Với mục tiêu đề ra từ đầu luận án là đưa ra hai giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng làm việc của hệ tích hợp INS/GPS thương
mại. Một giải pháp liên quan đến phần hệ thống, còn một giải pháp
liên quan đến cải tiến phần cứng của hệ thống. Cụ thể như sau:
- Nghiên cứu thành công một thuật toán mới với tên gọi “Thuật
toán bám đường” STA. Thuật toán này kết hợp với bản đồ số đã
được đưa vào hệ tích hợp phần cứng INS/GPS để kiểm nghiệm. Kết
quả mô phỏng trên dữ liệu thực nghiệm đã chứng minh được rằng:
Khi hệ thống dùng thuật toán STA sai số định vị trung bình là 5 mét
và lỗi vận tốc trung bình là 3,2 m/s khi tín hiệu GPS bị mất trong
vòng 200 giây với quãng đường di chuyển là 1870 mét. Bên cạnh
khả năng cải thiện độ chính xác về vị trí, vận tốc, thuật toán đề xuất
còn cho phép cải thiện cả về góc hướng của xe (bỏ qua góc chúc và
góc nghiêng). Tuy nhiên, nghiên cứu có thêm một số ràng buộc trong
thuật toán này đó là: Quỹ đạo chuyển động phải được biết trước và
chỉ ứng dụng đối với phương tiện giao thông đường bộ.
- Thiết kế, mô phỏng thành công cảm biến đo vận tốc góc kiểu vi
sai, gọi là TFG có hệ dầm treo/lò xo liên kết hình quả trám giữa hai
cảm biến đo vận tốc góc. TFG hoạt động dựa trên hiệu ứng điện
dung, vì vậy nó được kích thích bằng hai tín hiệu điện có cùng biên
độ và ngược pha nhau. Kết quả mô phỏng đã chứng minh TFG đề
xuất có nguyên lý hoạt động giống như một mạch khuếch đại vi sai
điện tử dùng 2 Transistor và một nguồn dòng không đổi. Cụ thể, cấu
trúc có khả năng bù lệch pha cho hai tín hiệu kích thích đầu vào khi
giá trị lệch pha lần lượt  3,5o, 2,5o, 4o tương ứng với cấu trúc TFG
1, 2 và 3.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 949 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thiết kế và xây dựng hệ thống dẫn đường tích hợp INS/GPS trên cơ sở linh kiện vi cơ điện tử dùng cho các phương tiện giao thông đường bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ 
Nguyễn Văn Thắng 
THIẾT KẾ VÀ XÂY DỰNG 
HỆ THỐNG DẪN ĐƢỜNG TÍCH HỢP INS/GPS 
TRÊN CƠ SỞ LINH KIỆN VI CƠ ĐIỆN TỬ DÙNG CHO 
CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 
 Chuyên ngành: Kỹ thuật điện tử 
 Mã số: 62520203 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT 
ĐIỆN TỬ, TRUYỀN THÔNG 
Hà Nội – 2017 
2 
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Công nghệ, 
Đại học Quốc gia Hà Nội 
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Chử Đức Trình 
 PGS.TS. Trần Đức Tân 
Phản biện: PGS.TS. Bạch Nhật Hồng 
Phản biện: TS. Đỗ Trung Kiên 
Phản biện: PGS.TS. Nguyễn Đức Minh 
 Luận án được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia 
chấm luận án tiến sĩ họp tại Trường Đại học Công nghệ, Đại 
học Quốc gia Hà Nội vào hồi 9 giờ 00 ngày 11 tháng 8 
năm2017 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
- Thư viện Quốc gia Việt Nam 
 - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 
1 
MỞ ĐẦU 
Lý do chọn đề tài 
Một trong những hệ thống định vị được sử dụng rộng rãi nhất 
hiện nay là hệ định vị toàn cầu GPS. Hệ thống này hoạt động hiệu 
quả trong môi trường thuận lợi như thời tiết tốt, không bị che chắn. 
Tuy nhiên, khi GPS hoạt động trong điều kiện thời tiết xấu, tại các 
khu bị che chắn thì sẽ làm giảm thậm chí mất khả năng định vị. 
Trong khi đó hệ dẫn đường quán tính INS có khả năng hoạt động 
tự trị, có độ chính xác cao trong khoảng thời gian ngắn và có tốc độ 
cập nhật cao. Tuy nhiên, INS làm việc kém hiệu quả trong khoảng 
thời gian dài do hiện tượng tích lũy của các cảm biến. 
Một trong những giải pháp được coi là tối ưu nhất là sự kết hợp 
giữa GPS và INS để tạo ra hệ tích hợp INS/GPS. Tuy nhiên, ngay cả 
khi kết hợp chúng với nhau đặc biệt là đối với các hệ tích hợp thương 
mại vẫn tồn tại sai số nhất định. 
Với những lý do trên đã đang và tiếp tục đòi hỏi những nghiên 
cứu mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của chúng. 
Rất nhiều các nghiên cứu trong và ngoài nước đã thành công và được 
ứng dụng trong thực tế. Tuy vậy, mỗi nghiên cứu đều dừng lại ở một 
mức độ thành công. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Thiết kế và 
xây dựng hệ thống dẫn đường tích hợp INS/GPS trên cơ sở linh kiện 
vi cơ điện tử dùng cho các phương tiện giao thông đường bộ” cho 
luận án tiến sĩ của mình. 
Đối tƣợng nghiên cứu 
Hệ thống GPS, INS, hệ tích hợp phần cứng INS/GPS thương mại 
và các biện pháp nâng cao chất lượng làm việc và các cảm biến đo 
vận tốc góc trong khối đo lường quán tính IMU. 
2 
Mục đích nghiên cứu 
Tìm ra các thuật toán mới kết hợp với dữ liệu trong bản đồ số để 
nâng cao chất lượng định vị và dẫn đường của hệ tích hợp INS/GPS 
thương mại. Đồng thời, đưa ra một cấu trúc mới về cảm biến đo vận 
tốc góc kiểu Tuning Fork (TFG) dựa trên công nghệ MEMS. 
Phƣơng pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu của luận án là kết hợp nghiên cứu, tính 
toán lý thuyết và thiết kế, mô phỏng bằng phần mềm và mô phỏng 
trên dữ liệu thực nghiệm. 
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 
Đưa ra thuật toán mới có thể kết hợp với bản đồ số để ứng dụng 
vào hệ định vị và dẫn đường INS/GPS. Ngoài ra còn thiết kế được 
một cấu trúc mới về cảm biến đo vận tốc góc kiểu Tuning Fork (tạo 
ra một cấu trúc linh kiện mới về cảm biến vận tốc). 
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu và mô phỏng có thể tạo ra 
sản phẩm thực tế là một linh kiện cảm biến đo vận tốc góc kiểu 
Tuning Fork (TFG). Đồng thời, có thể đưa vào ứng dụng thực tế một 
hệ định vị tích hợp INS/GPS thương mại làm việc hiệu quả hơn bằng 
thuật toán vừa được nghiên cứu. 
Cấu trúc của luận án 
Mở đầu 
Chương 1: Tổng quan 
Chương 2: Hệ dẫn đường tích hợp INS/GPS và các biện pháp 
nâng cao chất lượng. 
Chương 3: Cấu trúc cảm biến đo vận tốc góc kiểu vi sai 
Kết luận và kiến nghị 
3 
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 
1.1. Đặt vấn đề 
Trong lĩnh vực định vị và dẫn đường, các hệ đơn lẻ như GPS, INS 
hay các hệ tích hợp như hệ INS/GPS đều có sai số nhất định và đặc 
biệt là các hệ giá rẻ, được thương mại hóa. Vì vậy, cần có các giải 
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của chúng mà không 
làm tăng giá thành của sản phẩm. Chính vì vậy cần có các nghiên 
cứu để thực hiện điều đó. Có nhiều giải pháp để thực hiện như tìm ra 
các thuật toán thông minh, hiệu quả cho việc tích hợp hai hệ thống 
(bộ lọc Kalman, Kalman thích nghi); nâng cao thuật toán dẫn 
đường (Map matching); căn chỉnh để giảm lỗi ngay khi hệ thống bắt 
đầu làm việc; hay nâng cao chất lượng INS mà cụ thể là các cảm 
biến và sự kết hợp chúng với nhau. Về mặt cấu tạo, INS gồm một 
khối đo lường quán tính (IMU) và một thuật toán dẫn đường. Trong 
đó, IMU được cấu tạo bởi các cảm biến và thông thường là 3 cảm 
biến đo gia tốc và 3 cảm biến đo vận tốc góc (Gyroscope). 
Để tạo ra hệ dẫn đường như mong muốn luận án đưa ra hai giải 
pháp cụ thể để nâng cao chất lượng hệ tích hợp INS/GPS thương mại 
sẵn có là: Cải tiến về hệ thống và cải tiến về linh kiện của hệ thống. 
1.2. Tổng quan về Gyroscope và hệ tích hợp INS/GPS 
1.2.1. Tổng quan nghiên cứu về MEMS và các cảm biến dựa trên 
công nghệ MEMS 
Các linh kiện MEMS ra đời vào năm 1954 và được phát triển 
mạnh mẽ từ cuối năm 1959. Công nghệ MEMS ra đời là khởi nguồn 
của các vi cảm biến và các bộ kích thích/chấp hành làm nhiệm vụ 
nhận biết môi trường và sự thay đổi trong môi trường đó [55]. Vì 
4 
kích thước nhỏ gọn nên MEMS cần tới nguồn cung cấp cỡ µv và các 
khối vi xử lý tín hiệu [30]. Các hệ vi cơ điện tử làm cho hệ thống làm 
việc với tốc độ nhanh hơn, giá thành rẻ hơn, độ tin cậy cao hơn và có 
khả năng tích hợp được nhiều tính năng phức tạp hơn [24]. 
Vào những năm 1990, MEMS đã xuất hiện cùng với sự phát triển 
của quá trình sản xuất mạch tích hợp (IC) nên đã được nghiên cứu và 
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống con người 
như không gian vũ trụ, các phân tích y sinh, truyền thông không dây, 
lưu trữ dữ liệu... Đến cuối những năm 1990, hầu hết các bộ cảm biến 
MEMS trong đó có các cảm biến đo vận tốc góc và cảm biến gia tốc 
đã được chế tạo bằng các phương pháp: vi cơ khối, vi cơ bề mặt, và 
LIGA [27]. Ngoài ra, còn áp dụng các quy trình vi chế tạo 3 chiều 
căn cứ vào từng yêu cầu cụ thể như tạo ra các thiết bị y sinh và các 
bộ vi kích thích/chấp hành có nguồn điện áp đầu ra cao hơn. 
Trong các hệ vi cơ điện tử, các cảm biến gia tốc và cảm biến vận 
tốc góc được ứng dụng trong ngành công nghiệp ô tô [78], y sinh 
[37], điện tử gia đình [80], rô bốt, phân tích rung, hệ định vị [73]... 
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu về ứng dụng của Gyroscope và các 
biện pháp nâng cao hiệu quả của hệ tích hợp INS/GPS 
Thuật ngữ Gyroscope lần đầu tiên được đưa ra bởi nhà khoa học 
người Pháp, Leon Foucault. Khi đó, Foucault đã áp dụng định luật 
chuyển động quay của Gyro để giải thích chuyển động quay của trái 
đất vào năm 1852 [83]. Gyroscope đã ra đời và được trình bày trong 
Hình 1.1. 
5 
Hình 1.1 Con quay cơ học cổ điển1 
Sự ra đời của MEMS là tiền đề cho việc tạo ra các cảm biến đo 
vận tốc góc và các cảm biến đo gia tốc kích thước cỡ nm và µm. Vì 
thế đã dẫn đến các nghiên cứu về cảm biến đo vận tốc góc kiểu 
Tuning Fork -TFG. Hiện nay, TFG đã được sử dụng khá phổ biến 
trong thực tế [14],[40],[53],[92]. Ngoài ra, độ cứng của các cảm biến 
và các dầm cũng có ảnh hướng lớn tới hoạt động và chất lượng làm 
việc của chúng [6]. 
Những nghiên cứu về hệ tích hợp INS/GPS: Trong nghiên cứu 
[22] đưa ra những phân tích chất lượng của hệ định vị tích hợp 
INS/GPS thời gian thực. Nghiên cứu đã đánh giá và đưa ra giải pháp 
nâng cao chất lượng cho hệ thống này bằng cách loại bỏ những thông 
tin đo bất thường của GPS. Có nghiên cứu lại đưa ra giải pháp dùng 
lọc Kalman khi kết hợp hai hệ thống riêng lẻ để tạo ra hệ tích hợp 
làm việc hiệu quả hơn [48]. 
Bên cạnh những nghiên cứu, giải pháp kể trên thì các nghiên cứu 
về thuật toán khớp bản đồ MM (Map Matching) đã được thực hiện 
để nâng cao chất lượng làm việc cho các hệ thống định vị và dẫn 
đường. MM đang trở nên cấp thiết khi mà ô tô được sử dụng như các 
6 
bộ cảm biến giao thông để đo tốc độ xe đường trường và xây dựng 
các mô hình thống kê về sự cản trở giao thông. Dữ liệu trong các bộ 
cảm biến giao thông đang được sử dụng trong các động cơ định 
tuyến thương mại của Microsoft [16], Inrix [41]. Map matching còn 
được nghiên cứu để đưa vào các ứng dụng như dự đoán đường [47]. 
Nghiên cứu trình bày trong tài liệu trích dẫn [57] đã đưa ra một thuật 
toán Map matching mới dựa trên mô hình Hidden Markov có khả tìm 
ra con đường thích hợp nhất. Thuật toán MM dựa trên luật logic mờ 
dùng cho phương tiện đường bộ được trình bày trong tài liệu [66]. 
Ngoài ra, còn rất nhiều các nghiên cứu khác về MM đã được các nhà 
nghiên cứu trên thế giới thực hiện thành công như trong các tài liệu 
trích dẫn [11],[15],[18],[19],[20],[21],[51],[88] 
1.3. Định hƣớng nghiên cứu 
Luận án tập trung vào hai giải pháp để nâng cao chất lượng làm 
việc của hệ tích hợp INS/GPS thương mại sẵn có để tạo nên hệ dẫn 
đường dùng cho các phương tiện giao thông đường bộ. Đây cũng 
chính là hai đóng góp mới của nghiên cứu sinh trong luận án này: 
Thứ nhất là đề xuất thuật toán mới “Thuật toán bám đường” kết hợp 
với bản đồ số để hỗ trợ cho hệ tích hợp INS/GPS làm việc. Thuật 
toán này nâng cao độ chính xác của hệ tích hợp INS/GPS khi hệ 
thống làm việc trong điều kiện mất tín hiệu GPS. Thứ hai là nâng cao 
chất lượng của cảm biến đo vận tốc góc trong INS, cụ thể là đưa ra 
thiết kế, mô phỏng một cảm biến đo vận tốc góc kiểu Tuning Fork 
(TFG) - Cảm biến đo vận tốc góc kiểu vi sai. TFG đề xuất có khả 
năng loại bỏ nhiễu đồng pha, khuếch đại đáng kể tín hiệu ngược pha 
và đặc biệt là có khả năng bù lệch pha cho hai tín hiệu kích thích đầu 
vào. 
7 
Chƣơng 2: HỆ DẪN ĐƢỜNG TÍCH HỢP INS/GPS VÀ CÁC 
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG 
2.1 Hệ tích hợp INS/GPS 
2.1.1. Nguyên lý kết hợp INS/GPS 
2.1.1.1. Các phƣơng thức kết hợp và kĩ thuật điều chỉnh lỗi 
Để kết hợp INS và GPS thành một hệ tích hợp có thể sử dụng một 
số phương thức cơ bản: Kết hợp lỏng, kết hợp chặt hay phương thức 
chặt phát triển [79]. Để điều chỉnh lỗi khi kết hợp hai hệ thống này 
có thể dùng 2 kỹ thuật: Điều chỉnh kiểu vòng hở và kiểu vòng kín. 
2.1.1.2. Bộ lọc Kalman 
Trái tim của hệ thống tích hợp INS/GPS chính là bộ lọc tối ưu 
Kalman. Bộ lọc Kalman rất hiệu quả và linh hoạt trong việc kết hợp 
đầu ra bị nhiễu của cảm biến quán tính để ước lượng trạng thái của 
hệ thống. Về bản chất thì bộ lọc Kalman là một bộ lọc tối ưu dùng để 
lọc tín hiệu bị nhiễu thống kê và lấy ra các thông tin cần thiết với 
điều kiện là các tính chất của nhiễu thống kê này đã được biết trước. 
2.1.1.3. Thuật toán dẫn đƣờng quán tính 
Thuật toán dẫn đường quán tính trong INS sẽ tính toán vị trí, vận 
tốc, tư thế vật thể [71]. Dữ liệu vào là các thông tin ban đầu về vị trí 
và dữ liệu thu được từ khối IMU. Đầu ra là các thông tin về: 
- Kinh độ, vĩ độ và góc phương vị (trong hệ tọa độ trái đất). 
- Các vận tốc DEN VVV ,, trong hệ tọa độ định vị. 
- Tư thế: Góc quay, góc chúc và góc hướng. 
2.1.2. Hệ thống phần cứng tích hợp INS/GPS 
Cấu hình phần cứng sử dụng trong nghiên cứu thực nghiệm của 
luận án này gồm một máy tính chuyên dụng, một máy thu GPS HI-
204E [35], một IMU là MICRO-ISU BP3010 [36]. 
8 
2.2 Ứng dụng thuật toán STA và kết quả mô phỏng thực nghiệm 
2.2.1 Thuật toán bám đƣờng (STA) và sơ đồ đề xuất 
Một số ràng buộc trong nghiên cứu này là: Thứ nhất, lộ trình 
chuyển động của xe thực nghiệm đã được biết trước hay nói cách 
khác là thuật toán và hệ thống được thử nghiệm và mô phỏng trên 
một lộ trình đã được xác định. Có thể thấy rằng ràng buộc này cũng 
đã giới hạn một phần phạm vi ứng dụng trong thực tế. Thứ hai, ứng 
dụng này chỉ dành cho việc định vị và dẫn đường cho các phương 
tiện đường bộ. Thứ ba, ràng buộc về vận tốc được ứng dụng cho hệ 
tích hợp INS/GPS khi tín hiệu GPS bị mất. Cụ thể, trên hệ tọa độ gắn 
liền vật thể xe chỉ chạy theo trục Y (bám sát tâm đường), vận tốc theo 
các hướng của trục X và Z trong hệ tọa độ gắn liền vật thể bằng “0”. 
Cấu hình tích hợp INS và GPS đề xuất được chỉ ra trong Hình 2.14. 
Hình 2.14 Hệ thống tích hợp đề xuất với thuật toán STA 
Nguyên lý hoạt động của hệ thống như sau: gọi γ là tham số thể 
hiện việc có hoặc không có tín hiệu GPS. Khi có tín hiệu GPS thì γ = 
1 (hệ thống sẽ hoạt động ở trạng thái bình thường), khi không có 
9 
(mất tín hiệu GPS hoặc tín hiệu GPS không tin cậy) thì γ = 0. Trong 
thuật toán lọc Kalman, véc tơ trạng thái ước lượng như sau: 
/ 1 1
ˆ ˆ
k k k k k k
x A x B u
 
  (2.15) 
 / 1 / 1ˆ ˆ ˆk k k k k k kx x K z Hx    (2.16) 
Trong đó, Ak, Bk, H là dạng rời rạc của F(t), G(t), H(t) được chỉ ra 
trong các phương trình (2.11) đến (2.14); Kk là ma trận hệ số khuếch 
đại Kalman tại bước k. Khi mất tín hiệu GPS hoặc tín hiệu GPS 
không đáng tin cậy, chuyển mạch sẽ ở trạng thái “0”, γ = 0. Khi đó 
bộ lọc Kalman làm việc ở chế độ dự đoán (véc tơ trạng thái chỉ được 
cập nhật bởi ma trận chuyển trạng thái như được chỉ ra trong phương 
trình (2.16)). Lúc này đầu ra của bộ lọc Kalman không được phản 
hồi về khối INS, do vậy vận tốc ( , )INS INSN Ev v mà INS tính toán ở 
bước thứ k+1 sẽ dựa vào vận tốc tại bước thứ k và độ tăng vận tốc tại 
bước thứ k+1. Bởi vậy, đầu ra của INS gồm vị trí theo hệ tọa độ cố 
định tâm trái đất và gia tốc thô theo hệ tọa độ gắn liền vật thể (Body 
frame) được đưa trực tiếp đến khối STA thay vì đưa tới khối “P V 
A(góc hướng) đã căn chỉnh”. Lúc này khối STA và khối cơ sở dữ 
liệu bản đồ số được kích hoạt để nâng cao chất lượng của hệ định vị. 
Trong cấu hình phần cứng có sử dụng một máy tính đã lưu trữ cơ sở 
dữ liệu bản đồ số, trong đó có quỹ đạo chuyển động của xe chạy thực 
nghiệm. Cụ thể như sau: 
 - Trước tiên, căn cứ vào cơ sở dữ liệu của bản đồ số để chọn ra các 
điểm mốc trong quỹ đạo chuyển động của xe (gọi là các điểm tham 
chiếu). Các điểm mốc được lựa chọn là các điểm nằm trên tâm của 
làn đường xe chạy. Do đó, có thể khẳng định được rằng các điểm 
tham chiếu và quỹ đạo tham chiếu (đường nối các điểm tham chiếu 
10 
với nhau) hoàn toàn đáng tin cậy và có thể dùng để thay thế quỹ đạo 
chuẩn (do GPS xác định trong điều kiện bình thường) khi mất tín 
hiệu GPS. 
- Tiếp đến là xác định vị trí của xe ở các thời điểm sau khi mất 
GPS. Hình 2.16 là một thuyết minh về thuật toán STA. Trong hình 
này đường màu xám to là con đường thực tế cho xe chạy (lưu ý ràng 
buộc xe chạy bám tâm đường), còn đường nối các điểm nằm giữa 
con đường thực là đường nối các điểm tham chiếu với nhau (lúc này 
đã trở thành các điểm đáng tin cậy như lập luận ở trên). Xe được 
trang bị hệ thống định vị tích hợp đề xuất ở trên và giả sử chạy từ vị 
trí xuất phát đến trước thời điểm ts thì máy thu GPS vẫn hoạt động 
tốt. Từ thời điểm ts thì bị mất tín hiệu GPS. Điều đó có nghĩa là 
những thông tin định vị tại trước thời điểm ts vẫn là đáng tin cậy. 
Tính đến thời điểm tk (tk > ts), khoảng cách di chuyển thực của xe từ 
ts tới tk gọi là d(tk) được tính bằng tích phân kép của gia tốc theo trục 
y trong hệ tọa độ gắn liền vật thể do IMU cung cấp. 
Hình 2.16 Minh chứng về thuật toán STA 
Lúc này, lý do mà hệ thống không sử dụng thuật toán dẫn đường 
quán tính để xác định vị trí của xe theo hệ tọa độ tâm trái đất là vì ma 
11 
trận chuyển hệ tọa độ bị ảnh hưởng bởi lỗi tích lũy từ 03 cảm biến 
vận tốc góc trong khối IMU. Điểm thú vị của đề xuất này là với các 
thông tin vị trí tin cậy trên hệ tọa độ tâm trái đất từ trước thời điểm ts 
khi kết hợp với thông tin về quãng đường di chuyển thực tế trong hệ 
tọa độ gắn liền vật thể ( )kd t bằng cách sử dụng STA sẽ cho thông 
tin vị trí tin cậy ở thời điểm tk (tk > ts) trong hệ tọa độ tâm trái đất để 
đảm bảo được: 1) độ tin cậy của hệ định vị đề xuất và 2) tính thống 
nhất trong việc biểu diễn thông tin định vị của vật thể. Cụ thể đề xuất 
được trình bày như sau: 
1) Gọi dref là khoảng cách di chuyển của xe từ thời điểm ngay 
trước khi mất tín hiệu GPS tới một vị trí tham chiếu nào đó trong quỹ 
đạo chuyển động đã được xác định từ trước. Khoảng cách dref này dễ 
dàng được xác định vì những thông tin tọa độ của các điểm tham 
chiếu đã biết trước và thông tin tọa độ của xe ở thời điểm ngay trước 
khi mất tín hiệu GPS cũng đã được xác định. 
2) Mặc dù d(tk) là độ dài thực tế mà xe di chuyển từ thời điểm ts 
tới tk nhưng nó không thể cung cấp được thông tin về tọa độ (hệ tọa 
độ tâm trái đất) của xe ở thời điểm tk. Lí do là với cùng một độ dài 
thực tế di chuyển thì xe có thể ở nhiều tọa độ (X,Y) khác nhau 
(đường thẳng, đường cong, đường gấp khúc). Vì vậy, để xác định 
được vị trí của xe ở thời điểm tk cần phải dùng công thức dưới đây: 
 k refe d t d d   (2.18) 
Trong công thức (2.18) có tham số Δd, đây là giá trị sai số vị trí 
cho phép được đặt ra từ ban đầu (lưu ý Δd không mô tả độ chính xác 
vị trí của thuật toán STA đề xuất nhưng Δd có ảnh hưởng tới độ 
chính xác của hệ thống). Giá trị của dref được xác định trong tập các 
điểm tham chiếu, khi thỏa mãn điều kiện trong công thức (2.18) là sẽ 
12 
tìm ra được vị trí của xe. Vị trí của xe lúc này được gán là vị trí của 
điểm tham chiếu thỏa mãn (2.18). Vị trí này đương nhiên có thể xác 
định trong hệ tọa độ tâm trái đất (vốn là thông tin ban đầu của các 
điểm tham chiếu). Trường hợp không thỏa mãn thì sẽ nâng giá trị của 
Δd rồi lặp lại công thức (2.18) để tìm ra điểm tham chiếu mà có dref 
thỏa mãn. Do đó, điểm tham chiếu vừa tìm được là điểm nằm trên 
quỹ đạo chuyển động và gần với vị trí thực của xe tại thời điểm tk 
nhất. Cơ sở đặt ra giá trị Δd phụ thuộc vào mật độ điểm tham chiếu 
trên quỹ đạo và yêu cầu về độ chính xác của hệ thống. Mật độ các 
điểm tham chiếu càng dày thì độ chính xác càng lớn. Tuy nhiên, cần 
phải dung hoà giữa hai yếu tố trên vì khi tăng mật độ điểm tham 
chiếu sẽ làm cho việc tính toán trong thuật toán STA và hệ thống sẽ 
phức tạp hơn dẫn đến tốc độ cập nhật chậm và ngược lại. 
Sau khi xác định được vị trí của xe theo hướng Bắc và hướng 
Đông trong hệ tọa độ định vị, tiếp tục dùng thuật toán STA xác định 
vận tốc trung bình theo các hướng đó, theo công thức: 
1
1
( ) ( )
( )
N N
N STA k STA k
STA k
k k
P t P t
V t
t t
 (2.19) 
1
1
( ) ( )
( )
E E
E STA k STA k
STA k
k k
P t P t
V t
t t
 (2.20) 
Lưu ý rằng, ở đây đơn vị của (t ), (t )N ESTA k STA kP P tính theo mét (m), 
không dùng thông tin về vị trí theo kinh độ và vĩ độ bởi vì sự thay 
đổi vị trí theo độ là rất nhỏ. Cuối cùng thuật toán STA xác định góc 
hướng trung bình (tk) theo công thức: 
 
( )
tan( )
( )
N
STA k
k E
STA k
V t
t
V t
  (2.21) 
2.2.2 Kết quả và thảo luận 
13 
Để có cơ sở so sánh chất lượng của hệ tích hợp INS/GPS thông 
thường với hệ tích hợp có thêm thuật toán STA đề xuất, nghiên cứu 
đã đưa hệ phần cứng đã giới thiệu ở trên vào một xe ô tô và chạy 
thực nghiệm tại hiện trường. Sau đó, sử dụng dữ liệu để mô phỏng 
đánh giá kết quả. Xe chạy trong khoảng thời gian 1350 giây. Trong 
thời gian này tín hiệu GPS hoàn toàn được thu nhận tốt để xây dựng 
được quỹ đạo chuyển động (đường màu đen trong hình 2.19). 
Hình 2.19 Chất lượng định vị của hệ thống INS/GPS khi có STA 
Quỹ đạo này được sử dụng như một giá trị chuẩn để đánh giá chất 
lượng của hệ thống INS/GPS khi có và không có STA. Để tạo tình 
huống so sánh chất lượng giữa hệ tích hợp INS/GPS không sử dụng 
thuật toán STA và hệ tích hợp dùng thuật toán STA, tín hiệu GPS 
được ngắt trong vòng 200 giây từ giây thứ 900 đến giây thứ 1100 với 
khoảng cách di chuyển là 1870 mét. 
Khi cấu hình không có STA: bộ lọc Kalman vẫn sẽ tính toán vị 
trí, vận tốc và góc hướng trong suốt thời gian mất tín hiệu GPS trên 
cơ sở chỉ cập nhật vectơ trạng thái (xem phương trình 2.15 và 2.16, 
và γ=0 vì lúc này vecto đo đạc là không tin cậy/không có). Tuy 
nhiên, vị trí đầu ra của hệ INS/GPS khi không có thuật toán STA sẽ 
(m) 
(m
) 
14 
sai lệch rất nhiều (hàng trăm mét). Ngay khi có tín hiệu GPS trở lại 
(γ=1) quỹ đạo chuyển động của xe (tính toán theo INS/GPS) sẽ được 
kéo ngay về quỹ đạo của GPS và hệ thống INS/GPS được thiết lập 
lại tại thời điểm và vị trí tín hiệu GPS được khôi phục. 
Khi có thuật toán STA: vị trí mà hệ thống xác định (đường màu 
đỏ, xem Hình 2.19) vẫn có thể bám sát các vị trí thực của xe, kết quả 
này đã được cải thiện rất nhiều so với khi không sử dụng STA. 
Để đánh giá được chất lượng (sai số) của hệ thống có thể tính 
toán lỗi bằng công thức: 
1
1 N ref
i i
i
s P P
N
  (2.22) 
Trong đó, iP
và 
ref
iP là giá trị ước lượng (đường màu đỏ) và các 
giá trị chuẩn (đường màu đen), và N là số mẫu sử dụng để đánh giá. 
Hình 2.20 và Hình 2.21 chỉ ra vận tốc theo hướng Đông và hướng 
Bắc của hệ thống INS/GPS khi có và không có thuật toán STA và 
của GPS khi làm việc trong điều kiện thời tiết tốt. Từ kết quả cho 
thấy không có có sự sai khác khi có và không có STA nếu có tín hiệu 
GPS với lý do là khối STA chỉ được kích hoạt khi mất tín hiệu GPS. 
Trong khoảng thời gian mất tín hiệu GPS vận tốc của hệ thống khi 
không dùng STA (đường nét đứt, màu xanh) không thể bám được 
vận tốc thực (đường nét đứt, màu đỏ). Khi dùng STA, thì mặc dù vẫn 
tồn tại những thăng giáng nhưng vận tốc (đường liền màu đen) vẫn 
có thể bám khá tốt vận tốc chuẩn. Có thể tính toán sai số định vị và 
vận tốc dựa vào công thức (2.22) và dữ liệu được chỉ ra trong các 
Hình 2.19 đến Hình 2.21. Khi hệ thống dùng STA sai số định vị vào 
khoảng 5 mét và lỗi vận tốc khoảng 3.2 m/s khi tín hiệu GPS bị mất 
trong vòng 200 giây với quãng đường di chuyển là 1870 mét. 
15 
Hình 2.20 Vận tốc theo hướng Đông khi có và không có STA 
Hình 2.21 Vận tốc theo hướng Bắc khi có và không có STA 
Hình 2.22 Góc hướng của hệ INS/GPS khi có và không có STA 
16 
Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, Hình 2.22 cũng chỉ ra 
những đóng góp về việc nâng cao chất lượng trong việc xác định góc 
hướng của xe trong điều kiện mất tín hiệu GPS với thời gian và 
quãng đường như đã đề cập ở trên. Trong hình vẽ này, đường nét 
chấm màu xanh là đường biểu diễn góc hướng do hệ thống tích hợp 
tính toán khi không dùng thuật toán STA; đường nét đứt màu đỏ là 
góc hướng do GPS cung cấp (được coi là dữ liệu chuẩn, dùng để 
tham chiếu); còn lại là đường nét đứt màu đen là góc hướng do hệ 
thống xác định được khi áp dụng thuật toán STA. Với kết quả này 
chỉ ra rằng khi không có thuật toán STA thì hệ thống cung cấp thông 
tin về góc hướng với sai số lớn. Còn khi có thuật toán thì góc hướng 
bám rất sát dữ liệu của GPS cung cấp mặc dù cũng còn có những 
thăng giáng nhất định ở một số điểm. 
2.3 Kết luận 
Kết quả mô phỏng trên dữ liệu thực nghiệm đã chứng minh được 
rằng: Khi hệ thống dùng thuật toán STA sai số định vị trung bình là 5 
mét và lỗi vận tốc trung bình là 3.2 m/s khi tín hiệu GPS bị mất trong 
vòng 200 giây với quãng đường di chuyển là 1870 mét. Ngoài cải 
thiện độ chính xác về vị trí, vận tốc, thuật toán STA đề xuất còn cho 
phép cải thiện cả về góc hướng của xe. 
Liên quan đến các nội dung của chương này tác giả đã có 5 công 
trình nghiên cứu khoa học được đăng trên các hội nghị/tạp chí trong 
và ngoài nước. Cụ thể là các công trình từ (1) đến (5) trong danh mục 
các công trình nghiên cứu khoa học. 
17 
Chƣơng 3: CẤU TRÚC CẢM BIẾN ĐO VẬN TỐC GÓC KIỂU 
VI SAI 
3.1. Cấu trúc Gyroscope đơn đề xuất 
Cảm biến đo vận tốc góc rung vi cơ dạng hai chiều hoạt động dựa 
trên hiệu ứng điện dung đề xuất được trình bày trong Hình 3.12. 
Hình 3.12 Cảm biến đo vận tốc góc rung vi cơ đề xuất. 
Theo tài liệu [6], tín hiệu kích thích có thể đặt vào giữa điện cực 
kích thích Cdrive và khối gia trọng có công thức: 
 (3.25) 
Do đó, lực kích thích tương ứng tác động lên khung kích thích là: 
 (3.26) 
Tuy nhiên trong quá trình mô phỏng tác giả nghiên cứu đã đặt 
trực tiếp lực kích thích vào 8 khung răng lược thay vì kích thích bằng 
điện áp. Trong nghiên cứu này, các thông số thiết kế của cảm biến đo 
vận tốc góc hoạt động dựa trên hiệu ứng điện dung được liệt kê trong 
Bảng 3.1. 
Bảng 3.1: Các tham số thiết kế trong cấu trúc cảm biến vận tốc 
góc đề xuất 
18 
Tham số Ký hiệu Giá trị 
Độ cao của Gyro H 1754 µm 
Chiều rộng của Gyro W 1644 µm 
Độ dày của Gyro t 30 µm 
Độ cao của khung kích thích hdpm 1200 µm 
Độ rộng của khung kích thích wdpm 1300 µm 
Độ cao của khung cảm ứng hspm 840 µm 
Độ rộng của khung cảm ứng wspm 940 µm 
Độ cao dầm treo phụ của khung kích thích h1 190 µm 
Độ cao dầm treo chính của khung kích thích h2 260 µm 
Độ rộng dầm treo khung kích thích w1 6 µm 
Kích thước chốt cố định w2 × h3 40 µm × 40 µm 
Số lượng khung răng lược 8 
Độ cao khung răng lược kích thích h5 200 µm 
Chiều rộng khung răng lược kích thích w3 25 µm 
Số răng lược trên một khung răng lược kích 
thích 
 15 
Kích thước răng lược kích thích w4 × h4 50 µm × 3 µm 
Khoảng cách giữa 2 răng lược liên tiếp 2.5 µm 
Khoảng cách giữa hai răng lược trên cùng 
một khung răng lược kích thích 
g 8 µm 
Khoảng cách chồng lên nhau của 2 răng lược ldfo 10 µm 
Dầm treo cảm ứng hình E líp (1) a1 × b1 150 µm × 20 µm 
Dầm treo cảm ứng hình E líp (2) a2 × b2 144 µm × 14 µm 
Trọng lượng khung kích thích md 0.5452 × 10
-7
 Kg 
Trọng lượng khung cảm ứng ms 0.9408 × 10
-11
 Kg 
Độ cứng mode kích thích Kd 347 N/m 
Độ cứng mode cảm ứng Ks 540 N/m 
3.2. Cấu trúc TFG có hệ dầm treo vi sai đề xuất 
3.2.1. Hệ dầm treo vi sai 
19 
Trong luận văn này tác giả giới thiệu một cấu trúc treo vi sai như 
được chỉ ra trong Hình 3.14. Các tham số thiết kế cụ thể của hệ dầm 
treo được chỉ ra trong Bảng 3.3. 
Hình 3.14 Cấu trúc dầm treo/ lò xo liên kết hình quả trám 
Bảng 3.3 Các tham số thiết kế của dầm treo liên kết hình quả trám 
Tham số Giá trị 
R1 Rộng × Cao: 132 µm × 100 µm 
R2 Rộng × Cao: 70 µm × 20 µm 
R3 Rộng × Cao: 60 µm × 600 µm 
R4 Rộng × Cao: 60 µm × 20 µm 
R5 Rộng × Cao: 60 µm × 80 µm 
R6 Rộng × Cao: 500 µm × 6 µm 
R7 Rộng × Cao: 200 µm × 6 µm 
Kích thước tổng thể Rộng × Cao: 1000 µm × 1700 µm 
Góc nghiêng của thanh R3 30
o
Kích thước chốt cố định Rộng × Cao: 40 µm × 40 µm 
Độ dày của cấu trúc 30 µm 
Độ cứng theo trục X 121 N/m 
Độ cứng theo trục Y 2314 N/m 
3.2.2. Thiết kế TFG có hệ dầm treo vi sai 
20 
Cấu trúc của cảm biến đo vận tốc góc kiểu Tuning fork đề xuất 
được chỉ ra trong Hình 3.15. 
Hình 3.15 Cảm biến đo vận tốc góc kiểu Tuning fork có hệ dầm treo 
không đổi 
Trong thiết kế mới này độ cứng của toàn bộ hệ dầm treo/ lò xo 
của cấu trúc theo phương kích thích/trục X là KdTFG = 1700 N/m. 
Kích thước tổng thể của toàn cấu trúc là 4000 µm × 1900 µm với độ 
dày là 30 µm. Vật liệu sử dụng trong thiết kế và mô phỏng là 
Polysilicon và không khí. Trong đó các cảm biến và dầm treo làm 
bằng Polysilicon, môi trường xung quanh và khoảng trống còn lại là 
không khí. 
3.3. Kết quả và thảo luận 
Trước khi chứng minh TFG đề xuất có khả năng bù lệch pha cho 
hai tín hiệu kích thích đầu vào, ba cấu trúc TFG đã được tạo nên với 
sự khác nhau về độ cứng của hệ lò xo treo hình quả trám. Mục đích 
của việc tạo ra ba cấu trúc đó là để tìm ra giá trị lệch pha cụ thể của 
hai tín hiệu kích thích mà cấu trúc có thể bù được. 
Để thu được độ dịch chuyển biên độ lớn nhất khi dao động của 
các khung kích thích và khung cảm ứng của hai Gyro thì cần tìm 
được tần số phù hợp nhất để đưa vào phương trình tín hiệu kích 
21 
thích. Tần số này chính là tần số dao động riêng theo phương kích 
thích (dao động kích thích) của từng cấu trúc TFG và được xác định 
thông qua phương pháp phân tích phần tử hữu hạn trong Comsol 
Multiphysics 4.4. 
Trong mô phỏng này xây dựng 3 cấu trúc TFG khác nhau ở độ 
cứng của dầm treo. Cụ thể là khác nhau về độ cao của dầm R6 trong 
hệ dầm treo hình quả trám (Hình 3.14). Độ cao của R6 lần lượt là 
6µm, 4µm, 12µm tương ứng với cấu trúc TFG 1, 2 và 3. Ngoài ra, 
các thông số còn lại của cả 3 TFG giống nhau.Các mode dao động 
riêng tổng hợp được từ các kết quả phân tích của 3 TFG được liệt kê 
trong Bảng 3.4. 
Bảng 3.4 Kết quả phân tích tần số dao động riêng liên quan đến 
phương kích thích của 3 cấu trúc 
Mode dao động 
Tần số (Hz) 
Cấu trúc 1 
(HR6 = 6µm) 
Cấu trúc 2 
(HR6 = 4µm) 
Cấu trúc 3 
(HR6 = 12µm) 
1 - Dao động kích thích 21397.9 21184.7 21751.2 
2 - Dao động không mong muốn 44446.8 44227.6 44801.3 
3 - Dao động không mong muốn 63436.5 63427.9 63447.1 
4 - Dao động không mong muốn 65032.2 65020.9 65049.6 
Trong suốt quá trình mô phỏng, các cấu trúc đều sử dụng chung 
một kiểu chia lưới: “Physics-controlled mesh” với kích thước phần 
tử: “Extremely coarse”. Các cấu trúc được thiết kế bằng vật liệu 
Polysilicon và được nhúng trong không khí. 
Hai tín hiệu kích thích đặt vào hai hệ tụ răng lược kích thích của 
hai Gyro đơn có công thức: 
 (3.27) 
 (3.28) 
22 
Trong đó: Tín hiệu f1 được đặt vào 8 khung răng lược kích thích 
của Gyro bên trái và tín hiệu f2 được đặt vào 8 khung răng lược kích 
thích của Gyro bên phải hoặc ngược lại. 
Quá trình thực hiện mô phỏng kết quả được thực hiện một cách 
độc lập với từng cấu trúc. Do vậy, lần thực hiện mô phỏng của cấu 
trúc nào thì tần số f trong hai công thức (3.27), (3.28) được thay thế 
bởi tần số cộng hưởng theo hướng kích thích của cấu trúc đó. Theo 
nguyên lý hoạt động thông thường của TFG thì hai tín hiệu kích 
thích f1 và f2 luôn ngược pha nhau. Nếu gọi φ là độ lệch pha giữa hai 
tín hiệu kích thích thì theo nguyên lý chung của TFG φ = 180o. 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này tín hiệu kích thích f1 được giữ 
nguyên và f2 được thay đổi bởi các giá trị khác nhau của φ trong mỗi 
lần tính toán và mô phỏng một cấu trúc cụ thể. Mục đích của việc 
thay đổi độ lệch φ của hai tín hiệu kích thích là để quan sát độ lệch 
pha rung cơ học của hai khung kích thích nhằm đánh giá được khả 
năng bù lệch pha của các cấu trúc TFG đề xuất khi có độ lệch pha 
giữa hai tín hiệu kích thích. 
Bảng 3.5 chỉ ra mối quan hệ giữa độ lệch pha của hai tín hiệu kích 
thích φ và độ lệch pha rung cơ học của hai khung kích thích φ1 trong 
các lần mô phỏng của 3 cấu trúc TFG đề xuất. 
Bảng 3.5 Mối quan hệ giữa φ và φ1 (Độ) 
 φ 1 
 φ 
Cấu trúc 1 Cấu trúc 2 Cấu trúc 3 
180°/0° 0 0 0 
179.5°/0.5° 0 0 0 
179°/1° 0 0 0 
178.5°/1.5° 0 0 0 
178°/2° 0 0 0 
177.5°/2.5° 0 0 0 
23 
177°/3° 0 3.5 0 
176.5°/3.5° 0 7.0 0 
176°/4° 3.9 15 0 
175.5°/4.5° 18.2 x 15.6 
3.4. Kết luận 
Trong chương này tác giả của luận án đã đưa ra các cơ sở lý 
thuyết và đi đến thiết kế, mô phỏng một cảm biến đo vận tốc góc 
kiểu Tuning fork có hệ lò xo liên kết/dầm treo liên kết hình quả trám 
(gọi là cảm biến đo vận tốc góc vi sai). Thiết kế có các hệ tụ răng 
lược dùng để kích thích bằng tín hiệu điện. Thiết kế đã thể hiện được 
tính ưu việt của hệ lò xo liên kết hình quả trám. Các kết quả trong 
Bảng 3.5 và Hình 3.22 chỉ ra rằng rung động cơ học của hai khung 
kích thích được khớp nối rất tốt khi độ lệch pha của hai tín hiệu kích 
thích lần lượt  3.5o, 2.5o và 4o tương ứng với cấu trúc 1, 2 và 3. Các 
rung động cơ học của hai khung kích thích sẽ không được bù khi độ 
lệch pha của hai tín hiệu kích thích lần lượt lớn hơn 3.5o, 2.5o và 4o 
tương ứng với cấu trúc 1, 2 và 3. 
Liên quan đến các nội dung của chương này tác giả đã có 02 công 
trình nghiên cứu khoa học được đăng trên 02 tạp chí quốc tế. Cụ thể 
là công trình thứ (6) và thứ (7) trong danh mục các công trình nghiên 
cứu khoa học. 
24 
KẾT LUẬN 
Với mục tiêu đề ra từ đầu luận án là đưa ra hai giải pháp cụ thể 
nhằm nâng cao chất lượng làm việc của hệ tích hợp INS/GPS thương 
mại. Một giải pháp liên quan đến phần hệ thống, còn một giải pháp 
liên quan đến cải tiến phần cứng của hệ thống. Cụ thể như sau: 
- Nghiên cứu thành công một thuật toán mới với tên gọi “Thuật 
toán bám đường” STA. Thuật toán này kết hợp với bản đồ số đã 
được đưa vào hệ tích hợp phần cứng INS/GPS để kiểm nghiệm. Kết 
quả mô phỏng trên dữ liệu thực nghiệm đã chứng minh được rằng: 
Khi hệ thống dùng thuật toán STA sai số định vị trung bình là 5 mét 
và lỗi vận tốc trung bình là 3,2 m/s khi tín hiệu GPS bị mất trong 
vòng 200 giây với quãng đường di chuyển là 1870 mét. Bên cạnh 
khả năng cải thiện độ chính xác về vị trí, vận tốc, thuật toán đề xuất 
còn cho phép cải thiện cả về góc hướng của xe (bỏ qua góc chúc và 
góc nghiêng). Tuy nhiên, nghiên cứu có thêm một số ràng buộc trong 
thuật toán này đó là: Quỹ đạo chuyển động phải được biết trước và 
chỉ ứng dụng đối với phương tiện giao thông đường bộ. 
- Thiết kế, mô phỏng thành công cảm biến đo vận tốc góc kiểu vi 
sai, gọi là TFG có hệ dầm treo/lò xo liên kết hình quả trám giữa hai 
cảm biến đo vận tốc góc. TFG hoạt động dựa trên hiệu ứng điện 
dung, vì vậy nó được kích thích bằng hai tín hiệu điện có cùng biên 
độ và ngược pha nhau. Kết quả mô phỏng đã chứng minh TFG đề 
xuất có nguyên lý hoạt động giống như một mạch khuếch đại vi sai 
điện tử dùng 2 Transistor và một nguồn dòng không đổi. Cụ thể, cấu 
trúc có khả năng bù lệch pha cho hai tín hiệu kích thích đầu vào khi 
giá trị lệch pha lần lượt  3,5o, 2,5o, 4o tương ứng với cấu trúc TFG 
1, 2 và 3. 
25 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA 
TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Nguyen Van Thang; Pham Manh Thang; Tran Duc-Tan (2012), 
“The Performance Improvement of a low-cost INS/GPS 
Integration System Using the Street Return Algorithm”, Vietnam 
Journal of Machanics, VAST, ISSN: 0866-7136, Vol. 34, No. 4, 
pp. 271-280. 
2. Nguyen Van Thang; Chu Duc Trinh; Tran Duc-Tan (2012), “The 
performance improvement of a low-cost INS/GPS integration 
system using street return algorithm and compass sensor”, The 6th 
Vietnam Conference on Mechantronics (VCM 2012), Hanoi, 
Vietnam, pp. 280-287. 
3. Nguyen Van Thang; Chu Duc Trinh; Tran Duc-Tan (2013), 
“Application of Street Tracking Algorithm in a feedback 
configuration for an integrated INS/GPS navigation system”, 
AETA 2013: Recent Advanced in Electrical Engineering and 
Related Sciences, Lecture Notes in Electrical Engineering, Vol. 
282, pp. 279-288. 
4. Thang Nguyen Van; Trinh Chu Duc; and Tran Duc-Tan (2014), 
“Enhanced Accuracy Navigation Solution of an Integrated 
SINS/GPS System using an Simple and Effective Adaptive 
Kalman Filter”, International Journal of Intelligent Information 
Processing, ISSN: 2233-9426, Vol. 5, No.1, pp. 21-28. 
5. Thang Nguyen Van, Trinh Chu Duc, and Tran Duc-Tan (2015), 
"Application of Street Tracking Algorithm in an INS/GPS 
26 
Integrated Navigation System", IETE Journal of Research (SCIE 
indexed), ISSN: 0974-780X, Vol. 61, No. 3, pp. 251-258. 
6. Thang Nguyen Van, Tran Duc-Tan, Hung Vu Ngoc and Trinh 
Chu Duc (2016), "Improvement of Tuning Fork Gyroscope 
Drive-mode Oscillation Matched Using a Differential Driving 
Suspension Frame", the International Journal of Electrical and 
Computer Engineering (IJECE) (Scopus indexed), ISSN: 2088 -
8708, Vol 6, No 6: December 2016, pp. 2716-2729. 
7. Nguyen Van Thang, Tran Duc-Tan, Chu Duc Trinh (2017), 
“Design and Simulation of Micromachined Gyroscope based on 
Finite Element Method”, VNU Journal of Science: Mathematics - 
Physics, ISSN 0866-8612, Vol. 33, accepted. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_thiet_ke_va_xay_dung_he_thong_dan_duong_tich.pdf tom_tat_luan_an_thiet_ke_va_xay_dung_he_thong_dan_duong_tich.pdf