Đội ngũ CC cấp xã là những người có quan hệ trực tiếp, gắn bó mật thiết với người dân, là người
trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước với người dân để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh ở
địa phương. Việc không ngừng củng cố, chăm lo xây dựng đội ngũ CC cấp xã là nhiệm vụ chiến lược có ý
nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trong thành tích
chung của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Đam Rông trong công cuộc đổi mới cùng
với đất nước, có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ CC cấp xã. Trong thời gian qua, bên cạnh việc quan tâm
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng đã thường xuyên
quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ CC trong đó có đội ngũ CC cấp xã. Đội ngũ công chức cấp xã huyện
Đam Rông hiện nay cơ bản đã đủ về số lượng nhưng năng lực, chất lượng thực thi công vụ thực sự vẫn còn
là một vấn đề cần quan tâm. Đây vừa là yêu cầu trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài, vì vậy cần sự quan tâm,
đầu tư của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ thành phố cho đến xã, phường. Năng lực thực thi công vụ của
công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay bên cạnh một số mặt mạnh như tinh thần và ý thức trách nhiệm
được nâng cao hơn, trình độ chuyên môn được nâng cao một bước rõ rệt, kỹ năng tác nghiệp chuyên môn đã
có sự chuyển biến về chất, góp phần tích cực vào hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã.
28 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Chất lượng công chức xã huyện Đam Rông tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
văn hoá tốt nghiệp THCS là 01 người, chiếm 1%; trình độ văn hoá tốt
nghiệp THPT là 95 người, chiếm 98%. Qua thống kê cho thấy mặt bằng chung thì công chức cấp xã của
huyện có trình độ học vấn THPT tương đối cao (98%), chỉ có 01 trường hợp trình độ THCS là công chức lớn
tuổi sắp về hưu không có nhu cầu học tập nâng cao trình độ, nhưng có kinh nghiệm và uy tín đối với cơ sở,
giữ chức danh Trưởng công an xã.
Thứ hai, về trình độ chuyên môn
11
Công chức cấp xã huyện Đam Rông có trình độ chuyên môn sơ cấp 03 người, chiếm 3,1%, trình độ
chuyên môn trung cấp 47 người, chiếm 49%, trình độ cao đẳng 08 người, chiếm 8,3%, trình độ đại học 38
người, chiếm 39,6%. Số công chức đạt chuẩn về trình độ chuyên môn là 93 người, chiếm 96,9%.
Thứ ba, về trình độ lý luận chính trị
Công chức cấp xã huyện Đam Rông có trình độ lý luận chính trị sơ cấp 06 người, chiếm 6,3%, trình
độ lý luận chính trị trung cấp 33 người, chiếm tỷ lệ 34,4%, chưa qua đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị 57
người, chiếm 59,4%. Tổng số công chức cấp xã đạt chuẩn về trình độ lý luận chính trị là 39 người, chiếm tỷ
lệ 40,6%.
Thứ ba, về trình độ quản lý nhà nước
Công chức được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà theo chức danh là 06 người, chiếm 6,3%, chưa qua
bồi kiến thức quản lý nhà nước 90 người, chiếm 93,7%.
2.2.4. Về kỹ năng nghiệp vụ của công chức cấp chức cấp xã huyện Đam Rông
Công chức cấp xã trên địa bàn huyện trong những năm gần đây đã được bồi dưỡng về các kỹ năng để
đáp ứng yêu cầu giải quyết công việc theo yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới thể hiện theo những nội
dung sau:
Thứ nhất, kỹ năng nắm vững các chủ trương, chính sách để cụ thể hóa trong thực thi nhiệm vụ
Thứ hai, kỹ năng tuyên truyền và phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của nhà nước
Thứ ba, kỹ năng tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước
2.2.5. Thái độ hành vi của công chức đối với nhân dân
Thực tế về văn hóa ứng xử của công chức cấp xã ở huyện hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần phải
được khắc phục như:
Thứ nhất, tinh thần và thái độ.
Thứ hai, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ.
2.2.6. Kết quả phân loại chất lượng công chức xã
Qua kết quả đánh giá công chức trên của các xã, phường trên địa bàn huyện, từ năm 2011 - 2016 đa số
công chức đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ (trên 90%), số lượng công chức
hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực cơ bản hoàn thành khối lượng công việc được giao
nhưng chưa đạt yêu cầu trong tình hình hiện nay (dưới 10%)
12
Kết quả phân phân loại công chức xã giai đoạn 2011 - đến nay
Năm
Tổng số
công chức
hiện có
Tổng số
công
chức
được
đánh
giá, xếp
loại
Kết quả đánh giá, xếp loại
Hoàn
thành
xuất
sắc
nhiệm
vụ
Hoàn thành tốt
nhiệm vụ
Hoàn
thành
nhiệm vụ
còn hạn chế
về năng lực
Không hoàn
thành nhiệm vụ
2011 68 67 16 49 2
2012 71 69 19 47 3
2013 80 80 24 53 3
2014 96 96 26 66 4
2015 96 96 19 70 7
2016 96 96 19 72 5
(Nguồn phòng Nội vụ huyện Đam Rông - Lâm Đồng)
2.2.7. Điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc
Điều kiện làm việc của công chức cấp xã nhìn chung được cải thiện đáng kể; bình quân mỗi xã,
phường được trang bị 08 máy vi tính và 01 máy fax, 01 máy photocopy phục vụ cho công tác của cấp ủy,
chính quyền địa phương. Tuy nhiên, một số trang thiết bị văn phòng đã cũ, chưa có điều kiện thay thế.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG
2.3.1. Kết quả đạt được
Qua phân tích thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng có thể đánh
giá về những kết quả đạt được như sau:
Thứ nhất, cơ bản đảm bảo về số lượng và từng bước nâng cao về chất lượng, trình độ chuyên môn
phù hợp với vị trí chức danh công tác.
Thứ hai, phần lớn công chức cấp xã hiện đang công tác đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
Thứ ba, về chuyên môn nghiệp vụ, một số chức danh đã có phần lớn công chức có trình độ chuyên
môn phù hợp với vị trí công tác, một số vị trí chức đã đạt chuẩn theo quy định.
Thứ tư, trong thực thi công vụ một bộ phận khá lớn công chức cấp xã của huyện đã phát huy được
trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phục vụ đạt yêu cầu, nhiệm vụ tại địa phương.
Thứ năm, việc đánh giá, bố trí, sử dụng công chức cấp xã được tiến hành thường xuyên, về cơ bản đã
đảm bảo nguyên tắc, yêu cầu công tác.
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, đội ngũ công chức cấp xã thành phố huyện Đam Rông, tỉnh Lâm
Đồng còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, đội ngũ công chức cấp xã thành phố huyện Đam Rông, tỉnh
Lâm Đồng còn bộc lộ một số hạn chế sau:
13
Thứ nhất, về năng lực và kỹ năng thực thi nhiệm vụ, công vụ. Do hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau nên chất lượng không đồng đều; nhận thức và tác phong còn mang dấu ấn của
cơ chế quản lý tập trung nên thiếu sự năng động sáng tạo, ngồi chờ giao việc. Đội ngũ công chức
cấp xã nhìn chung chưa được bồi dưỡng đầy đủ những kiến thức theo tiêu chuẩn quy định, nhất
là những kiến thức về quản lý Nhà nước, về pháp luật, về kỹ năng và nghiệp vụ hành chính; công
chức đạt chuẩn về ba mặt học vấn, chuyên môn nghiệp vụ còn thấp (mới chỉ đạt 63%). Một bộ
phận công chức cấp xã chưa được đào tạo một cách bài bản, chính quy về chuyên môn nghiệp vụ
(nhất là Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng Quân sự xã). Nhận thức không đồng đều, thiếu chủ
động sáng tạo; việc vận dụng các chủ trương, chính sách của cấp trên vào điều kiện cụ thể của
địa phương chưa linh hoạt, nhiều nơi còn sao chép một cách máy móc. Không ít trường hợp chưa
nắm vững chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không nắm vững các quy định của pháp
luật, vì vậy quá trình chỉ đạo điều hành, giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tuỳ tiện theo
cảm tính cá nhân, không căn cứ vào quy định của pháp luật dẫn đến vi phạm kỷ luật.
Thứ hai, công chức chuyên môn cấp xã của huyện chưa được bố trí sử dụng một cách ổn
định, chuyên nghiệp. Trình độ và năng lực của công chức chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ
được giao, còn bất cập, hẫng hụt về năng lực quản lý Nhà nước về xã hội, kinh tế thị trường, pháp
luật, hành chính, kỹ năng xử lý tình huống, cũng như khả năng ứng dụng công nghệ thông tin
trong công tác quản lý còn hạn chế.
Thứ ba, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận công chức cấp xã
chưa tốt, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần và thía độ phục vụ nhân dân chưa cao; tình
trạng sách nhiễu nhân dân chưa được ngăn chặn một cách triệt để, gây nên sự trì trệ, trở ngại
trong việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại cấp xã. Hạn chế về khả năng tư
duy, dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch, thiếu khả năng nghiên cứu, tổng hợp tình hình,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; tinh thần hợp tác, phối hợp công việc còn nhiều hạn chế, nên hiệu
quả công tác không cao.
Thứ tư, một bộ phận sa sút về phẩm chất, đạo đức lối sống; thiếu tinh thần trách nhiệm,
thái độ phục vụ không tốt, có biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa dân, gây phiền hà cho nhân dân.
Tình trạng tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương tuy đã có các giải pháp ngăn ngừa, nhưng
hiệu quả còn thấp, có trường hợp phải xử ký trách nhiệm hình sự.
Những hạn chế như trên của công chức cấp xã ở huyện đang làm trở ngại cho tiến trình
đổi mới, làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả hoạt động công vụ của chính quyền cấp xã hiện nay. Vì
vậy, công tác xây dựng, nâng cao chất lượng, năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã
huyện Đam rông là rất cần thiết.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ công chức cấp xã, nhưng
nguyên nhân chủ yếu đó là:
Thứ nhất, cơ chế quản lý, sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với công chức cấp xã còn nhiều
bất hợp lý, chưa tạo được động lực khuyến khích đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng
cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, đặc biệt là chưa có chính sách hợp lý để thu hút sinh
viên mới ra trường tình nguyện về công tác ở cấp xã.
Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cho công chức cấp xã chưa
được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng vẫn chưa thật sự chủ động, chủ yếu trên
cơ sở có công văn từ cấp trên hoặc từ các trung tâm đào đạo gửi thông báo tuyển sinh, căn cứ
vào thực trạng, nhu cầu của CBCC của đơn vị rồi mới lập danh sách đăng ký đào tạo, bồi dưỡng.
Số lượng cán bộ trẻ được cử đi đào tạo còn hạn chế, đặc biệt là đào tạo về Lý luận
14
chính trị. Một số cán bộ, công chức đi học mang tính đối phó là chủ yếu, học để lấy bằng cấp,
chứng chỉ, chứ chưa có mục đích rõ ràng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ
công tác. Các kỹ năng hành chính của công chức cấp xã chưa đồng đều, đặc biệt đối với số công
chức trẻ như áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ còn nhiều
hạn chế. Nhận thức của một bộ phận công chức cấp xã về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình trong
bộ máy nhà nước chưa rõ ràng, chưa thấy rõ đòi hỏi về năng lực trong thực thi công vụ, từ đó
chưa thực sự tích cực phấn đấu để vươn lên.
Thứ ba, tiền lương của công chức cấp xã hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng
với thời giao lao động, sức lực, trí tuệ mà họ bỏ ra và trách nhiệm mà họ phải gánh chịu; chưa đáp
ứng nhu cầu thiết yếu và không phải là nguồn thu nhập chính của hầu hết công chức cấp xã, do
đó mức lương như hiện nay không còn có ý nghĩa khuyến khích, động viên công chức cấp xã tâm
huyết với công việc. Công chức cấp xã ở huyện phần lớn đều sản xuất nông nghiệp, là lao động
chính của gia đình, vì vậy có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc ở cơ quan là không
tránh khỏi.
Thứ tư, chính quyền các xã chưa dự báo được nhu cầu công chức trong tương lai để chủ
động tạo nguồn đưa đi đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung thay thế về lâu dài, nên khi công chức
chuyên môn được bố trí công việc khác thì không có nguồn thay thế kịp thời, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động công vụ tại cấp xã. Có địa phương công chức xã phần lớn là con, cháu
của lãnh đạo xã nên ỷ lại, thiếu ý chí phấn đấu.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra thực thi công vụ ở cấp xã chưa được thực hiện
thường xuyên nên nhiều vấn đề sai phạm của công chức cấp xã chưa được uốn nắn, khắc phục
kịp thời, cũng như chưa kịp thời động viên, khen thưởng đối với những công chức hoạt động tích
cực, xuất sắc. Việc đánh giá công chức cấp xã chỉ mang tính hình thức, người làm tốt cũng như
người chưa tích cực đến cuối năm đều được đánh giá như nhau. Điều đó làm cho công tác giáo
dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức đối với công chức cấp xã chỉ mang tính chung chung,
khẩu hiệu, chưa có quy định ràng buộc rõ ràng.
Nhìn chung, chất lượng hiệu quả hoạt động công chức cấp xã ở huyện Đam Rông hiện
nay chưa cao, nhiều công chức cấp xã còn yếu về năng lực chuyên môn, kiến thức về quản lý
hành chính Nhà nước, cũng như khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ năng thực thi
nhiệm vụ, công vụ. Trong khi xu hướng phân cấp mạnh cho chính quyền cấp xã đang trở thành
một yêu cầu tất yếu, do đó cần phải có đội ngũ công chức cấp xã đủ năng lực, trình độ, phẩm chất
đạo đức tốt mới đảm đương được công việc, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công vụ
của chính quyền cấp xã trong thời gian tới.
15
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIÊM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM
RÔNG, TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1.1. Quan điểm chung về nâng cao chất lượng công chức cấp xã
Mục tiêu, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ
đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán
bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Tiêu chuẩn chung, có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước; Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân
tín nhiệm; Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao; Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức
là gốc.
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), tại Điều 8 đã khẳng định: “Các cơ quan
Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”.
Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Lâm Đồng lần thứ X, nhiệm kỳ 2016-2021, định hướng kiện toàn đội
ngũ cán bộ, công chức cơ sở (cấp xã) với mục tiêu là xây dựng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo
hướng chuẩn hóa, chú ý trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo theo đúng chuyên môn nghiệp vụ.
Chú trọng đổi mới phương thức, nội dung đào tạo, bồi dưỡng hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra trong
quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính, tính chuyên môn và khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin. Thực hiện tốt chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao mà tỉnh có nhu cầu về công tác, chú ý quan
tâm đối với những cán bộ tình nguyện về công tác vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện nghiêm các quy định về tuyển dụng và quản lý cán bộ, công chức. Căn cứ và nhu cầu, vị trí
việc làm, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức để tuyển dụng những người đủ tiêu chuẩn. Thực
hiện tốt việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức để xác định đúng năng lực thực tế. Thực hiện các chính
sách thích hợp đối với những người không đủ tiêu chuẩn phải đưa ra khỏi bộ máy.
Xây dựng đội ngũ công chức trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến nghị và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo,
gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương và
chính sách lớn trong nội dung công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước.
Tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng trước hết là phải có tinh thần
yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
16
đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có trình độ văn hóa, chuyên
môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn
có quan hệ mật thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài.
Xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Lâm Đồng là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, của toàn dân và dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng. Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng bảo thủ, hẹp
hòi, cục bộ địa phương, thiếu khách quan trong việc đánh giá, sử dụng nguồn nhân lực, nhất là bố trí, sử
dụng cán bộ. Thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ, nhất là nâng cao vai trò của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống
chính trị, các tổ chức sự nghiệp và các thành phần kinh tế để xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
viên chức, viên chức.
3.1.2. Quan điểm, định hướng của huyện Đam Rông
Cán bộ công chức có vai trò rất quan trọng là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách
mạng, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ mới là xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ phù hợp
với điều kiện của thành phố. Đảm bảo thống nhất Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
công chức, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công
tác cán bộ. Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và đổi mới cơ chế
chính sách đối với cán bộ.
Phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh
chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng và chất lượng; đồng bộ về cơ
cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ; đủ sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát
triển của thành phố (Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III).
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung
và công chức cấp xã nói riêng, từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu quả công việc của Đảng và Nhà
nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp
sống và làm việc theo pháp luật xã hội chủ nghĩa. Một trong số những giải pháp trọng tâm là xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả.
Đội ngũ công chức cấp xã chính là hạt nhân, có vị trí, vai trò và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
việc thực thi các nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương. Công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng, là
nền tảng ở cơ sở. Địa phương mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ công
chức xã. Công chức cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương đường lối và nhiệm vụ chính trị
của Đảng và Nhà nước, do đó, đầu tư xây dựng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất, đạo đức,
có năng lực thực thi công vụ là nhiệm vụ bức thiết của cấp ủy chính quyền các cấp. Với tầm quan trọng đó,
dựa vào điều kiện cụ thể của huyện Đam Rông, một số giải pháp được đề xuất để nâng cao chất lượng công
chức cấp xã trên địa bàn thành phố như sau:
3.2.1. Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu về phẩm chất
chính trị và phẩm chất đạo đức
Trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng và huyện Đam Rông đã ban hành, triển khai thực hiện nhiều
chủ trương biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến lề lối; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính,
giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống; kiên quyết chống hành vi quan liêu tham nhũng, lãng phí tiêu cực,
17
thiếu trách nhiệm nhũng nhiễu nhân dân của công chức. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng
công chức cấp xã huyện Đam Rông vẫn chưa thực sự chuyển biến tốt theo hướng phục vụ nhân dân, kỷ luật,
kỷ cương hành chính vẫn còn chưa nghiêm; tác phong lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ
nhân dân và một bộ phận công chức chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố trong tình
hình mới.
Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ của công chức cấp xã huyện Đam Rông thiết thực và hiệu
quả, cần xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực nhằm cụ thể hóa nguyên tắc đạo đức công vụ. Công chức cần
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực, chịu học,
biết học và học có hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời kiên trì tích
lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác, rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả năng
hợp tác, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm; kiên quyết và kiên trì trong cuộc đấu tranh chống lại dốt nát,
nghèo đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự lười biếng, đố kỵ, lối sống buông thả và sa đọa. Đồng thời, thường
xuyên giáo dục và nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức công vụ, đạo đức cá nhân: Giáo dục đạo đức công
vụ là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, tỉ mỉ và phức tạp, vừa cấp bách vừa lâu dài, phải thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức trong thực tiễn hoạt động công vụ và trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là một quá
trình giáo dục tổng hợp bao gồm giáo dục chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, ý thức
lao động, kỹ năng lao động nghề nghiệp, giáo dục phẩm hạnh, lòng tự trọng, tình thương yêu con người
Đặc biệt, chú trọng mối quan hệ mật thiết giữa quy phạm pháp luật và các quy phạm đạo đức. Ở chừng mực
nào đó, cần thiết phải thể chế hóa những quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm pháp luật.
Mặt khác, coi việc xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức có ý nghĩa to lớn
trong việc giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp
luật.
Bên cạnh đó, một mặt giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục, là sự thức
tỉnh tự phán xử và làm cho lương tâm trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo đức là quá trình biến nhận
thức cái tất yếu thành cái tự do, biến ý thức nghĩa vụ thành tình cảm, thành niềm tin vững chắc, thành sự thôi
thúc bên trong, hình thành ý thức cái cần phải làm để khỏi xấu hổ trước người khác và trước bản thân. Thông
qua hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân, công chức không chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình là cống hiến
cho xã hội mà còn phát triển làm phong phú bản thân, tạo ra điều hiện cơ bản để đạt được hạnh phúc. Rèn
luyện đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài. Mặt khác, kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời và công
bằng những sai phạm của công chức có hành vi vi phạm đạo đức công vụ. Với những hành vi gây nhũng
nhiễu, phiền hà về thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân. Đặc biệt, các trường hợp tái
phạm có tổ chức, có tình tiết nghiêm trọng cần phải được xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời và công
bằng nhằm góp phần giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước
và pháp luật. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình nhằm đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện
của con người, ngăn ngừa, hạn chế sa sút, suy thoái đạo đức.
Ngoài ra, cần tiến hành rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về quy trình, thủ tục hành chính không còn phù
hợp, gây phiền hà cho tiếp nhận, xử lý công việc của công dân; kiên quyết loại bỏ những khâu trung gian, thủ
tục rườm rà, chồng chéo, những loại giấy tờ không cần thiết, công khai hóa, minh bạch hóa các quy định về
trình tự, thủ tục hành chính nhằm tránh tình trạng công chức lợi dụng kẽ hở từ những quy định của pháp luật
và vận dụng tùy tiện trong giải quyết công việc.
Nâng cao đạo đức công vụ là một đòi hỏi tất yếu và để thực hiện được cần có một hệ thống giải pháp
đồng bộ vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của người công chức, vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các
giá trị đạo đức phát triển và vừa ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Bồi dưỡng, nâng cao đạo
đức công vụ, trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công chức, đây cũng là kết quả từ nỗ lực chung của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn xã hội.
18
Hiện nay, tham nhũng, tiêu cực đã trở thành điều nhức nhối trong đời sống xã hội, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giảm hiệu lực của cơ quan Nhà nước các cấp trên
tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội; là lực cản lớn của quá trình đổi mới xây dựng đất nước, mảnh đất
tốt gieo mầm cho các thế lực thù địch lợi dụng để phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta. Để
chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ công chức nhất là công chức cấp xã là công việc cấp bách và cần
tập trung vào một số nhiệm vụ như thực hiện nghiêm túc kết luận tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4
khoá IX; Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,
đồng thời phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với công chức; tổ
chức học tập quán triệt xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Luật Chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết
kiệm; duy trì thành nề nếp việc học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục cho công chức chính
quyền cấp xã noi theo tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tiếp tục duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê và phê bình trong công chức cấp xã.
Thực hiện nghiêm chế độ nhận xét, đánh giá đối với công chức, đặc biệt là khâu thông báo công khai đối với
công chức về những ưu, khuyết điểm của công chức để họ có kế hoạch phấn đấu. Đồng thời, cần bổ sung,
hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định của Nhà nước về quản lý tài chính, quản lý công sản, xây dựng
cơ bản, không tạo kẽ hở cho phần tử xấu lợi dụng. Xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà nhất là ở những
lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng. Duy trì thành nề nếp việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm
tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, sử dụng tài sản công.
Ngoài ra, cần thực hiện tốt chế độ kê khai tài sản công chức theo quy định; chế độ công khai hóa hoạt động
công vụ, nhất là trong các công việc quan hệ với công dân, trong các lĩnh vực liên quan đến những vấn đề
nhạy cảm được xã hội quan tâm như chính sách cán bộ, công chức, quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản
và tài chính, ngân sách, Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của nhân dân trong tham
gia xây dựng và giám sát mọi hoạt động, sinh hoạt của công chức cấp xã. Bảo vệ những người đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực. Xử lý nghiêm khắc, thích đáng những công chức cấp xã thoái hóa, biến chất.
3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng công chức cấp xã
Tuyển dụng công chức nói chung và công chức cấp xã là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có
tính chất quyết định đến chất lượng công chức sau này. Đây là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp và rất dễ xảy
ra tiêu cực.
Trong thời gian qua, công tác tuyển dụng đã có nhiều đổi mới tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất
định, vì vậy để nâng cao chất lượng thực thi công vụ của công chức cấp xã, công tác tuyển dụng cần phải
được thực hiện một số hoạt động sau:
Đổi mới nội dung và cách thức thi tuyển công chức:
Nội dung thi tuyển công chức cấp xã phải gắn với chuyên ngành của vị trí dự tuyển để khảo sát được
trình độ và các kỹ năng của thí sinh, đảm bảo thí sinh có thể thực hiện ngay công việc ở vị trí tuyển dụng; kỹ
năng soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước; kỹ năng ứng dựng công nghệ thông tin.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong phương pháp thi tuyển trắc nghiệm kiến thức chung qua
máy tính nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo khách quan, công bằng và góp phần phòng chống tiêu cực
trong thi tuyển công chức.
Đảm bảo công tác tuyển dụng công chức xã được diễn ra theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch,
cạnh tranh lành mạnh và tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh. Căn cứ vào yêu cầu
nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và số lượng công chức cấp xã theo từng chức danh được UBND huyện giao
(trên cơ sở quyết định giao chỉ tiêu của UBND tỉnh), UBND các xã có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tuyển
19
dụng công chức cấp xã hằng năm theo từng chức danh, báo cáo UBND huyện để phê duyệt và tổ chức tuyển
dụng. UBND huyện tổ chức thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai
tại trụ sở làm việc của UBND huyện, phòng Nội vụ, UBND xã về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện tuyển
dụng và chính sách thu hút người giỏi về công tác ở xã, thời gian, địa điểm tiếp nhận hồ sơ nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi người được biết tham gia tuyển dụng và giám sát việc thực hiện công tác tuyển dụng.
3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Như đã đề cập ở Chương 1, đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực thực thi công
vụ của công chức cấp xã, đó là nền tảng, là tiền đề quan trọng để công chức cấp xã thực thi công vụ một cách
có hiệu quả. Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông tại chương 2 cũng đã
chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực thi công vụ của công chức, trong đó đã phân tích và làm rõ những
tồn tại, hạn chế bắt nguồn từ công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã. Những tồn tại, hạn chế trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã của thành phố hiện nay là một trong những nguyên nhân có
ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của công chức cấp xã. Đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự trở thành công cụ
hữu hiệu để nâng cao năng lực công chức cấp xã của huyện hiện nay. Vì vậy, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã cần tập trung vào những nội dung sau:
Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã phải gắn với yêu cầu của vị trí công tác và định hướng quy
hoạch cán bộ dài hạn
Đào tạo, bồi dưỡng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực của công chức. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta từ trước tới nay luôn coi trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ (nói chung) và nhờ có đội ngũ cán bộ, công chức được huấn luyện, đào tạo, chuẩn bị tốt nên trong từng
giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi có ý nghĩa to lớn.
Bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đảng ta chỉ rõ: “Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo,
bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt” và phải “dành kinh phí thỏa đáng cho việc đào tạo,
bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở”. Việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay cần
tập trung vào một số nội dung vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài đó là:
Đối với công tác đào tạo, công chức lớn tuổi không có trình độ chuyên môn, không có nhu cầu đào
tạo thì giải quyết chế độ thôi việc hưởng bảo hiểm xã hội hoặc về hưu trước tuổi theo quy định để tuyển dụng
công chức đã chuẩn hóa về trình độ.
Những công chức đã có trình độ chuyên môn là bậc trung cấp, trong thực tế công tác đã phát huy
được sở trường chuyên môn, có nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác
thì đưa đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn bằng các lớp đại học hệ vừa học vừa làm. Việc cử công
chức đi đào tạo phải đảm bảo đúng chuyên ngành, phù hợp với vị trí mà công chức đang đảm nhận và cơ sở
đào tạo phải là cơ sở có uy tính, chất lượng, tránh việc đi đào tạo chỉ cốt để có bằng cấp cao hơn để hưởng
thụ ngạch bậc lương hoặc để thăng tiến.
Đối với những công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với vị trí công tác đang đảm nhận
thì cần đánh giá, phân thành hai nhóm để có kế hoạch bố trí, sử dụng phù hợp như làm tốt công tác bố trí
nhân sự, công chức có chuyên môn phù hợp với vị trí công tác khác thì luân chuyển để công chức phát huy
được kiến thức chuyên môn và góp phần nâng cao hiệu quả công tác. Công chức có trình độ chuyên môn
không phù hợp với các vị trí công tác tại xã mà có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết với công tác được
giao, đã có nhiều năm tham gia công tác tại địa phương, được nhân dân tín nhiệm mà xã hiện chưa có nhân
lực có trình độ chuyên môn phù hợp để thay thế thì bố trí tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn phù
hợp với vị trí công tác, đồng thời có kế hoạch đưa đi đào tạo trình độ chuyên môn đúng với vị trí chức danh
công tác đang đảm nhiệm.
20
Đào tạo về LLCT: tiêu chuẩn chức danh quy định công chức phải được đào tạo về LLCT. Hiện nay
việc đào tạo LLCT cho công chức cấp xã được thực hiện theo hai cấp. Đào tạo Sơ cấp LLCT do Trung tâm
bồi dưỡng chính trị huyện Đam Rông đảm nhận và đào tạo trung cấp LLCT do Trường Chính trị tỉnh Lâm
Đồng đảm nhận. Việc đào tạo LLCT hiện nay vẫn là đào tạo chung cho cả cán bộ, công chức cho nên đào tạo
nói chung còn mang tính lý luận, chưa thể đi vào chuyên sâu và phù hợp với từng nhóm đối tượng. Vì thế
huyện cần rà soát lại trình độ lý luận chính trị ở từng nhóm công chức để có kế hoạch đào tạo phù họp.
Đào tạo nhất định phải gắn với vị trí công tác, phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn công tác. Kiên
quyết không đưa công chức đi đào tạo những chuyên ngành không đúng với vị trí công tác, không giải quyết
nâng ngạch đối với công chức có bằng tốt nghiệp không phù hợp với vị trí công tác đang đảm nhận. Đối với
2 vị trí chức danh có số lượng công chức chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao là Trưởng Công an xã và Chỉ huy
trưởng Quân sự xã thì cần tăng cường công tác đào tạo tại Trường Quân sự tỉnh và giao cho Công an huyện
tham mưu cho Công an tỉnh phối hợp với Trường Trung học Cảnh sát nhân dân, Trường Trung học An ninh
nhân dân đưa học viên đi đào tạo đảm bảo đào tạo đúng đối tượng, vị trí chức danh Trưởng công an xã, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ tại địa phương.
Đối với bồi dưỡng, việc bồi dưỡng cũng không thực hiện theo cách cào bằng như vẫn làm mà cần
phải phân nhóm đối tượng để xác định nội dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp:
Công chức đã có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí công tác đang đảm nhận thì hàng năm cần tập trung
bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn, nhất là các kiến thức chuyên sâu, những quy định mới mang tính
chất ngành, lĩnh vực.
Công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với các vị trí công tác tại xã mà có phẩm chất đạo
đức tốt, có tâm huyết với công tác được giao, đã có nhiều năm tham gia công tác tại địa phương, được nhân
dân tín nhiệm mà xã hiện chưa có nhân lực có trình độ chuyên môn phù hợp để thay thế mà bản thân công
chức hiện đang đảm nhận tốt thì bố trí tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn phù hợp với vị trí công tác
để tiếp tục tham gia công tác tại địa phương để phát huy kinh nghiệm, hiểu biết phong tục tập quán thuận tiện
cho việc triển khai các nhiệm vụ chính trị tại cơ sở.
Việc bồi dưỡng cần tập trung nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức quản lý Nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực mà công chức phụ trách, truyền đạt những kỹ năng tác nghiệp chuyên môn, những kinh
nghiệm trong thực tế công tác, việc bồi dưỡng sẽ lồng ghép được ba nội dung quan trọng là: lý luận, kiến
thức, kinh nghiệm thực tế; ngoài ra việc cập nhật hệ thống các quy định mới của nhà nước và các lỹ năng
trong quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực cũng là đòi hỏi cần thiết.
Huyện Đam Rông, người dân tộc thiểu số sinh sống chiếm ưu thế thì công chức cấp xã phải được
quan tâm bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số địa phương đó để phục vụ tốt yêu cầu công tác của địa phương,
tránh tình trạng bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số nhưng không phù hợp với người dân tộc thiểu số tại chỗ.
Chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước nói chung và
giao dịch điện tử trong thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính
cho tổ chức, cá nhân, và trao đổi thông tin chỉ đạo quản lý bằng thư điện tử trong hệ thống cơ quan hành
chính ở địa phương.
3.2.4. Bố trí, sử dụng công chức cấp xã hợp lý và thực hiện tốt công tác phân
công công việc cho công chức cấp xã
Trong Chương 2 của luận văn cũng đã đề cập đến những tồn tại hạn chế về chất lượng của công
chức cấp xã của huyện Đam Rông hiện nay. Đồng thời, khẳng định một trong những nguyên nhân quan trọng
làm hạn chế chất lượng của công chức đó là việc bố trí, sử dụng công chức chưa phù hợp. Việc bố trí, sử
dụng công chức phù hợp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức
21
cấp xã. Thực tế cho thấy việc sử dụng công chức không đúng với chuyên môn đào tạo, sở trường công tác thì
không những công chức không phát huy được kiến thức, kinh nghiệm công tác mà còn làm trì trệ công tác,
làm ảnh hưởng đến việc thực thi công vụ của chính quyền xã. Vì vậy, cần sắp xếp công chức đúng với
chuyên môn đào tạo, đúng sở trường công tác. Để việc bố trí sử dụng công chức phù hợp thì việc đánh giá
công chức phải được quan tâm và thực hiện nghiêm túc.
Đánh giá công chức phải được đặt trong môi trường, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể; phải đảm bảo
thật sự dân chủ, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ với một hệ thống các tiêu chí đánh giá rõ
ràng, phù hợp với từng vị trí chức danh công chức. Thực tế cho thấy việc đánh giá công chức hiện nay dựa
trên 6 tiêu chí theo quy định của Luật cán bộ, công chức 2008 (Sự chấp hành đường lối, chủ tương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phòng và lề lối làm
việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; Tinh thần trách
nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; Thái độ phục vụ nhân dân) đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế
nhất định vì những tiêu chí này còn quá chung chung, chưa cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của
từng vị trí công chức cấp xã. Do đó, trên cơ sở các tiêu chí trên, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân cấp xã phải cụ
thể hóa thành các tiêu chí phù hợp để đánh giá công chức, trong đó chú trọng lấy kết quả thực thi công vụ,
mức độ hài lòng của nhân dân làm thước đo để đánh giá công chức. Trong đánh giá cần khắc phục ngay tình
trạng nể nang, cục bộ, bè phái, thiếu công tâm, thiếu khách quan, áp đặt. Với đặc thù các xã thuần nông,
người quen, những biểu hiện tâm lý xã hội như bè phái, cục bộ, nể nang là khá phổ biến, vì thế trong công
tác đánh giá công chức cấp xã cần mở rộng dân chủ, phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng ủy xã. Trong
việc bố trí, sử dụng công chức phải đảm bảo các quy định của Trung ương và điều kiện đặc thù của địa
phương:
Bố trí, sử dụng công chức phải xuất phát từ quan điểm “từ việc sinh ra người, không vì người sinh ra
việc”. Thực tế cho thấy vì thân quen mà bố trí công chức với mục đích là “giải quyết việc làm cho con em”,
làm cho bộ máy cấp xã phình to, tạo gánh nặng cho ngân sách, nhưng hiệu quả công việc không cao. Vì thế,
với nguồn nhân lực hiện có UBND xã phải cân nhắc, sắp xếp công chức phù hợp với trình độ chuyên môn,
năng lực thực tiễn và sở trường công tác, kiên quyết không sắp xếp công chức trái chuyên ngành đào tạo,
vượt quá số lượng quy định. Trong bố trí, sử dụng công chức phải đảm bảo tính khách quan, công bằng,
tránh hiện tượng cục bộ địa phương, bè phái hay hiện tượng nể nang, dựa dẫm.
Trong kế hoạch sử dụng công chức hàng năm, UBND huyện cần cân đối chỉ tiêu hoặc cho chủ
trương để UBND các xã hợp đồng thêm công chức lĩnh vực Địa chính - Xây dựng giúp UBND xã trong công
tác triển khai thực hiện nhóm công việc đầu tư cơ sở hạ tầng, môi trường trong công tác xây dựng xã đạt
chuẩn nông thôn mới nhưng việc bổ sung biên chế không làm thay đổi số lượng công chức xã mà điều chỉnh
số lượng của từng chức danh cho phù hợp.
Đánh giá, bố trí sử dụng công chức cần kiên quyết tránh những hiện tượng như né tránh, nể nang,
dựa dẫm, cục bộ, bè phái. Kiên quyết loại bỏ những công chức kém về năng lực, thiếu tinh thần ý thức trách
nhiệm, lạm dụng công vụ để vụ lợi, sách nhiễu nhân dân, tham ô, tham nhũng. Như thế vừa góp phần làm
trong sạch bộ máy chính quyền xã, vừa tạo điều kiện để sử dụng và phát huy được năng lực của những công
chức có trình độ và tâm huyết với công tác, qua đó cũng nâng cao được tính kỷ luật công tác, rèn luyện đạo
đức công chức, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã.
3.2.5. Thực hiện việc khen thưởng, kỷ luật công bằng, kịp thời,
nghiêm minh.
Về khen thưởng, động viên kịp thời là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng
đội ngũ công chức. Trong thời gian qua, công tác khen thưởng đã tạo động lực để công chức hăng hái thi đua
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, chính sách khen thưởng còn một số bất cập, thời điểm thực
hiện công tác khen thưởng chưa kịp thời, việc xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và tổ chức
thực hiện khen thưởng mỗi năm một lần vào cuối năm chứ chưa thực hiện công tác xem xét, đánh giá mức
22
độ hoàn thành công việc hàng tháng, quý hoặc sau khi kết thúc một công việc để tổ chức khen thưởng động
viên công chức cấp xã kịp thời; việc xem xét khen thưởng dựa trên kết quả đánh giá thực hiện công việc của
công chức cấp xã chưa căn cứ vào thành tích công tác của công chức nên chưa thực sự động viên, khuyến
khích được công chức cấp xã hăng say, nỗ lực làm việc.
Khen thưởng cho từng công chức cấp xã cần được cân nhắc trên nhiều mặt song căn cứ quan trọng
và chủ yếu nhất đó là kết quả, hiệu quả thực hiện công việc của công chức cấp xã dựa trên kết quả đánh giá
định kỳ hàng tháng, quý, cuối năm hoặc sau khi kết thúc một công việc quan trọng của từng công chức. Kết
quả đánh giá thực hiện công việc là cơ sở quan trọng để tiến hành xem xét, khen thưởng công chức cấp xã.
Công tác khen thưởng cần phải gắn bó mật thiết với công tác đánh giá thực hiện công việc của công chức cấp
xã.
Cần lựa chọn hình thức, giá trị phần thưởng phù hợp với từng đối tượng công chức cấp xã để phát
huy tác dụng tốt, động viên khuyến khích được công chức cấp xã hăng say làm việc. Tránh khen thưởng theo
hình thức bình quân chủ nghĩa, giá trị các phần thưởng tương xứng với kết quả thành tích công tác của mỗi
công chức cấp xã mới thực sự động viên, khuyến khích công chức cấp xã, hăng say nỗ lực làm việc.
3.2.6. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá năng thực thi
công vụ của công chức cấp xã.
Công chức cấp xã thực thi công vụ và trực tiếp chịu trách nhiệm trước UBND và chủ tịch UBND xã
nhưng cũng đồng thời chịu sự quản lý, giám sát của Đảng ủy và Mặt trận Tổ quốc xã cũng như hệ thống
chính trị tại xã. Để công chức cấp xã thực sự phát huy được sở trường và năng lực công tác, bên cạnh việc
mở rộng dân chủ, tạo cơ chế làm việc thuận lợi thì không thể thiếu công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc
thực thi công vụ của công chức cấp xã. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát làm nhằm đảm bảo cho công
chức thực thi công vụ đúng quy định của pháp luật, không gây phiền hà, sách nhiễu đối với nhân dân. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Cấp xã là gần gũi với nhân dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi. Thế mà vì hẹp hòi, bao biện, không biết phân
công, Vì cấp trên không biết cân nhắc, giúp đỡ, đốc thúc, kiểm tra, huấn luyện. Thành thử phần nhiều cấp
xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”. Đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương (khóa VIII ) về
công tác cán bộ, Hội nghị Trung ương 6 khóa IX chỉ rõ: “Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, rèn luyện
cán bộ ít hiệu quả; công tác quản lý nội bộ, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu, không kịp thời nhắc nhở,
ngăn ngừa cán bộ mắc sai lầm, không chỉ ra đúng địa chỉ và chưa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng.
Cấp trên và tập thể còn nể nang, nương nhẹ, thậm chí có trường hợp còn bao che những cán bộ có dấu hiệu
tham nhũng, quan liêu gây tác hại lớn chưa bị xử lý trách nhiệm nên thường có thái độ thiếu nghiêm khắc
với những biểu hiện tham nhũng, quan liêu của cán bộ dưới quyền. Nhiều người trung thực, tích cực đấu
tranh chống tham nhũng chưa được bảo vệ, thậm chí còn bị trù dập, vô hiệu hóa. Nhiều biểu hiện tiêu cực
trong công tác cán bộ như cục bộ, địa phương, lôi bè, kéo cánh, chạy quyền, chạy chức, chạy tội chưa được
khắc phục, khiến cán bộ và nhân dân bất bình”.
Điều đó cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của công tác quản lý công chức, nhất là với các xã của
huyện đều thuần nông, công chức cấp xã chưa tách hẳn đời sống kinh tế nông nghiệp và các quan hệ nông
dân, nông thôn. Vì vậy, công tác quản lý công chức phải được UBND tiến hành thường xuyên và qua nhiều
kênh thông tin khác nhau để quản lý.
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã cần được tiến hành thường
xuyên kết hợp với những lần kiểm tra đột xuất, có trọng tâm, trọng điểm và việc giải quyết những vụ, việc có
tính chất phức tạp, có dư luận trong nhân dân. Cách thức kiểm tra, quản lý là rất quan trọng. kiểm tra, giám
sát chặt chẽ nhưng không để cho công chức bị ức chế, làm ảnh hưởng đến kết quả công tác. Vì thế trong
công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã cần chú ý những nội dung
sau:
23
Quản lý công chức cấp xã phải dựa trên các cơ sở pháp lý, nguyên tắc thực thi công vụ và điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của từng xã, từng công chức, không tùy tiện, cào bằng. Quản lý phải luôn đi đôi với công
tác đánh giá, kịp thời phát triển những sai sót để uốn nắn sửa chữa cũng như thẳng thắn phê bình và giúp đỡ
sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế.
Quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã phải đi liền với công tác khen
thưởng và kỷ luật. Những công chức xã có tinh thần trách nhiệm trong công tác, được nhân dân tín nhiệm thì
phải được động viên khen thưởng kịp thời để họ tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác. Những công chức thiếu
tinh thần ý thức trách nhiệm, vi phạm kỷ luật, có hành vi sách nhiễu nhân dân thì cần phải được xem xét
nhắc nhở hoặc kỷ luật kịp thời thậm chí là buộc thôi việc để đảm bảo trong sạch bộ máy, góp phần nâng cao
hiệu quả công tác của cơ quan.
Quản lý, kiểm tra, giám sát công chức phải đảm bảo tính khách quan, công tâm, công bằng, có tính
đồng chí, không trù dập, không bao che. Có như vậy mới tạo động lực để công chức phấn đấu, khắc phục hạn
chế, thiếu sót, phát huy ưu điểm để nâng cao hiệu quả công tác.
3.2.7. Đổi mới chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi cho công chức cấp xã
Hiện nay, việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với công chức cấp xã đã được thực hiện khá
hoàn chỉnh với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiền lương và các chế độ khác. Những
văn bản quan trọng là: Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối
với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của
Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011
của Chính phủ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012 hướng dẫn
về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức cấp xã, phường, thị trấn; Quyết định số
219/2004/QĐ-UBND về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp
đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh và Quyết định số 65/2009/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND ngày 03/12/2004 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc
Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên
trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh.
Trên cơ sở các văn bản quy định nêu trên thì vấn đề trước mắt là huyện tập trung rà soát, chỉ đạo các
cơ quan có liên quan của huyện và UBND các xã nhanh chóng thực hiện các chế độ, chính sách đối với công
chức cấp xã, tạo điều kiện để công chức an tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực tế hiện
nay còn một số xã việc chuyển xếp lương cho công chức còn nhiều bất cập, chậm được thực hiện hoặc việc
thực hiện gặp nhiều lúng túng, thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan có liên quan.
Hàng năm, có một số lượng khá lớn công chức cấp xã hoành thành các lớp đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn phù hợp với vị trí chức danh đang đảm nhiệm vì thế cần được tổ chức thi nâng ngạch để chuyển
xếp lương cho công chức. Tuy nhiên, hiện nay công tác này của huyện còn rất nhiều vấn đề bất cập, từ việc
rà soát, lập danh sách và có kế hoạch cử công chức đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học tham gia các lớp
bồi dưỡng quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên để thi nâng ngạch theo quy định. Có như thế mới tạo động
lực để công chức phấn đấu thực hiện tốt hơn nữa công vụ được giao.
24
KẾT LUẬN
Đội ngũ CC cấp xã là những người có quan hệ trực tiếp, gắn bó mật thiết với người dân, là người
trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước với người dân để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh ở
địa phương. Việc không ngừng củng cố, chăm lo xây dựng đội ngũ CC cấp xã là nhiệm vụ chiến lược có ý
nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trong thành tích
chung của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Đam Rông trong công cuộc đổi mới cùng
với đất nước, có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ CC cấp xã. Trong thời gian qua, bên cạnh việc quan tâm
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng đã thường xuyên
quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ CC trong đó có đội ngũ CC cấp xã. Đội ngũ công chức cấp xã huyện
Đam Rông hiện nay cơ bản đã đủ về số lượng nhưng năng lực, chất lượng thực thi công vụ thực sự vẫn còn
là một vấn đề cần quan tâm. Đây vừa là yêu cầu trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài, vì vậy cần sự quan tâm,
đầu tư của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ thành phố cho đến xã, phường. Năng lực thực thi công vụ của
công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay bên cạnh một số mặt mạnh như tinh thần và ý thức trách nhiệm
được nâng cao hơn, trình độ chuyên môn được nâng cao một bước rõ rệt, kỹ năng tác nghiệp chuyên môn đã
có sự chuyển biến về chất, góp phần tích cực vào hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_chat_luong_cong_chuc_xa_huyen_dam_rong_tinh.pdf