Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Các giải pháp phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ những quy luật khách quan của KTTT, có tham khảo và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các mô hình phát triển tiêu biểu trên thế giới, đồng thời phải đảm bảo tính định hướng XHCN trong quá trình phát triển. Giải pháp có tính đột phá hiện nay là xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện vật chất, kinh tế thực hiện CBXH.
27 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2692 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Vấn đề công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trưởng kinh tế (TTKT) và CBXH, giữa quy luật cạnh tranh thị trường cùng những hệ quả tiêu cực của nó với mục tiêu xây dựng xã hội lành mạnh, tiến bộ. Trong cơ chế thị trường, các vòng quay lợi nhuận luôn tạo sự bất công, do đó khó có thể xác lập CBXH toàn diện. Thực tế cho thấy, muốn thúc đẩy TTKT, trong nhiều trường hợp, chúng ta phải chấp nhận bất CBXH, nhưng tính chất và giới hạn của bất CBXH là gì và đến đâu v.v.., là những vấn đề rất mới. Ngay những nước phát triển, đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài với bao sự bất công xã hội thì mới có thể giải quyết CBXH ở những mức độ nhất định và còn nhiều khó khăn, thử thách... Trong những thập kỷ gần đây, nhiều nước trên thế giới đã và đang phải xem xét, điều chỉnh lại mô hình phát triển, kể cả những mô hình đã có một thời được xem là ưu việt nổi trội như mô hình Bắc Âu với nhà nước phúc lợi, mô hình châu Âu đại lục với thị trường xã hội. Xét theo nội hàm, vấn đề kinh tế cũng nằm trong lĩnh vực xã hội, nhưng không phải lúc nào giải quyết TTKT cũng đồng nghĩa với việc giải quyết vấn đề CBXH.
Vì vậy, hiểu như thế nào về CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN; làm thế nào để đảm bảo gắn kết giữa phát triển kinh tế và CBXH trong từng bước và cả quá trình phát triển; vai trò của Nhà nước trong việc quản lý, điều tiết nền KTTT nhằm thực hiện CBXH v.v.., là những vấn đề quan trọng, cấp bách cần được nhận thức và giải quyết hiện nay ở nước ta.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Vấn đề công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án Tiến sĩ Triết học.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, luận án phân tích thực trạng và giải pháp nhằm thực hiện tốt CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về KTTT định hướng XHCN và CBXH.
- Khái quát những vấn đề có tính qui luật về thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề có tính qui luật và thực trạng việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, tập trung từ Đại hội VIII (1996) đến nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về CBXH và CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN;
Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong, ngoài nước có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp hệ thống, lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh, v.v. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Góp phần làm rõ tính quy luật của việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Khái quát kinh nghiệm thực hiện CBXH trong một số mô hình KTTT trên thế giới.
- Phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án làm cơ sở cho công tác quản lý xã hội, xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Trong cuốn sách “Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” do Vũ Đình Bách chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2004), các tác giả đã khái quát lý luận về KTTT và KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, so sánh tính thống nhất và tính đặc thù giữa KTTT ở Việt Nam và KTTT ở nhiều nước trên thế giới; phân tích những nhân tố và động lực thúc đẩy sự phát triển của KTTT, từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu để xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Bài viết:“Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” Ngô Quang Minh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2008; cuốn sách “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do Đinh Văn Ân chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008, đã phân tích các bộ phận cơ bản của thể chế KTTT, khái quát những thành tựu và hạn chế từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT ở nước ta. Tác giả Nguyễn Gia Thơ trong bài viết “Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 253, tháng 6.2012, đã tập trung phân tích mối quan hệ biện chứng giữa KTTT và định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tạo cơ sở định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Ở nước ngoài, tác giả David Miller, trong cuốn “Principles of social juctice”, Harvard University press, 2001; các tác giả Matthew Clayton và Andrew Williams trong cuốn “Social justice”, Blackwell publishing Ltd (2004); Ira C.Colby, Catherine N.Dulmus, Karen M.Sowers trong cuốn sách “Social work and social policy: advancing the principles of economic and social justice”, Hoboken: John Wiley & Son press (2013) đã hệ thống hóa các quan điểm về CBXH trong thời kỳ cận, hiện đại; chỉ ra nội dung, nguyên tắc, điều kiện thực hiện CBXH hiện nay.
Ở trong nước, trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế "Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, năm 2007, các tác giả đã bàn về CBXH trên các phương diện khác nhau như triết học, chính trị học, xã hội học v.v..; Lê Hữu Tầng trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học số 1/2008, đã nêu và phân tích hàng loạt những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách xoay quanh chủ đề CBXH. Tác giả Nguyễn Minh Hoàn, trong cuốn sách “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 đã chỉ ra vị trí, vai trò của CBXH trong tiến bộ xã hội và đi đến khái quát CBXH với tư cách là động lực của tiến bộ xã hội và CBXH với tư cách là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội. Bùi Đại Dũng, trong cuốn “Công bằng trong phân phối, cơ sở để phát triển bền vững”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, đã phân tích vai trò, ý nghĩa của CBXH trong việc đảm bảo không chỉ lợi ích của các cá nhân, các nhóm xã hội mà còn là lợi ích chung của toàn xã hội.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
- Những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận của việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong cuốn “Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, do Lương Việt Hải chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, các tác giả đã nêu lên và lý giải hàng loạt những quan điểm mới xung quanh lý luận về thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay như: vấn đề phân hóa giàu, nghèo; vấn đề bất công, bất bình đẳng xã hội trong điều kiện KTTT v.v..Cuốn sách “Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay”của Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, nêu lên những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản trong nhận thức và thực hiện CBXH ở nước ta. Đỗ Huy trong bài viết “Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (Tạp chí Triết học số 12/2009) đã phân tích 6 vấn đề bức xúc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, đó là: phải quan tâm tới thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của đất nước trong mối tương quan với các nước khác; phải chú ý tới tư duy gắn với lợi ích; vấn đề gia tăng dân số và các hệ lụy của nó; vấn đề giáo dục; vấn đề cơ chế thị trường.
Một số luận văn, luận án đề cập tới vấn đề CBXH trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ này như: “Thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc sĩ Triết học của Trương Đình Khương, năm 2008; “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Chính trị học của Võ Thị Hoa, năm 2010; “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CBXH ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế”, Luận án Tiến sĩ Triết học của Vi Thị Hương Lan, năm 2012. Các tác giả đã nêu lên các khái niệm CBXH, bình đẳng xã hội; phân tích cơ sở lý luận của việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay v.v..
- Những công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cuốn sách “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp” của Nguyễn Thị Nga (Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà nội 2007; Cuốn “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,công bằng xã hội ở Việt Nam” do Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, các tác giả đã nêu lên những thành tựu cơ bản về tăng trưởng kinh tế và CBXH ở nước ta thời kỳ đổi mới, đồng thời, các tác giả cũng đã đưa ra những cảnh báo về xu hướng không đồng thuận, thiếu bền vững giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH, trên cơ sở đó, nêu lên những giải pháp chủ yếu nhằm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, CBXH ở nước ta hiện nay.
Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Công bằng xã hội ở Việt Nam: Nhận diện và giải pháp thực hiện” (Tạp chí Triết học số 5/2008) đã đưa ra và phân tích bốn thời kỳ thực hiện CBXH ở Việt Nam từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện CBXH ở nước ta. Cuốn “Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, do Lương Việt Hải chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, các tác giả đã đã lý giải CBXH gắn với tiến trình hiện đại hóa, trên cơ sở đó, khái quát 3 nhóm giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay đó là: phát triển toàn diện KTTT định hướng XHCN; xây dựng và thực thi đầy đủ các chính sách xã hội; nâng cao vai trò của Nhà nước trong tiến trình hiện đại hóa vì mục tiêu CBXH.
1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.4.1. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Các công trình đã khắc họa những nét chung nhất về KTTT và KTTT định hướng XHCN dưới nhiều góc độ, mức độ khác nhau, tuy nhiên, còn nhiều nội dung quan trọng chưa được lý giải đầy đủ như vai trò, phương thức vận động và sự chi phối của các quy luật KTTT đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước; cơ cấu sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế, vai trò của chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; vai trò động lực của thành phần kinh tế tư nhân trong nền KTTT, v.v..
- Các công trình nghiên cứu về CBXH đã bước đầu xây dựng cơ sở lý luận về CBXH, tuy nhiên, còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu như: nội dung, tính chất của CBXH; vấn đề công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển; sự phân biệt giữa công bằng và bình đẳng xã hội v.v..
- Vấn đề thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã được đề cập tương đối phong phú, tuy nhiên, chưa có công trình nào làm rõ những mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết nhằm phát triển KTTT và thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay.
1.4.2. Định hướng nghiên cứu của đề tài
- Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN.
- Thứ hai, làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
- Thứ ba, đề xuất những giải pháp chủ yếu thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trong thời gian tới.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. NHẬN DIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
2.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa ở giai đoạn phát triển cao, trở thành hình thái kinh tế phổ biến, chi phối nền sản xuất xã hội, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Nói cách khác, KTTT là một quy định quá trình vận động và phát triển của nền KTTT. KTTT có những đặc kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà ở đó, các loại thị trường chi phối mạnh mẽ và quyết định việc sản xuất hàng hóa; quan hệ hàng - tiền và các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh v.vlà những quy luật kinh tế cơ bản trưng phổ biến đó là: tôn trọng tính độc lập trong sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế; hoạt động sản xuất kinh doanh phải theo yêu cầu của thị trường; tồn tại đa dạng các thành phần kinh tế, có sự điều tiết của nhà nước ở những mức độ khác nhau; đòi hỏi sự đồng bộ các yếu tố thị trường.
2.1.2.2. Quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là phương thức tổ chức kinh tế - xã hội vừa dựa trên những quy luật và nguyên tắc chung của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất XHCN. KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của KTTT và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, phát triển theo định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN mang những đặc trưng cơ bản đó là: hướng tới phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; là nền kinh tế tồn tại đa dạng các thành phần kinh tế và hình thức sở hữu, trong đó thành phần kinh tế và sở hữu Nhà nước giữ vai trò nền tảng; là nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước XHCN; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH, phát triển văn hóa, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường; giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; là nền kinh tế thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối.
2.1.2. Quan niệm về công bằng xã hội
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề CBXH luôn được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù có những thành công nhất định, nhưng do hạn chế bởi lập trường giai cấp cũng như yếu tố thời đại, phần lớn các nhà tư tưởng trong lịch sử mới chỉ dừng lại ở việc khái quát dưới dạng lý tưởng về CBXH; chưa chỉ rõ được vai trò, bản chất, phương thức, điều kiện và lực lượng để thực hiện CBXH. Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm đúng đắn về thực chất, vai trò của CBXH cũng như các giải pháp thực hiện nó trong đời sống xã hội. Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khái quát lý luận về CBXH vừa sâu sắc trong cốt lõi khoa học, vừa giản dị, hàm súc. CBXH gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, vì mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng con người; CBXH gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội, là trách nhiệm Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Hiện nay, khái niệm CBXH được đề cập phong phú, dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Căn cứ vào phương diện nghiên cứu, mục tiêu, nhiệm vụ của luận án, tác giả cho rằng, CBXH là một phạm trù lịch sử, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó bảo đảm sự tương xứng giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội. CBXH thể hiện khát vọng của con người và là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội.
Với quan niệm trên, CBXH có những đặc trưng cơ bản sau:
- Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử: CBXH phản ánh quan hệ giữa người với người xung quanh vấn đề lợi ích. Sự phân phối lợi ích trong mỗi chế độ xã hội luôn chịu tác động bởi điều kiện kinh tế - xã hội và các hình thái ý thức xã hội như ý thức chính trị, đạo đức, văn hóa của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy CBXH luôn có tính lịch sử. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, CBXH được nhìn nhận và giải quyết khác nhau.
- Về bản chất, CBXH là sự tương xứng giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội.
- Về nội dung, CBXH có nội dung phong phú, tuy nhiên có thể khái quát ở hai nội dung chính, đó là công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển và công bằng trong phân phối. Công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển là việc tạo cho mọi người tiếp cận phù hợp các cơ hội, điều kiện phát triển, thông qua đó, phát huy mọi năng lực của mình, cống hiến tích cực, có hiệu quả; đồng thời, hưởng thụ một cách tương xứng với kết quả của sự cống hiến đó. Công bằng trong phân phối là nội dung chủ yếu của CBXH. Bởi vì, trong xã hội, việc lựa chọn các hình thức phân phối khác nhau sẽ quyết định tính chất và mức độ thực hiện CBXH khác nhau, điều này phụ thuộc vào bản chất kinh tế, chính trị - xã hội cũng như điều kiện, năng lực thực tế của các nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
- Công bằng xã hội mang tính toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hộitrên cơ sở đảm bảo sự tương xứng giữa việc tạo ra và phân phối các lợi ích xã hội.
- Công bằng xã hội là khát vọng lớn lao của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần, do vậy, CBXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Khái niệm CBXH không tách rời với khái niệm bình đẳng xã hội, do đó cần phải nghiên cứu hai khái niệm này trong mối quan hệ với nhau.
Bình đẳng là khái niệm chỉ sự bằng nhau, ngang nhau giữa cá nhân hay các nhóm xã hội về một hay một số phương diện nhất định, còn CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người với người trên phương diện cống hiến và hưởng thụ. Công bằng và bình đẳng là hai khái niệm giao nhau. Bình đẳng có khía cạnh công bằng (như sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; bình đẳng trong hưởng thụ ở những người có lao động, đóng góp ngang nhau), nhưng cũng có khía cạnh không công bằng như sự phân phối bình quân. Trong công bằng vừa có bình đẳng, vừa có bất bình đẳng, cái mà xã hội thừa nhận là công bằng thì không nhất thiết phải là sự bình đẳng và sự bất bình đẳng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bất công.
Trên cơ sở lý luận về KTTT định hướng XHCN và CBXH, tác giả khái quát quan niệm về công bằng xã hội trong điều kiện KTTT định hướng XHCN như sau:
Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công bằng xã hội có mức độ, công bằng có thừa nhận bất công trong giới hạn; là công bằng xã hội được thực hiện tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; là công bằng xã hội được thực hiện từng bước, trong từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; công bằng xã hội là mục tiêu, động lực và là thước đo đánh giá trình độ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. TÍNH QUI LUẬT VỀ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công bằng có mức độ, công bằng có thừa nhận bất công trong giới hạn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nội dung chủ yếu quyết định CBXH là chế độ phân phối lợi ích trong xã hội. Ở các xã hội khác nhau, phương thức phân phối lại khác nhau, do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Điều này cũng có nghĩa, nếu vẫn còn sự khác biệt trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất thì vẫn còn tình trạng bất công và bất bình đẳng xã hội. Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, đối tượng sở hữu cũng đa dạng đã quy định quan hệ phân phối thu nhập đa dạng. Có những phân phối thông qua lao động, có những phân phối không thông qua lao động. Kết quả là có người thu nhập cao, có người thu nhập thấp; có người được hưởng thụ một cách tương xứng với những đóng góp của họ, và ngược lại, cũng có những người chưa được hưởng thụ một cách tương xứng. Rõ ràng là, không thể khắc phục được ngay mọi sự bất công xã hội, hoặc đòi hỏi thực hiện ngay lập tức một sự công bằng tuyệt đối, hoàn hảo. Điều đó chỉ có thể là kết quả của một quá trình lâu dài, được thực hiện từng bước trên cơ sở phù hợp với trình độ phát triển của xã hội. Nói cách khác, trong quá trình phát triển xã hội, chúng ta buộc phải chấp nhận bất công xã hội trong giới hạn nhất định. Tuy nhiên chúng ta không thể để chúng ngày càng gia tăng phổ biến, làm thay đổi bản chất của quan hệ kinh tế - xã hội, hình thành chế độ xã hội bất công. Quá trình chuyển đổi cơ chế từ tập trung, bao cấp sang KTTT bên cạnh những yếu tố tích cực, còn không ít những yếu tố tự phát, độc quyền, lũng đoạn, vô chính phủ. Chúng ta cần phải chủ động, tích cực đấu tranh, khắc phục những hạn chế, tiêu cực xã hội đó. Có như vậy CBXH mới từng bước được thiết lập và bảo đảm, bất công xã hội mới được khắc phục.
2.2.2. Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực hiện sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
Trong nền KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và CBXH là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ. Tăng trưởng kinh tế làm tiền đề vật chất cần thiết để thực hiện CBXH. Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng cơ hội và điều kiện phát triển cho người lao động, đặc biệt là những người nghèo, những người gặp khó khăn tiếp cận các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả của tăng trưởng kinh tế. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, Nhà nước có sức mạnh vật chất thực hiện tốt các chính sách xã hội, hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính cho các vùng, các địa phương khó khăn phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản v.v..
Ở chiều tác động trở lại, tiến bộ, CBXH sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quan trọng hơn đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững. CBXH được thực hiện sẽ thu hút rộng rãi mọi người tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các thành phần kinh tế, các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, CBXH ngày càng được thế giới nhận thức rõ hơn. Mối quan hệ này thực ra đã nằm trong nội hàm của phát triển bền vững, bởi vì, theo quan niệm mới, phát triển bền vững gồm ba trụ cột quy định lẫn nhau, đó là phát triển kinh tế bền vững, phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi trường.
2.2.3. Công bằng xã hội được thực hiện trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực, cũng luôn tác động tiêu cực đối với quá trình thực hiện CBXH. KTTT tự nó, luôn có xu hướng vận động tự phát dưới sự tác động khách quan của các quy luật thị trường. Trong mọi nền KTTT đều khó tránh khỏi ở mức độ nào đó, sự nảy sinh những hiện tượng, những quá trình nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, trong đó có thể kể đến như nạn khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, lạm phát, bất công xã hội, ô nhiễm môi trường v.v..
Kinh tế thị trường tạo ra những hạn chế, tiêu cực, nhưng KTTT lại luôn đặt ra yêu cầu và là phương thức để giải quyết những hệ quả đó. Ở nước ta, xuất phát từ mục tiêu, định hướng XHCN, trong từng bước cũng như toàn bộ quá trình phát triển của KTTT phải luôn gắn với việc giải quyết CBXH. Mặc dù trình độ phát triển của KTTT ở nước ta còn tương đối thấp, cùng với xu thế tăng trưởng kinh tế nhanh, dẫn tới xuất hiện nhiều những hiện tượng tiêu cực, bất công xã hội, nhưng chúng ta không thể phó mặc cho KTTT tự điều tiết, mà ngược lại phải chủ động điều tiết để hướng KTTT phát triển lành mạnh, vừa thúc đẩy kinh tế, vừa giải quyết những vấn đề xã hội. Càng khó khăn, càng phải thực hiện CBXH, bởi vì, khi kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, khuynh hướng tự phát của KTTT càng bộc lộ rõ. Nếu để KTTT tự nó điều tiết sẽ làm cho khoảng cách, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Cùng với nó, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền, nạn quan liêu, tham nhũng, vi phạm pháp luật sẽ ngày càng có khuynh hướng gia tăng. Thực thi CBXH là giải pháp căn bản khắc phục tình trạng này.
2.3. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI
2.3.1. Kinh nghiệm thực hiện công bằng xã hội trong mô hình kinh tế thị trường tự do
Mỹ là quốc gia tiêu biểu cho mô hình này với quan điểm chủ đạo là tăng trưởng kinh tế đối lập với CBXH. Thực tiễn phát triển của các nước theo mô hình KTTT tự do đã chứng minh những nghịch lý cơ bản của quan điểm trên. Nền kinh tế tăng trưởng cao, nhưng đa số dân cư nghèo, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến sản xuất bị đình trệ, bế tắc. Mặc dù chính phủ Mỹ đã có cố gắng thực hiện các chính sách phúc lợi và bảo đảm xã hội như đề ra các chương trình phiếu thực phẩm, hỗ trợ người nghèo, trợ giúp y tế, nhà ở, bảo hiểm xã hội, thất nghiệp,nhưng đó chỉ là sự điều phối một phần nhỏ trong tổng giá trị lợi nhuận do xã hội tạo ra, và những người nghèo cũng chỉ được hưởng một phần rất nhỏ.
Bản chất của KTTT tự do là phó mặc cho thị trường tự điều tiết. KTTT tự do đã thừa nhận bất công xã hội không giới hạn, nhằm gia tăng tối đa lợi ích của giới chủ tư bản và đẩy người lao động tới tình trạng đói nghèo, bần cùng hóa, dẫn tới kinh tế khủng hoảng; xã hội luồn ẩn chứa xung đột. Đây là điều chính những nhà tư sản cũng nhận ra và thực hiện việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường xã hội.
2.3.2. Kinh nghiệm thực hiện công bằng xã hội trong mô hình kinh tế thị trường xã hội
Khác với mô hình Mỹ và các nước tư bản khác, Thụy Điển và các nước Bắc Âu, nhà nước tham gia tích cực vào đời sống kinh tế - xã hội nhằm tạo ra một xã hội thịnh vượng và một nhà nước phúc lợi toàn dân. Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thông qua thuế và hệ thống bảo hiểm. Việc kết hợp giữa KTTT với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mở rộng phúc lợi xã hội, đã tạo ra hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội cao.
Tuy nhiên, để thực hiện các chương trình xã hội của chính phủ và cân bằng múc thu nhập của các tầng lớp dân cư, chính phủ Thụy Điển đã áp dụng chính sách thu thuế cao, tập trung vào những người có thu nhập cao. Thuế cao, cùng với phúc lợi xã hội lớn, dẫn đến số đông người dân dễ lạm dụng các trợ cấp xã hội. Các chủ tư bản tìm cách đầu tư ra nước ngoài để tránh thuế thu nhập, dẫn đến thất thu ngân sách ngày càng lớn. Kinh tế Thụy Điển đã có lúc lâm vào suy thoái. Chính phủ Thụy Điển đã phải liên tục thực hiện việc cắt giảm các khoản phúc lợi xã hội, để nhằm duy trì sự tồn tại của nền kinh tế.
Như vậy, mô hình KTTT xã hội ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu có nhiều ưu điểm đối với việc thực hiện CBXH, song, xét đến cùng, đó cũng không phải là CBXH thực sự và bền vững.
2.3.3. Kinh nghiệm thực hiện công bằng xã hội trong mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc
Trong công cuộc cải cách, Trung Quốc đặt trọng tâm phát triển kinh tế, từ đó tạo cơ sở để thực hiện CBXH. Trong 35 năm qua, Trung Quốc đã kiên trì, nhất quán thực hiện chủ trương xây dựng KTTT xã hội chủ nghĩa, duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, từng bước thực hiện CBXH với mục tiêu“ưu tiên hiệu quả, chiếu cố công bằng, tiến tới cùng giàu có” và đạt được những thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức thu nhập bình quân đầu người không ngừng nâng cao. Về mặt xã hội, thông qua các chính sách phân phối thu nhập, chính sách phúc lợi, bảo hiểm xã hội, lợi ích của đông đảo nhân dân ngày càng được bảo đảm.
Tuy nhiên, Trung Quốc hiện nay đang phải đương đầu với những thử thách không nhỏ. Do tập trung cao cho tăng trưởng kinh tế, nên các vấn đề xã hội không được giải quyết hiệu quả và tương xứng dẫn đến tình trạng phân tầng xã hội; khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền ngày càng đẩy xa thêm. Hiện nay, Trung Quốc đã chú trọng khắc phục các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bất công xã hội tăng cao và đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, những khó khăn, thử thách mà Trung Quốc đang phải đối mặt vẫn hết sức to lớn.
Thông qua khảo sát các lý thuyết và thực tiễn thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT ở một số mô hình tiêu biểu, có thể khái quát những bài học kinh nghiệm chủ yếu như sau:
Thứ nhất, muốn phát triển bền vững, phải đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết CBXH. Các chính sách kinh tế và chính sách xã hội luôn phải thống nhất, vận động cùng chiều vì mục tiêu chung.
Thứ hai, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc quản lý, điều tiết nền KTTT. KTTT càng phát triển hiện đại, vai trò của nhà nước càng phải được khẳng định và phát huy.
Thứ ba, mọi chiến lược phát triển của mỗi quốc gia đều phải hướng tới con người, vì lợi ích chân chính của con người; phải đảm bảo hài hòa trong tương quan lợi ích của các cá nhân, nhóm xã hội và toàn xã hội.
Chương 3
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1.1. Những thành tựu đạt được
Trên cơ sở đổi mới, từng bước nhận thức phù hợp về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, cho đến nay, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong thực hiện CBXH, đó là: đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế; phân phối các nguồn lực và phân phối thu nhập theo hướng đảm bảo CBXH trong từng bước và cả quá trình phát triển; giải quyết các chính sách xã hội theo hướng gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội, tạo cơ hội và điều kiện phát huy vai trò, năng lực của người lao động. Để đạt được những thành tựu đó, do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm, đường lối và chính sách pháp luật phù hợp, động viên, khai thác, phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong nhân dân giải quyết những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Bên cạnh đó, phải kể đến nguyên nhân khách quan xuất phát từ chính những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Kinh tế tăng trưởng, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực ngày càng gia tăng,đang tạo những cơ hội và điều kiện tích cực cho mọi người dân phát huy tốt vai trò, năng lực cống hiến và hưởng thụ những thành quả lao động xã hội trên cơ sở nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội.
3.1.2. Những hạn chế
Thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay còn những hạn chế, khó khăn chủ yếu như sau: tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế chưa được khắc phục, dẫn tới bất công xã hội chưa được đẩy lùi; phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập cho người lao động còn khá nhiều bất cập, gây bất công xã hội; còn nhiều khó khăn trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH; đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hạn chế đối với việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay là:
- Nguyên nhân khách quan: Chúng ta đang thực hiện sự nghiệp đổi mới trong điều kiện KTTT định hướng XHCN còn nhiều điều mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, do vậy, những khó khăn, thử thách đặt ra hết sức to lớn. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta còn tương đối thấp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn đang là nguy cơ thường trực. Hệ thống thể chế KTTT còn không ít hạn chế, khiếm khuyết, do vậy những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của KTTT đang hết sức nghiêm trọng.
- Nguyên nhân chủ quan: Tư duy lý luận về CBXH trong điều kiện KTTT còn hạn chế, nhiều “khoảng trống” nằm trong tổng thể hạn chế chung của lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn; chủ trương, đường lối, chính sách vĩ mô, pháp luật của Đảng và Nhà nước còn nhiều bất cập. Năng lực của bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước còn nhiều hạn chế.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách quan của việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với năng lực chủ quan, trong đó có năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước còn hạn chế
Ở nước ta hiện nay, năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước còn tương đối hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu khách quan đối với việc thực hiện CBXH trong nền KTTT. Cụ thể đó là những hạn chế trong nhận thức, lý luận, trong xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về KTTT định hướng XHCN và CBXH; hạn chế, bất cập trong năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tình trạng không phân định rõ về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng và chính quyền còn khá phổ biến, đặc biệt ở các cơ sở, địa phương đã dẫn tới tình trạng quan điểm, đường lối của Đảng đúng đắn, nhưng nhiều khi không được thực hiện, thậm chí thực hiện sai. Trên thực tế, nhiều nơi đã xảy ra tình trạng vi phạm đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội, gây những hậu quả nghiêm trọng.
3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu thực hiện công bằng xã hội ngày càng đầy đủ, bền vững với khả năng đáp ứng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn giới hạn
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN, các loại thị trường đang từng bước được hình thành, do vậy, còn mang nhiều yếu tố sơ khai, lại gặp không ít những khiếm khuyết của hệ thống thể chế kinh tế và thể chế hành chính, đã bị chia cắt, không ít trường hợp là độc quyền. Nghiêm trọng hơn, có thị trường bị bóp méo, hoạt động “ngầm”, mà Nhà nước chưa kiểm soát được. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng nhái, kinh doanh hàng hóa mất vệ sinh, thiếu an toàncòn khá phổ biến và chậm được khắc phục đang ngày càng trở thành những vấn đề nhức nhối, gây bất công xã hội nghiêm trọng.
Hệ thống pháp luật chưa được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, thiếu ổn định, chưa minh bạch, chưa tạo được hành lang pháp lý thật sự thuận lợi, an toàn cho sự vận hành thông suốt và thống nhất của nền KTTT; một số quy định pháp luật còn chồng chéo, thậm chí trái ngược nhau gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện, tạo kẽ hở cho những hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luậtVẫn còn nhiều thủ tục hành chính không hợp lý, phức tạp, gây phiền hà cho người dân và cho doanh nghiệp.
3.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về sự đồng thuận trong thực hiện công bằng xã hội với sự xung đột về lợi ích giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, dưới tác động mặt trái của KTTT, quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước ta đang bộc lộ hàng loạt những vấn đề bất cập, gây khó khăn đối với việc thực hiện CBXH. KTTT hiện nay đang là mảnh đất “màu mỡ” cho sự nảy sinh và phát triển của chủ nghĩa cá nhân, nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan ở một bộ phận không nhỏ của xã hội. Chủ nghĩa cá nhân không chỉ gây thiệt hại đối với kinh tế, mà nghiêm trọng hơn, đã phá vỡ mối liên kết giữa các thành viên xã hội, làm cho quan hệ xã hội lỏng lẻo, các giá trị xã hội, các chuẩn mực đạo đức tinh thần không được coi trọng, tạo lực cản lớn tới quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Tình trạng xung đột giữa các nhóm lợi ích xã hội, đặc biệt là sự cấu kết, lộng hành của các nhóm lợi ích tiêu cực ở nước ta hiện nay cũng đang là vấn đề gây nhức nhối đối với toàn xã hội. Biểu hiện chủ yếu của nhóm lợi ích tiêu cực ở nước ta là tình trạng cấu kết của doanh nghiệp với những người có quyền lực tạo thành mối quan hệ “ngầm” chi phối xã hội. Mối quan hệ không bình thường của lợi ích nhóm tiêu cực tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, bóp méo các chính sách của Nhà nước, gia tăng bất công xã hội, làm suy giảm uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân
3.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu thực hiện công bằng xã hội bền vững với khuynh hướng phân tầng xã hội ngày càng gia tăng
Phân tầng xã hội, đặc biệt là phân tầng xã hội tiêu cực đang diễn biến tự phát, cực đoan, mà biểu hiện rõ nhất là sự phân hóa giàu, nghèo quá mức tạo thành tương phản hai cực trong xã hội. Trong xã hội, bên cạnh những cá nhân, các nhóm xã hội biết làm giàu chân chính, hợp pháp vẫn còn tồn tại không ít những kẻ làm giàu phi pháp như buôn gian, bán lậu, lừa đảo, tham nhũng, hối lộ v.v.. Trong những năm tới, xu hướng tiêu cực này tiếp tục gia tăng do tác động mặt trái của KTTT, do hiệu quả chưa cao của cải cách hành chính, do thiếu tính nghiêm minh của pháp luật và những hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội hiện nay.
Chương 4
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong thời gian tới, thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam phải đảm bảo cho các quan hệ sản xuất được xác lập và không ngừng hoàn thiện, phát huy tối đa mọi tiềm năng tăng trưởng, từng bước xóa bỏ phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu và phương thức sản xuất của các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đảm bảo cho mọi chủ thể kinh tế, mọi doanh nghiệp và công dân bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội, nguồn lực, kể cả các nguồn thông tin thị trường. Cần đẩy nhanh quá trình cải cách thủ tục hành chính, xóa bỏ các thủ tục hành chính không phù hợp, tạo rào cản đối với các doanh nghiệp. Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong thể chế vận hành của KTTT cũng như trong sự phát triển của từng loại thị trường. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, kiểm soát thị trường của Nhà nước và thực hiện tốt các cam kết thương mại, xúc tiến đầu tư, giải quyết các tranh chấp kinh tế phù hợp với KTTT định hướng XHCN và các thông lệ, cam kết quốc tế.
4.2. NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Trước tiên cần nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng; không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong việc thực hiện CBXH. Đẩy mạnh thực hiện công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng. Xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.
4.3. ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ, CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THEO HƯỚNG GIẢI QUYẾT HÀI HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH
4.3.1. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách kinh tế.
Xây dựng và hoàn thiện các chính sách sở hữu đảm bảo tính đa dạng các hình thức sở hữu, tôn trọng và bảo vệ lợi ích đa dạng của các chủ thể khác nhau, trong đó, sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể giữ vai trò nền tảng. Chính sách phân phối phải đảm bảo thực thi CBXH. Chúng ta phải chấp nhận sự chênh lệch về thu nhập, đồng thời, cũng cần phải tạo ra được quan hệ đồng thuận cơ bản về lợi ích xã hội. Chính sách đầu tư cần đổi mới theo hướng cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong việc tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Đảm bảo chính sách đầu tư ưu đãi và trợ giúp đối với những cá nhân và gia đình khó khăn, những người có công, những đối tượng chính sách. Chính sách tài chính - tiền tệ cần được sử dụng như một công cụ quan trọng nhằm khuyến khích phát triển kinh tế, điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng, kiềm chế lạm phát. Xóa bỏ hoàn toàn chính sách tài chính theo chế độ cấp phát, giao nộp, đảm bảo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sản xuất kinh doanh.
4.3.2. Đổi mới và hoàn thiện các chính sách xã hội
Chính sách về lao động và việc làm hướng tới tạo việc làm bền vững với thu nhập đảm bảo cuộc sống cho người lao động và giảm thất nghiệp. Ttiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Chính sách tiền lương và phụ cấp bảo đảm chi trả cho những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động, có đủ điều kiện tích lũy bảo đảm cuộc sống bình thường khi hết tuổi lao động, nhất là chăm sóc y tế tuổi già. Chính sách an sinh xã hội phải được thực hiện đồng bộ, phù hợp với điều kiện KTTT, phù hợp với nguyên tắc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ xã hội đối với mỗi cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội trong việc phòng ngừa rủi ro đối với từng cá nhân và cộng đồng xã hội. Chính sách giáo dục - đào tạo cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào tạo cho mọi tầng lớp nhân dân; đặc biệt chú ý tạo cơ hội học tập cho con em nông dân, các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng còn nhiều khó khăn. Hoàn thiện chính sách giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu giảm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư, về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giữa các vùng, miền.
4.4. PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ, CÁC TỆ NẠN XÃ HỘI
4.4.1. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thể chế hóa các quyền công dân về sở hữu, quản lý, phân phối, làm cho người lao động làm chủ thực sự về tư liệu sản xuất. Nhà nước hướng tới xóa bỏ mọi rào cản phát triển kinh tế, bãi bỏ độc quyền cũng như cơ chế xin, cho - một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng phân tầng xã hội tiêu cực hiện nay. Không ngừng giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tự giác, sáng tạo của người dân trong các quá trình hoạt động kinh tế; khuyến khích và tạo cơ chế phù hợp để cho mọi người được làm giàu chính đáng; mặt khác, phải trừng trị nghiêm minh những kẻ làm giàu bất chính, trái pháp luật.
Mở rộng, phát huy dân chủ trong kinh tế phải đi liền với dân chủ về chính trị, xã hội để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức được trách nhiệm xã hội và tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phát huy dân chủ đi liền với hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội. Phát huy vai trò chủ động tích cực của mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm soát lực lượng lao động, sản xuất và phân phối sản phẩm, v.v..
4.4.2. Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội. Hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát theo hướng dân chủ, công khai minh bạch. Nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kiên quyết xử phạt nghiêm minh đối với những cán bộ, nhân viên tham nhũng hoặc bao che cho các đối tượng tham nhũng ở mọi cấp, mọi nơi, mọi cương vị làm cho bộ máy thật sự trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò tích cực của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ văn hóa dân chủ trong nhân dân.
KẾT LUẬN
Trong lịch sử, có nhiều quan niệm khác nhau về CBXH. Sự khác nhau đó phản ánh sự khác nhau về lợi ích của các giai cấp khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, qua mỗi thời kỳ đều ghi dấu quan trọng trong hành trình tìm kiếm và thực thi CBXH; CBXH đã thực sự trở thành động lực của tiến bộ xã hội, là thước đo những thành tựu đạt được của con người trong quá trình phát triển.
Đối với nước ta, CBXH là khát vọng của toàn dân và là yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Quan hệ giữa CBXH và KTTT định hướng XHCN là quan hệ gắn bó hữu cơ. Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta không chỉ biểu hiện ở mức độ TTKT mà còn là những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện CBXH. Thực tiễn khách quan của quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN và thực thi CBXH đã từng bước làm bộc lộ những nội dung cơ bản mang tính quy luật của nó, đòi hỏi phải được nhận thức đúng đắn, nhằm phát hiện những mâu thuẫn và tìm kiếm những giải pháp phù hợp để tiếp tục thúc đẩy quá trình thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Từ những mô hình lý luận và bài học thực tiễn ở một số nước, căn cứ vào tình hình lịch sử cụ thể, bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo mục tiêu XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đổi mới tư duy lý luận, xây dựng đường lối chiến lược phù hợp đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với CBXH; thực hiện CBXH trong từng bước và từng chính sách phát triển v.v.., đây là những quan điểm chiến lược phù hợp, tạo tiền đề thúc đẩy kinh tế - xã hội với những bước phát triển nhanh và bền vững. Sau gần 30 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ và phát huy tác dụng to lớn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân. CBXH đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta đang còn phải đương đầu với hàng loạt những khó khăn thử thách: tình trạng phân hóa giàu - nghèo, khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền ngày càng lớn; tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm đang trở thành vấn đề hết sức nan giải trong xã hội; tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ đang xảy ra nhiều nơi ảnh hưởng nghiêm trọng tới CBXH. Hiện nay, tư duy lý luận về CBXH trong điều kiện KTTT còn tương đối hạn chế. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn, còn nhiều lúng túng trong việc xử lý những vấn đề đặt ra do thiếu hụt khung lý thuyết và các mô hình phát triển. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước còn chứa đựng nhiều bất cập, tồn tại, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện nhằm hướng vào khai thác, hội tụ mọi nguồn lực của đất nước, phát triển kinh tế và thực hiện CBXH.
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Các giải pháp phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ những quy luật khách quan của KTTT, có tham khảo và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các mô hình phát triển tiêu biểu trên thế giới, đồng thời phải đảm bảo tính định hướng XHCN trong quá trình phát triển. Giải pháp có tính đột phá hiện nay là xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện vật chất, kinh tế thực hiện CBXH. Để kết hợp thống nhất giữa mục tiêu phát triển KTTT và thực hiện CBXH, điều kiện tiên quyết đó là đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò “bàn tay hữu hình” của Nhà nước cùng với việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội; phát huy hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội là những vấn đề cốt lõi hiện nay. Những giải pháp này có tính định hướng nhằm tìm kiếm những tiền đề khách quan cũng như phát huy nhân tố chủ quan trong việc tạo dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, ở đó, con người được phát huy quyền làm chủ, luôn sáng tạo, luôn cống hiến cao nhất năng lực của mình vì sự phát triển tiến bộ của xã hội và lợi ích của mỗi thành viên.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Hồng Sơn (2009), “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (2).
2. Nguyễn Hồng Sơn (2011), “Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (166) (II).
3. Nguyễn Hồng Sơn (2014), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (2).
4. Nguyễn Hồng Sơn (2014), “Những nhân tố tác động tới việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (11).
5. Nguyễn Hồng Sơn (2015), “Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
6. Võ Thị Hoa - Nguyễn Hồng Sơn (2015), “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (3).
7. Nguyễn Hồng Sơn (2015), “Nhận thức về việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, ( 4).
8. Nguyễn Hồng Sơn (2015) “Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (10).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_la_son_6276_3534.doc