Sau 18 tháng xây dựng và thử nghiệm mô hình can thiệp với nội
dung huy động cộng đồng tham gia truyền thông VSMT cho người
Dao ở các xóm bản vùng đặc biệt khó khăn, nghiên cứu này đưa ra
một số kết luận sau:
1. Tỷ lệ người Dao có hành vi đạt về VSMT còn thấp: 41,3% có
hành vi đạt về sử dụng nguồn nước sạch; 4% hành vi đạt về quản lý và
sử dụng phân người; 0,1% về phân gia súc; 30,4% về xử lý rác thải.
2. Một số yếu tố liên quan tới hành vi về VSMT của người dân là:
Kinh tế hộ gia đình nghèo, thiếu phương tiện truyền thông, trình độ
học vấn thấp dưới tiểu học, kiến thức và thái độ của người Dao về
VSMT chưa đạt.
3. Xây dựng được mô hình truyền thông thay đổi hành vi VSMT
cho người Dao tại xã Vũ Chấn:
Thay đổi hành vi VSMT của người Dao như: kiến thức tăng
25,8%, thái độ tăng 34,7% thực hành tăng 4,8%.
27 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Thực trạng hành vi vệ sinh môi trường của người Dao tại một số xã đặc biệt khó khăn tỉnh Thái Nguyên và thử nghiệm mô hình can thiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B
ÊN
HOÀNG ANH TU
TH ÀNH VI V
C Ã
T ÊN VÀ TH MÔ HÌNH CAN THI
Chuyên ngành: V Ã H À T
Mã s 62.72.01.64
TÓM T LU
THÁI NGUYÊN -
Công trình àn thành t
- ên
1- PGS.TS. Kh àn
2- PGS.TS. Nguy
Ph ................................................
Ph .....................................................
Ph .....................................................
Lu
t - ên.
Vào h ........ gi ày........ tháng...... 4.
Có th ìm hi
ên
Trung tâm h ên
DANH M CÁC CÔNG TRÌNH CÓ
1. Hoàng Anh Tu àm Kh àn, Nguy
(2014), "Th ành v
xã
Nguyên", T Khoa h à Công ngh ên san Nông-Sinh-
Y ên, t -10.
2. Hoàng Anh Tu àm Kh àn, Nguy
(2014), "M ành vi v ng
c ã ên", T
chí Y h ành, (7; 925), tr. 149-152.
3. Hoàng Anh Tu àm Kh àn, Nguy
(2014), "Hi
t ã a huy õ Nhai, t
Nguyên", T ành, (7; 924), tr. 58-61.
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Miền núi phía Bắc nước ta là khu vực sinh sống chủ yếu của
đồng bào dân tộc ít người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
như: dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Mông... Đây là những
vùng giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp còn tồn tại
nhiều phong tục tập quán lạc hậu, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường do chính con người gây ra. Tỷ lệ hộ gia đình có nước
sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh rất thấp, nguyên nhân chủ yếu là hành vi
vệ sinh môi trường (VSMT) còn chưa tốt. Người Dao sống chủ yếu ở
vùng sâu, vùng xa khắp vùng biên giới Việt Trung từ tỉnh Lai Châu
tới tỉnh Hà Giang. Đặc điểm chung của người Dao là kinh tế, văn
hóa, xã hội chưa phát triển, tình trạng VSMT còn kém. Câu hỏi đặt
ra là thực trạng hành vi VSMT của người Dao ở một số xã đặc biệt
khó khăn của tỉnh Thái Nguyên hiện nay như thế nào? Yếu tố nào
gây ảnh hưởng đến hành vi VSMT của người Dao? Và mô hình
truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) có thể cải thiện được
hành vi VSMT cho người Dao không? Để trả lời các câu hỏi trên
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng hành vi vệ sinh
môi trường của người Dao tại một số xã đặc biệt khó khăn tỉnh Thái
Nguyên và thử nghiệm mô hình can thiệp” với các mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng hành vi VSMT của người Dao tại một
số xã đặc biệt khó khăn tỉnh Thái Nguyên năm 2011.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến hành vi VSMT của người
Dao tại một số xã đặc biệt khó khăn tỉnh Thái Nguyên.
3. Đánh giá kết quả thử nghiệm mô hình truyền thông thay đổi
hành vi vệ sinh môi trường cho người Dao xã Vũ Chấn, huyện Võ
Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
2
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Kết quả của luận án đã mô tả được bức tranh tổng thể thực trạng
hành vi VSMT của người Dao sống ở các xã đặc biệt khó khăn
tỉnh Thái Nguyên.
2. Nghiên cứu can thiệp cộng đồng ở người Dao đã cung cấp được
các bằng chứng, yếu tố liên quan đến hành vi vệ sinh môi
trường của người Dao sống ở các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Thái
Nguyên.
3. Mô hình "Truyền thông thay đổi hành vi vệ sinh môi trường cho
người Dao xã Vũ Chấn" đã huy động được nguồn lực của cộng
đồng, những nguời Dao có uy tín tham gia TT-GDSK cải thiện
được hành vi VSMT cho người Dao. Mô hình nghiên cứu được
lồng ghép vào Ban chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) của
xã, chức năng, nhiệm vụ được phân công cụ thể, rõ ràng với vai
trò nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc. Đây là cơ sở để mô hình phát
triển bền vững, có tính khả thi.
CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Phần chính của luận án dài 120 trang, bao gồm các phần sau:
Đặt vấn đề: 2 trang
Chương 1 - Tổng quan: 28 trang
Chương 2- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 17 trang
Chương 3 - Kết quả nghiên cứu: 39 trang
Chương 4 - Bàn luận: 32 trang
Kết luận và kiến nghị: 2 trang
Luận án có 126 tài liệu tham khảo, trong đó có 82 tài liệu tiếng
Việt và 44 tài liệu tiếng Anh. Luận án có 24 bảng kết quả định lượng,
5 biểu đồ, 4 sơ đồ, 1 hình và 5 hộp kết quả định tính. Phần phụ lục
gồm 7 phụ lục dài 25 trang.
3
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Thực trạng hành vi VSMT của người Dao ở Việt Nam
Theo định nghĩa của WHO “Hành vi của con người là một tập
hợp phức tạp của nhiều hành động, mà những hành động này lại chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan cũng
như khách quan”.
Hành vi luôn chịu tác động của các yếu tố bên trong như kiến
thức, thái độ, niềm tin, giá trị, kinh nghiệm của cá nhân về thực hành,
hành vi đó và các yếu tố bên ngoài như pháp luật, qui định, gia đình,
bạn bè, những người có uy tín... Hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần, dần
dần trở thành lối sống. Lối sống còn chịu tác động của các yếu tố nhân
chủng học, văn hóa, xã hội, tâm lý... Lối sống là tập hợp các hành vi,
tạo nên cách sống của con người, bao gồm nhiều vấn đề cụ thể như:
Thực hành vệ sinh cá nhân, sử dụng các công trình vệ sinh, tập quán
sinh hoạt của cá nhân, gia đình và cộng đồng, phong tục tập quán
Mỗi hành vi là biểu hiện cụ thể ra bên ngoài và chịu tác động của
nhiều yếu tố cấu thành đó là kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) và
niềm tin của con người trong một sự việc hay hoàn cảnh nhất định.
1.1.1. Hành vi sử dụng nguồn nước sạch ở người Dao
Kết quả điều tra của Cục Y tế dự phòng và môi trường năm 2010
về điều kiện VSMT của một số dân tộc thiểu số Việt Nam cho thấy
người Dao chủ yếu dùng nước suối đầu nguồn và giếng khơi, rất ít
người dùng nước máy, nước mưa và nước giếng khoan: 57,6% số hộ
dùng nước suối đầu nguồn, 18,3% số hộ dùng nước giếng khơi; hộ
dùng các nguồn nước khác rất ít (0,7% số hộ dùng nước giếng
khoan); không hộ nào dùng nước máy và nước mưa. Tuy vậy 2,1%
số hộ vẫn dùng nước sông, ao, hồ và 21,4% còn dùng các nguồn
nước khác không thuộc các nguồn nước sạch. Gần nửa số hộ người
Dao trong điều tra (49,7%) đã thừa nhận còn uống nước lã.
4
1.1.2. Hành vi sử dụng nhà tiêu của người Dao
Một số nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn (2003), Nguyễn Đình
Học (2003) cho thấy tỷ lệ hộ gia đình người Dao có nhà tiêu chiếm
50,4% số hộ được điều tra, nhưng tỷ lệ hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh rất
thấp, chỉ 5,8%. Trong đó chỉ có 5,1% là nhà tiêu hai ngăn, 0,3% là
nhà tiêu tự hoại, 0,3% là nhà tiêu thấm dội nước. Những hộ gia đình
người Dao không có nhà tiêu đều đi ngoài ra vườn và rừng (85,5%),
đi nhờ nhà người khác (4,5%) hoặc đi vào chuồng gia súc (10%). Lý
do giải thích cho việc không xây dựng nhà tiêu của người Dao cũng
giống như các dân tộc thiểu số khác chủ yếu là "không có tiền"
(76,9%); một số "không cần" (21,3%) và "không thích" (1,2%).
1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của người Dao
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dao ở
Việt Nam có dân số 751.067 người, chiếm 0,87% dân số cả nước,
đứng hàng thứ 9 nhóm dân tộc, đông thứ 2 trong các nước có người
Dao, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao (các
tên gọi khác: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn
Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v). Người
Dao thường sống nơi thung lũng, đồi thấp hoặc quanh chân núi, dọc
khe suối, nơi đầu nguồn nước. Họ sống thành từng cụm, từng bản
nhỏ riêng và tụ tập xung quanh người có thần quyền, với những nét
riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang
phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo
Dài, Dao Quần Trắng,... Mặc dù, họ có nhiều nhóm người khác nhau
như vậy nhưng ngôn ngữ của họ là thống nhất để đảm bảo mối quan
hệ gắn kết giữa các cộng đồng người Dao với nhau. Các nhóm Dao
có tương đồng về phong tục, tập quán, hình thái kinh tế, tín ngưỡng.
1.3. Một số mô hình TT-GDSK thay đổi hành vi VSMT
* Mô hình nhân viên y tế cộng đồng ở Zimbabue: Nhân viên y tế
5
cộng đồng được cộng đồng lựa chọn là những người có uy tín trong
cộng đồng, biết đọc biết viết và được đào tạo. Mô hình chăm sóc sức
khoẻ này thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của những người có uy tín tại
cộng đồng.
* Cách tiếp cận “Vệ sinh tổng thể do cộng đồng làm chủ - CLTS
- Community led total sanitation”: CLTS là phương pháp nhằm đạt
được và duy trì tình trạng không phóng uế bừa bãi thông qua việc
hướng dẫn cộng đồng phân tích thực trạng vệ sinh, thói quen đi vệ
sinh và hậu quả của nó, từ đó có hành động tập thể nhằm không
phóng uế bừa bãi ra môi trường (UNICEF -2009).
* Cách tiếp cận “Tiếp thị vệ sinh - SanMark”: tiếp cận theo
định hướng thị trường nhằm khai thác lợi thế của tổ chức phi chính
phủ, thành phần tư nhân, và các cơ quan quản lý nhà nước để tiếp
cận và cải thiện vệ sinh cho các hộ dân ở vùng nông thôn nghèo một
cách bền vững. Nguồn vốn của chương trình sẽ không sử dụng để tài
trợ cho việc mua nguyên vật liệu và xây nhà tiêu mà để tập trung vào
thực hiện các hoạt động phát triển thị trường vệ sinh (Tổ chức IDE -
Hoa Kỳ).
* Mô hình huy động cộng đồng TT- GDSK một số nội dung
CSSKBĐ cho người dân Tân Long - Đồng Hỷ - Thái Nguyên: Huy
động cộng đồng tham gia vào TT-GDSK thực hiện CSSKBĐ dưới sự
điều hành của ban chỉ đạo VSMT xã (Đàm Khải Hoàn -2010).
* Cách tiếp cận “Huy động cộng đồng truyền thông cải thiện
hành vi vệ sinh môi trường ở các bản vùng xa xôi, hẻo lánh xã
vùng sâu Cây Thị, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”: sử dụng
phương pháp giáo dục, truyền thông để thay đổi hành vi của người dân
từ đó họ đầu tư làm các công trình nước sạch và vệ sinh của gia đình,
không hỗ trợ kinh phí để làm nhà tiêu (Đàm Khải Hoàn - 2007).
6
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hộ gia đình người Dao (cả vợ và chồng đều là người Dao),
sống tại bản người Dao, không xen kẽ các dân tộc khác.
- Cán bộ trạm y tế xã, nhân viên y tế thôn bản (NVYTTB), cộng
tác viên (CTV) dân số, dinh dưỡng xóm bản.
- Cán bộ chính quyền và các ban ngành, đoàn thể ở xã, xóm bản.
- Giáo viên và học sinh tiểu học tại các xóm bản.
- Sinh viên Trường Cao đẳng Y tế và Trường Đại học Y Dược
Thái Nguyên.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Tại 4 xã người Dao đặc biệt khó khăn của tỉnh Thái Nguyên là:
xã Liên Minh, Vũ Chấn, Phương Giao huyện Võ Nhai và Cây Thị
huyện Đồng Hỷ.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 7/2011 đến tháng 7/2014, thời gian can thiệp 18 tháng
từ tháng 8/2011 đến tháng 4/2013.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang và nghiên cứu can thiệp
trước sau có đối chứng, kết hợp định lượng và định tính.
2.4.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.4.2.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho nghiên cứu cắt ngang
* Cỡ mẫu: cỡ mẫu ước tính dựa trên tỷ lệ người Dao có hành vi
sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh (HVS) theo kết quả nghiên cứu trước là
0,25, mức tin cậy 95% và d = 0,03.
2
2
2/1 d
pqZn
7
Từ công thức trên tính được n = 801, làm tròn thành 840. Cỡ
mẫu được phân bổ ngang bằng cho 4 xã, mỗi xã 210 người.
* Kỹ thuật chọn mẫu: Chọn chủ đích các xã người Dao trong
danh mục xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 164/2006/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ. Lấy hộ gia đình người Dao là đơn vị
mẫu, mỗi xã chọn 210 hộ gia đình người Dao theo phương pháp
ngẫu nhiên.
2.4.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho nghiên cứu can thiệp
* Cỡ mẫu: cỡ mẫu ước tính dựa trên tỷ lệ người Dao có hành vi
sử dụng nhà tiêu HVS trước can thiệp (p1) là 25% và mong muốn đạt
được 40% sau can thiệp (p2) với mức tin cậy 95%, lực mẫu 90%.
2
21
22112
)(
)(
pp
qpqpZn
Thay vào công thức tính được n = 203, lấy tròn là 210 người/xã.
* Kỹ thuật chọn mẫu: Chọn chủ đích xã Vũ Chấn (huyện Võ
Nhai) để can thiệp và chọn 1 xã tương đồng về điều kiện địa lý, kinh
tế xã hội và y tế trong số các xã đặc biệt khó khăn đã mô tả qua
nghiên cứu cắt ngang trước đó để làm đối chứng. Kết quả chọn được
xã Liên Minh (huyện Võ Nhai). Can thiệp được tiến hành trên toàn
bộ hộ gia đình người Dao sống tập trung tại 5 bản của xã Vũ Chấn:
Khe Nọi, Khe Cái, Cao Sơn, Khe Rịa và Khe Rạc. Các đối tượng
được lựa chọn để đánh giá sau can thiệp bằng phương pháp ngẫu
nhiên tương tự như chọn mẫu trong nghiên cứu mô tả cắt ngang
trước can thiệp.
2.4.2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu xét nghiệm trứng giun đũa
trong đất
* Cỡ mẫu: cỡ mẫu ước tính dựa trên mật độ trứng giun đũa
trung bình trong 1kg đất theo nghiên cứu trước (1) là 145 trứng
giun/kg đất và mong muốn giảm xuống còn 115 trứng giun/kg đất
sau can thiệp (2) với mức tin cậy 95%, lực mẫu 90%.
8
221
2
11
22
ZZ
n
Thay vào công thức tính được n = 99, làm tròn thành 100 mẫu/xã.
* Kỹ thuật chọn mẫu: Trong các hộ gia đình được phỏng vấn,
chọn ngẫu nhiên mỗi xã 100 hộ để lấy mẫu đất xét nghiệm tại các vị
trí: trong nhà, ngoài sân, trên đường ra nhà tiêu và xung quanh nhà
tiêu. Mẫu xét nghiệm trứng giun đũa trong đất được thực hiện tại 2
xã Vũ Chấn (can thiệp) và Liên Minh (đối chứng) tại 2 thời điểm
trước và sau can thiệp.
2.4.2.4. Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính:
- Thảo luận nhóm: Mỗi xã tiến hành 02 cuộc thảo luận vào 2
thời điểm trước và sau can thiệp với nhóm lãnh đạo cộng đồng và
nhóm người dân đại diện cho cộng đồng người Dao.
- Phỏng vấn sâu: 5 người Dao có uy tín trong các bản.
2.4.3. Nội dung can thiệp
2.4.3.1. Phương pháp xây dựng mô hình can thiệp
Bước 1: Xác định nội dung cần huy động để giải quyết vấn đề
hành vi VSMT.
Bước 2: Tìm hiểu vấn đề và thu thập số liệu.
Bước 3: Xây dựng mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể để huy động
cộng đồng cải thiện hành vi VSMT ưu tiên.
Bước 4: Xác định các giải pháp và hoạt động cụ thể thực hiện
mô hình.
Bước 5: Xây dựng các công cụ theo dõi/giám sát và đánh giá để
đo lường kết quả các hoạt động của mô hình nghiên cứu.
2.4.3.2. Mô hình can thiệp
Tên mô hình nghiên cứu là: Mô hình truyền thông thay đổi hành
vi vệ sinh môi trường cho người Dao tại xã Vũ Chấn
- Giải pháp can thiệp chính là huy động cộng đồng tham gia vào
cải thiện hành vi VSMT, gồm các hoạt động sau:
9
- Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện mô hình.
- Tập huấn cho các thành viên tham gia mô hình về truyền thông
VSMT và phương pháp hoạt động trong mô hình.
- Triển khai hoạt động theo kế hoạch đã dự kiến gồm: các hoạt
động TT-GDSK trực tiếp, gián tiếp và hoạt động lồng ghép...
- Triển khai các hoạt động theo dõi, giám sát, đánh giá của
nhóm nghiên cứu thường xuyên và đột xuất...
2.4.4. Chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá
2.4.4.1. Nhóm chỉ số đánh giá thực trạng hành vi VSMT của người Dao
- Hành vi VSMT bao gồm: hành vi sử dụng nước HVS, hành vi
sử dụng nhà tiêu HVS, hành vi sử dụng chuồng trại chăn nuôi HVS
và hành vi xử lý rác thải. Những hành vi này được đánh giá dựa trên
“Bộ chỉ số theo dõi và đánh giá nước sạch và VSMT nông thôn” ban
hành kèm theo Quyết định số 2570/QĐ - BNN - TCTL, ngày
22/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Hành vi chung về VSMT của người Dao được đánh giá qua
phỏng vấn, quan sát và lượng hóa bằng cách cho điểm trên nguyên
tắc trả lời đúng được 2 điểm, đúng nhưng không đầy đủ được 1 điểm,
không biết hoặc trả lời sai được 0 điểm. Dựa trên cắt đoạn 50% của
tổng số điểm chia hành vi VSMT thành 2 mức: đạt: ≥ 50% tổng số
điểm, chưa đạt: < 50% tổng số điểm.
2.4.4.2. Nhóm chỉ số về yếu tố liên quan đến hành vi VSMT của
người Dao
- Trình độ học vấn: phân loại theo bậc học ở trình độ cao nhất.
- Hộ nghèo: mức thu nhập bình quân từ theo quy định như là
400.000đồng/người/tháng (từ 4.800.000đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ có phương tiện truyền thông (PTTT): là những hộ gia đình
có đài, tivi, báo chí... còn hoạt động, đang sử dụng được.
- Kiến thức VSMT: Đạt (≥50%), chưa đạt (<50%) số điểm.
10
- Thái độ VSMT: Đạt (≥ 50%), chưa đạt (< 50%) số điểm.
2.4.4.3. Nhóm chỉ số đánh giá kết quả mô hình TT-GDSK về VSMT
- Kết quả hoạt động của mô hình: số lượng tổ chức đoàn thể được
huy động tham gia TT-GDSK, số buổi truyền thông, số lượt người được
truyền thông về VSMT, số buổi giám sát, số buổi tập huấn...
- Sự thay đổi kiến thức, thái độ và hành vi VSMT của người
Dao trước và sau can thiệp.
- Sự thay đổi về ô nhiễm trứng giun đũa trong đất ở các hộ gia đình
người Dao. Số trứng giun đũa/kg đất: 100 đất bẩn.
- Đánh giá kết quả bằng chỉ số hiệu quả (CSHQ) và hiệu quả
can thiệp (HQCT).
2.5. Phương pháp thu thập thông tin
- Phỏng vấn trực tiếp chủ hộ gia đình theo mẫu phiếu điều tra
in sẵn.
- Điều tra viên quan sát điều kiện VSMT tại các hộ gia đình và
đánh giá bằng bảng kiểm VSMT.
- Xét nghiệm trứng giun đũa trong đất: theo phương pháp Đặng
Văn Ngữ cải tiến. Mỗi mẫu lấy 10g đất làm xét nghiệm để tìm, đếm số
lượng trứng giun đũa trong một mẫu đất (3 trứng giun = 1+).
- Phỏng vấn sâu: người có uy tín trong các bản thuần người Dao
như già làng, trưởng bản.
- Thảo luận nhóm trọng tâm: với lãnh đạo cộng đồng, nhóm
người dân đại diện cho cộng đồng người Dao.
- Số liệu được xử lý trên chương trình SPSS 18.0 bằng phương
pháp thống kê mô tả và phân tích. Mối liên quan được đo lường bằng
chỉ số Prevalence Ratio (PR), mức ý nghĩa thống kê p < 0,05 của kiểm
định 2.
- Đạo đức trong nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm cộng đồng,
được cộng đồng chấp nhận. Nghiên cứu được thông qua Hội đồng
11
khoa học Trường đại học Y Dược Thái Nguyên trước khi tiến hành.
Đối tượng tham gia tự nguyện, họ có thể từ chối tham gia ở bất cứ
thời gian nào.
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng hành vi VSMT của người Dao tại 4 xã đặc biệt
khó khăn
Bảng 3.2. Thực trạng hành vi sử dụng nước sinh hoạt và sử lý
nước thải của các hộ gia đình người Dao 4 xã nghiên cứu
Sử dụng nước
Số lượng
(n = 840)
Tỷ lệ
(%)
Số hộ sử dụng nước sạch 388 46,3
Số hộ sử dụng nước giếng đào 352 41,9
Số hộ sử dụng nước mưa 36 4,3
Số hộ sử dụng nước máng lần 374 44,5
Số hộ sử dụng nước suối 78 9,3
Số hộ có hố chứa nước thải 146 17,4
Số hộ cho nước thải chảy vào ao hồ 53 6,3
Số hộ cho nước thải chảy ra ruộng,vườn 561 66,8
Số hộ để nước thải đọng thành vũng 80 9,5
Nhận xét: Hành vi của người Dao ở vùng sâu chủ yếu sử dụng
nước máng lần (44,5%) và nước giếng đào (41,9%). Tỷ lệ hộ gia
đình người Dao có nước sạch còn thấp, mới đạt 46,3%. Nước thải
sinh hoạt phần lớn chảy trực tiếp ra ruộng vườn hoặc ao hồ, mới chỉ
có 17,4% số hộ có hố chứa nước thải.
Bảng 3.3. Thực trạng hành vi sử dụng nhà tiêu của các hộ gia đình
người Dao 4 xã nghiên cứu
Hành vi quản lý phân người
Số lượng
(n = 840)
Tỷ lệ
(%)
Số hộ có nhà tiêu 247 29,4
12
Số hộ không có nhà tiêu 593 70,6
Số hộ có nhà tiêu tự hoại 17 2,0
Số hộ có nhà tiêu thấm dội nước 5 0,6
Số hộ có nhà tiêu 1 ngăn 98 11,7
Số hộ có nhà tiêu 2 ngăn 96 11,4
Số hộ có nhà tiêu đào/chìm 22 2,6
Số hộ có nhà tiêu khác (thùng, cầu) 9 1,1
Số hộ phóng uế ra rừng, ruộng, vườn 572 68,1
Số hộ đi đại tiện nhờ hàng xóm 21 2,5
Số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh 140 16,7
Số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh sử dụng đúng 42 5,0
Nhận xét: Tỷ lệ hộ gia đình người Dao có nhà tiêu thấp
(29,4%). Đa số người Dao phóng uế bừa bãi ra môi trường xung
quanh như rừng, ruộng, vườn (68,1%), đi nhờ hàng xóm (2,5%).
Trong số hộ có nhà tiêu thì chủ yếu là nhà tiêu 1 ngăn (11,7%). Tỷ lệ
hộ gia đình người Dao có nhà tiêu hợp vệ sinh chỉ đạt 16,7%, đặc
biệt tỷ lệ hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh sử dụng đúng rất thấp (5,0%).
Bảng 3.4. Thực trạng hành vi sử dụng chuồng trại và quản lý phân gia
súc, gia cầm của các hộ gia đình người Dao 4 xã nghiên cứu
Hành vi quản lý phân gia súc
SL
(n = 840)
TL
(%)
Số hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm 781 93,0
Số hộ thả rông gia súc, gia cầm 229 27,3
Số hộ có chuồng gia súc, gia cầm cách nhà ở
< 5m
203 24,2
Số hộ có chuồng gia súc, gia cầm cách nhà
ở 5 - 10m
253 30,1
Số hộ có chuồng gia súc, gia cầm cách nhà
ở > 10m
96 11,4
13
Số hộ để chất thải gia súc, gia cầm bừa bãi,
không xử lý
473 56,3
Số hộ có hố chứa chất thải gia súc nhưng
không có nắp đậy
295 35,1
Số hộ có hố ủ chất thải gia súc, gia cầm hợp
vệ sinh
13 1,6
Nhận xét: Hầu hết (93,0%) hộ gia đình người Dao đều chăn
nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên có tới 27,3% số hộ nuôi gia súc, gia
cầm thả rông, chỉ có 11,4% hộ gia đình có chuồng chăn nuôi gia súc,
gia cầm cách xa nguồn nước, nhà ở đảm bảo vệ sinh. Chất thải của
gia súc, gia cầm không được xử lý, để bữa bãi chiếm tỷ lệ cao
(56,3%), tỷ lệ hộ gia đình có hố ủ chất thải gia súc, gia cầm hợp vệ
sinh thấp (1,6%).
Bảng 3.5. Thực trạng hành vi sử dụng phân bón ruộng và hoa mầu
của các hộ gia đình người Dao 4 xã nghiên cứu
Hành vi sử dụng phân bón
Số lượng
(n=840)
Tỷ lệ
(%)
Số hộ có sử dụng phân bón ruộng 758 90,2
Số hộ có sử dụng phân hóa học 517 61,5
Số hộ có sử dụng phân người 76 9,1
Số hộ có sử dụng phân gia súc 527 62,7
Số hộ sử dụng phân tươi 382 45,5
Số hộ sử dụng phân ủ 144 17,1
Số hộ ủ phân < 3 tháng 74 8,8
Số hộ ủ phân 3- 6 tháng 62 7,4
Số hộ ủ phân > 6 tháng 8 1,0
Nhận xét: 90,2% hộ gia đình người Dao thường xuyên sử dụng
phân bón ruộng và hoa màu, loại phân sử dụng nhiều nhất là phân
gia súc (62,7%), ít nhất là phân người (9,1%). Vẫn còn tình trạng sử
14
dụng phân tươi khá phổ biến (45,5%), số hộ gia đình sử dụng phân ủ
thấp (17,1%), thời gian ủ phân dưới 3 tháng chưa đảm bảo vệ sinh
chiếm tới 8,8%.
Bảng 3.6. Thực trạng hành vi xử lý rác thải sinh hoạt và HCBVTV
của các hộ gia đình người Dao 4 xã nghiên cứu
Hành vi xử lý rác thải và HCBVTV
Số lượng
(n = 840)
Tỷ lệ
(%)
Số hộ vứt rác thải bừa bãi không xử lý 585 69,6
Số hộ tập trung rác thải vào hố để chôn 77 9,2
Số hộ tập trung rác thải vào để đốt 178 21,2
Số hộ chôn, đốt bao bì, chai lọ HCBVTV 171 20,4
Số hộ vứt bao bì, chai lọ HCBVTV ra ruộng, sông suối 656 78,1
Số hộ đem bao bì, chai lọ HCBVTV về sử dụng lại 13 1,5
Số hộ rửa dụng cụ phun HCBVTV tại mương, suối 580 69,0
Số hộ rửa dụng cụ phun HCBVTV tại ao, ruộng 183 21,8
Số hộ rửa dụng cụ phun HCBVTV tại nhà 41 4,9
Số hộ không rửa dụng cụ phun HCBVTV 36 4,3
Nhận xét: Tỷ lệ hộ gia đình người Dao vứt rác thải bừa bãi
không xử lý gì chiếm tỷ lệ cao (69,6%). Đặc biệt là rác thải của
HCBVTV bị vứt bỏ ngay tại ruộng, vườn, sông suối (78,1%) và rửa
dụng cụ phun HCBVTV ở mương, suối (69,0%.)
15
Biểu đồ 3.1. Đánh giá hành vi vệ sinh môi trường của người Dao
tại 4 xã nghiên cứu
Nhận xét: Tỷ lệ người Dao có hành vi đúng về VSMT còn rất
thấp, chỉ đạt 3,3%. Thấp nhất là hành vi quản lý và sử dụng phân gia
súc (0,1%) và phân người (4,0%).
3.2. Một số yếu tố liên quan đến hành vi vệ sinh môi trường của
người Dao
Kết quả bảng 3.7 đến bảng 3.11 cho thấy có một số yếu tố liên
quan như trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, kiến thức, thái độ về
VSMT (PR>1 p<0,05). Tỷ lệ hộ nghèo không sử dụng nhà tiêu cao
gấp 1,3 lần và nước sạch cao gấp 1,44 lần hộ không nghèo (PR>1).
Những người có thái độ chưa đạt về VSMT có tỷ lệ không xử lý
phân gia súc, gia cầm cao gấp 1,45 lần những người có thái độ đạt về
VSMT (p<0,001). Đặc biệt những người Dao có kiến thức chưa đạt
có hành vi sử dụng phân tươi gấp 1,5 lần người có kiến thức đạt.
Bảng 3.12. Một số yếu tố liên quan đến hành vi chung về VSMT
của người Dao
Yếu tố liên quan
Hành vi chung về VSMT
PR
(CI 95%)
p Chưa đạt Đạt
SL TL SL TL
16
Trình độ học vấn
Tiểu học trở xuống 675 98,3 12 1,7 1,1
(1,04-1,16)
<0,05
THCS trở lên 137 89,5 16 10,5
Điều kiện kinh tế
Nghèo 560 98,9 6 1,1 1,08
(1,04-1,12)
<0,001
Không nghèo 252 92,0 22 8,0
Phương tiện TT
Không có 209 99,1 2 0,9 1,03
(1,01-1,06)
<0,05
Có 603 95,9 26 4,1
Kiến thức VSMT
Chưa đạt 594 99,2 5 0,8 1,1
(1,05-1,14)
<0,001
Đạt 218 90,5 23 9,5
Thái độ về VSMT
Chưa đạt 458 99,3 3 0,7 1,09
(1,05-1,13)
<0,001
Đạt 354 93,4 25 6,6
Nhận xét: Các yếu tố trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, đặc biệt là
kiến thức, thái độ của người Dao về VSMT có liên quan chặt chẽ đến
hành vi chung về VSMT của người Dao (PR > 1; p <0,001).
3.3. Kết quả xây dựng và thử nghiệm mô hình Truyền thông thay
đổi hành vi vệ sinh môi trường cho người Dao xã Vũ Chấn
3.3.1. Tiến hành xây dựng mô hình can thiệp
* Tên mô hình: Truyền thông thay đổi hành vi vệ sinh môi
trường cho người Dao xã Vũ Chấn.
* Tổ chức thực hiện
- Thành lập Ban chỉ đạo VSMT, trong đó Mặt trận Tổ quốc là
nòng cốt.
- Tổ chức phát thanh trên loa truyền thanh xã mỗi tháng 1 - 2 lần
- Tổ chức nói chuyện VSMT tại các bản người Dao mỗi tháng 1
lần lồng ghép với các cuộc họp bản.
17
- Ban, ngành, đoàn thể thường xuyên lồng ghép nội dung
TT-GDSK về VSMT vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội
ở địa phương.
- Trường tiểu học nói chuyện VSMT cho học sinh mỗi tháng
01 lần.
- Trạm y tế tư vấn cho người dân đến nhận dịch vụ y tế về VSMT.
- Mỗi tháng nhân viên y tế thôn bản vận động 10 - 15 gia đình
làm nhà tiêu chìm.
- Sinh viên trường Y lồng ghép việc thực hành tại cộng đồng
TT-GDSK về VSMT cho người dân các bản người Dao.
* Hoạt động giám sát
- Tuyến xã giám sát các hoạt ðộng ở thôn bản mỗi tháng 1 lần.
- Nhóm nghiên cứu 2 tháng/lần tham gia giao ban cùng Ban chỉ
đạo xã và đến một số bản giám sát các hoạt động TT-GDSK tại đây.
3.3.2. Kết quả hoạt động của mô hình
3.3.2.1. Công tác tập huấn nhân lực tham gia mô hình nghiên cứu
Bảng 3.14. Kết quả tập huấn cho các thành viên tham gia mô hình
Thời điểm
Mức độ
kiến thức VSMT
Trước tập huấn Sau tập huấn
p Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Khá, giỏi 12 30,0 36 90,0
<0,05 Trung bình 15 37,5 2 5,0
Yếu 13 32,5 2 5,0
Tổng cộng 40 100,0 40 100,0
Nhận xét: Sau đợt tập huấn, kiến thức của học viên về VSMT
tăng lên rõ rệt, đặc biệt nhất là mức độ khá, giỏi (từ 30% tăng lên
90%, p < 0,05).
18
Bảng 3.15. Kết quả hoạt động truyền thông VSMT của các
thành viên tham gia mô hình nghiên cứu
Chỉ số TT-GDSK
Các tổ chức thực hiện
Số buổi
truyền thông
qua cuộc họp
Số buổi tư
vấn tại hộ
gia đình
Số lượt
người
nghe
Các ban ngành, đoàn thể xã 76 130 1.210
Cán bộ y tế xã 18 30 480
NVYTTB, CTV dân số 90 180 2070
Trưởng xóm, chi hội phụ nữ xóm 30 90 810
Giáo viên/Học sinh tiểu học xã 0 510 654
Sinh viên trường CĐYTTN và
ĐHYDTN
10 100 550
Tổng cộng 224 1.040 5.774
Nhận xét: Có 5.774 số lượt người được nghe TT- GDSK về
VSMT thông qua 224 cuộc họp và 1.040 buổi truyền thông, tư vấn
VSMT tại hộ gia đình. Đóng góp nhiều trong hoạt động này đó là vai
trò của NVYTTB, cộng tác viên dân số xóm bản (90 buổi, 2.070 lượt
người nghe).
3.3.2.2. Thay đổi KAP về vệ sinh môi trường của người Dao tại 2 xã
Vũ Chấn (can thiệp) và Liên Minh (đối chứng)
Bảng 3.20. Sự thay đổi KAP về VSMT của người Dao
trước và sau can thiệp
KAP về VSMT
Trước CT
(n = 210)
Sau CT
(n = 210)
Chênh
lệch
(%)
p
(test 2)
SL TL% SL TL%
Kiến thức
đạt
Xã CT 61 29,0 115 54,8 25,8 <0,05
Xã ĐC 59 28,1 65 31,0 2,9 >0,05
p >0,05 <0,05
19
Thái độ đạt
Xã CT 94 44,8 167 79,5 34,7 <0,05
Xã ĐC 95 45,2 98 46,7 1,5 >0,05
p >0,05 <0,05
Thực hành
đạt
Xã CT 8 3,8 18 8,6 4,8 <0,05
Xã ĐC 7 3,3 9 4,3 1,0 >0,05
p >0,05 <0,05
Nhận xét: Ở xã can thiệp, kiến thức về VSMT của người Dao
tăng 25,8%, thái độ tăng 34,7%, thực hành tăng 4,8% so với trước
can thiệp (p<0,05). Ở xã đối chứng, KAP về VSMT cũng có sự thay
đổi nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3.21. Hiệu quả can thiệp đối với kiến thức, thái độ, thực hành
của người Dao về VSMT
Hiệu quả đối với
KAP
CSHQ (%) HQCT
(%) Xã can thiệp Xã đối chứng
Kiến thức đạt 89,0 10,3 78,7
Thái độ đạt 77,5 3,3 74,2
Thực hành đạt 126,3 30,3 96,0
Nhận xét: Hiệu quả về KAP ở xã can thiệp là tương đối tốt, tác
động của can thiệp đối với kiến thức về VSMT của người Dao là
78,7%, đối với thái độ là 74,2% và thực hành là 96,0%.
3.3.2.3. Thay đổi về tình trạng ô nhiễm trứng giun đũa trong đất tại
các hộ gia đình người Dao
Bảng 3.22. Tỷ lệ mẫu đất có trứng giun đũa trước và sau can thiệp
Xét nghiệm mẫu đất có
trứng giun đũa
Trước CT
(n=100)
Sau CT (n=100) p
(test 2)
SL TL% SL TL%
Mẫu đất ở
trong nhà
Xã CT 35 35,0 22 22,0 <0,05
Xã ĐC 37 37,0 36 36,0 >0,05
20
p >0,05 <0,05
Mẫu đất ở
ngoài sân
Xã CT 45 45,0 30 30,0 <0,05
Xã ĐC 47 47,0 45 45,0 >0,05
p >0,05 <0,05
Mẫu đất trên
đường ra nhà
tiêu
Xã CT 60 60,0 51 51,0 >0,05
Xã ĐC 58 58,0 56 56,0 >0,05
p >0,05 <0,05
Mẫu đất xung
quanh nhà tiêu
Xã CT 9/14 64,3 38/99 38,4 >0,05
Xã ĐC 31/51 60,8 42/81 51,9 >0,05
p >0,05 <0,05
Tổng cộng
Xã CT 149/314 47,5 141/399 35,3 <0,05
Xã ĐC 173/351 49,3 179/381 47,0 >0,05
p >0,05 <0,05
Nhận xét: Sau can thiệp, các mẫu đất có trứng giun đều giảm ở
tất cả các vị trí, chỉ còn 22% mẫu đất trong nhà có trứng giun, tỷ lệ
này thấp hơn so với trước can thiệp và so với nhóm đối chứng
(p<0,05). Sau can thiệp tỷ lệ mẫu đất có trứng giun đũa tại xã can
thiệp đã giảm từ 47,5% xuống còn 35,3%, trong khi đó tỷ lệ này ở xã
đối chứng hầu như không thay đổi.
Bảng 3.25. Hiệu quả can thiệp đối với giảm ô nhiễm trứng giun đũa
trong đất ở xã nghiên cứu
Hiệu quả
đối với ô nhiễm đất
CSHQ (%) HQCT
(%) Xã can thiệp Xã đối chứng
Mẫu đất đạt tiêu chuẩn
sạch tăng lên
25,7 4,7 21,0
Mẫu đất bẩn giảm đi 22,7 11,6 11,1
21
Nhận xét: Sau khi can thiệp mẫu đất đạt tiêu chuẩn tăng lên với
hiệu quả can thiệp là 21,0% và mẫu đất bẩn giảm đi với hiệu quả can
thiệp đạt 11,1%.
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng hành vi vệ sinh môi trường của người Dao tại
một số xã đặc biệt khó khăn tỉnh Thái Nguyên năm 2011
4.1.1. Hành vi sử dụng nước sinh hoạt
Trong nghiên cứu này, hành vi sử dụng nước sạch của người Dao
ở các bản vùng đặc biệt khó khăn chưa đạt, mới đạt được 46,3%, nhìn
chung tỷ lệ này thấp. Như vậy tỷ lệ người Dao có hành vi sử dụng
nguồn nước chưa sạch chiếm tới 53,7%. Tuy nhiên tỷ lệ này cao hơn
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh (2004) tại huyện Ba Bể,
tỉnh Bắc Kạn với tỷ lệ hộ gia đình có nguồn nước sạch là 24,7%, cũng
cao hơn kết quả nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn (2004) và cộng sự tại
hai xã Tân Long và Văn Lăng (Đồng Hỷ) là 20,4%, nhưng so với tỷ lệ
chung toàn quốc (63% số hộ sử dụng nước sạch) thì tỷ lệ sử dụng
nước sạch trong nghiên cứu này còn thấp hơn nhiều.
4.1.2. Hành vi xây dựng và sử dụng nhà tiêu
Tại Việt Nam, từ những năm 60, Bộ Y tế đã phát động nhiều
chương trình vệ sinh trong đó có việc xây dựng nhà tiêu để quản lý
phân người như phong trào 3 dứt điểm, phong trào 5 dứt điểmđã
làm cho tỷ lệ có nhà tiêu hộ gia đình tăng đáng kể. Tuy nhiên trải qua
thời gian các tiêu chí nhà tiêu có nhiều thay đổi, yêu cầu về vệ sinh
ngày càng cao vì vậy tỷ lệ nhà tiêu hộ gia đình đạt các tiêu chí hợp
vệ sinh còn thấp, đặc biệt là vùng sâu, vùng cao, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chỉ có 29,4% số hộ
có nhà tiêu. Tỷ lệ hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh là 16,7%. So sánh với
nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách (2006) tại 82 xã, thị trấn của hai tỉnh
Quảng Bình và Thừa Thiên - Huế là hai tỉnh cũng còn có nhiều khó
khăn vào năm 2004 cho thấy: Tỷ lệ số hộ có nhà tiêu là 73,7%, số hộ
có nhà tiêu HVS là 33,7% thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi về 2
22
chỉ số này thấp hơn rất nhiều. Nếu so với kết quả tổng điều tra về
nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 với tỷ lệ số hộ có nhà
tiêu là 88,8% và nhà tiêu HVS là 47%, trong đó, đối với khu vực
vùng cao thì tỷ lệ không có nhà tiêu cũng chỉ là 28,63% thì tỷ lệ hộ
gia đình người Dao có nhà tiêu và có nhà tiêu HVS tại xã Vũ Chấn
trong nghiên cứu này thấp hơn rất nhiều.
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi VSMT của người Dao
* Yếu tố trình độ học vấn: Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối
liên quan tỷ lệ thuận giữa trình độ học vấn của người Dao với mức
độ hành vi về VSMT (p < 0,05). Vấn đề này cũng tương đồng với
đánh giá của kết quả Tổng điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002.
Người mù chữ chỉ có khoảng 15% sử dụng nhà tiêu HVS, ngược lại
người có trình độ từ trung học phổ thông trở lên có hơn 70% sử dụng
nhà tiêu hợp vệ sinh.
* Yếu tố kinh tế: người Dao là hộ nghèo có mức sống thấp hơn
thì nhận thức, thái độ và thực hành về VSMT kém hơn so với những
người có mức sống cao hơn. Bản thân họ còn lo toan đến cuộc sống,
thường xuyên đi kiếm sống nên thời gian dành cho xem, nghe tuyên
truyền cũng ít hơn. Thu nhập thấp cũng có thể là nguyên nhân chi
phối đến việc quyết định xây các công trình vệ sinh, nhà tắm cũng
như đầu tư cho nguồn nước. Vấn đề này cũng phù hợp với nhận xét
trong phạm vi toàn quốc của Bộ y tế đó là: tỷ lệ người dân sử dụng
nhà tiêu hợp vệ sinh cao theo mức sống và có xu hướng tăng lên
trong những năm gần đây; Những hộ có mức sống trung bình trở lên
thì tốc độ tăng nhanh hơn và hộ nghèo thì gần như không thay đổi.
4.3. Kết quả thử nghiệm mô hình truyền thông thay đổi hành vi
VSMT cho người Dao tại Thái Nguyên
* Về mặt tổ chức: Huy động cộng đồng tức là huy động nhiều tổ
chức ban ngành cùng tham gia, ở đây là để TT- GDSK về VSMT.
Việc xây dựng Ban chỉ đạo VSMT xã để chỉ đạo các tổ chức ban
ngành tham gia mô hình là rất quan trọng. Nhờ cách tổ chức chặt
23
chẽ, phân công trách nhiệm cụ thể mà công việc truyền thông đã
được thực hiện tốt ở tất cả các ban ngành. Cách tổ chức nhấn mạnh
nguyên tắc lồng ghép theo khuyến cáo của CSSKBĐ. Lồng ghép vào
trong các hoạt động chung của cộng đồng cũng như lồng ghép vào
từng hoạt động riêng trong mỗi tổ chức ban ngành
* Về quyền lợi: Các cán bộ tham gia mô hình không được
hưởng phụ cấp làm việc. Chúng tôi không cấp kinh phí hàng tháng
mà dùng kinh phí đề tài để hỗ trợ cán bộ qua các buổi họp hay giám
sát. Ngoài ra cán bộ tham gia mô hình được chính quyền xã tạo điều
kiện để hoạt động, được Ban chỉ đạo cấp tài liệu truyền thông, được
dự họp với bản và với các cuộc họp của phụ nữ, thanh niên của bản.
Kết quả hoạt động của các cán bộ tham gia mô hình được chính
quyền xã xếp vào một trong các tiêu chí để bình xét thi đua năm. Đây
là những quyền lợi rất cơ bản, khả thi và phù hợp.
* Hiệu quả can thiệp: Các kết quả nghiên cứu cho thấy khi có
sự tác động của truyền thông tích cực thì kiến thức, thái độ, thực
hành của người dân đã có chuyển biến tốt hơn. Ở xã Liên Minh, các
thành viên Chính quyền và các ban ngành không được tập huấn và
không được giao nhiệm vụ TT-GDSK về VSMT thì kết quả chuyển
biến chậm hơn. Trong các tiêu chí trên thì kiến thức tiến triển tốt hơn
điều này cũng hợp lý vì thái độ và thực hành là những vấn đề đã có
từ lâu đời có những vấn đề đã thành phong tục, thành thói quen vì
vậy muốn thay đổi được phải có thời gian dài hơn.
4.4. Một số hạn chế của nghiên cứu
Do nguồn lực và thời gian hạn chế nên quá trình can thiệp mới
được thực hiện trong thời gian ngắn 18 tháng vì thế sự tác động của
mô hình đến thay đổi hành vi, nhất là hành vi VSMT và tập quán lạc
hậu có từ lâu đời của người Dao chưa thay đổi nhiều. Mặt khác nghiên
cứu này cũng chưa đánh giá được tác động của thay đổi hành vi
VSMT đến tình hình bệnh tật của người Dao, vì vậy cần có nghiên cứu
tiếp theo, thực hiện được hoạt động can thiệp trong thời gian dài hơn.
24
KẾT LUẬN
Sau 18 tháng xây dựng và thử nghiệm mô hình can thiệp với nội
dung huy động cộng đồng tham gia truyền thông VSMT cho người
Dao ở các xóm bản vùng đặc biệt khó khăn, nghiên cứu này đưa ra
một số kết luận sau:
1. Tỷ lệ người Dao có hành vi đạt về VSMT còn thấp: 41,3% có
hành vi đạt về sử dụng nguồn nước sạch; 4% hành vi đạt về quản lý và
sử dụng phân người; 0,1% về phân gia súc; 30,4% về xử lý rác thải.
2. Một số yếu tố liên quan tới hành vi về VSMT của người dân là:
Kinh tế hộ gia đình nghèo, thiếu phương tiện truyền thông, trình độ
học vấn thấp dưới tiểu học, kiến thức và thái độ của người Dao về
VSMT chưa đạt.
3. Xây dựng được mô hình truyền thông thay đổi hành vi VSMT
cho người Dao tại xã Vũ Chấn:
Thay đổi hành vi VSMT của người Dao như: kiến thức tăng
25,8%, thái độ tăng 34,7% thực hành tăng 4,8%.
Hiệu quả can thiệp rõ nhất là thực hành về VSMT (96,0%), tiếp
theo là kiến thức (78,7%), thấp nhất là thái độ về VSMT (74,2%).
Sau can thiệp ở xã Vũ Chấn có sự thay đổi về giảm ô nhiễm
trứng giun đũa trong đất. Hiệu quả can thiệp đối với mẫu đất đạt tiêu
chuẩn sạch tăng lên là 21%, giảm mẫu đất bẩn là 11,1%.
KIẾN NGHỊ
1. Đảng ủy, Ủy ban nhân dân và các ban ngành của xã Vũ
Chấn, phối hợp chặt chẽ với Trạm y tế tiếp tục duy trì và phát triển
mô hình ra toàn xã.
2. Mô hình là một giải pháp tốt có tính khả thi cao ngành y tế,
các cấp chính quyền nghiên cứu và vận dụng, mở rộng sang các xã
khác có cộng đồng người Dao sinh sống.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_hanh_vi_ve_sinh_moi_truong_cua_nguoi_dao_tai_mot_so_xa_dac_biet_kho_khan_tinh_thai_nguyen.pdf