hần này trình bày chi tiết về nội dung của từng bước trong quy trình ứng dụng Internet
Marketing theo mô hình đề xuất, bao gồm nội dung công việc của các bước:
- Phân tích môi trường hoạt động của Marketing và Internet Marketing
- Phân tích khách hàng và hành vi trực tuyến của khách hàng
- Xác lập các mục tiêu và chiến lược Marketing, trong đó có nội dung chiến lược
Marketing trong môi trường thực và trong môi trườngInternet.
- Phát triển các chính sách E-marketing mix, quản lý sự hiện diện điện tử và quản trị
quan hệ khách hàng trực tuyến, trong mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách này
trong môi trường thực tế.
- Lên kế hoạch hành động, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá
12 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2425 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt luận án Quy trình ứng dụng Internet Marketing tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u kiện tiếp cận với thông tin về những phương tiện, công cụ hay
hình thức KD mới và hiện đại. Những đặc điểm này làm cho hiệu quả hoạt động KD của họ
bị hạn chế. Do đó, luận án xác định đây là nhóm DN cần sự hỗ trợ về mặt lý luận khoa học
để tìm ra một cách thức phù hợp với điều kiện và khả năng hiện có của mình, nâng cao hiệu
quả hoạt động để phát triển. Đồng thời, cũng loại bỏ ra khỏi mẫu điều tra những DN đặc thù
mà không có tính điển hình hay đại diện cho những DN thông thường khác.
Liên quan đến thời gian và không gian nghiên cứu và khảo sát:
- Về mặt không gian: nghiên cứu tập trung trên địa bàn Hà Nội và mở rộng sang các DN
ở địa bàn khác, nhưng được xác định không ảnh hưởng đến tính đại diện của mẫu cho
tổng thể nghiên cứu.
- Thời gian: Do đề tài rất mới nên tác giả gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình nghiên
cứu, khiến cho toàn bộ quá trình nghiên cứu bị kéo dài trong thời gian hơn 6 năm từ
tháng 9 năm từ 2006 đến tháng 10 năm 2012. Tuy nhiên, hoạt động điều tra xã hội học
đối với mẫu chính thức được thực hiện trong vòng 7 tháng từ tháng 4/2012 đến tháng
11/2012. Điều này nhằm đảm bảo tính thời sự cho kết quả nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Phương pháp luận tiếp cận nghiên cứu: Quan điểm thực tiễn; Quan điểm hệ thống;
Quan điểm lịch sử.
5.2. Nguồn dữ liệu của luận án
5
5.2.1. Nguồn dữ liệu thứ cấp
- Lý thuyết IM: sưu tầm từ giáo trình và tài liệu tham khảo của nhiều trường đại học lớn
trên thế giới.
- Dữ liệu về điều kiện môi trường kinh doanh tại VN và điều kiện ứng dụng TMĐT nói
chung, IM nói riêng: các ấn bản được công bố chính thức bởi các tổ chức và cơ quan uy
tín của VN và quốc tế; các đề tài nghiên cứu và luận án đã được công nhận.
- Dữ liệu về nguồn lực KD và khả năng DN: lấy từ dữ liệu đã công bố của hiệp hội
DNVVN VN và các báo cáo khảo sát DN đã công bố chính thức.
5.2.2. Nguồn dữ liệu sơ cấp
Để có cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất quy trình IM, luận án đã áp dụng phương pháp điều
tra xã hội học ứng dụng trong nghiên cứu marketing được áp dụng để mô hành vi ứng dụng
IM của các DNVVN VN, được thực hiện qua 3 bước:
- Bước 1: Tổng hợp các nguồn dữ liệu thứ cấp
- Bước 2: Thiết kế và thực hiện nghiên cứu định tính (phỏng vấn cá nhân chuyên sâu, bán
cấu trúc), với 28 lãnh đạo và quản lý DN.
- Bước 3: Thiết kế và thực hiện nghiên cứu định lượng, với quy mô mẫu thực hiện là 491
đơn vị (thoả mãn điều kiện ≥ 400 phần tử mẫu, tính theo công thức tính mẫu suy diễn
về tỷ lệ và áp dụng phép chọn không lặp, độ tin cậy 95.44% và phạm vi sai số chọn mẫu
≤ 5%); phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên (phương pháp thuận tiện kết hợp với lấy
mẫu tích luỹ); phương pháp tiếp xúc với đối tượng là trực tiếp hoặc gián tiếp (gửi phiếu
để đáp viên tự điền).
5.3. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
5.3.1. Phân tích dữ liệu thứ cấp
- Dữ liệu là lý thuyết và quy trình ứng dụng IM, áp dụng các phương pháp: (1) Phân tích
và tổng hợp lý thuyết; (2) Phân loại và hệ thống hoá lý thuyết; (3) Mô hình hoá; (4) Tư
duy khoa học diễn dịch và quy nạp.
- Dữ liệu về thực tiễn môi trường và điều kiện thực hiện IM của các DN, áp dụng các
phương pháp: (1) Quan sát khoa học, (2) Chuyên gia.
5.3.2. Phân tích dữ liệu sơ cấp
- Dữ liệu định tính: gỡ băng và xử lý thủ công (tổng hợp ý kiến, đếm tần suất từ quan
trọng, xây dựng cây ý tưởng…).
- Dữ liệu định lượng: các biến dùng thang đo định danh và thang đó thứ bậc được xử lý
bằng các phép toán thống kê mô tả căn bản (phân tích tần suất, xử lý tách nhóm, tính
mode), với các biến dùng thang đo khoảng cách được xử lý thêm một số phép toán về
tính trung bình số học và độ lệch chuẩn. Áp dụng thống kê suy diễn là phép kiểm định
tỷ lệ nhằm kiểm định kết quả từ mẫu đối với tổng thể. Phần mềm sử dụng là SPSS 20.0
for MacOS.
6. Kết quả và những đóng góp mới của Luận án
6.1. Những kết quả đạt được của luận án:
- Hệ thống hoá và có đóng góp bổ sung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm,
bản chất, lợi ích của IM.
- Nghiên cứu các mô hình ứng dụng IM trên thế giới làm cơ sở để vận dụng vào quá
trình xây dựng mô hình quy trình hoạt động IM ở VN.
6
- Đã tiến hành thu thập, khảo sát, phân tích và đánh giá có hệ thống về nhận thức, điều
kiện, khả năng ứng dụng và thực trạng ứng dụng của IM ở các DNVVN VN.
- Luận án đã đưa ra các giải pháp cụ thể, có tính khả thi cao nhằm ứng dụng của IM ở các
DNVVN VN.
6.2. Những đóng góp mới của Luận án:
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận và thực tiễn:
- Tổng hợp và xác định được 4 quy trình ứng dụng IM điển hình trên thế giới hiện nay,
bao gồm (1) e-marketing thương mại điện tử; (2) 4S web – marketing; (3) hành vi người
tiêu dùng trên Internet và marketing – mix; (4) mô hình chiến lược IM. Trong đó mỗi
quy trình đã xác định các bước, các công cụ sử dụng, mối quan tâm chủ yếu, đồng thời
phân tích ưu điểm và hạn chế về khả năng triển khai ứng dụng quy trình đó tại Việt
Nam.
- Dựa trên điều tra thực tế, phát hiện được những nguyên nhân cơ bản nhất ảnh hưởng
đến sự hạn chế trong ứng dụng IM tại đa số các DNVVN VN, bao gồm:
o Hiểu sai lệch hoặc không đầy đủ về bản chất, vai trò, tác dụng, điều kiện ứng dụng và
các công cụ của IM.
o Hạn chế về khả năng tự thực hiện hoạt động IM, cũng như khả năng quản lý trong
trường hợp thuê bên ngoài thực hiện.
o Xu hướng tách rời việc quản lý hoạt động IM ra khỏi chiến lược Marketing và các
hoạt động Marketing trong môi trường thực tế.
- Từ kết quả điều tra, phát hiện rằng DN nào càng hiểu đúng và đủ về IM thì càng ứng
dụng đúng và mang lại kết quả cao hơn, do đó càng sẵn sàng đầu tư cho hoạt động này
và ngược lại.
Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu
- Quy trình ứng dụng IM phù hợp với đặc thù của các DNVVN và bối cảnh của VN trong
đó có các điểm mới so với các quy trình hiện tại là:
o Ứng dụng sự thấu hiểu về khách hàng và hành vi khách hàng vào tất cả các bước
trong quy trình.
o Phối hợp các bước và công cụ của MKT truyền thống với các bước và công cụ MKT
trên Internet.
o Chiến lược nội dung và quản lý sự hiện diện điện tử.
- Cách thức xây dựng, sắp xếp và khai thác hệ thống thông tin MKT điện tử, trong đó
nhấn mạnh vào 2 nội dung quan trọng: (1) sử dụng Internet để thu thập thông tin về
hành vi KH ở tất cả các điểm tiếp xúc; (2) sử dụng các biện pháp nghiên cứu MKT
trong môi trường Internet.
7. Kết cấu của luận án:
Luận án gồm các phần sau đây
- Phần mở đầu
- Chương 1: Tổng quan các kết quả nghiên cứu lý thuyết về quy trình và cách thức ứng
dụng IM
- Chương 2: Khảo sát thực trạng làm cơ sở đề xuất quy trình IM cho các DNVVN VN
- Chương 3: Đề xuất quy trình ứng dụng IM tại các DNVVN VN
- Phần kết luận
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT VỀ QUY TRÌNH VÀ
CÁCH THỨC ỨNG DỤNG INTERNET MARKETING
*****
1.1 Các cách hiểu về Internet Marketing và phạm vi của Internet Marketing
Có nhiều cách gọi và cách hiểu liên quan đến IM đã được giới thiệu trên thế giới, từ những
cách gọi mang nghĩa khá rộng như e-MKT, MKT điện tử, MKT trên mạng Internet hay
MKT trực tuyến, TMĐT, kinh doanh điện tử…cho đến những cách gọi mang nghĩa hẹp
hơn và rất thiển cận như email MKT, quảng cáo và tiếp thị trực tuyến. Cũng như các
cách hiểu sai lầm về MKT tại Việt Nam trong thời gian trước đây, các cách gọi và cách
hiểu như trên đưa đến những cách thức áp dụng khác nhau, dẫn đến hiệu quả và khả
năng ứng dụng hình thức MKT này là rất khác nhau ở các DN.
Từ các cách hiểu này, có thể nhận thấy rằng, trước hết về mặt hình thức thì mặc dù xuất
hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau là IM, MKT điện tử, MKT trực tuyến, MKT kỹ thuật
số (digital MKT)…, nhưng nội dung thì đều đề cập đến việc áp dụng các công nghệ số
có kết nối và trao đổi dữ liệu trên nền Internet để làm MKT, bao gồm máy tính, truyền
hình tương tác, điện thoại, thiết bị số.... Tuy nhiên, như đã đề cập, phạm vi của đề tài
này sẽ chỉ tập trung nghiên cứu về cạnh chính là Internet, không tập trung vào các nhánh
phát sinh của nó, tức là các thiết bị có kết nối và trao đổi dữ liệu trên nền Internet, hay
nói cách khác sẽ không nghiên cứu về các vấn đề cụ thể như làm MKT qua điện thoại di
động, MKT trên truyền hình tương tác hay MKT dựa trên địa điểm của KH (location
based MKT) như thế nào.
Bản chất và nguyên lý MKT không thay đổi, vẫn là một quá trình quá trình trao đổi
thông tin và hành vi kinh tế, từ việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch đến tiến hành và
kiểm tra việc sử dụng các công cụ MKTphù hợp để đưa SP, dịch vụ, ý tưởng đến với
KH/TTr. Tuy nhiên, có một số điểm khác biệt cơ bản:
- Phương thức tiến hành IM khác với MKT trong môi trường thực: về quy trình, công
cụ, nội dung trọng tâm của chiến lược, các nguyên tắc chỉ đạo…
- Các yếu tố thuộc môi trường hoạt động MKT trên Internet được thay đổi, mở rộng
và có những sự thay đổi về khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động IM của DN.
- Thị trường người mua hiện tại và tiềm năng có sự thay đổi do khả năng tiếp cận của
Internet; Phương thức và quy tắc giao dịch với KH cũng có sự thay đổi.
Ngoài ra, cũng cần phân biệt IM với các khái niệm có liên quan:
- Kinh doanh điện tử (E-business) là tập hợp tất cả các hoạt động thuộc về chức năng
kinh doanh của một DN đảm nhận, liên quan đến việc thu hút và duy trì các KH và
các đối tác kinh doanh đúng cho DN, được thực hiện trên môi trường điện tử.
- TMĐT là sự trao đổi thông tin thông qua mạng điện tử, tại bất kỳ công đoạn nào
của chuỗi cung ứng, cho dù nó được thực hiện trong nội bộ một tổ chức, hoặc giữa
các DN khác nhau, giữa DN và KH, hay giữa khu vực công cộng và khu vực tư
nhân; cho dù nó có được trả tiền hay không được trả tiền.
8
- MKT trực tiếp, về mặt bản chất, là một trong các công cụ của xúc tiến hỗn hợp hay
truyền thông MKT; đó là một hình thức truyền thông hiện đại, nó kết hợp các hình
thức truyền thông truyền thống là quảng cáo, xúc tiến bán và bán hàng cá nhân, tác
động tới KH, mục đích là bán được hàng mà không cần qua trung gian phân phối.
Mục tiêu của MKT trực tiếp là cung cấp cho KH những thông tin về SP có thể đáp
ứng nhu cầu và ước muốn của họ nhằm tạo ra các phản ứng đặt mua hàng trực tiếp
và có thể đo lường của thị trường.
Như vậy, so với các khái niệm trên đây, IM có một phần giao thoa nhưng không trùng
khớp về nội hàm, phạm vi, cách tiếp cận cũng như công cụ.
Ngoài ra, luận án cũng đã tập hợp các nghiên cứu và quan điểm về vai trò, lợi ích và khả
năng ứng dụng của IM trong hoạt động kinh doanh của các DN.
1.2. Các nghiên cứu ứng dụng quy trình Internet Marketing điển hình trên thế giới
Trong quá trình nghiên cứu của mình, tác giả chưa tìm được một tài liệu nào trình bày
một cách đầy đủ và chính thống về vấn đề này, các kiểu quy trình hay cách thức hoạt
động Internet marketing được trình bày dưới đây là sự tổng kết cô đọng từ sự tương tự
của các lý thuyết, tài liệu hướng dẫn và cách thức áp dụng trong thực tiễn của các DN,
với tên gọi của mỗi kiểu mô hình là do tác giả tự đặt sao cho phản ánh được một cách cô
đọng nhất nội dung chính và tinh thần của mỗi loại.
1.2.1. Mô hình e-marketing thương mại điện tử
Đây là mô hình hoạt động Internet marketing dựa trên nền TMĐT, hay nói cách khác là
các cách thức làm marketing trên mạng của các DN theo cách là một sự hỗ trợ cho các
hoạt động marketing trong môi trường thực, nhằm để tiêu thụ SP hàng hóa đã sản xuất,
hướng đến những KH có thói quen sử dụng Internet.
Hình 1: Quy trình ứng dụng Internet Marketing theo mô hình hoạt động TMĐT
Mô hình này tương đối đơn giản và đã được áp dụng ở rất nhiều DN trên khắp thế giới,
đặc biệt trong thời kỳ sơ khai của TMĐT nói chung và IM nói riêng. Ưu điểm của nó là
dễ áp dụng, không đòi hỏi nhiều nhân lực có trình độ cao và sự phối hợp giữa các bộ
phận DN với nhau; phù hợp cả với những DN hoạt động IM ở cấp độ đơn giản nhất,
tương đối dễ áp dụng cả với những DN hoạt động ở cả thị trường tổ chức và thị trường
cá nhân.
9
Song hạn chế của mô hình là ở chỗ nó quá đơn giản, mang tính chất tác nghiệp nhiều
hơn là tính chiến lược, không bao quát được các yếu tố chi phối đến sự thành công hay
thất bại của một chiến lược MKT trực tuyến, do đó nó chỉ thích hợp với những DN
thương mại với quy mô nhỏ và phạm vi hoạt động giới hạn ở một (vài) dòng/chủng loại
SP nhất định. Hạn chế khác là nó tỏ ra không hữu dụng trong trường hợp muốn đánh giá
để nâng cấp hoạt động marketing điện tử lên một tầm cao mới hoặc trong trường hợp
ứng phó với những thay đổi từ môi trường. Mô hình này có thể dễ dàng ứng dụng ở các
DN thương mại vừa và nhỏ ở Việt Nam có các điều kiện tương tự như thế.
1.4.2. Mô hình 4S web – marketing
Đây là mô hình ra đời trong khoảng những năm 1997, sau này được tiến sỹ Efthymios
Constantinides (Hà Lan) phát triển thêm. Nó được xây dựng trên tinh thần kết hợp hoàn
hảo giữa các hoạt động trong môi trường ảo vào trong các chiến lược kinh doanh, kế
hoạch marketing thực tế và tiến trình tổ chức của DN.
Hình 2: Quy trình ứng dụng Internet Marketing theo mô hình 4S-web
Ưu điểm của quy trình ứng dụng này là ở chỗ, nó đã xác định được cả những vấn đề
chiến lược, hoạt động, tổ chức và công nghệ chi phối đến sự thành công của hoạt động
IM; phương pháp này cũng đã giới thiệu cách tiếp cận đến cả những vấn đề chiến lược
và những vấn đề tác nghiệp của quy trình hoạt động IM.
Tuy nhiên, quy trình ứng dụng này cũng có một số hạn chế hay những điểm bất lợi của
nó. Dễ thấy nhất là ở tính phức tạp, tương đối khó áp dụng do nó đòi hỏi một kiến thức
rất vững vàng về hành vi người tiêu dùng trực tuyến, cũng như là các kiến thức về
chuyên môn, marketing và CNTT và truyền thông khác. Chính điều này sẽ cản trở khả
năng ứng dụng của mô hình, vì không phải lúc nào những kiến thức như vậy cũng sẵn
có, đặc biệt là ở các DN vừa và nhỏ của Việt Nam hiện nay. Một nhược điểm nữa là nó
quá tập trung vào yếu tố website mà không đề cập đến các yếu tố hiện diện điện tử
ngoài webstie và các công cụ IM khác, cũng như nội dung của chúng. Do đó áp dụng
mô hình này dễ rơi vào cái nhìn thiển cận và hạn hẹp về IM, khó phát huy hiệu quả với
thế hệ web tương tác 2.0 như hiện nay. Thêm vào đó , mô hình này chỉ được phát triển
10
để cho các ứng dụng B2C, do đó các DN hoạt động riêng có hoặc đồng thời cả trên lĩnh
vực B2B thì khó áp dụng đạt hiệu quả tối ưu.
1.4.3. Mô hình hành vi người tiêu dùng trên Internet và marketing mix
Mô hình này được phát triển dựa trên tinh thần lấy KH mục tiêu là trung tâm và là xuất
phát điểm của mọi nỗ lực marketing. Mô hình này được giới thiệu bởi các nhà nghiên
cứu của Mỹ và được dùng nhiều nhất ở quốc gia này, điển hình với các tác giả George
E. Belch, Philip Kotlers, Judy Strauss và cộng sự, ...Mô hình này được các DN theo
trường phái MKT truyền thống ưa chuộng, vì nó cùng một triết lý so với chiến lược
MKT trong môi trường thực tế. Và sở dĩ nó được tác giả gọi tên như vậy cũng vì nội
dung trọng tâm/cốt lõi của mô hình chính là về hành vi NTD trên Internet và xác định
các chiến lược MKT mix để đáp ứng và khai thác họ.
Ưu điểm của mô hình này nằm ở tính thân thiện của nó, đặc biệt đối với những người
theo lý thuyết truyền thống về MKT; và do tính thân thiện nên nó cũng trở nên dễ áp
dụng, đặc biệt là khi mô hình đưa ra một quy trình mang tính công thức cho phép người
sử dụng có thể vận dụng một cách dễ dàng nhờ việc thực hiện tuần tự các bước của mô
hình; đồng thời dễ dàng tham khảo các tài liệu vô cùng phong phú và đa dạng về các kỹ
thuật thực hiện để làm tăng hiệu quả áp dụng. Áp dụng mô hình này cũng cho phép rà
soát một cách tương đối tổng quát về các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược MKT trực
tuyến, bao gồm cả các yếu tố chiến lược và các yếu tố chiến thuật. Hơn nữa, xuất phát
điểm và cốt lõi của mô hình là sự hiểu thấu KH – người dùng Internet, điều này có thể
cho phép nhà kinh doanh đưa ra được nhiều chiến lược và nỗ lực MKT dành được sự
đồng tình của KH – mấu chốt để giữ KH trung thành trên Internet.
Tuy nhiên mô hình này cũng có một số hạn chế. Thứ nhất, nó chưa bao quát được đầy
đủ các yếu tố có ảnh hưởng đến chiến lược IM, ví dụ như các yếu tố công nghệ, kỹ
thuật, nguồn lực của DN đặc biệt là nguồn nhân lực, các vấn đề về hạ tầng công nghệ,
thiết kế, thực hiện và quản trị website…Tính không chi tiết của mô hình này cũng sẽ đòi
hỏi người áp dụng phải có một khối lượng kiến thức nền tảng khá rộng và sâu, và phải
nghiên cứu sưu tầm thêm các kiến thức bổ sung. Về mặt khoa học, việc đánh đồng CRM
là một trong các công cụ MKT- mix khiến người áp dụng không thấy được tính chiến
lược và tầm quan trọng của nó ảnh hưởng đến toàn bộ chương trình MKT mà có xu
hướng thiên về “thực hiện” mà không thấy tính chiến lược của nó. Ngoài ra, tính hấp
dẫn của sự hiện diện điện tử chỉ được coi là một phần của chiến lược truyền thông MKT
điện tử và MKT quan hệ trực tuyến, điều này chưa làm cho người áp dụng hiểu được và
ứng dụng hiệu quả nội dung này. Đây chính là lý do cơ bản khiến cho rất nhiều DN chỉ
tập trung đầu tư vào website với những phần mềm vượt trội mà bỏ quên việc cần phải
đầu tư liên tục cho chiến lược nội dung để duy trì tính hấp dẫn của sự hiện diện điện tử–
thực trạng của rất nhiều DN Việt nam khi hoạt động TMĐT nói chung và IM nói riêng.
Một hạn chế khác là mô hình này dường như tách rời giữa các hoạt động marketing trên
mạng Internet với các hoạt động MKT trong môi trường thực, do đó không phát huy
được hiệu quả các hoạt động MKT về mặt tổng thể, đồng thời làm cho người áp dụng sẽ
cảm thấy lúng túng trong việc sắp xếp và tổ chức nhân viên thực hiện. Nhược điểm này
11
sẽ là một yếu tố cản trở nhiều DNVVN VN áp dụng mô hình, vì hầu hết trong số họ đều
hoạt động đồng thời cả trực tuyến, ngoại tuyến và cả trong môi trường thực.
Hình 3: Quy trình ứng dụng Internet Marketing theo mô hình Hành vi người tiêu dùng trên
Internet và Marketing mix
1.4.4. Mô hình chiến lược Internet marketing
Mô hình khá phổ biến trên toàn thế giới này được nhà nghiên cứu IM nổi danh là
Dave Chaffey và các cộng sự của ông phát triển, hiện nay quy trình này đã được phổ
biến khá rộng rãi tại Mỹ và Châu Âu.
Ưu điểm của mô hình này tương tự với ưu điểm của mô hình số 3, ở quy trình khá thân
thiện của nó với người sử dụng, đặc biệt là VN. Ưu điểm khác là nó nghiên cứu khá đầy
đủ và chi tiết các yếu tố tác động và ảnh hưởng đến chiến lược marketing trên mạng của
DN, bao gồm cả những yếu tố chiến lược và những yếu tố chiến thuật. Một điểm tốt hơn
của mô hình này so với mô hình số 3 là các yếu tố quan trọng được tách ra nghiên cứu
chi tiết, đồng thời cho thấy được tính tương tác và chi phối lẫn nhau giữa các yếu tố cấu
thành mô hình, khiến cho người áp dụng vừa có cái nhìn chi tiết đồng thời vẫn bao quát
được tính chiến lược của toàn bộ mô hình.
Hình 4: Mô hình chiến lược Internet Marketing
12
Hạn chế của mô hình là ở sự đòi hỏi kiến thức nền tảng rất tốt của người áp dụng, cả về
kiến thức tổng quát lẫn kiến thức chi tiết. Ngoài ra, mặc dù mô hình cho thấy được tầm
chiến lược nhưng lại thiếu đi hướng dẫn thực hành về mặt chi tiết. Do đó, với kiến thức
và nhận thức còn hạn chế của các DNVN về IM, để áp dụng thành công nó cần phải
được chi tiết hóa nhưng vẫn phải đảm bảo tính đơn giản. Ngoài ra, nó vẫn làm cho
người đọc dễ hiểu lầm rằng nó độc lập với hoạt động Marketing trong môi trường thực.
Mô hình này cũng không nhấn mạnh vào việc tìm hiểu chi tiết hành vi của KH mục tiêu
mà việc này chỉ được đặt quan tâm như là một trong các yếu tố của môi trường vi mô.
Điều này khó đảm bảo sự thành công cho các hoạt động tương tác và cá nhân hoá của
IM. Một nhược điểm quan trọng khác là sự hiện diện điện tử được thực hiện sau khi xác
định chiến lược IM, cũng như lựa chọn các công cụ Marketing mix và chương trình
quan hệ khách hàng CRM. Điều này sẽ dẫn đến việc sự hiện diện điện tử hoàn toàn
không được định hướng chiến lược về mặt địa điểm và nội dung, dễ dẫn đến việc các
DN sáng tạo tuỳ tiện cho sự xuất hiện điện tử của mình, do đó thương hiệu sẽ mất đi
điểm tập trung và/hoặc gây những tác động không mong muốn đến hình ảnh.
Tổng kết lại, nghiên cứu về IM, mặc dù không phải là một vấn đề quá mới mẻ, nhưng
do tính đặc thù của nó (về các đặc điểm công nghệ, tính thay đổi nhanh, điều kiện ứng
dụng...) nên các kết quả nghiên cứu cả trong và ngoài nước vẫn còn tản mạn, không tập
trung và chưa thống nhất. Các nghiên cứu về ứng dụng IM được tác giả tập hợp trong 4
nhóm, theo quy trình và cách thức ứng dụng, từ đó phân tích về nội dung, hoàn cảnh ra
đời, các ưu điểm, hạn chế và điều kiện ứng dụng của mỗi nhóm. Với cả 4 nhóm này, tác
giả cho rằng, chưa có một quy trình hay cách thức ứng dụng nào là hoàn toàn phù hợp
và dễ sử dụng trong điều kiện các DNVVN VN như đã phân tích trong bối cảnh nghiên
cứu của đề tài. Điều này là do những hạn chế chung của các mô hình này, bao gồm: (1)
tính không thân thiện, không phù hợp với cách nghĩ, cách làm và cách quản lý hoạt
động marketing của các DNVN hiện nay; (2) tính không đủ khái quát hoá tất cả các yếu
tố liên quan đến chiến lược IM, đồng thời không đủ chi tiết để hướng dẫn thực hiện; (3)
không đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu hành vi NTD để đưa ra các chiến lược và chiến
thuật phù hợp với các đặc điểm hành vi của người VN – cụ thể là ở sự hiện diện điện tử
và chiến lược nội dung gắn kết với người dùng Internet. Do đó, cần thiết phải có nghiên
cứu bổ sung để có thể xây dựng được quy trình và cách thức ứng dụng Internet
Marketing phù hợp tại Việt Nam.
13
CHƯƠNG 2
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT VỀ THỰC TRẠNG LÀM CƠ SỞ ĐỂ XÂY DỰNG
QUY TRÌNH ỨNG DỤNG INTERNET MARKETING Ở VIỆT NAM
*****
2.1. Thiết kế nghiên cứu
2.1.1. Khung nội dung nghiên cứu
2.1.1.1. Cơ sở lý luận làm căn cứ để thiết kế nghiên cứu
Với những kinh nghiệm của tác giả tích luỹ được trong quá trình làm việc, đồng thời qua
trao đổi, tiếp xúc, thảo luận với rất nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu cũng như nhà hoạt
động thị trường, tác giả đã phát hiện ra rằng, cách tư duy, cách nghĩ và cách làm
Marketing nói chung và IM nói riêng của các DNVVN VN hiện nay là chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của trường phái lý thuyết Marketing nguyên lý Marketing của tác giả Philip
Kotlers - cũng là lý thuyết MKT đang được giảng dạy phổ biến tại VN. Do đó, tác giả lựa
chọn lý thuyết này làm chủ đạo cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu của mình. Theo đó,
khung logic của quy trình chiến lược Marketing bao gồm 5 bước như được thể hiện trong
hình dưới đây:
Hình 5: Mô hình khung lý thuyết sử dụng để thiết kế nghiên cứu về thực trạng và điều kiện
ứng dụng Internet Marketing của các DNVVN VN
Ngoài ra, để đánh giá việc các DN có lựa chọn và áp dụng đúng các công cụ và thực hành theo
đúng nguyên lý đặc thù của IM hay không, tác giả còn dựa trên các nghiên cứu và lý thuyết
khác về các công cụ của IM, từ các nhà nghiên cứu điển hình về IM như Judy Strauss và
Raymond Frost, Dave Chaffey, Paul Richardson, Rafi A. Mohammed, Robert J. Fisher,
Bernard J. Jaworski, Gordon J. Paddison.
2.1.1.2 Khung nội dung định hướng thiết kế nghiên cứu
Để tìm hiểu về nhận thức, hành vi và điều kiện ứng dụng IM của các DN, tác giả đã
thiết kế và thực hiện cuộc nghiên cứu Marketing trên đối tượng là các DNVVN VN. Giả
14
thiết cơ sở cho cuộc nghiên cứu là: Hành vi ứng dụng IM của các DN bị chi phối bởi 2
yếu tố cơ bản: (1) Điều kiện ứng dụng IM của các DN, bao gồm các nguồn lực về nhân
sự, tài chính và máy tính-mạng Internet; (2) Nhận thức và hiểu biết về IM của các DN,
cụ thể là của các lãnh đạo DN và người phụ trách hoạt động Marketing của các DN, vì
chính sự nhận thức và hiểu biết này sẽ tác động đến việc họ đầu tư, phân bổ ngânh sách,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện IM như thế nào. Hai yếu tố này có thể được xem như là
điều kiện cần và đủ cho việc thực hiện IM của các DN.
Với giả thiết đó, cuộc nghiên cứu tiến hành trên đối tượng DNVVN VN được thiết kế
bám sát theo 3 cụm nội dung cơ bản: (1) Điều kiện ứng dụng IM; (2) Nhận thức và hiểu
biết về IM; (3) Hành vi ứng dụng IM.
Hình 6 : Khung nội dung nghiên cứu về thực trạng và điều kiện ứng dụng IM của các DNVVNVN
Trong các nội dung này, phần mô tả điều kiện ứng dụng, hay đánh giá mức độ sẵn sàng
cho IM của DN, bao gồm đánh giá về Hạ tầng viễn thông và Internet, tình hình sử dụng
máy tính và CNTT, tình hình đào tạo sử dụng CNTT và TMĐT, nguồn nhân lực có khả
năng ứng dụng Interntet Marketing của các DN. Tất cả các thông tin này là đã có dữ liệu
thứ cấp phù hợp và đáng tin cậy, do đó trong phần khảo sát tại các DN, tác giả không
đưa nội dung này vào phiếu điều tra nữa.
2.1.2. Quy trình thực hiện và phương pháp nghiên cứu khảo sát
Nghiên cứu được thực hiện thông qua ba bước chính:
- Bước 1: Tổng hợp các nguồn dữ liệu thứ cấp. Từ đây hình thành được bức tranh tổng
quan về cách thức các DNVN đang hiểu và áp dụng IM, cũng như điều kiện và mức độ
sẵn sàng cho việc ứng dụng IM.
- Bước 2: Nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu về nhận thức và hiểu biết của các lãnh đạo
và quản lý doanh nghiệp về Internet Marketing – phương pháp áp dụng là phỏng vấn cá
nhân chuyên sâu trực tiếp dựa theo bảng hướng dẫn phỏng vấn. Kết quả này giúp tác giả
có được thông tin để thiết kế nghiên cứu và hình thành nên những giả thuyết nghiên cứu
cần được kiểm nghiệm thông qua nghiên cứu định lượng.
15
- Bước 3: Nghiên cứu định lượng được tiến hành với mục đích mô tả hành vi về quy
trình và cách thức ứng dụng IM của các DNVVN VN, đồng thời để kiểm chứng các
giả thuyết nghiên cứu đã được hình thành.
Nội dung công việc các bước trong quy trình khảo sát được thể hiện tóm tắt trong
hình dưới đây:
Hình 7: Quy trình thực hiện nghiên cứu tìm hiểu nhận thức, điều kiện và hành vi ứng dụng
Internet Marketing của các DNVVN VN do tác giả thực hiện
Công cụ nghiên cứu được xác định là bảng câu hỏi, soạn thảo phù hợp để người trả lời có
thể tự điền mà không cần trợ giúp của phỏng vấn viên. Bảng hỏi gồm 14 câu hỏi lớn, bên
cạnh các phần thông tin cơ bản về DN thì được chia làm 4 phần nội dung chính: (1) Phần
thứ nhất có nội dung tập trung vào việc kiểm nghiệm các giả thuyết về nhận thức và hiểu
biết về IM của các DN; (2) Phần thứ hai có nội dung tìm hiểu thực trạng của hoạt động
IM và các công cụ IM mà DN đang áp dụng; (3) Phần thứ ba tìm hiểu về quy trình và
cách thức tiến hành hoạt động IM của DN; (4) Phần thứ tư tìm hiểu về đánh giá của các
DN về hoạt động IM cũng như ý định đầu tư tiếp theo cho hoạt động này.
Sau khi xây dựng, bảng hỏi được thử nghiệm để kiểm tra độ phù hợp với mục tiêu nghiên
cứu và đối tượng nghiên cứu, cũng như hình thức tiếp xúc với đối tượng nghiên cứu đã
được lựa chọn. Sau khi tiến hành thu thập dữ liệu, dữ liệu đã được thu về với 491 phiếu,
phân loại, mã hoá và nhập liệu rồi xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
2.2. Kết quả nghiên cứu về điều kiện và thực trạng ứng dụng Internet Marketing
tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
2.2.1. Điều kiện ứng dụng Internet marketing của các DN
16
Thực trạng về đầu tư cho CNTT và TMĐT của các DNVN đã được luận án tổng hợp và
đánh giá qua các hoạt động cơ bản sau đây:
- Trang bị máy vi tính và kết nối Internet
- Tỷ lệ ứng dụng các phần mềm CNTT và TMĐT
- Nguồn nhân lực làm CNTT và TMĐT; đào tạo nhân viên ứng dụng CNTT và
TMĐT
- Đầu tư cho website
Bằng các dữ liệu thứ cấp đáng tin cậy với số liệu được thu thập và tích luỹ qua nhiều năm
của Bộ công thương, có thể nhận thấy rằng, mặc dù các tỷ lệ trên còn thấp song các DN
Việt Nam đã dần ý thức được tầm quan trọng của CNTT và TMĐT nói chung. Tuy
nhiên, vẫn phải khẳng định rằng, với khả năng đầu tư hiện tại cho TMĐT nói chung và
IM nói riêng, các DN vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ứng dụng những mô hình nguyên
lý quá phức tạp, đòi hỏi phải có những sự đầu tư lớn, ví dụ như phòng ban phụ trách
riêng hoạt động về IM, DN phải đi thuê máy chủ riêng để quản lý website…
2.2.2. Nhận thức về Internet Marketing của các DN
2.2.2.1. Kết quả nghiên cứu định tính nhằm phát hiện nhận thức về IM của các DN
a. Nhận thức về lợi ích và khả năng ứng dụng Internet và CNTT trong hoạt động kinh
doanh nói chung và marketing nói riêng:
Các nhà quản lý có những nhận thức khác nhau về Internet – CNTT và khả năng ứng
dụng của nó trong hoạt động kinh doanh, trong đó có cả những cách hiểu rất mơ hồ và
đại khái hay những cách hiểu sơ lược. Tuy nhiên, tựu trung là các nhà quản lý không
nắm được hết các tác dụng của Internet có thể mang lại cho hoạt động kinh doanh. Điều
này cũng phản ánh hành vi sử dụng Internet của các nhà quản lý – khi mà bản thân họ
không hiểu về Internet và CNTT thì khó lòng mà sử dụng nó và có định hướng hỗ trợ
phát triển cho việc sử dụng nó trong DN của mình.
b. Nhận thức về khái niệm và bản chất của Internet marketing:
Nội dung này được thực hiện thu thập qua ba câu hỏi mở: (1) Hiểu thế nào là IM; làm
IM là làm những hoạt động cụ thể nào; (2) DN như thế nào thì phù hợp với việc làm IM;
(3) IM có thể giúp gì cho các DN, hay nói cách khác là IM có vai trò và chức năng gì
đối với hoạt động kinh doanh của một DN.
Kết quả cho biết, các nhà quản lý có nhận thức khá sai lệch về bản chất của IM. Như
vậy, IM đáng lẽ phải được nhận thức là một công cụ làm tăng hiệu quả hoạt động và
năng lực cạnh tranh của DN, thì lại bị nhìn nhận là một cứu cánh (không chân thực) cho
những DN “có vấn đề”, hay nói cách khác là DN nào “có vấn đề” trong việc kinh doanh
trong môi trường thực thì mới áp dụng IM. Từ đây, tác giả đã hình thành nên giả thuyết
nghiên cứu cần kiểm chứng qua nghiên cứu điều tra chọn mẫu là: trong cộng đồng xã
17
hội tồn tại rất nhiều cách hiểu khác nhau về IM, trong đó có rất nhiều cách hoặc là hiểu
sai, hoặc là hiểu không đủ về về bản chất của nó.
Từ các nhận thức khác nhau này, hiển nhiên dẫn đến việc họ có thái độ khác nhau về
đầu tư sử dụng hình thức marketing này trong DN. Do hiểu sai hoặc hiểu không đủ, tất
yếu họ sẽ dành mức độ quan tâm không xứng tầm cho việc phát triển và sử dụng IM,
dẫn đến việc IM không phát huy được hiệu quả vốn có của nó. Điều này, đến lượt nó, lại
dẫn đến việc các nhà quản lý DN cho rằng hiệu quả hoạt động của IM là thấp – tức là
góp phần làm củng cố nhận thức sai lầm hoặc không đầy đủ của họ. Đây là một cái vòng
luẩn quẩn xuất phát từ nhận thức sai lầm của xã hội, cần phải có một “cú huých từ bên
ngoài” để giúp làm thay đổi nhận thức sai lầm này trong cộng đồng.
c. Nhận thức về việc quản lý hoạt động Internet Marketing trong DN:
Nhận thức về vấn đề này được tìm hiểu thông qua các câu hỏi mở: (1) DN cần chuẩn bị
các điều kiện gì để có thể áp dụng IM; (2) Khi nào DN cần thực hiện hoạt IM, nếu làm
IM thì có cần thiết phải đi thuê ngoài thực hiện hay không; hoạt động IM nên do bộ
phận nào trong DN quản lý và điều hành; (3) Ý định đầu tư tiếp theo của DN cho IM.
Kết quả cho biết, các nhà quản lý cũng có những cách thức quản lý không phù hợp, điển
hình nhất như việc nếu thực hiện hoạt động IM thì phân công cho những bộ phận khác
ngoài Marketing đảm trách, làm việc với đối tác thuê ngoài thực hiện hoạt động IM
cũng không quản lý theo cách hướng đến việc phục vụ những mục tiêu Marketing, tách
rời hoạt động IM ra khỏi các hoạt động Marketing của doanh nghiệp…
Từ đây, tác giả cũng đã hình thành thêm giả thuyết nghiên cứu cần kiểm chứng qua điều
tra định lượng: cách thức quản lý của các DN đối với hoạt động IM là không phù hợp.
d. Nhận thức về quy trình và các công cụ của Internet marketing:
Cũng bắt nguồn từ cách hiểu quá đơn giản hoặc sai lệch về IM mà các nhà quản lý hiểu
về quy trình và các công cụ của IM cũng đơn giản và sai lệch như thế.
Về mặt quy trình, không ai nắm được đầy đủ các bước của quy trình làm IM. Vể mặt
các công cụ có thể áp dụng trong IM, phần lớn, nếu như không muốn nói là tất cả, đều
chỉ tập trung vào email, website và các quảng cáo trên mạng (trên các báo điện tử hay
trên các mạng xã hội). Từ đây, tác giả đã hình thành thêm giả thuyết cần được kiểm
nghiệm qua thực tế điều tra định lượng là: các DN đang áp dụng sai hoặc không đầy đủ
về quy trình và công cụ IM.
Ngoài ra, phỏng vấn chuyên sâu về quy trình ứng dụng IM của các DN cũng giúp tác
giả củng cố hơn nhận định: cách tư duy, cách nghĩ và cách làm Marketing nói chung và
IM nói riêng của các DNVVN VN hiện nay là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của trường phái
lý thuyết Marketing của tác giả Philips Kotler, cũng là lý thuyết Marketing đang được
giảng dạy chủ yếu tại Việt Nam. Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng để tác
giả lựa chọn khung logic của thiết kế nghiên cứu định lượng.
18
2.2.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng kiểm tra các giả thuyết về nhận thức của các DN
đối với Internet Marketing
Kết quả kiểm định cho biết, các giả thuyết nghiên cứu được hình thành sau nghiên cứu
bước 1 và 2 đều được chấp nhận về mặt thống kê khi suy luận rằng tỷ lệ những DN
trong tổng thể có nhận thức về IM như phát biểu lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ các DN trong
mẫu điều tra, với mức tỷ lệ đưa ra kiểm định là 60%. Với các giả thuyết đã đủ bằng
chứng thống kê để chấp nhận như trên đây, có thể kết luận rằng:
- Đa phần các DNVVN đang hiểu rằng IM là quảng cáo trên mạng, hoặc là IM là
tạo ra một trang web và tiến hành quảng cáo nó
- Đa phần các DNVVN cho rằng, các hoạt động thuộc IM là mang tính kỹ thuật,
phải do những công ty/nhân sự có trình độ kỹ thuật công nghệ thực hiện chứ một
công ty bình thường không thực hiện được.
- Đa phần các DNVVN cho rằng nếu thực hiện hoạt động IM thì cần thuê ngoài,
nhưng bản thân họ lại gặp lúng túng trong việc ra đầu bài hay kiểm soát quá trình
thực hiện của bên đối tác thực hiện mà thường bị lệ thuộc vào gợi ý của đối tác.
- Đa phần các DNVVN có xu hướng tách rời việc quản lý hoạt động IM ra khỏi
chiến lược Marketing, không cho rằng đó là một công việc thuộc chức năng
Marketing mà cho rằng hoạt động liên quan đến IM (cụ thể là liên quan đến
website) sẽ do phòng hành chính hoặc phòng kỹ thuật đảm nhiệm.
- Đa phần (≥ 60%) các DNVVN khi thực hiện các hoạt động cụ thể của IM đã
không theo đúng nguyên tắc “the 2Is” của IM, tức là họ dường như không coi
trọng đến ý kiến của cá nhân và không có người theo dõi tương tác với khách
hàng.
Ngoài ra, không đủ bằng chứng thống kê hoặc bằng chứng thống kê không đủ mạnh để
chấp nhận các giả thuyết bao gồm: (1) các DN có xu hướng hiểu về IM như làm
Marketing truyền thống ở trên mạng, tức là không có sự thích nghi với các quy tắc trên
mạng Internet; (2) các DN có xu hướng cho rằng không cần thiết phải xây dựng chiến
lược và quản lý việc thực hiện các hoạt động IM theo chiến lược.
Như vậy, có thể kết luận chung rằng đa phần các DNVN đang có nhận thức sai lầm về
bản chất, lợi ích, quy trình và nguyên tắc thực hiện IM; chính điều đó đã chi phối đến sự
không đúng nguyên tắc và không đủ quy trình trong hành vi ứng dụng IM của họ.
2.2.3. Hành vi ứng dụng Internet Marketing của các DN
Kết quả nghiên cứu được tác giả phân loại, sắp xếp và trình bày trong 4 nhóm theo mức
độ ứng dụng IM trong DN, bao gồm, những DN hoàn toàn không ứng dụng IM (83 DN,
tương đương 16.9% mẫu), những DN sử dụng IM như là công cụ quảng cáo trực tuyến
(191DN, tương đương 38.9% mẫu), những DN sử dụng IM như là một hình thức/công
19
cụ marketing trực tiếp (152 DN hay 30.96% kích thước mẫu), những DN áp dụng một
phần hoặc tương đối đầy đủ quy trình hoạt động IM (65 DN, hay 13.24% mẫu).
Bốn nhóm này đã được mô tả chi tiết về cách hiểu và cách vận dụng IM, bao gồm cả
việc biết đến các công cụ của IM và tính chiến lược trong quy trình và cách thức ứng
dụng chúng. Kết quả cho biết, mức độ ứng dụng IM tăng theo hướng tích cực từ nhóm 1
đến nhóm 4. Việc ứng dụng các hoạt động IM trong DN nếu càng có tính chiến lược,
tính quy trình, các công cụ IM càng được áp dụng đầy đủ thì càng phát huy hiệu quả
cao, điều này đến lượt nó lại cải thiện tích cực nhận thức của DN về vai trò tác dụng của
IM, do đó DN sẽ càng quan tâm phát triển hoạt động này. Ngược lại, nếu DN càng áp
dụng nó một cách không hệ thống, tùy tiện, mang tính chất tình huống... thì nó càng
kém phát huy hiệu quả và điều này lại không thể cải thiện được nhận thức của DN về
IM, họ sẽ kém tin tưởng đến tính hiệu quả của phương thức làm marketing này và càng
không có xu hướng đầu tư phát triển nó.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu khảo sát thực tế cũng đã cho thấy rằng, chưa có DN nào
thực hiện đầy đủ và đúng quy trình IM. Họ cũng không nắm được hết các công cụ của
IM, trường hợp vận dụng của chúng, các bước trong quy trình thực hiện IM, sự cần thiết
pháỉ phối hợp chúng với nhau và với các hoạt động Marketing trong môi trường thực.
Vấn đề quản lý sự hiện diện điện tử, sáng tạo nội dung gắn kết người dùng/khách hàng,
duy trì tính hấp dẫn và sự hợp lý mang tính chiến lược của sự hiện diện điện tử cũng
không được DN nào nhận thức đầy đủ và thực hiện hiện đúng bản chất.
Dựa trên những phát hiện được sau khi tổng quan các mô hình lý thuyết về IM, phân
tích điều kiện vận dụng chúng tại VN, đồng thời tìm hiểu về cách nghĩ, cách làm cũng
như các điều kiện vận dụng IM tại VN, tác giả đề xuất quy trình ứng dụng IM trong
chương 3.
20
CHƯƠNG 3
ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH ỨNG DỤNG INTERNET MARKETING
CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM
*****
3.1. Mô hình Quy trình ứng dụng Internet Marketing vào thực tiễn kinh doanh của
các DNVVN VN
3.1.1. Khái quát về mô hình
Quy trình ứng dụng Internet Marketing mà tác giả đề xuất cho các DNVVN VN được
mô hình hoá như thể hiện trong hình 7.
Hình 7: Quy trình thực hiện hoạt động Internet Marketing cho các DNVVN VN
do luận án đề xuất
Mô hình này được xây dựng dựa trên cơ sở phối hợp 2 mô hình là (1) Hành vi người
tiêu dùng trên Internet, và (2) mô hình chiến lược IM (đã phân tích ở chương 1), kết hợp
với thực tiễn phát triển của các hoạt động IM, đồng thời có sự điều chỉnh cho phù hợp
với đặc thù về các điều kiện thực tiễn kinh doanh của Việt Nam và hạn chế những điểm
yếu của cả 2 mô hình khi đưa vào ứng dụng trong thực tiễn; đồng thời phù hợp với điều
kiện và thực trạng ứng dụngIM (nhận thức và hành vi ứng dụng) của các DN.
3.1.2. Nội dung chính của mô hình
Mô hình mô tả về cách thức và quy trình ứng dụng IM, với xuất phát là phân tích môi
trường hoạt động Marketing và thấu hiểu hành vi KH. Sự thấu hiểu hành vi KH không
chỉ được vận dụng trong việc đưa ra các quyết định có tính chiến lược, mà nó còn được
21
dùng để đưa ra các hành động tương tác và cá nhân hoá với KH trong toàn bộ chuỗi
hoạt động IM, đến lượt nó những hoạt động này lại giúp có thêm sự hiểu biết sâu sắc về
cá nhân từng khách hàng và giúp DN đưa ra các quyết định Marketing chính xác hơn.
Khi có các định hướng kinh doanh với môi trường Internet thì các DN phải lưu ý phân
tích không chỉ các yếu tố của môi trường thật mà còn các yếu tố của môi trường
Internet, cả KH trong môi trường thực và KH trong môi trường Internet, đặc biệt khi IM
hướng đến những KH mục tiêu khác hẳn những KH mục tiêu truyền thống của DN.
Bước tiếp theo là xây dựng chiến lược chung MKT (lựa chọn KH mục tiêu, chiến lược
định vị, chiến lược khác biệt hoá, chiến lược thương hiệu…) với 2 cấu phần lớn là chiến
lược MKT cho môi trường thực và chiến lược MKT cho môi trường Internet. Trong đó
DN cần lưu ý xác định phần riêng của từng chiến lược và phần giao thoa. Chẳng hạn
như, với việc xác định thị trường mục tiêu nhắm tới thì cần xác định rõ đâu là những
KH mục tiêu trong môi trường thực, đâu là những KH mà có thể tiếp cận và phục vụ cả
bằng những công cụ của IM, đâu là những KH chỉ của chiến lược dành cho môi trường
Internet mà thôi.
Với chiến lược MKT trong môi trường thực, với xu hướng MKT hiện nay, cần quan tâm
đến các chiến lược công cụ MKT mix, chiến lược thương hiệu với sự hiện diện của
thương hiệu trên các điểm tiếp xúc với KH, và chiến lược quản trị quan hệ KH (CRM).
Với các DN chuyển hoạt động lên môi trường Internet (moving online), cũng cần xác
định các chiến lược công cụ MKT – mix online, quản lý sự hiện diện của thương hiệu
trên các điểm tiếp xúc online và chiến lược quản trị quan hệ KH trực tuyến. Với mỗi
chiến lược bộ phận này, cũng cần xác định đâu là phần riêng và đâu là phần giao thoa.
Chẳng hạn như, khi quản lý về sự hiện diện của thương hiệu nhằm đảm bảo mục tiêu
hình ảnh thương hiệu, cần đảm bảo sự thống nhất về hình ảnh trong môi trường thực và
môi trường Internet, cũng như cần lựa chọn phối hợp được các công cụ giữa 2 môi
trường này. Đặc biệt, điểm cần hết sức lưu ý ở đây là chiến lược nội dung hay là nội
dung của sự hiện diện điện tử; nghĩa là ngoài sự thống nhất về hình ảnh “bề ngoài” thì
“phần chất” hay chiều sâu của sự hiện diện điện tử là rất quan trọng. Điều này là để đảm
bảo cho tính thu hút và tính kết dính lâu bền với các khách hàng mục tiêu của sản
phẩm/thương hiệu; đồng thời đây là một đặc điểm rất quan trọng về văn hoá hay đặc
tính hành vi của người tiêu dùng Việt Nam – như phần bối cảnh nghiên cứu đã chỉ ra.
Hoặc các hoạt động quản trị quan hệ KH chẳng hạn, DN cần lưu ý lấy thông tin về KH
trên các nguồn môi trường thực và nguồn Internet, các hoạt động quản lý danh mục KH,
quản lý trải nghiệm của KH, tạo giá trị cho KH hay quản trị vòng đời của KH (giành
KH, giữ KH và phát triển KH) …cũng đều cần phối hợp trên cả 2 môi trường một cách
hợp lý và nhất quán. Ngoài ra, cần lưu ý đến các đặc thù khi hoạt động trong môi trường
Internet, đặc biệt là vấn đề “the 2Is” – tính tương tác và tính cá nhân hoá của mỗi và
từng cấu phần chiến lược. Điều này có nghĩa là, với mỗi hoạt động trong môi trường
Internet, DN luôn cần lưu ý đến tính tương tác với KH và cần dùng chính những hiểu
biết sâu sắc về KH để làm “nguyên liệu” cho hoạt động tương tác đó, thông qua đó lại
hiểu biết hơn về KH; từ đó có các hoạt động marketing mang tính chất cá nhân hoá theo
22
từng KH, tạo ra sự gắn kết lâu dài và bền chặt, chuyển đổi họ từ những KH tiềm năng
thành những KH thực sự và trung thành. Những hoạt động tương tác và cá nhân hoá
này, đến lượt nó, sẽ cung cấp thông tin bổ sung cho các bộ phận bán hàng và bộ phận
marketing trong môi trường thực để họ tối ưu hoá hoạt động marketing của toàn DN,
trong đó bao gồm cả hoạt động trong môi trường thực và môi trường Internet.
Bước tiếp theo là lên kế hoạch hành động Marketing và IM, tức là sự phân công, phân
bổ về nguồn lực và tổ chức để thực hiện chiến lược đã hoạch định. Với mô hình này, có
thể dễ dàng thấy những bộ phận sẽ đảm trách hoạt động IM không nên là bộ phận kỹ
thuật hay bộ phận hành chính như cách các DN đang áp dụng, mà nó phải thuộc trách
nhiệm chính của bộ phận Marketing, các bộ phận khác có liên quan sẽ mang tính chất
hỗ trợ và liên kết thực hiện.
Tiếp theo, công ty cần xác định ngân sách, thực hiện kế hoạch và đánh giá việc thực
hiện kế hoạch, để từ đó có những điều chỉnh cần thiết. Tính tốc độ, phạm vi không biên
giới và tương tác đa chiều của Internet đòi hỏi DN cần có sự quản lý sát sao hơn đối với
việc thực hiện, không loại trừ việc phân công cắt cử người trực toàn thời gian.
Tại sao mô hình này lại phù hợp với các DNVVN VN?
Mô hình này là phù hợp với các DNVVN VN vì một số lý do sau:
- Mô hình này khá thân thiện và dễ dùng đối với các DN Việt Nam, phù hợp với cách
tư duy, cách nghĩ và cách làm MKT của các DNVVN VN, cũng như phù hợp với
việc DN vừa hoạt động trong môi trường thực vừa moving online một phần hoạt
động MKT của mình.
- Phù hợp với những phân tích về đặc thù của hành vi người dân VN.
- Mô hình có thể dễ áp dụng, ngay cả với những DN không thể có người hiểu biết về
CNTT và kỹ thuật ở trình độ cao chuyên trách việc quản lý hoạt động Marketing
trên Internet – vốn là những điểm hạn chế của các DN Việt Nam
3.2. Nội dung cụ thể các bước của quy trình ứng dụng Internet Marketing
Phần này trình bày chi tiết về nội dung của từng bước trong quy trình ứng dụng Internet
Marketing theo mô hình đề xuất, bao gồm nội dung công việc của các bước:
- Phân tích môi trường hoạt động của Marketing và Internet Marketing
- Phân tích khách hàng và hành vi trực tuyến của khách hàng
- Xác lập các mục tiêu và chiến lược Marketing, trong đó có nội dung chiến lược
Marketing trong môi trường thực và trong môi trường Internet.
- Phát triển các chính sách E-marketing mix, quản lý sự hiện diện điện tử và quản trị
quan hệ khách hàng trực tuyến, trong mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách này
trong môi trường thực tế.
- Lên kế hoạch hành động, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá
Điểm mới của mô hình so với các mô hình khác thể hiện ở:
- Các bước của quy trình và mối quan hệ của các bước trong mô hình; sự phối hợp
các bước và công cụ của MKT môi trường thực với các bước và công cụ IM.
23
- Ứng dụng sự thấu hiểu KH và hành vi KH vào tất cả các bước và các hành động cụ
thể để phù hợp với đặc thù “The 2Is” (tính tương tác và tính cá nhân hoá) của IM.
- Nội dung chi tiết của từng bước trong mô hình, đặc biệt là về chiến lược nội dung và
quản lý sự hiện diện điện tử.
3.3. Những giải pháp hỗ trợ và kiến nghị
3.3.1. Giải pháp về xây dựng hệ thống thông tin Internet Marketing
Để có thể đưa ra và thực hiện các chính sách và công cụ của IM một cách hiệu quả, người ra
quyết định cần có hệ thống thông tin trợ giúp việc ra quyết định, với việc thu thập và xử lý
lượng thông tin rất nhiều, đa dạng, phong phú trong thời gian rất nhanh chóng. Do đó, tác giả
đã đề xuất giải pháp về ứng dụng xây dựng hệ thống thông tin Marketing điện tử với bốn bộ
phận cấu thành:
- Hệ thống dữ liệu nội bộ
- Hệ thống thông tin từ bên ngoài
- Nghiên cứu Marketing điện tử
- Hệ thống phân tích thông tin và hỗ trợ ra quyết định
Trong đó, việc xây dựng hệ thống thông tin điện tử nhắm vào các mục tiêu cụ thể sau:
- Nâng cao hiệu quả của việc thu thập và xử lý thông tin hỗ trợ việc ra quyết định MKT
nói chung và IM nói riêng nhờ vào việc ứng dụng các hỗ trợ sẵn có của Internet.
- Thu thập thông tin thường xuyên và chi tiết về KH thông qua các điểm tiếp xúc với KH
mà dữ liệu có thể kết nối với cơ sở dữ liệu điện tử: các điểm mua hàng, trưng bày sản
phẩm, chăm sóc KH, các điểm xuất hiện của KH trên mạng…
3.3.2. Những đề xuất vĩ mô với các ban ngành có liên quan để xây dựng môi trường
thuận lợi cho việc ứng dụng Internet Marketing
Ngoài những đề xuất về quy trình IM đối với DN, luận án còn đưa ra một số đề xuất vĩ
mô để tạo môi trường thuận lợi cho các DN ứng dụng IM
- Nhanh chóng triển khai việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch phát triển TMĐT của Bộ
ngành, địa phương
- Tích cực hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc ứng dụng Internet Marketing nói riêng
và Thương mại điện tử nói chung
- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến về TMĐT và Internet Marketing, làm thay
đổi nhận thực của các DN về bản chất, lợi ích và khả năng ứng dụng IM trong thực tiễn
của các DN, đồng thời chỉ cho họ cách làm sao để thực hiện các hoạt động Internet
Marketing đó.
24
KẾT LUẬN
*****
Internet Marketing đã được ứng dụng rộng rãi và mang lại rất nhiều lợi ích cho các
doanh nghiệp trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc ứng dụng nó còn rất hạn
chế do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi cộm nhất là do nhận thức sai lệch và/hoặc
không đầy đủ về bản chất, lợi ích, quy trình và công cụ của Internet Marketing.
Với những nghiên cứu về cơ sở lý luận và cơ sở thực tế làm căn cứ, luận án đã xây dựng
và đề xuất quy trình ứng dụng Internet Marketing cho các DNVVN VN, dựa trên sự kết
hợp của 2 mô hình đã được ứng dụng trên thế giới và điều chỉnh cho phù hợp với điều
kiện áp dụng của các DNVVN VN (bao gồm điều kiện về môi trường kinh doanh
TMĐT của VN, điều kiện về nhận thức và “thói quen” trong hành vi ứng dụng
Marketing của các DN, các điều kiện về cơ sở hạ tầng và nguồn lực cho việc ứng dụng
Internet Marketing). Với những hướng dẫn chi tiết về quy trình, cách thức áp dụng và
các công cụ Internet Marketing, hy vọng rằng mô hình ứng dụng Internet Marketing mà
tác giả đề xuất sẽ góp phần hữu ích vào cải thiện tích cực hiệu quả kinh doanh của các
DNVVN Việt Nam.
Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo
Do những giới hạn về thời gian, nguồn lực và khả năng của bản thân, tác giả chỉ dừng
nghiên cứu ở nguyên lý ứng dụng Internet Marketing chung cho các DNVVN, mà
không có sự đi sâu vào cách thức, quy trình và công cụ ứng dụng Internet Marketing
trong những điều kiện cụ thể của các loại DN khác nhau, bao gồm :
- Các loại hình DN khác nhau theo quy mô, ví dụ như DN có kinh doanh với nhiều ngành
nghề, nhiều SP khác nhau, nhiều TTr khác nhau, nhiều thương hiệu khác nhau thì sẽ áp
dụng Internet Marketing như thế nào,
- Các loại hình DN khác nhau theo lĩnh vực/ngành kinh doanh đặc thù,
- Các loại hình DN khác nhautheo loại TTr hướng đến, như TTr người tiêu dùng, TTr các
tổ chức Chính phủ, TTr tư liệu sản xuất, TTr buôn bán trung gian, TTr quốc tế…
- Các điều kiện cụ thể khác của DN, như KH hay TTr mục tiêu khác nhau sẽ phải ứng
dụng Internet Marketing như thế nào, nếu chỉ làm một phần hoạt động Marketing trên
mạng – ví dụ như chỉ thực hiện hoạt động quảng cáo trên mạng hay chỉ thực hiện việc
làm Marketing trên công cụ tìm kiếm, hoặc Marketing trên các mạng xã hội…thì cần
lưu ý lựa chọn các công cụ nào và thực hiện như thế nào…
Mỗi trong số này đều có thể trở thành hướng nghiên cứu để phát triển sâu trong những
công trình nghiên cứu sau này của bản thân tác giả hoặc của các nhà nghiên cứu khác,
dựa trên kết quả nghiên cứu tổng quan ban đầu về Nguyên lý ứng dụng Internet
Marketing này. Hy vọng rằng các nghiên cứu này sẽ sớm được quan tâm thực hiện để có
thể mang lại nguồn tài liệu hướng dẫn hữu ích cho các DNVN nhằm tăng hiệu quả hoạt
động của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Unlock-la_phamhonghoa_tt_864.pdf