Qua triển khai nghiên cứu đề tài luận án “Quản lý Nhà nước đối với hoạt
động của đạo Tin lành ở Việt Nam”, tác giả đã đạt được những kết quả nghiên
cứu, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đã khái quát hóa được hệ thống các công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài luận án gồm các công trình, dữ liệu nghiên cứu sau: những
công trình nghiên cứu, những tác phẩm, bài báo, tạp chí, nghiên cứu về đạo Tin
lành trên thế giới của các học giả trong và ngoài nước. Các công trình khoa học
liên quan đến chủ đề đạo Tin lành và QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành.
Trên cơ sở đó tác giả đã phân tích và hệ thống hóa các công trình, tài liệu,
dữ liệu liên quan đến và rút ra những nhận xét khái quát về những nội dung kết
quả đạt được, những khía cạnh mà học giả đi trước chưa quan tâm, chưa được
nghiên cứu sâu; từ đó xác định được vấn đề chính, những phương hướng mới
mà luận án phải tập trung nghiên cứu.
Thứ hai, luận án đã khái quát hóa được hoàn cảnh và điều kiện ra đời và
quá trình truyền bá đạo Tin lành ra thế giới, sự phát triển của đạo Tin lành ở
Mỹ, ở Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Nghiên cứu khái quát giáo lý, giáo luật,
lễ nghi của đạo Tin lành; khái quát về hàng giáo phẩm; các tổ chức, hệ phái
của đạo Tin lành trên thế giới hiện nay; đưa ra những luận chứng cơ sở khoa
học QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành. Thông qua nghiên cứu, luận án
đã xác định được chủ thể và đối tượng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành; xác định được những nội dung và phương pháp QLNN đối với hoạt động
của đạo Tin lành ở Việt Nam.
Tìm hiểu những kinh nghiệm QLNN về tôn giáo và đạo Tin lành của Trung
quốc, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong
QLNN đối với hoạt động của các tôn giáo nói chung và đạo Tin lành nói riêng
hiện nay.
Thứ ba, để tìm hiểu thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở
Việt Nam, tác giả đã tổ chức triển khai nghiên cứu, điều tra thực tiễn về tình
hình hoạt động của đạo tin lành và QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành
trên địa bàn cả nước. Thông qua nghiên cứu, điều tra thực tiễn và nghiên cứu
những tài liệu thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo các địa
phương, tác giả đã tổng hợp, mô tả, phân tích và đánh giá khá đầy đủ, chi tiết
về thực trạng đạo Tin lành và thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành ở Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở nghiên cứu những cơ sở khoa học và điều tra nghiên cứu
thực tiễn về thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam;
thông qua nghiên cứu các quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam; tìm hiểu và nghiên cứu những định hướng và chính sách của nhà
nước ta về tôn giáo và đạo Tin lành; dựa trên những luận chứng thu thập được
và thông qua công tác đánh giá, phương pháp chuyên gia tác giả đã đề xuất
một hệ thống bảy nhóm giải pháp, nhằm quản lý có hiệu quả hơn đối với hoạt
động của đạo Tin lành ở nước ta hiện nay.
27 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp nhân, thể nhân
và các tổ chức tôn giáo, nhằm đảm bảo các tổ chức và tín đồ tôn giáo hoạt
động đúng pháp luật, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân,
9
đồng thời cũng nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi lợi dụng hoạt động
tôn giáo để làm việc trái pháp luật, xâm hại đến an ninh, trật tự của đất nước.
2.3.1.2. Khái niệm QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành
Hoạt động của đạo Tin lành
Khoản 11, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 và theo hướng dẫn
của Nghị định 92/2012/NĐ-CP, ngày 08 tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn
giáo năm 2004, hoạt động của đạo Tin lành bao gồm các nội dung sau:
Về tổ chức đạo Tin lành bao gồm các nội dung hoạt động:
- Hoạt động đăng ký sinh hoạt đạo; đăng ký hoạt động các điểm nhóm Tin
lành, công nhận tổ chức đạo Tin lành;
- Hoạt động thành lập, chia tách, sát nhập, hợp nhất điểm nhóm, tổ chức Tin lành;
- Hoạt động đăng ký hội đoàn, các tổ chức xã hội và các tổ chức tu hành tập
thể khác của đạo Tin lành;
- Hoạt động thành lập, quản lý, giải thể các trường đào tạo, mở lớp bồi
dưỡng những người chuyên hoạt động trong lĩnh vực đạo Tin lành;
- Hoạt động phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức,
bãi nhiệm chức sắc trong các hội thánh Tin lành;
- Hoạt động thuyên chuyển nơi hoạt động của chức sắc, mục sư, mục sư
nhiệm chức, truyền đạo.
Về hoạt động hội thánh Tin lành có 8 nội dung hoạt động:
- Hoạt động đăng ký chương trình hoạt động của các điểm nhóm, tổ chức
Tin lành hàng năm;
- Hoạt động đăng ký người vào làm việc, giúp việc học tập, nghiên cứu
trong các tổ chức Tin lành;
- Tổ chức hội nghị, đại hội của đạo Tin lành;
- Tổ chức các cuộc lễ, giảng đạo, truyền đạo của các tổ chức Tin lành, mục
sư, truyền đạo ngoài cơ sở hộ Thánh;
- Hoạt động của mục sư, truyền đạo, chức việc tại cơ sở Tin lành đã được
xếp hạng di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh;
- Hoạt động cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình, kiến trúc, các công
trình phụ trợ của các tổ chức, hệ phái Tin lành;
- Hoạt động từ thiện, nhân đạo của tổ chức, hệ phái, điểm nhóm Tin lành;
- Quan hệ quốc tế của các tổ chức, hệ phái Tin lành; của các tín đồ, mục sư,
truyền đạo, chức việc.
Như vậy, đối với các nội dung hoạt động của đạo Tin lành được quy định
theo hệ thống pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta bao gồm 14 nội dung, 6
nội dung về quản lý tổ chức và 8 nội dung về hoạt động của đạo.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành
QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành là tổng thể các biện pháp quản lý
do các cơ quan chức năng và chính quyền thực hiện đối với các tín đồ, chức
sắc và các tổ chức, hệ phái Tin lành, nhằm đảm bảo các tổ chức, hệ phái và tín
đồ đạo Tin lành hoạt động tôn giáo đúng pháp luật, đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo của công dân, đồng thời cũng nhằm phòng ngừa, ngăn chặn
các hành vi lợi dụng đạo Tin lành để làm việc trái pháp luật, xâm hại đến an
ninh, trật tự của đất nước.
10
2.3.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành
2.3.2.1. Thực hiện chức năng quản lý của nhà nước
Tín ngưỡng, tôn giáo là sản phẩm tinh thần, sản phẩm văn hóa được hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển xã hội và là một thực thể xã
hội, tồn tại khách quan, lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội. Quá trình
phát triển của tôn giáo có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc; trong quá trình nảy sinh, tồn tại và phát triển, tôn giáo có những
ảnh hưởng vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực đến mọi mặt của đời
sống xã hội. Xuất phát từ bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước là phục vụ
lợi ích giai cấp thống trị, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội,
nhà nước phải tiến hành các biện pháp định hướng, điều chỉnh và tác động đến
các tổ chức tôn giáo đó là sự cần thiết, khách quan.
2.2.2. Đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
Quyền tự do TNTG là quyền cơ bản của con người, đây là quyền bất khả
xâm của con người được hệ thống pháp luật Việt Nam bảo vệ. Với vị trí, chức
năng và quyền hạn của mình các quan QLNN phải có trách nhiệm bảo vệ
những quyền cơ bản của công dân, được quy định tại Hiến pháp và các bộ luật
của Nhà nước, trong đó có quyền tự do TNTG. Đảm bảo quyền tự do TNTG
cho công dân tức là bảo vệ hệ thống pháp luật về TNTG của Nhà nước, bảo vệ
quyền theo hoặc không theo một tôn giáo của công dân. Đồng thời các cơ quan
Nhà nước cũng có nhiệm vụ đấu tranh, phòng ngừa và ngăn chặn những hành
vi lợi dụng quyền tự do TNTG để làm việc trái pháp luật, ảnh hưởng đến an
ninh, trật tự của đất nước.
2.2.3. Thực tiễn hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, bên cạnh những điểm tích cực, phù
hợp, TNTG nói chung và đạo Tin lành nói riêng vẫn là một trong những đối
tượng để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình,
can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
2.3.3. Chủ thể, đối tượng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin Lành
2.3.3.1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin Lành
Chủ thể QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành là những cơ quan hành
pháp, cơ quan chấp hành và điều hành; các cơ quan chuyên môn của Chính phủ
và UBND các cấp.
2.3.3.2. Đối tượng quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin Lành
Đối tượng quản lý nhà nước của đạo Tin lành
Đối tượng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành là các quá trình của
đạo Tin lành, những hoạt động, quan hệ của đạo Tin lành và các hành vi hoạt
động của chức sắc, tín đồ, những người hoạt động trong các tổ chức, hệ phái
Tin lành.
Các đối tượng quản lý nhà nước của đạo Tin lành
Đối tượng QLNN của đạo Tin lành gồm: Tín đồ, chức sắc đạo Tin lành, công
trình kiến trúc của đạo Tin lành; đồ dùng đạo; các hoạt động đạo Tin lành.
2.3.4. Nội dung và phương pháp QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành
2.3.4.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành
Một là, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) về tổ chức, hoạt động và quản lý hoạt động của đạo Tin
11
lành; tuyên truyền các quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực tôn giáo và đạo Tin lành.
Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành
từ trung ương đến cơ sở.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức QLNN đối với hoạt động của
đạo Tin lành.
Bốn là, quản lý về tổ chức và hoạt động của đạo Tin lành.
Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
bộ máy nhà nước;
Sáu là, hợp tác quốc tế trong QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành.
Bảy là, thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo, xử lý
những vi phạm pháp luật liên quan đến đạo Tin lành. Đấu tranh phòng, chống
các hành vi lợi dụng đạo Tin lành xâm phạm đến an ninh, trật tự.
2.3.4.2. Phương thức quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành bằng pháp luật.
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động Tin lành bằng chính sách.
- Quản lý hoạt động của đạo Tin lành thông qua xây dựng tổ chức bộ máy
và đội ngũ cán bộ.
- Thông qua công tác thuyết phục, vận động tin đồ, chức sắc Tin lành.
- Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý những khiếu nại, tố cáo
liên quan đến hoạt động của đạo Tin lành.
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo của Trung Quốc, bài học
đối với Việt Nam
2.4.1. Kinh nghiệm quản lý tôn giáo và đạo Tin lành của Trung Quốc
2.4.1.1. Quan điểm và nguyên tắc QLNN về tôn giáo của Trung Quốc
Tín đồ tôn giáo ở Trung Quốc hiện nay chiếm khoảng 10% dân số và có xu
hướng tiếp tục tăng, một điều đặc biệt là đa số người dân tộc sống tập trung ở
các vùng biên cương đều theo TNTG. Với đặc điểm cơ bản này, Trung Quốc
hết sức coi trọng trong công cuộc xây dựng xã hội hài hoà XHCN. Mục tiêu
mà Đảng Cộng sản Trung Quốc hướng tới là sự vận dụng quan điểm phát triển
một cách khoa học vào công tác tôn giáo trong tình hình mới để thúc đẩy sự
nghiệp văn hoá đại phát triển, đại phồn vinh tiến tới xây dựng xã hội hài hoà
XHCN. Đây chính là phương hướng và nhiệm vụ trọng tâm của công tác tôn
giáo trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai.
2.4.1.2. Kinh nghiệm quản lý đạo Tin lành ở Trung Quốc
Tư tưởng đối với tôn giáo của Đảng Cộng sản Trung Hoa và Đặng Tiểu
Bình được thể hiện trong Hiến pháp 1982: Công dân Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa được hưởng tự do tín ngưỡng. Không có cơ quan nhà nước, tổ chức
công cộng hoặc cá nhân nào buộc người dân tin tưởng, hoặc không tin vào bất
cứ tôn giáo nào; cũng không được phân biệt đối xử với những người dân tin
tưởng, hoặc không tin vào bất cứ tôn giáo nào. Nhà nước bảo vệ các hoạt động
tôn giáo bình thường. Không ai có thể sử dụng tôn giáo để tham gia vào các
hoạt động phá hoại trật tự công cộng, làm suy yếu sức khoẻ của công dân hoặc
can thiệp vào hệ thống giáo dục của nhà nước. Các cơ quan tôn giáo và các
vấn đề tôn giáo không phải chịu sự chi phối của ngoại bang.
Cùng với việc quy định quyền tự do TNTG trong Hiến pháp, Chính phủ
12
Trung Quốc cũng đã xây dựng một số văn bản quan trọng để làm rõ mục đích
của điều khoản Hiến pháp về tự do tôn giáo, như: Quy chế quản lý các địa
điểm hoạt động tôn giáo (1994), Quy chế quản lý các hoạt động tôn giáo của
người nước ngoài (1994), luật về các vấn đề truyền giáo; bình thường hóa và
các dịch vụ tôn giáo, và nguyên tắc tách tôn giáo khỏi giáo dục nhà
nước. Chính phủ thừa nhận thực tế là trong thời kỳ phát triển lịch sử lâu dài
của đất nước, văn hoá tôn giáo ở Trung Quốc trong đó có văn hóa đạo Tin lành
đã trở thành một phần của văn hoá tư tưởng truyền thống Trung Quốc.
Theo Chính phủ Trung Quốc, đến năm 2010 đã có 53.000 nhà thờ Tin lành,
trong đó 70% được xây mới, với gần 20 triệu tín đồ Tin Lành, 70% trong số họ
ở nông thôn. Vào năm 2014, hội nghị quốc gia kỷ niệm 60 năm nhà thờ Ba Tự
cho rằng Trung Quốc có khoảng 23,05 triệu đến 40 triệu người theo đạo Tin
lành, hoặc khoảng 1,7% đến 2,9% tổng dân số; mỗi năm, khoảng 500.000
người được rửa tội như những người Tin lành.
Sự tiếp nhận đạo Tin lành trong xã hội Trung Quốc dường như không mâu
thuẫn với chương trình nghị sự chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong
việc xây dựng “Xã hội hài hòa”, mặc dù các nhà thờ vẫn còn dưới sự giám sát
trực tiếp của các cơ quan nhà nước và phải tuân thủ các quy định của quốc gia,
tỉnh và địa phương. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ bỏ
quyền kiểm soát tôn giáo, vì vẫn tin rằng tôn giáo là hệ tư tưởng xã hội trái
ngược với chủ nghĩa Mác và đạo Tin lành là một trong những yếu tố chính
trong lực lượng địch ngoại xâm lật đổ chủ nghĩa cộng sản và làm suy yếu chế
độ. Do đó "tiến hóa hòa bình" và xâm nhập của đạo Tin lành phải được xem
xét và chính phủ phải kiểm soát các hoạt động tôn giáo. Nhà nước Trung Quốc
bảo hộ cho đạo Tin lành chỉ khi nó được phát triển theo các nguyên tắc của nhà
nước mà không có bất kỳ sự can thiệp từ bên ngoài.
2.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
- Một là, Đảng và Nhà nước ta đã thể chế hoá căn bản theo hướng pháp
quyền mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo.
- Hai là, đã giải quyết ngày một tốt hơn mối quan hệ giữa “công tác tôn
giáo” và “hoạt động tôn giáo”. Mối quan hệ này vốn rất nhạy cảm, phức tạp
vì các “hoạt động tôn giáo” vốn là lợi ích sống còn của các chủ thể tôn giáo,
trong đó “công tác tôn giáo” lại là vấn đề thuộc quản lý nhà nước.
- Ba là, vận dụng kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và quốc tế về Luật pháp
tôn giáo, để thể chế hoá về quyền hạn và nghĩa vụ của toàn dân, trước hết là
cộng đồng các tôn giáo ngày càng thích hợp hơn, đây là nét mới trong chính
sách tôn giáo của chúng ta.
Từ việc tìm hiểu những kinh nghiệm của Trung Quốc trong xử lý vấn đề
tôn giáo, xét thực tiễn tôn giáo Việt Nam nói chung và đạo Tin lành vùng vùng
đồng bào DTTS Việt Nam nói riêng, tác giả nhận thấy cần bàn thêm một số
điểm sau:
- Cần tạo điều kiện cho đạo tham gia tích cực hơn vào một số lĩnh vực xã
hội thích hợp, đóng góp hữu ích vào việc xây dựng, phát triển đất nước và thoả
mãn yêu cầu của đời sống tôn giáo như: Giáo dục đào tạo, văn hóa xã hội, y tế
- khám chữa bệnh, từ thiện nhân đạo thậm chí là chính trị và quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Thực tế, nhu cầu xã hội của đạo Tin lành ngày càng tăng trong
13
xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, và nó cũng không tách rời quyền sinh hoạt
thường nhật của tôn giáo.
- Giải quyết hợp lý, hợp pháp mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức
hệ phái Tin lành..
- Phải nhận thức và quán triệt sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
để làm tốt hơn việc ổn định đời sống tín đồ Tin lành và tạo điều kiện cho các tổ
chức, hệ phái Tin lành cống hiến mọi khả năng xây dựng và phát triển đất
nước, sử dụng tốt nhất nguồn lực tôn giáo để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Cần phải có những biện pháp thiết thực, khả thi chung và những biện pháp
cụ thể, phù hợp cho đạo Tin lành từng vùng, miền, nhất là đạo Tin lành ở Tây
Nguyên và miền núi phía Bắc.
- Phải tăng cường giáo dục truyền thống văn hoá, lịch sử dân tộc, nếu
không nghiên cứu kỹ truyền thống văn hoá, lịch sử thì khó có thể lý giải và xử
lý tốt vấn đề đạo Tin lành ở Việt Nam.
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
3.1. Hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam
3.1.1. Quá trình du nhập và phát triển của đạo Tin lành ở Việt Nam
3.1.1.1. Quá trình du nhập
Theo nhiều tài liệu cho thấy, đạo Tin lành xuất hiện ở Việt Nam muộn hơn
so với các tôn giáo từ bên ngoài du nhập vào, khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, do tổ chức do tổ chức Hội Liên hiệp Cơ đốc và Truyền giáo (The
Christian and Missionnary Alliance of American - CMA) quen gọi là Hội
Truyền giáo CMA truyền vào.
3.1.1.2. Quá trình phát triển của đạo Tin lành ở Việt Nam
Giai đoạn 1911 đến 1954
Giai đoạn 1954 đến 1975
Giai đoạn 1975 đến năm 2005
Thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ và từ nguồn các địa phương năm
2004 cho thấy đạo Tin lành đã lan rộng trên phạm vi cả nước với trên 670.000
tín đồ, hơn 80 tổ chức hệ phái tăng gần gấp 4 lần sau năm 1975.
3.1.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam từ 2005
đến nay
3.1.2.1. Về quy mô số lượng chức sắc, tín đồ đạo Tin lành
Theo thống kê của Ban tôn giáo Chính phủ và Ban Tôn giáo các địa
phương, tính đến cuối năm 2014 tổng số tín đồ đạo Tin lành có khoảng 1 triệu
người (bao gồm cả số chưa Báptem), bên cạnh đó còn có các tổ chức, hệ phái,
nhóm tin lành Tư gia nhiều hơn, ước tính khoảng 80 nhóm.Hiện cả nước có
gần 700.000 người của hơn 40 DTTS, đông nhất là người Mông với khoảng
190.000 người.
Theo khai trình của các Hội thánh, hiện có khoảng 3.000 chức sắc (chủ yếu
là truyền đạo với 2.200 người), trong đó HTTLVN MN có 883 chức sắc,
HTTLVN MB có 153 chức sắc và 08 tổ chức mới được công nhận có 2.162
chức sắc.
3.1.2.2. Về tổ chức hệ phái Tin lành
14
Sau mười năm từ khi có Chỉ thị 01/2005/CT-TTg về một số công tác đối với
đạo Tin lành, đến nay đạo Tin lành ở nước ta đã và đang phát triển mạnh mẽ,
tiếp tục hình thành nhiều tổ chức, hệ phái, nhóm khác nhau. Theo Thống kê
của Ban Tôn giáo Chính phủ tính cho đến 12/2014, cả nước có khoảng gần 100
tổ chức, nhóm, giáo phái Tin lành.
3.1.2.3. Về cơ sở thờ tự, cơ sở đào tạo của các hệ phái Tin lành
Trong những năm qua, mặc dù Ban Tôn giáo Chính phủ đã chủ động phối
hợp với các Bộ ngành và các địa phương trong việc giải quyết những vấn đề
liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự tôn giáo theo tinh thần của Chỉ thị
1940/2008/CT-TTg về nhà đất liên quan đến tôn giáo, nhưng nhìn chung trong
thực tế, những vấn đề về đất đai và xây dựng cơ sở thờ tự chưa được các cấp
chính quyền quan tâm, tạo điều kiện để tháo gỡ những khó khăn về vấn đề này.
3.1.2.4. Thực trạng hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam hiện nay
Các tổ chức Tin lành đã được nhà nước công nhận hoạt động tôn giáo theo
hướng đi vào ổn định, nền nếp, tuân thủ pháp luật, đồng hành cùng dân tộc
nhưng vẫn nổi lên các vấn đề sau: Đấu tranh, tìm cách để có đất đai, xây dựng
nhà thờ, trụ sở, trường đào tạo chức sắc; tiến hành các hoạt động bổ nhiệm
chức sắc quản nhiệm, thành lập các tổ chức hành chính đạo, vận động tín đồ
quyên góp tiền bạc, vật chất, đất đai xây dựng cơ sở thờ tự; tăng cường các
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, tín đồ dưới nhiều hình thức khác nhau;
có xu thế chuyển giao quyền lãnh đạo Hội thánh cho thế hệ đi sau; tập trung
vào công tác truyền đạo cho đối tượng là tầng lớp thị dân và đồng bào DTTS ở
vùng sâu, vùng xa và miền núi. Các tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành chưa
được công nhận tăng cường các hoạt động truyền đạo, sinh hoạt tôn giáo, lôi
kéo, dụ dỗ nhân dân theo đạ; quan hệ quốc tế của đạo Tin lành ngày càng đa
dạng, phức tạp, các tổ chức, hệ phái Tin lành trong nước tiếp tục tìm kiếm sự ủng
hộ, hỗ trợ về tài chính từ các tổ chức bên ngoài
3.1.3. Đặc điểm của đạo Tin lành ở Việt Nam
Đạo Tin lành ở nước ta mang một số đặc điểm: (1) chủ yếu phát triển ở
miền Nam, trong thời kỳ xâm lược của đế quốc Mỹ và khu vực miền núi những
năm gần đây; (2) đạo Tin lành ở Việt Nam chủ yếu là đối tượng thị dân và
DTTS; (3) lấy truyền giáo là nội dung và chủ đích của mọi hoạt động; (4) đạo
Tin lành Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi; (5) chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch thường lợi dụng đạo Tin lành để xâm hại đến an ninh, trật
tự ở nước ta.
3.1.4. Ảnh hưởng của đạo Tin Lành đến đời sống kinh tế - xã hội ở Việt
Nam
Đạo Tin lành vào nước ta trong những năm qua đã có những ảnh nhất định
đến mọi mặt của đời sống xã hội ở Việt Nam. Điều tra khảo sát thực tiễn cho
thấy đạo Tin lành vừa có những ảnh hưởng mang tính tích cực, vừa mang
tính tiêu cực đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt đối với cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu cho thấy cho thấy, đạo Tin lành đã
tạo ra những xung đột văn hóa khá gay gắt với TNTG truyền thống nhất là
trong vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên và ở Tây Bắc. Quan hệ giữa người
15
theo đạo và không theo đạo trong cùng dòng họ, làng bản, giữa người theo đạo
và chính quyền địa phương trở lên căng thẳng, có nơi đối lập. Khiếu kiện liên
quan đến truyền đạo và theo đạo tăng mạnh vượt cấp. Một bộ phận không nhỏ
người theo đạo Tin lành di cư tự do vào vùng sâu, vùng xa, từ phía Bắc vào
Tây Nguyên, sang Lào, Campuchia, Lợi dụng tình hình này, các thế lực thù
địch trong vào ngoài nước đã dùng vật chất mua chuộc một bộ phận tín đồ,
chức sắc đạo Tin lành lấy tôn giáo làm vỏ bọc cho việc thành lập “Nhà nước
Đề Ga” ở Tây Nguyên và “Vương Quốc Mông tự trị” ở miền núi phía Bắc. Ở
bên ngoài Mỹ và một số nước Châu Âu vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền
và công khai áp đặt các điều kiện đối với Việt Nam trong quá trình đàm phán
và tham gia các hiệp ước quốc tế.
3.2. Thực trạng thực hiện nội dung QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành ở Việt Nam
3.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật QLNN đối với hoạt động của
đạo Tin lành
Từ khi cách mạng tháng 8/1945 thành công cho đến nay, Nhà nước ta đã
không ngừng quan tâm đến việc đảm bảo quyền tự do TNTG cho nhân dân. Để
đảm bảo những quyền này, nhà nước đã không ngừng hoàn thiện hệ thống các
luật pháp, quy định nhằm tạo các điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo ổn định,
phát triển, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, về cơ bản những đối tượng được khảo
sát đều cho rằng hệ thống luận pháp về tôn giáo và đạo Tin lành ở nước ta khá
đầy đủ, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được thực tiễn những yêu cầu ngày càng
cao của các tổ chức, hệ phái và tín đồ Tin lành, cụ thể: có 153/300 ý kiến cho
là hệ thống pháp luật đầy đủ nhưng chưa đáp ứng được thực tiễn tình hình sinh
hoạt đạo Tin lành, chiếm tỷ lệ 51%; 117 ý kiến cho là hệ thống pháp luật chưa
đầy đủ và chưa đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của đạo Tin lành, chiếm tỷ lệ
39% và chỉ có 30 ý kiến cho là hệ thống pháp luật đầy đủ, đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt đạo Tin lành, chiếm tỷ lệ 10%.
Kết quả khảo sát thực tiễn của tác giả cho thấy, trong hệ thống các văn bản
pháp luật hiện nay chỉ có Chỉ thị 01/2005/CT-TTg về Công tác đối với đạo Tin
lành là đáp ứng được cơ bản về thực tiễn QLNN về hoạt động của đạo Tin lành
và nhu cầu sinh hoạt đạo của các chức sắc, tín đồ Tin lành.
3.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành
3.2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và đạo Tin
lành ở trung ương
Tổ chức bộ máy QLNN về TNTG ở (ở nước ta được chia thành 2 cấp: Cấp
trung ương và địa phương) trung ương có Chính phủ, Bộ Nội vụ và Ban Tôn
giáo chính phủ. (Nếu xét theo tính chất chuyên ngành, tức là cơ quan quản lý
chuyên môn theo chiều dọc ở trung ương, cơ quan có thẩm quyền cao nhất là
Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2007/NĐ-CP đến nay, Ban
Tôn giáo được sát nhập vào ngành Nội vụ với vai trò là cơ quan chuyên môn.
Việc điều chuyển này góp phần cũng cố vị trí pháp lý của Ban Tôn giáo từ cơ
quan có vai trò giúp việc sang cơ quan có vai trò tham mưu. Việc điều chuyển
16
này vừa phù hợp chủ trương chung của Đảng là tinh giảm bộ máy vừa đưa hoạt
động quản lý đi vào chuyên sâu. Tuy nhiên, khi xét về thực quyền, chức năng
giúp việc có được tính độc lập tương đối trong giới hạn được ủy quyền, còn
chức năng tham mưu không có được sự độc lập này. Với vị trí mới, các cơ
quan QLNN về tôn giáo thiếu tính chủ động trong hoạt động nghiệp vụ, vì chỉ
có thể tham mưu gián tiếp qua cấp trung gian. Nếu nguyên vị trí như hiện tại
thì ban ngành QLNN về tôn giáo gặp nhiều khó khăn trong hoạt động nhưng
nếu trở về vị trí cũ thì không phù hợp với chủ trương về tinh gọn bộ máy.
3.2.3. Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đạo Tin lành
Về quy mô cán bộ công chức: toàn hệ thống có 11.257 cán bộ, công chức,
cán bộ chuyên trách là 2.047 người và cán bộ phụ trách, kiêm nhiệm là 9.210
người. Nếu chia bình quân cho 63 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương và Ban
Tôn giáo Chính phủ thì bình quân có 32 người trên một địa phương. Trong đó
Ban Tôn giáo Chính phủ có 136 người; Ban (Phòng) Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ
cấp tỉnh có 693 người; cán bộ QLNN về tôn giáo cấp huyện thuộc Phòng Nội
vụ là 1.218 người và cán bộ xã làm công tác tôn giáo là 9.210 người.
Nghiên cứu về thực tiễn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo
các cấp hiện nay cho thấy: quy mô cán bộ chuyên trách làm QLNN về tôn giáo
các cấp còn mỏng, trình độ chuyên môn chuyên môn của đội ngũ mặc dù được
củng cố, tuy nhiên vẫn còn một số lượng khá lớn số lượng cán bộ chưa đạt
chuẩn về trình độ, 17% số lượng cán bộ trong hệ thống có trình độ từ cao đẳng
trở xuống. Số lượng cán bộ QLNN về tôn giáo chưa được bồi dưỡng kiến thức
QLNN về tôn giáo còn nhiều, ở trung ương là 0,4%, cấp tỉnh là 21% và ở cấp
huyện là 27%. Số cán bộ được bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính nhà
nước còn chưa nhiều, tính riêng cấp huyện có 250/2047 người, chiếm tỷ lệ
36,1%. Số lượng cán bộ, công chức là DTTS còn rất thấp 204 người, tỷ lệ là
9,97%, mặc dù đạo Tin lành chiếm đại đa số ở vùng đồng bào DTTS.
3.2.4. Quản lý nhà nước về một số nội dung hành chính đối với đạo Tin lành
3.2.4.1. Về công nhận tổ chức, điểm nhóm Tin lành
Với việc công nhận thêm 08 tổ chức, 01 Ban Đại diện lâm thời, củng cố 2
tổ chức được công nhận trước đó và công nhận trên 500 chi hội, cấp đăng ký
sinh hoạt tôn giáo cho trên 2.300 điểm nhóm, chúng ta đã cơ bản nắm được các
đầu mối quản lý chính ở cấp Trung ương, giúp các địa phương thống kê chính
xác hơn về tình hình đạo Tin lành... Từ đó xây dựng hệ thống dữ liệu về đạo
Tin lành, thuận lợi cho việc theo dõi, cập nhật, đánh giá đúng về tình hình đạo
Tin lành, làm cơ sở thực tiễn cho việc hoạch định chủ trương, chính sách đối
với đạo Tin lành.
3.2.4.2. Về vận động quần chúng
Để nhân dân và các tín đồ Tin lành làm việc đúng theo quy định của pháp
luật, không bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo vi phạm pháp luật nhà nước xâm hại đến
an ninh quốc gia và trật tự xã hội, chính quyền các địa đã rất coi trọng đến
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân, đồng bào DTTS.
Hoạt động của các cơ quan Quân sự, Công an và Bộ đội Biên phòng tại các
địa phương được đẩy mạnh, hàng năm đều có các chương trình, kế hoạch tăng
cường cán bộ đến các địa bàn khó khăn, thực hiện các nhiệm vụ như giáo dục,
tuyên truyền pháp luật cho tín đồ Tin lành; tổ chức khám, chữa bệnh, giúp đỡ
17
các tín đồ làm nhà cửa, ổn định sản xuất và đấu tranh chống lại các âm mưu lợi
dụng đạo Tin lành để làm việc trái pháp luật, xâm hại đến đời sống bình yên của
nhân dân. Vận động tín đồ Tin lành tham gia đấu tranh, phòng ngừa các loại tội
phạm, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, gắn kết với nền quốc phòng toàn dân
trên địa bàn cả nước.
Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy công tác vận động và thuyết phục tín
đồ, chức sắc đạo Tin lành còn chưa được thực hiện tốt, cụ thể: có 66/300 ý kiến
cho là chưa thực hiện tốt, chiếm tỷ lệ 22.0%, trong đó cán bộ, công chức
QLNN là 41/300 ý kiến, chiếm tỷ lệ 20.5%; cán bộ Mặt trận và đoàn thể là
25/100 ý kiến, chiếm tỷ lệ 12,5%.
3.2.4.3. Về đối ngoại và đào tạo bồi dưỡng chức sắc Tin lành
Với việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 01/2005/CT-TTg đã góp
phần quan trọng làm thay đổi quan điểm của nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài
quan tâm đến tình hình tôn giáo và đạo Tin lành ở Việt Nam. Từ chỗ họ quan
ngại đi đến sự chia sẻ, đồng thuận và có những đánh giá tích cực, góp phần đưa
việt nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (tháng 11/2006), thành viên
không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (tháng 7/2007) và buộc
Mỹ đưa nước ta ra khỏi danh sách CPC, ký quy chế Quan hệ Thương mại bình
thường vĩnh viễn với Việt Nam (tháng 12/2006).
3.2.4.4. Về quản lý xét duyệt việc xây dựng các cơ sở, kiến trúc, công trình tôn
giáo của đạo Tin lành
Trong những năm qua, Ban Tôn giáo Chính phủ đã tăng cường phối hợp
với nhiều Bộ ngành và địa phương có liên quan trong việc tham mưu và đề
xuất với Chính phủ tháo gỡ những vấn đề liên quan đến nhà đất tôn giáo; xét
duyệt việc sửa chữa, cải tạo và xây mới những công trình kiến trúc của các tổ
chức, hệ phái, điểm nhóm Tin lành. Với những tham mưu của Ban Tôn giáo,
Chính phủ đã Ban hành Chỉ thị 1940/2012/CT-TTg về nhà, đất tôn giáo. Tuy
nhiên cho đến thời điểm hiện nay việc giải quyết những nhu cầu chính đáng
của các tổ chức, hệ phái, điểm nhóm Tin lành vẫn chưa được các cấp chính
quyền quan tâm đúng mức.
Do thiếu các cơ sở thờ tự, thiếu chính sách về mua bán và sử dụng đất đai
đối với các tổ chức Tin lành trong những năm qua đã dẫn đến nhiều vấn đề nảy
sinh như: Mượn đất xây nhà nguyện trái phép, biến nhà dân thanh nhà nguyện,
khiếu kiện, khiếu nại về đất đai ngày càng diễn ra phức tạp hơn. Ở nhiều địa
phương xảy ra hiện tượng lén lút xây nhà nguyện trái phép trong nương rẫy,
thậm trí có cả những vụ việc xâm hại đến an ninh trật tự có nguyên nhân bắt
nguồn từ lí do đất, đai hoặc xây dựng cơ sở thờ tự.
3.2.5. Hoạt động thanh tra, kiểm tra và hoạt động đấu tranh phòng, chống
hành vi lợi dụng đạo Tin lành xâm hại đến an ninh, trật tự
Hoạt động thanh tra, kiểm tra
Thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo và đạo Tin
lành là công việc rất quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo
được duy trì thường xuyên, có hiệu quả. Hàng năm, Ban Tôn giáo Chính phủ
đã tổ chức nhiều đoàn thanh tra và thanh tra liên ngành nhằm kiểm tra việc
thực hiện các quy định của pháp luật về TNTG, các quy định pháp luật đối với
đạo Tin lành. Bên cạnh đó, việc thanh tra của Ban Tôn giáo Chính phủ cũng
18
nhằm đôn đốc, giải quyết việc nhà, đất liên quan đến tôn giáo nói chung và đạo
Tin lành nói riêng. Ngoài ra, hàng năm Ban Tôn giáo Chính phủ cũng đề nghị
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tự kiểm tra việc thực hiện các pháp
luật và chính sách nhà nước về tôn giáo và đạo Tin lành, gửi báo cáo về Ban
Tôn giáo Chính phủ.
Những địa phương được Ban Tôn giáo Chính phủ tiến hành Thanh tra,
kiểm tra thường xuyên gồm những tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có
những điểm nóng về tôn giáo và đạo Tin lành, những địa phương có tình hình
khiếu kiện, khiếu nại kéo dài liên quan đến tôn giáo trong nhiều năm nhưng
chưa được chính quyền sở tại được giải quyết dứt điểm, đặc biệt là những
địa phương có sự phát triển nóng về đạo Tin lành ở Tây Bắc và Tây Nguyên.
Ban Tôn giáo Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố đã thụ lý và giải quyết trên 300
đơn thư khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo liên quan đến tôn giáo và đạo Tin lành,
trong đó đã giải quyết hoặc chuyển cơ quan nhà nước có thầm quyền giải quyết
71% nội dung, đến nay còn 70 đơn thư đang giải quyết, chiếm gần 30% và chủ
yếu là các nội dung về đất đai, tài sản, cơ sở thờ tự tôn giáo.
Về công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện những chủ trương đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TN, TG và đạo Tin lành
được các cơ quan chức năng thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên vẫn còn những
ý kiến cho là chưa thực hiện có hiệu quả cao, đặc biệt là nội dung kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước của các tổ chức, hệ phái và tín đồ Tin lành. Kết quả khảo
sát là 116/300 ý kiến cho là chưa tốt, chiếm tỷ lệ 38,7%.
Hoạt động đấu tranh phòng chống hành vi lợi dung đạo
Việc triển khai và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 01/2015/CT-TTg đã góp
phần đẩy lùi, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động lợi dụng đạo Tin lành của các
thế lực thù địch. Từ năm 2005 đến nay, vấn đề "Tin lành Đêga" đã được giải
quyết cơ bản, làm thất bại âm mưu, ý đồ sử dụng "Tin lành Đêga" để biểu tình,
bạo loạn và đang tích cực đấu tranh ngăn chặn âm mưu lợi dụng đạo Tin lành
để tập hợp lực lượng lập "Vương quốc Mông" ở các tỉnh phía Bắc. Đối với số
đối tượng Tin lành có hoạt động cực đoan, chống đối đã tổ chức tấn công chính
trị, vô hiệu hóa, cô lập hạ uy tín của đối tượng. Đối với số phải xử lý bằng
pháp luật đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của đa số chức sắc, tín đồ
không để xảy ra phản ứng phức tạp.
3.3. Đánh giá khái quát về thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động
của đạo Tin lành ở Việt Nam trong những năm qua
3.3.1. Những kết quả đạt được
Nhìn nhận lại trong những năm qua, với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, sự
quản lý của các cơ quan làm công tác tôn giáo, chúng ta đã đạt nhiều kết quả
quan trọng trong QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành, có thể khái quát
những kết quả đạt được như sau:
- Thứ nhất, hệ thống luật pháp về TNTG ngày càng được xây dựng và hoàn
thiện.
- Thứ hai, hệ thống cơ quan làm nhiệm vụ QLNN về Tôn giáo ở địa phương
ngày càng được củng cố, kiện toàn toàn hơn về quy mô, tổ chức và biên chế,
phù hợp với tình hình thực tiễn về công tác tôn giáo hơn.
19
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo ngày càng được
củng cố, tăng cường, tăng cả về lượng và chất.
- Thứ tư, thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch về tôn giáo và đạo Tin
lành.
- Thứ năm, tổ chức và triển khai việc đăng ký được nhiều điểm nhóm sinh
hoạt đạo Tin lành cho quần chúng nhân dân có nhu cầu theo đạo, nhìn chung
các điểm nhóm đăng ký sinh hoạt đạo đều chấp hành tốt các chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Hoạt động đạo ổn định, lành mạnh
đúng theo quy định của pháp luật nhà nước.
- Thứ sáu, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của các Ban chỉ
đạo 160, UBND các cấp và của các cơ quan làm công tác tôn giáo đã phát huy
hiệu quả, chủ động, sáng tạo, kịp thời cho nên hiệu quả QLNN về đạo Tin lành
được nâng nên.
- Thứ bảy, các cơ quan Công an, Biên phòng và Quân sự các địa phương đã
có những kế hoạch chủ động, phòng ngừa các loại tội phạm lợi dụng đạo Tin
lành để xâm hại đến an ninh, trật tự.
- Thứ tám, bộ mặt nông thôn, miền núi, biên giới đã có những biến đổi rõ
rệt, cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi ngày càng được xây mới và đầu tư.
- Thứ chín, chính sách khuyến nông, khuyến lâm, giao đất, giao rừng cũng
được các địa phương đẩy mạnh thực hiện làm cho đời sống nhân dân dần có
những biến đổi tốt hơn.
3.3.2. Một số hạn chế, bất cập
- Một số chủ trương, chính sách tôn giáo còn chậm được thể chế hóa.
- Bộ máy QLNN về tôn giáo ở trung ương và ở địa phương trong thời gian
gần đây thiếu tính ổn định.
- Hiện có khoảng trên 400 nghìn người sinh hoạt đạo tại các điểm nhóm
chưa được cấp đăng ký, điều này có nghĩa là 40% số điểm nhóm sinh hoạt đạo
Tin lành chưa được chính quyền quản lý. Đặc biệt, thời gian gần đây việc cấp
đăng ký sinh hoạt tôn giáo theo điểm
- Còn có cách hiểu và vận dụng khác nhau đối với một số nội dung quy
định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Việc triển khai quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở còn mang nặng tính hình
thức, thiếu kiểm tra, đôn đốc.
- Quá trình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội chưa ổn định, bền vững, chưa
giải quyết được vấn đề công ăn, việc làm cho nhân dân.
- Về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và phân công lao động chưa có
chuyển biến.
- Công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm liên quan đến đạo Tin
lành đã có những kết quả nhất định, tuy nhiên chưa phát huy hết hiệu quả.
3.3.3. Nguyên nhân của những kết quả trên
3.3.3.1. Nguyên nhân thành công
- Đạt được những kết quả như trên trước hết là do chúng ta có chủ trương,
đường lối đúng đắn của Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo, công tác
đối với đạo Tin lành ở nước ta trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
- Chính sách, pháp luật nhà nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.
20
- Công tác đối với đạo Tin lành trong thời gian qua nhận được sự quan tâm
của cấp ủy, chính quyền địa phương và sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả
hệ thống chính trị.
- Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác tôn giáo ngày càng được nâng lên.
- Hiệu quả từ những chính sách phát triển kinh tế của nhà nước.
3.3.1.2. Nguyên nhân hạn chế
- Hệ thống pháp luật về TNTG ở nước ta mặc dù đã được bổ sung, tuy
nhiên chưa hoàn thiện, nhiều nội dung, vấn đề phát sinh trong hoạt động tôn
giáo chưa có quy định gây khó khăn cho việc QLNN.
- Các chính sách về nhà đất, pháp nhân tôn giáo; chính sách xây dựng công
trình kiến trúc như nhà thờ, nhà nguyện liên quan đến đạo Tin lành; chính sách
đăng ký điểm nhóm, đăng ký hoạt động; hoạt động của chức sắc, tín đồ còn
nhiều vướng mắc.
- Một số địa phương, chính quyền cấp tỉnh do nhận thức chưa đầy đủ về
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về TNTG.
- Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo còn thiếu tính ổn định. Lực lượng
cán bộ làm công tác tôn giáo còn mỏng, thiếu đồng bộ, thiếu và yếu về chuyên
môn nghiệp vụ. Phương tiện và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác còn nghèo
nàn, lạc hậu; không có chính sách đãi ngộ cán bộ làm công tác tôn giáo.
- Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chính trị và đoàn thể xã hội
còn chưa hiệu quả, mang tính hình thức.
3.3.4. Những vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động
của đạo Tin lành
Qua đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt
Nam, luận án đã chỉ ra một số vấn đề cần nghiên cứu, xem xét trong giai đoạn
kế tiếp: (1) hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động TNTG, đạo
Tin lành; (2) kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy QLNN và đội ngũ cán bộ,
công chức QLNN về tôn giáo các cấp; (3) việc công nhận điểm nhóm và thành
lập chi hội Tin lành; (4) vấn đề cơ sở thờ tự và sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở
thờ tự; (5) vấn đề đào tạo và phong phẩm chức sắc; (6) quản lý các tổ chức,
nhóm, phái Tin lành chưa được công nhận; (7) vấn đề sinh hoạt tôn giáo của
người nước ngoài ở Việt Nam; (8) tham gia xã hội hóa giáo dục, dạy nghề, y tế
từ thiện nhân đạo; (9) nhu cầu hợp nhất và chia tách tổ chức Tin lành độc lập
và (10) vấn đề pháp nhân của tổ chức Tin lành.
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm, phương hướng, nguyên tắc QLNN đối với hoạt động của
đạo Tin lành
4.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tôn giáo và đạo Tin
lành
Ngày 12/3/2003 Ban chấp hành trung ương đã ban hành Nghị quyết 25-
NQ/TW Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành trung ương khóa IX về
Công tác tôn giáo, nội dung Nghị quyết khẳng định: “Hoạt động tôn giáo và
công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
21
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để thực hiện mục tiêu phương hướng, Nghị quyết 25-NQ/TW đã đề ra một
số quan điểm sau:
Thứ nhất, TNTG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng
bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công
với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý
do TNTG. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng TNTG để hoạt động mê tín dị
đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt TNTG đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, làm tốt
công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh
đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có
trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác QLNN đối với
các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ
thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
- Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
- Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo
chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở
thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
- Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà
đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền
đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
4.1.2. Dự báo xu thế phát triển của đạo Tin lành trong những năm tiếp theo
Mặc dù đạo Tin lành ở nước ta trong những năm gần đây có chiều hướng
22
phát triển chậm lại, tuy nhiên xu hướng phát triển gia tăng vẫn là chủ yếu. Từ
năm 2010 đến năm 2015, đạo Tin lành tăng lên khoảng trên 110.000 tín đồ, lên
khoảng một triệu tín đồ của khoảng gần 100 nhóm, hệ phái Tin lành trên phạm
vi cả nước.
Trong thời gian tới, với sự mở cửa hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước,
cùng với sự bùng nổ của khoa học và công nghệ; thông tin và truyền thông thì
đạo Tin lành được dự báo là vẫn sẽ phát triển mạnh ở nước ta, có thể có thêm
những tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành mới. Quy mô tín đồ đạo Tin lành vẫn
tiếp tục gia tăng, số lượng người nước ngoài có nhu cầu sinh đoạt đạo Tin lành
ở Việt Nam tăng mạnh, đặc biệt ở TP. Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh có nhiều khu công nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài. Hoạt động của các
tổ chức, hệ phái Tin lành vẫn diễn ra phức tạp, vấn đề lợi dụng đạo Tin lành để
xâm phạm đến an ninh, trật tự vẫn tiếp tục diễn ra ở một số địa phương,
4.1.3. Phương hướng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành
Ngày 04/2/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 01/2005/CT-
TTg Về một số công tác đối với đạo Tin lành. Nội dung chỉ thị thể hiện một số
những định hướng sau đối với đạo Tin lành ở nước ta hiện nay, cụ thể:
- Tổ chức quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện đầy đủ các chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TNTG và chính sách đối với đạo Tin
lành; đồng thời tổ chức thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện
để đồng bào theo đạo Tin lành gắn bó với cộng đồng, tham gia ngày càng tốt
hơn các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng cường công tác tuyên truyền vận động và tạo điều kiện thuận lợi để
các chức sắc, tín đồ Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về TNTG, đưa sinh hoạt của đạo Tin lành đi vào nền nếp bình
thường, phù hợp với pháp luật; động viên mọi chức sắc, tín đồ sống ''tốt đời,
đẹp đạo'', ''phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc''.
- Hướng dẫn, giúp đỡ Tổng hội HTTL Việt Nam (MB) và Tổng Liên hội
HTTL Việt Nam (MN) thực hiện các hoạt động tôn giáo đúng theo Hiến
chương, Điều lệ của giáo hội và tuân thủ các quy định của pháp luật.
Do có sự khác biệt giữa các hệ phái Tin lành ở các vùng miền nên có những
chính sách lộ trình cụ thể thực hiện khác nhau:
Đối với đồng bào theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên, Nam Trường Sơn và các
tỉnh miền Trung:
+ Tiếp tục xem xét công nhận các Chi hội thuộc Tổng Liên hội HTTL Việt
Nam (MN) và tạo điều kiện thuận lợi để các Chi hội này xây dựng nơi thờ tự,
đào tạo và bố trí chức sắc hướng dẫn việc đạo cho các Chi hội đã được công
nhận theo quy định của pháp luật.
+ Đối với những nơi chưa đủ điều kiện để được công nhận lập chi hội, nếu
đồng bào theo đạo ở đó có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo thuần túy, cam kết chấp
hành các quy định của pháp luật, không hoạt động cho bọn phản động Fulrô,
không dính líu đến “Tin lành Đê Ga” thì chính quyền xã, phường tạo điều kiện
cho đồng bào thực hiện các sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình hoặc
chấp thuận cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo tại địa điểm thích hợp trong
23
buôn, làng.
Đối với số đồng bào ở miền núi phía Bắc căn cứ vào nhu cầu tín ngưỡng để
có chủ trương thích hợp theo hướng:
+ Hướng thứ nhất: đối với bộ phận đồng bào đã có thời gian theo đạo Tin
lành và có nhu cầu tín ngưỡng thực sự, trước mắt hướng dẫn cho đồng bào sinh
hoạt tôn giáo tại gia đình, hoặc nơi nào có nhu cầu thì hướng dẫn cho đồng bào
đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm thích hợp tại bản, làng. Khi hội đủ các điều
kiện thì tạo thuận lợi cho đồng bào sinh hoạt tôn giáo bình thường theo quy
định của pháp luật.
+ Hướng thứ hai: đối với bộ phận đồng bào đã theo đạo, nay có nhu cầu trở
lại với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình, cần tạo điều kiện, giúp đỡ để
đồng bào thực hiện ý nguyện đó.
- Thông báo công khai cho đồng bào biết rõ những người đội lốt chức sắc
Tin lành để hoạt động chống phá đất nước, gây chia rẽ dân tộc và những hành
vi vi phạm pháp luật của họ, cũng như biện pháp xử lý và chính sách khoan
hồng của Nhà nước ta. Xử lý nghiêm theo pháp luật những người hoạt động
truyền đạo trái pháp luật.
- Đối với các tổ chức hệ phái Tin lành chưa đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật để công nhận tư cách pháp nhân, nếu xét thấy thực sự có nhu cầu tín
ngưỡng thì hướng dẫn cho họ thực hiện việc đăng ký sinh hoạt đạo với chính
quyền xã, phường.
4.2. Giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở
Việt Nam hiện nay
Qua nghiên cứu những cơ sở lý luận và điều tra thực tiễn QLNN đối với
hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam, luận án đã xây dựng được một hệ
thống bao gồm bẩy giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt
động của đạo Tin lành ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
- Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động tín đồ, chức sắc đạo Tin lành.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, chính sách về tôn giáo và đạo Tin
lành.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội vùng có đông người theo
đạo Tin lành, vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa.
- Tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo của đạo Tin lành; đấu tranh,
phòng chống lợi dụng đạo Tin lành xâm hại đến an ninh, trật tự.
- Gắn chính sách tôn giáo với chính sách dân tộc, tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo
Tin lành
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết triệt để những khiếu nại, tố cáo liên quan
đến QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành.
4.3. Những khuyến nghị
Qua việc nghiên cứu những cơ sở lý luận và điều tra thực tiễn, luận án đã
đưa ra một số những khuyến nghị đối với Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ;
các bộ ngành liên quan và chính quyền các địa phương trong việc thực hiện có
hiệu quả hơn QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở nước ta hiện nay.
24
KẾT LUẬN
Qua triển khai nghiên cứu đề tài luận án “Quản lý Nhà nước đối với hoạt
động của đạo Tin lành ở Việt Nam”, tác giả đã đạt được những kết quả nghiên
cứu, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đã khái quát hóa được hệ thống các công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài luận án gồm các công trình, dữ liệu nghiên cứu sau: những
công trình nghiên cứu, những tác phẩm, bài báo, tạp chí, nghiên cứu về đạo Tin
lành trên thế giới của các học giả trong và ngoài nước. Các công trình khoa học
liên quan đến chủ đề đạo Tin lành và QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành.
Trên cơ sở đó tác giả đã phân tích và hệ thống hóa các công trình, tài liệu,
dữ liệu liên quan đến và rút ra những nhận xét khái quát về những nội dung kết
quả đạt được, những khía cạnh mà học giả đi trước chưa quan tâm, chưa được
nghiên cứu sâu; từ đó xác định được vấn đề chính, những phương hướng mới
mà luận án phải tập trung nghiên cứu.
Thứ hai, luận án đã khái quát hóa được hoàn cảnh và điều kiện ra đời và
quá trình truyền bá đạo Tin lành ra thế giới, sự phát triển của đạo Tin lành ở
Mỹ, ở Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Nghiên cứu khái quát giáo lý, giáo luật,
lễ nghi của đạo Tin lành; khái quát về hàng giáo phẩm; các tổ chức, hệ phái
của đạo Tin lành trên thế giới hiện nay; đưa ra những luận chứng cơ sở khoa
học QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành. Thông qua nghiên cứu, luận án
đã xác định được chủ thể và đối tượng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành; xác định được những nội dung và phương pháp QLNN đối với hoạt động
của đạo Tin lành ở Việt Nam.
Tìm hiểu những kinh nghiệm QLNN về tôn giáo và đạo Tin lành của Trung
quốc, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong
QLNN đối với hoạt động của các tôn giáo nói chung và đạo Tin lành nói riêng
hiện nay.
Thứ ba, để tìm hiểu thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở
Việt Nam, tác giả đã tổ chức triển khai nghiên cứu, điều tra thực tiễn về tình
hình hoạt động của đạo tin lành và QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành
trên địa bàn cả nước. Thông qua nghiên cứu, điều tra thực tiễn và nghiên cứu
những tài liệu thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo các địa
phương, tác giả đã tổng hợp, mô tả, phân tích và đánh giá khá đầy đủ, chi tiết
về thực trạng đạo Tin lành và thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành ở Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở nghiên cứu những cơ sở khoa học và điều tra nghiên cứu
thực tiễn về thực trạng QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam;
thông qua nghiên cứu các quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam; tìm hiểu và nghiên cứu những định hướng và chính sách của nhà
nước ta về tôn giáo và đạo Tin lành; dựa trên những luận chứng thu thập được
và thông qua công tác đánh giá, phương pháp chuyên gia tác giả đã đề xuất
một hệ thống bảy nhóm giải pháp, nhằm quản lý có hiệu quả hơn đối với hoạt
động của đạo Tin lành ở nước ta hiện nay.
25
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
STT
Tác
giả
Tên công trình
Cơ quan ban hành/
nghiệm thu
Năm
xuất bản
1
Vũ
Thế
Duy
Công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo ở Lai
Châu
Tạp chí Quản lý Nhà
nước
12/2012
2
Vũ
Thế
Duy
Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về Tôn
giáo ở nước ta hiện nay
Tạp chí Quản lý Nhà
nước
12/2016
3
Vũ
Thế
Duy
Hoàn thiện Tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về
tôn giáo ở nước ta hiện
nay
Tạp chí Khoa học Nội
vụ
3/2017
4
Vũ
Thế
Duy
Quản lý nhà nước đối với
hoạt động của đạo Tin
lành ở nước ta hiện nay
Tạp chí Khoa học
giáo dục, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh
5/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_hoat_dong_cua_dao_t.pdf