào Việt Nam. 
 Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có tác động “dài hạn, cùng 
chiều” tới thu hút FDI đăng ký củacác doanh nghiệp Đài Loan vào 
nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn. 
 Tỷ giá “thực” song phương của VND (so với TWD) có tác động 
“dài hạn, cùng chiều” tới thu hút FDI của Đài Loan vào Việt Nam. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Kết luận 
1. Luận án không chỉ hệ thống hóa toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn 
về quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Đài Loan, mà còn xây dựng được 
khung phân tích khoa học về mối quan hệ kinh tế giữa hai bờ Eo biển, cũng 
như lựa chọn được mô hình VECM phù hợp để đánh giá tác động của mối 
quan hệ Trung-Đài đến Việt Nam thông qua kênh thương mại và đầu tư. 
22 
2. Luận án đã chỉ ra được 4 nhóm nhân tố chủ yếu có tác động đến quan 
hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Đài Loan gồm: các nhân tố quốc tế (đặc biệt 
là nhân tố Mỹ), sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai bờ Eo biển, sự gần 
gũi về địa lý và văn hóa,quan hệ chính trị giữa hai bờ Eo biển Đài Loan cùng 
và những vấn đề chính trị nội bộ (đặc biệt là từ phía Đài Loan). 
3. Luận án không chỉ phân tích tính bất đối xứng trong quan hệ kinh tế 
(thương mại, đầu tư) giữa Trung Quốc và Đài Loan, mà quan trọnglà chỉ ra 
đặc trưng của quan hệ này ở từng giai đoạn từ cuối thập kỷ 1980 đến nay. 
4.Luận án chứng tỏ tồn tại mối quan hệ “dài hạn” giữa cán cân thương 
mại của Việt Nam (với cả Trung Quốc và Đài Loan) và tỷ giá “thực” của 
VND (so USD) cùng với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc. 
5. Luận án chứng tỏ tồn tại mối quan hệ “dài hạn” giữa FDI của Đài 
Loan vào Việt Nam với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và tỷ giá “thực” 
của VND (so với TWD) cũng như FDI của Đài Loan vào Trung Quốc. 
Kiến nghị chính sách đối với Việt Nam 
 Kiến nghị chính sách tận dụng “cơ hội mới” từ mối quan hệ Hai bờ 
 Nâng cao năng lực điều hành và phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô (theo 
hướng minh bạch, nhất quán, hiệu quả, có trách nhiệm giải trình) nhằm 
bảo đảm các cân đối vĩ mô lớn(trong đó trọng tâm là cán cân thương 
mại với cả hai đối tác Trung Quốc và Đài Loan) của nền kinh tế nước ta. 
 Tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng và minh bạch phù 
hợp các quy luật khách quan của kinh tế thị trường và các thông lệ chuẩn 
quốc tế nhằm giúp thu hút các doanh nghiệp công nghệ cao của Hai bờ; 
đặc biệt đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính(thủ tục đăng ký kinh 
doanh, phá sản, thuế, hải quan, và tần suất kiểm tra doanh nghiệp). 
 Luôn nhất quán chủ trương đường lối của Đảngvà Nhà nước ta về xử lý 
mối quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan trong cả ngắn và dài hạn: 
“khẳng định thực hiện nhất quán chính sách một nước Trung Quốc, ủng 
23 
hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối các hành 
động “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức, Việt Nam không phát triển 
bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan” . 
 Mặc dù vẫn tuân thủ nguyên tắc “Một Trung Quốc” nhưng chúng ta nên 
linh hoạt thúc đẩy hoạt động giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa với 
vùng lãnh thổ Đài Loan nhằm không ngừng tăng cường thu hút đầu tư và 
trao đổi thương mại (nhất là hàng hóa trung gian với công nghệ cao). 
 Nâng cao “chất lượng Luật cạnh tranh” và bảo đảm tính trung lập trong 
“thực thi Luật cạnh tranh” theo hướng cùng bình đẳng trước pháp luật. 
 Chủ động chuyển trọng tâm theo hướng tối đa hóa trao đổi thương mại 
chính ngạch (và tối thiểu hóa thương mại tiểu ngạch) với Trung Quốc. 
 Chủ động đàm phán và tiến tới ký kết “xuất khẩu chính ngạch” một số 
mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam (như các mặt hàng gạo, thủy 
sản, rau quả,) với phía Trung Quốc đại lục và Đài Loan. 
 Chủ động xây dựng chiến lược thu hút FDI mới trong bối cảnh cuộc cách 
mạng công nghiệp 4.0, trọng tâm phát triển “cụm liên kết ngành ICT” và 
thu hút TNCs và MNCs (Nhật, Hàn, EU, Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc). 
 Tăng cường hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ 
cung cấp thông tin dự báo thị trường cập nhật và tư vấn pháp lý cho 
doanh nghiệp (nhất là về thị trường Trung Quốc và Đài Loan). 
 Kiến nghị chính sách giúp đối phó hiệu quả với “thách thức mới” 
từ mối quan hệ Hai bờ 
 Chủ động nâng cao năng lực quản trị quốc gia (đặc biệt là năng lực 
hoạch định chính sách, thực thi, giám sát chính sách kinh tế) phù hợp 
với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. 
 Nâng cao “năng lực cạnh tranh quốc gia”dựa trên công nghệ-sáng tạo. 
 Kiên trì nhất quán chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về “đa phương 
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”, nhưng nên chủ động linh hoạt và 
sáng tạo “chính sách cân bằng động về kinh tế” với Mỹ và Trung Quốc. 
24 
 Chủ động tạo cơ chế để thúc đẩy phát triển “ngành công nghiệp hỗ trợ”. 
 Tăng cường phối hợp liên ngành để chống “chuyển giá, gian lận thương 
mại” đối với các doanh nghiệp FDI, nhất là từ Đài Loan và Trung Quốc. 
 Hoàn thiện Luật đấu thầu theo hướng chuyển trọng tâm từ ưu tiên giá 
thầu thấp sang bảo đảm chất lượng, bảo vệ môi trường-an ninh và xã hội. 
 Xây dựng chiến lược phát triển thương mại theo hướng đa dạng hóa thị 
trường, gắn chuỗi giá trị và chuyển từ khâu giá trị gia tăng thấp sang cao. 
 Tăng cường tuyên truyền cho nhân dân ta về “bẫy cầu ảo nông sản”, 
đồng thờicó chế tài xử phạt nghiêm khắc với hành vi gian lận thương 
mại cố tình gây ra “bẫy cầu ảo nông sản”của thương nhân Trung Quốc. 
 Chủ động điều hành chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt và hiệu quả, chú 
trọng bảo đảm chính sách “tỷ giá thực” của VND có tính cạnh tranh. 
 Tăng cường phổ biến quy định và hướng dẫn người dân (ở biên giới) tạo 
thuận lợi cho thanh toán giao dịch thương mại qua biên giới bằng NDT. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_quan_he_kinh_te_giua_trung_quoc_dai_luc_va_d.pdf tom_tat_luan_an_quan_he_kinh_te_giua_trung_quoc_dai_luc_va_d.pdf
 Tomtat_Eng_PhiHongMinh.pdf Tomtat_Eng_PhiHongMinh.pdf