Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là
hoạt động có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch được các trại
giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù và
bằng những hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp cho phạm nhân
những kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể liên quan đến quá trình
chấp hành án phạt tù trong trại giam nói riêng; làm hình thành ở
phạm nhân hiểu biết pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật
và hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý giam
giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; giúp họ có khả năng hòa nhập cộng
đồng, biết sống và làm việc theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp
hành án phạt tù.
Trong giai đoạn hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật có xu
hướng gia tăng, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp thì việc
giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam nói chung, trại
giam Miền Trung nói riêng càng có vai trò đặc biệt quan trọng: giúp
cho phạm nhân nâng cao pháp luật; nhận thức được tội lỗi của mình
gây ra; ý thức, trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân.
Cũng như hoạt động giáo dục pháp luật cho các đối tượng xã
hội khác, hoạt động giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam được cấu thành từ các yếu tố cơ bản: mục đích, mục tiêu, chủ
thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp
luật. Ngoài các đặc điểm chung, mỗi yếu tố cấu thành giáo dục pháp
luật cho phạm nhân đều mang những nét đặc thù xuất phát từ đối
tượng đặc thù là phạm nhân và môi trường đặc thù là trại giam.
Quá trình giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau: yếu tố
trực tiếp (đối tượng giáo dục, chủ thể giáo dục); yếu tố gián tiếp (nhu
cầu văn hoá, tinh thần, chính sách và tổ chức thực hiện chính sách
của Nhà nước đối với phạm nhân).
Qua khảo sát, đánh giá cho thấy điều kiện địa lý, cơ sở vật
chất của trại giam có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục
pháp luật cho phạm nhân. Cơ cấu tình hình phạm nhân trong các trại
giam bao gồm diễn biến tăng, giảm số lượng phạm nhân, cơ cấu lứa
tuổi, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thành phần dân tộc, cơ cấu trình độ
văn hóa, cơ cấu tội danh. cũng là những nhân tố khác nhau dẫn
phạm nhân đến việc thực hiện hành vi phạm tội khi còn ở ngoài xã
hội.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 872 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam khu vực miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, đề cập ở những mức độ 
khác nhau nội hàm của khái niệm; tác giả luận văn đồng tình với 
định nghĩa sau đây: 
Từ đó, có thể coi giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động 
có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua 
những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục 
pháp luật, tác động đến đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật 
nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, 
trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen 
và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật. 
Như vậy, theo quan điểm cá nhân tác giả có thể định nghĩa: 
Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là hoạt động 
có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch, chương trình nhất định; 
được các trại giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp 
đặc thù và bằng những hình thức phù hợp, hướng tới trang bị cho 
phạm nhân những thông tin, kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa 
vụ cơ bản của công dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể 
liên quan đến quá trình chấp hành án phạt tù trong trại giam nói 
riêng; làm hình thành ở phạm nhân tri thức, hiểu biết pháp luật, tình 
cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với yêu 
cầu của công tác quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; 
giúp họ có khả năng tái hòa nhập cộng đồng, biết sống và làm việc 
theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp hành án phạt tù. 
1.1.2. Đặc trưng của giáo dục pháp luật cho phạm nhân 
Thứ nhất, GDPL cho PN trong các TG là dạng hoạt động 
giáo dục được thực hiện thông qua sự tương tác giữa chủ thể GDPL 
và đối tượng tiếp nhận GDPL; là hoạt động có mục đích, có định 
hướng, có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo những nội dung GDPL cụ 
thể được chủ thể GDPL xây dựng dành riêng cho đối tượng PN đang 
chấp hành án phạt tù trong các TG, dựa trên các phương pháp và 
thông qua những hình thức GDPL phù hợp với điều kiện của từng 
TG cũng như phù hợp với đặc điểm tình hình PN trong các TG. 
Thứ hai, GDPL cho PN trong các TG là hoạt động giáo dục 
diễn ra trong một môi trường đặc biệt và dành cho những đối tượng 
đặc biệt 
 8 
Thứ ba, điểm khác biệt cơ bản so với GDPL cho các đối 
tượng khác thể hiện ở chỗ, GDPL cho PN trong các TG là quá trình 
hoạt động diễn ra theo cơ chế/mô hình “vừa xây, vừa chống”. 
Thứ tư, nhìn bề ngoài, có thể nhiều người cho rằng hoạt 
động GDPL cho PN trong các TG có nhiều điều kiện thuận lợi, dễ 
thực hiện hơn so với GDPL cho các đối tượng khác vì hoạt động này 
diễn ra trong một môi trường đặc biệt là TG - nơi mà việc học tập 
pháp luật là bắt buộc đối với mỗi PN; quan hệ quản lý từ phía chủ 
thể GDPL đối với PN là quan hệ mang tính chất mệnh lệnh - phục 
tùng; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ GDPL cho PN được Nhà 
nước đầu tư.v.v. Quan niệm đó đúng, nhưng mới chỉ phản ánh được 
một phần đặc điểm, tính chất của GDPL cho PN trong các TG và nếu 
chỉ nhìn nhận dưới góc độ chủ thể GDPL thực hiện cho xong nhiệm 
vụ được giao, không cần tính đến chất lượng, hiệu quả của công tác 
này. Trên thực tế, để có thể bảo đảm chất lượng, hiệu quả thực sự thì 
GDPL cho PN trong các TG lại là hoạt động không kém phần khó 
khăn, phức tạp và chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, 
bao gồm các yếu tố chủ quan (ý thức trách nhiệm, năng lực tổ chức, 
thực hiện của chủ thể GDPL; trình độ học vấn, khả năng tiếp nhận 
kiến thức pháp luật của các PN; các nhân tố tâm lý) và các yếu tố 
khách quan (điều kiện kinh tế; môi trường giáo dục cải tạo, lao động, 
sinh hoạt trong TG; chính sách và thực hiện chính sách của Nhà 
nước đối với PN...). Điều đó giúp giải thích tại sao trong cùng điều 
kiện, hoàn cảnh như nhau, có thể hoạt động GDPL cho PN ở TG này 
thì diễn ra chủ động, tích cực, đạt hiệu quả cao; còn ở TG khác lại 
thụ động, cầm chừng và kém hiệu quả. 
Thứ năm, kết quả, đồng thời là thước đo đánh giá hiệu quả 
của hoạt động GDPL cho PN trong các TG là những mục tiêu cụ thể 
mà hoạt động này cần đạt được. Đó là mục tiêu về nhận thức (PN 
tiếp thu, tích lũy được những thông tin, kiến thức pháp luật cơ bản 
phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp hành án phạt tù cũng như sau 
khi trở về hòa nhập cộng đồng); mục tiêu về thái độ, tình cảm (làm 
hình thành ở PN sự ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội trước đây; có 
thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ nội 
quy, quy chế TG; có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của 
pháp luật...); mục tiêu về hành vi (giúp PN có khả năng vận dụng 
kiến thức pháp luật tiếp thu được qua việc học tập pháp luật để thực 
hiện quyền, nghĩa vụ của PN trong quá trình chấp hành án phạt tù; 
xây dựng, củng cố hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật 
sau khi chấp hành xong án phạt tù). 
1.1.3. Vai trò giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại trại giam 
Một là, hoạt động giam giữ, cải tạo, giáo dục phạm nhân, 
người vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành 
 9 
vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật; 
cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn 
chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những 
người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống 
tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. 
Hai là, cách ly người phạm tội để có điều kiện thu thập 
thông tin, tài liệu, chứng cứ về tội phạm phục vụ công tác điều tra, 
đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi phạm nhân, người vi phạm 
pháp luật là những người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. 
Ba là, giáo dục cải tạo để phạm nhân, người vi phạm pháp 
luật nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa 
chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với 
chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học 
tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng 
được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi 
trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội. 
1.2. Các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục pháp luật trong các 
trại giam ở Việt Nam hiện nay 
1.2.1. Các nguyên tắc giáo dục pháp luật 
- Một là, đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp 
luật. 
- Hai là, đảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt 
trung thành văn bản. 
1.2.2. Nội dung giáo dục pháp luật 
Những nội dung GDPL cho PN nêu trên được thể hiện trong 
Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 3 tập do Tổng cục VIII phối 
hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào 
tạo) biên soạn, mỗi tập đều có phần GDPL với những nội dung cụ 
thể: 
Nội dung GDPL trong Tập I gồm: 1) Chính sách hình sự của 
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đối với người phạm tội; 2) Một 
số nội dung cơ bản của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế 
TG; 3) Tôn trọng Nội quy TG; 4) Quyền và nghĩa vụ của PN. 
Nội dung GDPL trong tập II gồm: 1) Một số nội dung cơ bản 
của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; 2) Quyền được bảo 
hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; 3) Quyền sở hữu tài 
sản và nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản của công dân, của Nhà 
nước và lợi ích công cộng; 4) Nghĩa vụ công dân trong việc bảo vệ 
môi trường; 5) Phòng chống tệ nạn xã hội; 6) Phòng chống 
HIV/AIDS và các bệnh tuyền nhiễm; 7) Một số nội dung cơ bản của 
Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự; 8) Một số nội dung cơ 
bản của Luật Đặc xá. Ngoài 8 nội dung GDPL bắt buộc cho PN nêu 
trên còn có phần tự chọn, linh hoạt: một số vấn đề cơ bản của Luật 
 10 
Giao thông đường thủy nội địa; pháp luật và chính sách của Nhà 
nước về tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc; quyền trẻ em; quyền phụ nữ. 
Nội dung GDPL ở tập III gồm: 1) Giữ gìn trật tự an toàn xã 
hội; 2) Giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ; 3) Một số nội 
dung cơ bản của Luật Cư trú; 4, Quyền và nghĩa vụ công dân trong 
hôn nhân, gia đình. 
1.2.3. Hình thức giáo dục pháp luật 
Hình thức tổ chức thành các lớp học tập trung tại hội trường; 
Hình thức cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật cho phạm; Hình thức 
niêm yết thông tin pháp luật tại bảng tin của trại/phân trại, ở buồng 
giam phạm nhân; Hình thức giáo dục pháp luật thông qua các 
phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, pa - nô, áp - 
phích, tranh cổ động. 
Hình thức GDPL cho PN trong các TG là những mô hình tổ 
chức triển khai thực hiện, những cách làm cụ thể mà thông qua đó, 
chủ thể thực hiện hoạt động GDPL cho PN. Với cách tiếp cận này, 
có thể đưa ra định nghĩa hình thức GDPL cho PN trong các TG ở 
Việt Nam như sau: hình thức GDPL cho PN trong các trại giam là 
tập hợp các mô hình tổ chức triển khai thực hiện, những cách làm cụ 
thể, đa dạng khác nhau; thông qua đó, chủ thể giáo dục pháp luật 
chuyển giao các nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân; hướng 
tới đạt được mục đích, mục tiêu giáo dục pháp luật cho đối tượng 
này. 
1.2.4. Phương pháp giáo dục pháp luật 
- Để GDPL nhằm hình thành, củng cố ý thức pháp luật cho 
PN, có thể sử dụng các phương pháp GDPL sau: 
+ Phương pháp thông tin pháp luật: 
+ Phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật 
+ Phương pháp nói chuyện, trao đổi về pháp luật: 
+ Phương pháp nêu gương điển hình 
+ Phương pháp tạo dư luận xã hội trong PN để GDPL: 
+ Phương pháp giảng dạy pháp luật trên hội trường, trong 
lớp học: 
- Để GDPL làm hình thành kinh nghiệm giao tiếp, ứng xử 
phù hợp với các quy định pháp luật, nội quy, quy chế TG... cho PN, 
chủ thể GDPL có thể dùng các phương pháp GDPL sau: 
+ Phương pháp nêu các yêu cầu pháp luật: 
+ Phương pháp tạo tình huống pháp luật: 
+ Phương pháp rèn luyện, thực hành pháp luật: Chủ thể 
GDPL tổ chức cho PN rèn luyện, thực hành vận dụng những kiến 
thức pháp luật, nội quy, quy chế đã được học vào môi trường thực tế 
trong TG; qua đó, giúp PN biết cách lựa chọn và thực hiện những 
 11 
hành vi đúng đắn, phù hợp với quy định pháp luật về thi hành án 
hình sự. 
1.3. Các điều kiện bảo đảm cho công tác giáo dục pháp luật cho 
phạm nhân 
1.3.1. Từ phía Nhà nước 
Hiện nay, kinh phí phục vụ các mặt hoạt động của các TG, 
trong đó có GDPL cho PN, chủ yếu lấy từ nguồn ngân sách nhà nước 
và được bảo đảm trong dự toán kinh phí hàng năm của Bộ Công an. 
1.3.2. Từ phía các trại giam 
Mọi hoạt động của TG hầu như phụ thuộc vào nguồn kinh 
phí được phân bổ từ ngân sách nhà nước. Là cơ quan thi hành án 
phạt tù, TG có một trong những nhiệm vụ là tiếp nhận, tổ chức quản 
lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân, bao gồm cả công tác GDPL 
cho PN. 
1.3.3. Về phía đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục pháp 
luật 
Điều kiện kinh tế cũng có tác động quan trọng tới những cán 
bộ trực tiếp làm công tác GDPL cho PN. Kinh tế phát triển, đời sống 
vật chất được cải thiện và nâng cao, đội ngũ CBGDPL có điều kiện 
tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, tự trang bị thêm thông tin, kiến thức 
pháp luật mới; đầu tư thời gian, công sức để soạn bài, xây dựng giáo 
án điện tử, chuẩn bị các bài tập trắc nghiệm, tình huống pháp lý thực 
tiễn trước khi lên lớp giảng bài cho PN, tạo ra những giờ giảng hấp 
dẫn, lý thú, thu hút PN. 
1.3.4. Về phía phạm nhân trong các trại giam 
Phạm nhân là những người tham dự và thụ hưởng thành quả 
công tác GDPL dành cho họ cả trong quá trình chấp hành án phạt tù 
cũng như sau khi mãn hạn tù, trở về với đời sống cộng đồng. Điều 
kiện kinh tế, đời sống vật chất trong TG có ảnh hưởng không nhỏ tới 
hoạt động học tập pháp luật của họ. Việc Nhà nước, lãnh đạo TG 
quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất của TG ngày càng 
tiện nghi, đầy đủ hơn chính là nhằm bảo đảm cho cuộc sống, lao 
động, học tập, sinh hoạt của PN. Với điều kiện kinh tế gia đình khá 
giả, thân nhân có điều kiện định kỳ thăm gặp, hỗ trợ thêm kinh phí, 
khích lệ, động viên tinh thần PN sẽ giúp họ yên tâm tư tưởng, phấn 
đấu học tập, cải tạo tốt. Còn điều kiện kinh tế gia đình không cho 
phép, người thân ít có cơ hội thăm gặp PN thì dễ khiến họ rơi vào 
trạng thái tâm lý tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến tinh thần học tập pháp 
luật. 
Tiểu kết chương 1 
 12 
CHƢƠNG 2 
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬTCHO 
PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN 
TRUNG 
2.1. Khái quát chung về các trại giam khu vực Miền Trung 
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên - địa lí và cơ sở vật của các trại 
giam khu vực miền Trung ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp 
luật cho các phạm nhân 
Về vị trí địa lý: 
Về khí hậu: 
Tài nguyên đất: 
Tài nguyên biển: 
2.1.2. Tình hình phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam 
khu vực miền Trung ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp luật 
Hiện tại, theo nghiên cứu của tác giả, chưa có công trình 
khoa học nào nghiên cứu và công bố số liệu liên quan đến tình hình 
phạm nhân ở miền Trung. Để có được các số liệu chính xác, tác giả 
đã thực hiện điều tra vào tháng 3 năm 2017, phát phiếu khảo sát 
nhằm thu thập thông tin. Kết quả điều tra, thu thập thông tin được 
ghi rõ tại Phần Phục Lục của Luận văn này. 
Những năm gần đây tình trạng phạm tội có những diễn biến 
phức tạp, số lượng người có án phạt tù đưa đến các trại giam chấp 
hành án với hành vi, tính chất phạm tội cũng nguy hiểm hơn (Vì theo 
quy định của ngành nên tác giả chỉ đưa số liệu tỷ lệ % không đưa số 
tuyệt đối, ngoài những số liệu đã công khai). 
Số lượng người bị kết án phạt tù vào trại giam năm sau cao 
hơn năm trước, nếu lấy năm 2013 là 100,0% thì năm 2016 tỷ lệ phạm 
nhân nhân trại giam tăng lên 127,0%. Sự biến động số lượng phạm 
nhân sẽ là khó khăn, thách thức đối với trại giam trong công tác tổ 
chức giáo dục pháp luật cho phạm nhân; gây áp lực về cơ sở vật chất 
phục vụ giáo dục pháp luật; về đội ngũ cán bộ giáo dục pháp luật đáp 
ứng yêu cầu giáo dục pháp luật do sự gia tăng số lượng phạm nhân 
trong từng trại. 
Giới tính: thực tế trong công tác quản lý trại giam cho thấy 
phạm nhân là nam giới đông: năm 2013 phạm nhân nam chiếm tỷ lệ 
87,4%, phạm nhân nữ là 12,6%; năm 2016 tỷ lệ phạm nhân nam 
chiếm 85,91%, phạm nhân nữ là 14,09%. Cũng qua nghiên cứu 50 
hồ sơ phạm nhân nữ (tháng 3/2012) có 40% phạm nhân tội trộm cắp; 
13% phạm nhân tội giết người; 16,6% phạm nhân phạm tội lừa đảo 
chiếm đoạt tài sản; 10% phạm nhân phạm tội buôn bán phụ nữ; 
6,6% phạm nhân phạm tội buôn bán và sử dụng chất ma túy; 6,6% 
phạm nhân phạm tội tham ô tài sản; 7,2% phạm nhân phạm tội 
khác. 
 13 
Từ thực tế công tác quản lý và theo các số liệu thống kê hàng 
năm cho thấy số lượng phạm nhân nữ đưa vào trại trong các năm gần 
đây có xu hướng tăng, kéo theo rất nhiều phức tạp trong công tác 
quản lý, giam giữ và bố trí lao động cải tạo (số phạm nhân nữ được 
giam khu vực riêng; nhiều trường hợp phạm nhân nữ có thai, sinh 
con, nuôi con trong trại giam,...). Điều này cũng ảnh hưởng không 
nhỏ tới việc tổ chức và thực hiện các chế độ chính sách đối với họ, 
việc bố trí cải tạo lao động cho họ cũng rất khó khăn và có thể ảnh 
hưởng đến quyền lợi mà họ được hưởng. 
Đặc điểm lứa tuổi: thực tế cho thấy trong tổng thể phạm 
nhân ở các trại giam, phạm nhân ở độ tuổi sung sức để lao động 
chiếm số đông, nhưng do động cơ phạm tội, họ đã vi phạm pháp luật 
phải vào trại. Qua khảo sát năm 2013 số lượng phạm nhân nói trên ở 
các trại giam cho thấy lứa tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm 
0.05 %; từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm 0.97%; từ 18 tuổi đến dưới 
30 tuổi chiếm 47.2%; từ 30 tuổi đến dưới 40 tuổi chiếm 28,2%; từ 40 
tuổi đến dưới 50 tuổi chiếm 16,3%; từ 50 tuổi đến dưới 60 tuổi 
chiếm 6.0%; từ 60 tuổi trở lên 1,0%. Cũng qua số liệu trên cho thấy 
ở lứa tuổi thanh niên chiếm đa phần, đặc điểm ở lứa tuổi này dễ bị 
kích động, lôi kéo rủ rê, bên cạnh đó về nghề nghiệp lại không có 
hoặc có nhưng không ổn định, lười biếng lao động cộng với tính hiếu 
thắng ngông cuồng, thích đua đòi ăn chơi, hưởng lạc dẫn đến vi 
phạm pháp luật. 
Về phạm nhân đa số trong độ tuổi lao động chiếm đến trên 
92%, về trình độ văn hóa nếu tính trong 5 năm qua: có 428/2.459 
phạm nhân mù chữ, chiếm tỉ lệ 17,4%; tiểu học: có 636/2.459 chiếm 
tỉ lệ 25,3%; trung học cơ sở: có 446/2.459 phạm nhân, chiếm tỉ lệ 
19.8%; trung học phổ thông trở lên: có 208/2.459 phạm nhân, chiếm 
tỉ lệ 8,4%. Trong công tác quản lý phạm nhân, việc áp dụng các biện 
pháp nghiệp vụ vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định 
như: Số lượng cộng tác viên bí mật (CTVBM) còn ít (thời điểm cao 
nhất là 06 cơ sở bí mật – năm 2016) chưa đủ để bố trí trong tất cả các 
buồng giam, tổ, đội phạm nhân, hiệu quả hoạt động của một số 
CTVBM còn hạn chế. Công tác khai thác phạm nhân còn quá ít, cá 
biệt có trường hợp bị đối tượng nghi ngờ, cô lập, không phát huy 
được tác dụng hoặc bị khống chế, lợi dụng cung cấp thông tin sai sự 
thật. Thời gian chấp hành án của số phạm nhân được giữ lại phân trại 
rất ngắn nên việc xây dựng và sử dụng CTVBM cũng gặp rất nhiều 
khó khăn. Hoạt động kiểm soát công khai thường xuyên (kiểm tra, 
soát xét thân thể, thư, quà khi xuất, nhập trại) hiệu quả còn thấp, 
chưa có máy móc, công cụ, phương tiện hỗ trợ phát hiện vật cấm do 
thân nhân phạm nhân gửi vào. Do vậy, trong những năm qua nhiều 
trường hợp phạm nhân lợi dụng sự sơ hở để mang vật cấm như: 
 14 
thuốc lá, tiền mặt vào buồng giam, khu giam. Thống kê cho thấy 
trong thời gian từ 2005 đến 2015 đã có 248 lượt phạm nhân bị xử lý 
kỷ luật, trung bình có trên 24 lượt phạm nhân vi phạm/1 năm. 
Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp: Kết quả khảo sát 
số lượng phạm nhân ở các trại giam cho thấy số phạm nhân có nghề 
nghiệp làm ở các công ty nhà nước chiếm 14,3%, số người làm 
ruộng chiếm 8%, số làm ăn tự do chiếm 71,9%. Trong số làm ăn tự 
do thì một số lớn có nghề thuộc loại lao động giản đơn hoặc lao động 
phổ thông, công việc không ổn định, thu nhập thấp không đáp ứng 
được nhu cầu vật chất của cuộc sống. Số còn lại (loại không có nghề 
nghiệp) thì lười biếng, cuộc sống chỉ dựa dẫm vào người khác nhưng 
lại muốn có nhiều tiền ăn tiêu. Số này vào trại giam rất khó bố trí 
công việc, bên cạnh đó vì thói quen lười nhác không muốn lao động 
nên thường trốn tránh lao động bằng nhiều thủ đoạn và bịa ra các lý 
do khác nhau để xin nghỉ lao động. Vì vậy trên phương diện giáo dục 
cải tạo cần tổ chức dạy nghề, tổ chức lao động cho phạm nhân, một 
mặt tạo thói quen lao động, mặt khác giúp họ có nghề nghiệp biết 
làm việc để khi hết hạn tù trở về gia đình, cộng đồng xã hội tự làm 
ăn sinh sống, không tái phạm. 
Công tác giáo dục phạm nhân, đơn vị đã triển khai thực hiện 
tốt quy định của pháp luật và nội dung giáo dục của Tổng cục Thi 
hành án Hình sự và Hỗ trợ tư pháp (THAHS&HTTP), những năm 
qua đã tổ chức các lớp học đầu vào, đầu ra và tổ chức các lớp học 
theo chương trình, kế hoạch chung của Tổng cục THAHS&HTTP và 
Công an tỉnh hướng dẫn. Tuy nhiên, trong công tác giáo dục phạm 
nhân việc áp dụng công tác vận động quần chúng còn những khó 
khăn hạn chế như: địa bàn trại tiếp giáp nhiều nhà trọ, công ty, xí 
nghiệp, với số đông công nhân, người ở trọ là những người nhập cư 
đến từ những địa phương khác nên gây ra rất nhiều khó khăn cho 
công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục họ kết hợp phòng chống 
sự lôi kéo móc nối của phạm nhân với đối tượng bên ngoài (chủ yếu 
là người thân hoặc đồng bọn đã ra trại) để thực hiện các hành vi vi 
phạm (năm 2014 đã bắt được 5 vụ phạm nhân câu kết với người thân 
cất giấu điện thoại di động, thuốc lá, thuốc tân dược vào khu vực lao 
động để sử dụng). Mặt khác, trách nhiệm quản lý của chính quyền 
địa phương đôi lúc còn lỏng lẻo, sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các 
chủ nhà trọ và ban lãnh đạo của các công ty, xí nghiệp khiến cho tình 
hình an ninh trật tự ở địa bàn xung quanh khu vực trại luôn phức tạp, 
gây ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý, giáo dục phạm nhân; trại 
chưa có thư viện, phòng đọc sách báo chuyên dụng. Việc tổ chức 
giáo dục dạy nghề và định hướng nghề nghiệp cho phạm nhân chưa 
triển khai thực hiện được do tính chất công việc của số phạm nhân 
được giữ lại chủ yếu là phục vụ vệ sinh, sửa chữa và giúp việc trong 
 15 
công tác quản lý can phạm. Trong công tác tổ chức ăn, mặc, ở, khám 
chữa bệnh, thực hiện chế độ, chính sách cho phạm nhân được bố trí ở 
trong 11 buồng giam tập thể; diện tích nằm trung bình của mỗi phạm 
nhân là 1,5 m2. 
2.2. Đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại 
các trại giam khu vực Miền Trung 
2.2.1. Những thành tựu đạt được 
2.2.1.1. Nâng cao nhận thức pháp luật 
2.2.1.2. Phạm nhân nhận thức được tội lỗi của mình gây ra 
 “Khi mới đến qua học tập tôi nhận thức pháp luật thi hành 
án hình sự, 50 điều nội quy trại giam, 4 tiêu chuẩn thi đua chấp hành 
án, 20 điều nếp sống văn hoá mới, 8 chỉ tiêu thi đua, cùng tất cả các 
quy định đối với phạm nhân thể hiện đường lối chính sách của Đảng 
và Nhà nước là nhân đạo là tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm 
tội cải tạo để trở thành người công dân tốt. Tuy nhiên phương hướng 
cải tạo của tôi là không cải tạo chỉ chờ pháp luật công minh xem xét 
bản án oan sai để sớm trả lại công lý và công bằng cho tôi theo đúng 
chính sách pháp luật của Nhà nước”. (Một Nam phạm nhân trong 
cuộc khảo sát của tác giả). 
2.2.1.3. Hình thành ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của phạm nhân 
Ý thức trách nhiệm bắt đầu từ việc chăm lo sức khỏe, trau 
dồi tri thức cho bản thân, cho đến thực hiện các hành vi của mình 
theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội, rồi từ đó thực thi nghĩa vụ và 
trách nhiệm một cách tự nguyện. Từ những việc tưởng chừng là đơn 
giản như vậy nhưng đã góp phần xây dựng được ý thức trách nhiệm 
với trại giam nói riêng và xã hội nói chung. 
2.2.2. Một số vấn đề đang đặt ra trong công tác giáo dục pháp luật 
tại các trại giam khu vực miền Trung 
Thứ nhất, khoản 1 Điều 28 Luật Thi hành án hình sự quy 
định “Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học 
văn hoá, học nghề”. Theo tinh thần đó, việc học pháp luật (GDPL) 
phải được đặt ngang hàng với giáo dục công dân. Tuy nhiên, theo 
chương trình hiện hành thì nội dung GDPL cho PN chỉ là một chủ 
đề thuộc nội dung giáo dục công dân. 
Thứ hai, trong Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 3 tập 
nêu trên, mỗi tập đều gồm 3 chủ đề là giáo dục đạo đức, GDPL và 
giáo dục kỹ năng sống với số tiết giảng được phân bổ còn nhiều bất 
cập. 
Ngoài ra, trong tập II còn dành 4 bài (7 tiết) cho phần tự 
chọn, linh hoạt thuộc nội dung giáo dục đạo đức và 4 bài (7 tiết) cho 
phần tự chọn, linh hoạt thuộc nội dung GDPL. Trong 3 nhóm nội 
dung ở 3 tập tài liệu nói trên, nội dung GDPL luôn được dành số 
trang nhiều nhất. Ví dụ, tập II có 183 trang thì nội dung giáo dục đạo 
 16 
đức gồm 53 trang, nội dung GDPL gồm 106 trang và nội dung giáo 
dục kỹ năng sống gồm 24 trang; suy ra, nội dung GDPL chiếm 
57.92% dung lượng trang của tập II. So sánh giữa số tiết dành cho 
GDPL với số lượng trang dành cho nội dung GDPL thì dễ dàng nhận 
thấy phần GDPL là quá nặng đối với cả người dạy và người học; nói 
đúng hơn, số tiết dành cho mỗi phần đều ít so với nội dung cần 
truyền đạt cho PN. Từ đây, khó tránh khỏi tình trạng dạy và học theo 
kiểu hình thức, đối phó cho xong chương trình mà không chú trọng 
tới chất lượng, hiệu quả học tập của PN. 
Thứ ba, nhiều nội dung GDPL trong tập I liên quan đến 
Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế TG, quyền và nghĩa vụ 
của PN không còn phù hợp sau khi Luật Thi hành án hình sự và Nghị 
định số 117/2011/NĐ-CP có hiệu lực thi hành. Trong khi chờ đợi 
Tổng cục VIII tổ chức biên soạn lại Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” 
mới, nếu đội ngũ CBGDPL của các TG không chủ động, linh hoạt 
trong cập nhật thông tin, không tự giác biên soạn lại bài giảng theo 
các văn bản QPPL mới thì sẽ dẫn đến việc truyền đạt cho PN những 
thông tin, kiến thức pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời. 
Thứ tƣ, vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, một 
số TG ở nước ta chưa tổ chức được các lớp GDPL cho số PN đang 
chấp hành án phạt tù trong TG theo những nội dung GDPL quy định 
tại Tập II “Giáo dục công dân”; nhiều PN, do đó, cũng chưa được 
học tập những nội dung pháp luật này. Đây là sự thiệt thòi đối với 
PN trong quá trình chấp hành án phạt tù; những TG đó, bởi vậy, 
cũng chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao nếu không nói là chưa 
thực hiện đúng quy định pháp luật về GDPL cho PN. 
Thứ năm, tài liệu học tập pháp luật dành cho PN hiện cũng 
rất ít, số lượng bản photocopy Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” trong 
thư viện, tủ sách, của các TG hiện không đáng kể, đồng nghĩa với 
việc nhiều PN không được phát tài liệu học tập, phải dùng chung tài 
liệu học tập cùng PN khác. 
Thứ sáu, đặc điểm tình hình PN trong các TG ở Việt Nam 
cho thấy nổi lên sự khác biệt về cơ cấu các tội danh giữa các TG 
đứng chân trên những khu vực, địa bàn khác nhau (chẳng hạn, tại các 
trại giam ở khu vực miền núi phía Bắc Trung Bộ tỷ lệ phạm nhân 
phạm các tội về ma túy chiếm tỷ lệ cao tới 63.13%); khác biệt về đặc 
điểm nhân thân (phạm tội lần đầu, đã có tiền án...); khác biệt về cơ 
cấu giới tính, lứa tuổi, thành phần dân tộc... 
Tiểu kết chương 2 
 17 
Chương 3: 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM 
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO 
PHẠM NHÂNTẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN 
TRUNG 
3.1. Quan điểm, chính sách chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc về 
công tác giáo dục pháp luật cho các phạm nhân tại trại giam khu 
vực miền Trung 
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vai 
trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động của Nhà nước và xã hội; 
bởi vậy, hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho các đối tượng xã hội 
cụ thể nói riêng phải luôn bám sát quan điểm, đường lối và gắn liền 
với sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây 
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta luôn quan 
tâm, coi trọng GDPL cho các tầng lớp nhân dân, cho từng nhóm đối 
tượng xã hội vì GDPL là biện pháp hữu hiệu để đưa thông tin, kiến 
thức pháp luật đến với nhân dân nói chung, đội ngũ CBCC, viên 
chức nói riêng; mặt khác, khẳng định Nhà nước ta luôn đảm bảo tôn 
trọng quyền con người, quyền công dân, mọi người đếu bình đẳng 
trước pháp luật. 
Nghị quyết Đại hội VI đã xác định: “Coi trọng công tác giáo 
dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp, từ 
trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính 
và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp 
để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật”. Mục tiêu của công tác 
GDPL được Đảng ta xác định: “Tăng cường giáo dục ý thức pháp 
luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm 
việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi 
hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”. Chủ thể, 
hình thức GDPL cũng đã được Đảng ta đề cập rất cụ thể trong Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: 
Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp 
luật. Huy động các lực lượng đoàn thể, chính trị, xã hội, nghề 
nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận 
động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên, xây 
dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà 
nước và xã hội. 
3.2. Các nguyên tắc cơ bản trong giáo dục pháp luật 
Thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về giáo dục 
pháp luật cho phạm nhân: đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải 
chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở 
thành người có ích cho xã hội; nếu họ đã có nhiều tiến bộ thì xét để 
giảm việc chấp hành hình phạt 
 18 
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc pháp chế 
đòi hỏi mỗi phạm nhân phải tuyệt đối chấp hành các quy định pháp 
luật về nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức và thời lượng 
giáo dục pháp luật mà chủ thể giáo dục đã xây dựng và triển khai 
dành riêng cho phạm nhân đang chấp hành án phạt tù trong các trại 
giam; phải có tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao trong việc học 
tập pháp luật để vừa vận dụng, phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp 
hành án phạt tù, vừa chuẩn bị hành trang kiến thức pháp luật để tái 
hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù. 
Nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nghiêm khắc và đối xử 
nhân đạo với phạm nhân: Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm 
trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, 
giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Đối 
với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại 
giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; 
nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. 
Nguyên tắc phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan 
hữu quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân 
Công tác giáo dục pháp luật không chỉ là trách nhiệm của cá 
nhân, cơ quan hay đơn vị chức năng, mà còn là trách nhiệm chung 
của toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên: Đảng, Nhà nước, 
các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, các tổ chức, cơ 
quan, đoàn thể xã hội, nhà trường, gia đình và sự nỗ lực của mỗi cá 
nhân. Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam đòi hỏi 
phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan hữu 
quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân 
Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật cho phạm nhân với 
giáo dục công dân, dạy văn hóa: phạm nhân phải học pháp luật, giáo 
dục công dân và được học văn hoá, học nghề. Phạm nhân chưa biết 
chữ phải học văn hoá để xoá mù chữ. Phạm nhân là người nước 
ngoài được khuyến khích học tiếng Việt. Việc quán triệt quan điểm 
kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật cho phạm nhân với giáo dục 
công dân, dạy văn hóa và dạy nghề cho họ là nhằm bảo đảm tính 
đồng bộ, hài hòa và hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho 
phạm nhân trong các trại giam. 
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giáo dục 
pháp luật tại các trại giam 
3.3.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy hướng 
dẫn tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho phạm nhân 
Nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho phạm 
nhân đảm bảo hiện thực hóa mục đích của hình phạt, Nhà nước, các 
cơ quan chức năng cần xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm 
 19 
pháp luật, trong đó có các quy định cụ thể về chủ thể, nội dung, hình 
thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân theo quy định của pháp luật. 
Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm 
về phổ biến, giáo dục pháp luật cần: 
Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương 
trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật; 
Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ biến, 
giáo dục pháp luật; 
Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục 
pháp luật; 
Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; 
Thống kê, tổng kết về phổ biến, giáo dục pháp luật; 
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi 
phạm trong phổ biến, giáo dục pháp luật; 
Hợp tác quốc tế về phổ biến, giáo dục pháp luật. 
Thứ hai, nội dung tuyên truyền, giáo dục cần đề cập đến nội 
dung chính sau: 
Những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất 
nước và của địa phương; những chủ trương, chính sách mới của 
Đảng, Nhà nước liên quan đến phạm nhân và tái hòa nhập cộng đồng 
cho người chấp hành xong án phạt tù; 
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong 
Hiến pháp, pháp luật; Quyền và nghĩa vụ của phạm nhân được quy 
định trong Luật Thi hành án hình sự; Luật đặc xá và các văn bản 
hướng dẫn thi hành khác; 
Quy định về tội phạm, hình phạt, về hoãn, tạm đình chỉ, 
miễn, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, về đặc xá, xóa án tích và 
những nội dung cơ bản, cần thiết khác được quy định trong các Nghị 
quyết của Quốc hội, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật 
Thi hành án hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Thi 
hành án dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Cư trú, Luật Giáo dục, Luật 
Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy nội địa, Luật Dạy 
nghề, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đặc xá, Luật Phòng, chống 
ma túy, Luật Phòng, chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn 
dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); 
Nội quy trại giam và các quy định về tiêu chuẩn thi đua chấp 
hành án phạt tù, xếp loại chấp hành án phạt tù; 
Những quy tắc cơ bản về nếp sống trật tự, văn minh trong 
trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; 
Các chuẩn mực đạo đức xã hội trong các mối quan hệ với 
bản thân, với người khác, với công việc, với gia đình và cộng đồng; 
Các kỹ năng sống cơ bản, cần thiết đối với phạm nhân trong 
quá trình chấp hành án phạt tù và tái hòa nhập cộng đồng; 
 20 
3.3.2. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra, 
thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân 
Kiểm tra, giám sát (KTGS) là một trong những chức năng 
lãnh đạo chủ yếu của Đảng; đồng thời, là biện pháp cơ bản, góp phần 
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và 
rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, 
đảng viên (CB,ĐV) quản lý trại giam. 
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với việc đổi 
mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, công tác KTGS và 
thi hành kỷ luật Đảng (THKLĐ) luôn được bổ sung chức năng, 
nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu của công tác xây dựng Đảng và 
rèn luyện đội ngũ CB,ĐV. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa 
X) đã bổ sung hai nội dung quan trọng về công tác KTGS và 
THKLĐ. Thứ nhất, cấp ủy và ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp được 
giao nhiệm vụ giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong 
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ 
thị, quy định của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban 
Chấp hành Trung ương. Thứ hai, tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật 
của chi bộ đối với đảng viên. Mục đích của công tác KTGS và 
THKLĐ là nhằm xây dựng các tổ chức đảng và đội ngũ CB,ĐV 
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện thắng lợi 
nhiệm vụ chính trị được giao. Trong đó, giám sát là việc làm thường 
xuyên, liên tục để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các vi phạm 
ngay từ lúc manh nha. Cùng với giám sát, kiểm tra là để làm rõ đúng, 
sai, kết luận và xử lý các vi phạm; trên cơ sở đó, cấp ủy xem xét, thi 
hành kỷ luật theo đúng nguyên tắc, quyền hạn và mức độ vi phạm, 
bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, nâng cao tính 
tiền phong, gương mẫu của CB,ĐV. Công tác KTGS và THKLĐ 
luôn đi liền và hỗ trợ lẫn nhau, bám sát nhiệm vụ chính trị và công 
tác xây dựng Đảng, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những sai 
phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và CB,ĐV, giữ nghiêm kỷ 
cương, kỷ luật của Đảng. 
3.3.3. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, nguồn 
nhân lực phục vụ công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân 
trong các trại giam 
Trong thời gian qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 
đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực của 
pháp luật, hiệu quả quản lý của Nhà nước.Tuy nhiên, hiện nay công 
tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trại giam đang bộc lộ một số tồn 
tại, dẫn đến trình độ nhận thức pháp luật của một bộ phận cán bộ 
quản lý trại giam còn hạn chế. 
Nguyên nhân của tình trạng trên là: Nhận thức chung của xã 
hội về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trại giam chưa tương 
 21 
xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này; Hình thức 
phổ biến, giáo dục pháp luật mặc dù đã được áp dụng khá đa dạng, 
phong phú, song nhìn chung hiệu quả còn chưa cao, có một số hình 
thức chưa phù hợp với đối tượng tuyên truyền, phổ biến và tình hình 
thực tiễn; Đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 
còn có mặt hạn chế và chưa đồng đều, đặc biệt là ở các trại giam; Cơ 
chế phối hợp giữa các trại giam trong công tác phổ biến, giáo dục 
pháp luật còn chưa đồng bộ, kém hiệu quả. Kinh phí, cơ sở vật chất, 
phương tiện làm việc dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 
nhìn chung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác 
này. 
3.3.4. Nâng cao trình độ kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ sư 
phạm của đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật cho 
phạm nhân 
Để bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp 
luật cho phạm nhân trong các trại giam thì nhất thiết phải nâng cao 
trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ 
sư phạm cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục pháp luật 
cho phạm nhân trong các trại giam. 
Thời gian quan, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc 
thực hiện các nhiệm vụ được giao của cán bộ làm công tác tuyên 
truyền pháp luật tại các trại giam còn bộc lộ một số khó khăn, hạn 
chế 
3.3.5. Đổi mới giáo dục pháp luật cho phạm nhân 
- Về nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân: 
Ngoài những nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân có 
tính chất “quy định cứng”, tùy theo tỷ lệ thống kê tội danh mà phạm 
nhân đã phạm phải, phụ thuộc vào tình hình tội phạm tái phạm, tái 
phạm nguy hiểm, cán bộ giáo dục pháp luật có thể chủ động đề xuất 
với Ban Giám thị trại giam xây dựng những chuyên đề giáo dục pháp 
luật có tính chất hẹp, chuyên sâu hơn để giảng dạy cho phạm nhân 
nhằm ngăn ngừa diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm ở khu vực 
có thể tác động tiêu cực tới phạm nhân sau khi họ ra trại, khiến họ có 
thể tái phạm. 
- Về hình thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân: 
Hình thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại 
giam được sử dụng phổ biến, bắt buộc lâu nay là học tập tập trung 
trên lớp. Ngoài việc tập trung tối đa cơ sở vật chất, nhân lực nhằm 
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hình thức này, các trại giam cần 
tiếp tục đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật khác phù hợp 
với điều kiện của từng trại giam. 
3.3.6. Xã hội hóa công tác tuyên truyền pháp luật 
 22 
Xã hội hóa công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân:Công tác 
giáo dục cải tạo, hướng nghiệp, đào tạo nghề cho phạmnhân đã có 
nhiều đổi mới, cải cách mang ý nghĩa nhân văn, tạo môi trường 
thuận lợi để phạm nhân học tập, lao động, rèn luyện, cải tạo tiến bộ. 
Đã thực hiện chủ trương xã hội hóa một bước công tác giáo dục, cải 
tạo phạm nhân. 
3.4. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo 
dục pháp luật tại các trại giam khu vực miền Trung 
3.4.1. Cần tăng cường chương trình hỗ trợ pháp lý 
Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng (C86) Bộ Công 
an có nhiệm vụ giáo dục phổ biến pháp luật cho phạm nhân, đây là 
nội dung rất quan trọng trong công tác giáo dục cải tạo phạm nhân. 
Nội dung này cũng đã được quy định trong các văn bản pháp luật và 
văn bản hướng dẫn thi hành. Đặc biệt, khi phạm nhân sắp chấp hành 
xong hình phạt tù, họ được học chương trình đầu ra do trại giam tổ 
chức, gồm các nội dung: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành 
xong án phạt tù; giới thiệu một số thủ tục hành chính, văn bản pháp 
luật có những điều luật liên quan đến các hoạt động thường ngày 
như: 
Luật Giao thông, Luật Cư trú, thông tin về HIV/AIDS và 
phòng chống lây nhiễm; tư vấn hỗ trợ kỹ năng sống, kỹ năng tìm 
việc làm Một số trại giam trong chương trình giáo dục tại lớp học 
đầu ra còn mời cả người hoàn lương tiến bộ đến trao đổi kinh nghiệm 
để tái hòa nhập cộng đồng. 
Thời gian qua, Bộ Công an cũng đã xây dựng trang web giáo 
dục hướng thiện và hòa nhập cộng đồng, trong đó có chuyên mục tư 
vấn trao đổi, chủ yếu là tư vấn pháp luật nhằm giúp người mãn hạn 
tù có kiến thức pháp luật để vận dụng trong cuộc sống. Người chấp 
hành xong án phạt tù được tư vấn pháp luật qua email, trực tiếp qua 
điện thoại 
Các trại giam đã tích cực trong thực hiện công tác phổ biến, 
giáo dục tư vấn pháp lý với nhiều biện pháp, hình thức sáng tạo khác 
nhau như: Tổ chức lớp học giáo dục công dân; tuyên truyền chính 
sách pháp luật qua hệ thống phát thanh của trại giam; thi tìm hiểu 
Hiến pháp, pháp luật 
Trong các trại giam, cán bộ giáo dục, cán bộ quản giáo là lực 
lượng nòng cốt thực hiện công tác giáo dục, tư vấn pháp luật cho 
phạm nhân; họ là người nắm rõ hoàn cảnh, lai lịch, tội trạng của 
phạm nhân vì vậy công tác giáo dục phổ biến tư vấn pháp luật cho 
kết quả tốt, tác động hiệu quả đến nhận thức của phạm nhân. 
Bộ Công an đã có chương trình phối hợp với Hội Luật gia 
Việt Nam về việc phổ biến, giáo dục, tư vấn pháp luật, hỗ trợ cho 
phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù. Khi thấy cần thiết, các trại 
 23 
giam có thể mời cán bộ hội luật gia các tỉnh, thành phố thực hiện 
việc tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, giải đáp những vấn đề 
phạm nhân quan tâm, giúp họ có nhận thức đầy đủ khi tái hòa nhập 
cộng đồng. 
Từ thực tiễn các đơn vị trại giam, Bộ Công an cũng đưa ra 
những kiến nghị, đó là: đối tượng giáo dục, tư vấn ở đây là phạm 
nhân đang chấp hành hình phạt tù trong các cơ sở giam giữ, họ có 
nhiều điểm khác nhau như trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật, độ 
tuổi, giới tính, đặc điểm văn hóa vùng miền và nhất là tính chất, mức 
độ phạm tội cũng khác nhau Vì vậy, phải nghiên cứu từng con 
người cụ thể mới có biện pháp tư vấn, giáo dục phù hợp. 
3.4.2. Gắn kết việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và pháp luật 
với đào tạo nghề 
Gắn kết việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và pháp luật là 
một yêu cầu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Việc gắn kết, một 
mặt không chỉ đảm bảo quán triệt hiệu quả phương pháp luận trong 
giáo dục, nghiên cứu nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc lịch sử cụ thể 
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi phải 
đảm bảo, chú ý đến tính đặc thù trong giáo dục người phạm tội. 
Từ đó hình thành thái độ học tập, nghiên cứu đúng đắn, đạt 
hiệu quả cao trong quá trình cải tạo. 
Gắn kết không chỉ được xem là một yêu cầu, mà còn được 
xem là một biện pháp, phương pháp giảng dạy và học tập cả với cán 
bộ trại giam và phạm nhân nhằm khơi tạo hứng thú, động lực trong 
quá trình cải tạo vốn đã, đang còn ý kiến cho rằng chương trình giáo 
dục pháp luật này thường rất khô khan, khó, khổ. 
Để có sự gắn kết phù hợp, trước hết cần hiểu thế nào là gắn 
kết. Theo quan điểm của tác giả, gắn kết có thể được hiểu, xem xét 
dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong bài viết này, tác giả 
xem xét gắn kết như một liên kết, liên hệ và phương pháp thực hiện. 
Theo đó, trọng tâm của bài viết là chỉ ra sự liên kết hay liên hệ quan 
điểm của Triết học Mác – Lênin về bản chất con người với Điều 28, 
Điều 29, Điều 36 của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và biện 
pháp thực hiện. 
Sự gắn kết này cần được thực hiện qua hai bước: 
Một là, trình bày và phân tích quan điểm của Triết học Mác 
– Lênin về bản chất con người. 
Hai là, liên hệ với quy định của pháp luật về việc giáo dục, 
đào tạo nghề cho phạm nhân để thấy mối tương quan giữa hai vấn đề 
triết học và luật pháp. Hay nói cách khác, bài viết xem xét một số 
điều luật của Luật Thi hành án hình sự từ góc nhìn của Triết học Mác 
– Lênin về bản chất con người. 
 24 
Cụ thể, Điều 28 của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy 
định về chế độ học tập, học nghề và được thông tin của phạm nhân 
(1. Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học 
văn hóa, học nghề. Phạm nhân chưa biết chữ phải học văn hóa để 
xóa mù chữ. Phạm nhân là người nước ngoài được khuyến khích học 
tiếng Việt. Phạm nhân được bố trí ngày thứ bảy để học tập, học nghề 
và được nghỉ ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của pháp luật. Căn 
cứ yêu cầu quản lý, giáo dục phạm nhân và thời hạn chấp hành án, 
trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp 
huyện tổ chức dạy học cho phạm nhân theo chương trình, nội dung 
do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Quốc 
phòng quy định. 2. Phạm nhân được cung cấp thông tin về thời sự, 
chính sách, pháp luật của Nhà nước). 
Điều 29 quy định về chế độ lao động của phạm nhân (1. 
Phạm nhân được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và 
đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng; được nghỉ 
lao động các ngày thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của 
pháp luật. Thời gian phạm nhân lao động và học tập, học nghề không 
quá 08 giờ trong 01 ngày. Trường hợp đột xuất hoặc thời vụ, giám 
thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng không 
được quá 02 giờ trong 01 ngày. Trường hợp phạm nhân lao động 
thêm giờ hoặc lao động trong ngày thứ bảy, chủ nhật thì được nghỉ 
bù hoặc bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật. 2. Phạm nhân nữ được bố trí 
làm những công việc phù hợp với giới tính, sức khỏe và độ tuổi; 
không làm công việc nặng nhọc, độc hại thuộc danh mục cấm sử 
dụng lao động nữ. 3. Phạm nhân mắc bệnh hoặc có nhược điểm về 
thể chất, tinh thần thì tuỳ mức độ, tính chất của bệnh tật và trên cơ sở 
chỉ định của y tế trại giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời 
gian lao động). 
Điều 36 quy định về khen thưởng phạm nhân (1. Trong thời 
gian chấp hành ánphạt tù, phạm nhân chấp hành tốt nội quy, quy chế 
trại giam, có thành tích trong lao động hoặc lập công thì được khen 
thưởng theo một hoặc nhiều hình thức sau: a) Biểu dương; b) 
Thưởng tiền hoặc hiện vật; c) Tăng số lần được liên lạc bằng điện 
thoại, số lần gặp thân nhân, số lần và số lượng quà được nhận. 2. 
Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, giám 
thị trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, thủ trưởng cơ quan thi hành 
án hình sự công an cấp tỉnh, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự 
cấp quân khu quyết định khen thưởng phạm nhân. Việc khen thưởng 
phải bằng văn bản, được lưu vào hồ sơ phạm nhân. Phạm nhân được 
khen thưởng thì được ưu tiên đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án 
phạt tù và đề nghị xét đặc xá theo quy định của pháp luật). 
 25 
Ở góc độ giải pháp này, tác giả chưa phân tích ý nghĩa, tác 
dụng của các điều luật trên cũng như những thành công và hạn chế 
của công tác giáo dục và đào tạo nghề cho phạm nhân, mà chủ yếu là 
tập trung chỉ rõ sự gắn kết phù hợp quan điểm của Triết học Mác – 
Lênin về bản chất con người với một số điều của Luật Thi hành án 
hình sự năm 2010 cũng như mối tương quan giữa hai vấn đề. 
Tóm lại, giảng dạy quan điểm của Triết học Mác – Lênin về 
bản chất con người cần chú trọng việc gắn kết nội dung với các điều 
luật trên của Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Sự gắn kết này có 
nhiều ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn to lớn. Một trong những ý 
nghĩa quan trọng của sự gắn kết trên đây là giúp đảm bảo quán triệt 
tốt phương pháp luận triết học: đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể 
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. 
3.4.3. Xây dựng nội dung cụ thể để thực hiện 
- Thứ nhất, phân loại tập trung đối tượng được giáo dục: 
- Thứ hai, về nội dung, chương trình giáo dục chính, bao 
gồm: 
a) Giáo dục pháp luật: Các quy định về xóa án tích, về quyền 
và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định của pháp luật về cư trú, 
về bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tội 
phạm và các tệ nạn xã hội; 
b) Phổ biến một số chủ trương, chính sách mới của Đảng, 
Nhà nước và các thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, 
quốc phòng; 
c) Giáo dục về chính sách đại đoàn kết dân tộc; về đạo đức, 
lối sống, nghị lực lập thân, lập nghiệp, nếp sống văn hóa, ý thức chấp 
hành các quy tắc đạo đức xã hội; trách nhiệm đối với bản thân, gia 
đình và xã hội; 
d) Giáo dục về hòa nhập cộng đồng; kỹ năng tìm kiếm việc 
làm, ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, thách thức của cuộc 
sống, từ chối việc rủ rê, lôi kéo của các đối tượng xấu và phòng tránh 
các tệ nạn xã hội. 
- Thứ ba, về phương pháp, hình thức giáo dục: 
- Thứ tư, về tài liệu giáo dục: 
- Thứ năm, về cán bộ giáo dục: 
Tiểu kết chương 3 
 26 
KẾT LUẬN 
Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là 
hoạt động có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch được các trại 
giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù và 
bằng những hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp cho phạm nhân 
những kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công 
dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể liên quan đến quá trình 
chấp hành án phạt tù trong trại giam nói riêng; làm hình thành ở 
phạm nhân hiểu biết pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật 
và hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý giam 
giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; giúp họ có khả năng hòa nhập cộng 
đồng, biết sống và làm việc theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp 
hành án phạt tù. 
Trong giai đoạn hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật có xu 
hướng gia tăng, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp thì việc 
giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam nói chung, trại 
giam Miền Trung nói riêng càng có vai trò đặc biệt quan trọng: giúp 
cho phạm nhân nâng cao pháp luật; nhận thức được tội lỗi của mình 
gây ra; ý thức, trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân. 
Cũng như hoạt động giáo dục pháp luật cho các đối tượng xã 
hội khác, hoạt động giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại 
giam được cấu thành từ các yếu tố cơ bản: mục đích, mục tiêu, chủ 
thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp 
luật. Ngoài các đặc điểm chung, mỗi yếu tố cấu thành giáo dục pháp 
luật cho phạm nhân đều mang những nét đặc thù xuất phát từ đối 
tượng đặc thù là phạm nhân và môi trường đặc thù là trại giam. 
Quá trình giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại 
giam chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau: yếu tố 
trực tiếp (đối tượng giáo dục, chủ thể giáo dục); yếu tố gián tiếp (nhu 
cầu văn hoá, tinh thần, chính sách và tổ chức thực hiện chính sách 
của Nhà nước đối với phạm nhân). 
Qua khảo sát, đánh giá cho thấy điều kiện địa lý, cơ sở vật 
chất của trại giam có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục 
pháp luật cho phạm nhân. Cơ cấu tình hình phạm nhân trong các trại 
giam bao gồm diễn biến tăng, giảm số lượng phạm nhân, cơ cấu lứa 
tuổi, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thành phần dân tộc, cơ cấu trình độ 
văn hóa, cơ cấu tội danh... cũng là những nhân tố khác nhau dẫn 
phạm nhân đến việc thực hiện hành vi phạm tội khi còn ở ngoài xã 
hội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_van_giao_duc_phap_luat_cho_pham_nhan_o_cac_trai.pdf tom_tat_luan_van_giao_duc_phap_luat_cho_pham_nhan_o_cac_trai.pdf