Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là
hoạt động có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch được các trại
giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù và
bằng những hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp cho phạm nhân
những kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể liên quan đến quá trình
chấp hành án phạt tù trong trại giam nói riêng; làm hình thành ở
phạm nhân hiểu biết pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật
và hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý giam
giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; giúp họ có khả năng hòa nhập cộng
đồng, biết sống và làm việc theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp
hành án phạt tù.
Trong giai đoạn hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật có xu
hướng gia tăng, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp thì việc
giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam nói chung, trại
giam Miền Trung nói riêng càng có vai trò đặc biệt quan trọng: giúp
cho phạm nhân nâng cao pháp luật; nhận thức được tội lỗi của mình
gây ra; ý thức, trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân.
Cũng như hoạt động giáo dục pháp luật cho các đối tượng xã
hội khác, hoạt động giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam được cấu thành từ các yếu tố cơ bản: mục đích, mục tiêu, chủ
thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp
luật. Ngoài các đặc điểm chung, mỗi yếu tố cấu thành giáo dục pháp
luật cho phạm nhân đều mang những nét đặc thù xuất phát từ đối
tượng đặc thù là phạm nhân và môi trường đặc thù là trại giam.
Quá trình giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau: yếu tố
trực tiếp (đối tượng giáo dục, chủ thể giáo dục); yếu tố gián tiếp (nhu
cầu văn hoá, tinh thần, chính sách và tổ chức thực hiện chính sách
của Nhà nước đối với phạm nhân).
Qua khảo sát, đánh giá cho thấy điều kiện địa lý, cơ sở vật
chất của trại giam có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục
pháp luật cho phạm nhân. Cơ cấu tình hình phạm nhân trong các trại
giam bao gồm diễn biến tăng, giảm số lượng phạm nhân, cơ cấu lứa
tuổi, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thành phần dân tộc, cơ cấu trình độ
văn hóa, cơ cấu tội danh. cũng là những nhân tố khác nhau dẫn
phạm nhân đến việc thực hiện hành vi phạm tội khi còn ở ngoài xã
hội.
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam khu vực miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, đề cập ở những mức độ
khác nhau nội hàm của khái niệm; tác giả luận văn đồng tình với
định nghĩa sau đây:
Từ đó, có thể coi giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động
có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua
những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục
pháp luật, tác động đến đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật
nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật,
trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen
và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật.
Như vậy, theo quan điểm cá nhân tác giả có thể định nghĩa:
Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là hoạt động
có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch, chương trình nhất định;
được các trại giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp
đặc thù và bằng những hình thức phù hợp, hướng tới trang bị cho
phạm nhân những thông tin, kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa
vụ cơ bản của công dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể
liên quan đến quá trình chấp hành án phạt tù trong trại giam nói
riêng; làm hình thành ở phạm nhân tri thức, hiểu biết pháp luật, tình
cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với yêu
cầu của công tác quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân;
giúp họ có khả năng tái hòa nhập cộng đồng, biết sống và làm việc
theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp hành án phạt tù.
1.1.2. Đặc trưng của giáo dục pháp luật cho phạm nhân
Thứ nhất, GDPL cho PN trong các TG là dạng hoạt động
giáo dục được thực hiện thông qua sự tương tác giữa chủ thể GDPL
và đối tượng tiếp nhận GDPL; là hoạt động có mục đích, có định
hướng, có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo những nội dung GDPL cụ
thể được chủ thể GDPL xây dựng dành riêng cho đối tượng PN đang
chấp hành án phạt tù trong các TG, dựa trên các phương pháp và
thông qua những hình thức GDPL phù hợp với điều kiện của từng
TG cũng như phù hợp với đặc điểm tình hình PN trong các TG.
Thứ hai, GDPL cho PN trong các TG là hoạt động giáo dục
diễn ra trong một môi trường đặc biệt và dành cho những đối tượng
đặc biệt
8
Thứ ba, điểm khác biệt cơ bản so với GDPL cho các đối
tượng khác thể hiện ở chỗ, GDPL cho PN trong các TG là quá trình
hoạt động diễn ra theo cơ chế/mô hình “vừa xây, vừa chống”.
Thứ tư, nhìn bề ngoài, có thể nhiều người cho rằng hoạt
động GDPL cho PN trong các TG có nhiều điều kiện thuận lợi, dễ
thực hiện hơn so với GDPL cho các đối tượng khác vì hoạt động này
diễn ra trong một môi trường đặc biệt là TG - nơi mà việc học tập
pháp luật là bắt buộc đối với mỗi PN; quan hệ quản lý từ phía chủ
thể GDPL đối với PN là quan hệ mang tính chất mệnh lệnh - phục
tùng; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ GDPL cho PN được Nhà
nước đầu tư.v.v. Quan niệm đó đúng, nhưng mới chỉ phản ánh được
một phần đặc điểm, tính chất của GDPL cho PN trong các TG và nếu
chỉ nhìn nhận dưới góc độ chủ thể GDPL thực hiện cho xong nhiệm
vụ được giao, không cần tính đến chất lượng, hiệu quả của công tác
này. Trên thực tế, để có thể bảo đảm chất lượng, hiệu quả thực sự thì
GDPL cho PN trong các TG lại là hoạt động không kém phần khó
khăn, phức tạp và chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau,
bao gồm các yếu tố chủ quan (ý thức trách nhiệm, năng lực tổ chức,
thực hiện của chủ thể GDPL; trình độ học vấn, khả năng tiếp nhận
kiến thức pháp luật của các PN; các nhân tố tâm lý) và các yếu tố
khách quan (điều kiện kinh tế; môi trường giáo dục cải tạo, lao động,
sinh hoạt trong TG; chính sách và thực hiện chính sách của Nhà
nước đối với PN...). Điều đó giúp giải thích tại sao trong cùng điều
kiện, hoàn cảnh như nhau, có thể hoạt động GDPL cho PN ở TG này
thì diễn ra chủ động, tích cực, đạt hiệu quả cao; còn ở TG khác lại
thụ động, cầm chừng và kém hiệu quả.
Thứ năm, kết quả, đồng thời là thước đo đánh giá hiệu quả
của hoạt động GDPL cho PN trong các TG là những mục tiêu cụ thể
mà hoạt động này cần đạt được. Đó là mục tiêu về nhận thức (PN
tiếp thu, tích lũy được những thông tin, kiến thức pháp luật cơ bản
phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp hành án phạt tù cũng như sau
khi trở về hòa nhập cộng đồng); mục tiêu về thái độ, tình cảm (làm
hình thành ở PN sự ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội trước đây; có
thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ nội
quy, quy chế TG; có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của
pháp luật...); mục tiêu về hành vi (giúp PN có khả năng vận dụng
kiến thức pháp luật tiếp thu được qua việc học tập pháp luật để thực
hiện quyền, nghĩa vụ của PN trong quá trình chấp hành án phạt tù;
xây dựng, củng cố hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật
sau khi chấp hành xong án phạt tù).
1.1.3. Vai trò giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại trại giam
Một là, hoạt động giam giữ, cải tạo, giáo dục phạm nhân,
người vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành
9
vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật;
cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn
chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những
người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước.
Hai là, cách ly người phạm tội để có điều kiện thu thập
thông tin, tài liệu, chứng cứ về tội phạm phục vụ công tác điều tra,
đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi phạm nhân, người vi phạm
pháp luật là những người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội.
Ba là, giáo dục cải tạo để phạm nhân, người vi phạm pháp
luật nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa
chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học
tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng
được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi
trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
1.2. Các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục pháp luật trong các
trại giam ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Các nguyên tắc giáo dục pháp luật
- Một là, đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp
luật.
- Hai là, đảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt
trung thành văn bản.
1.2.2. Nội dung giáo dục pháp luật
Những nội dung GDPL cho PN nêu trên được thể hiện trong
Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 3 tập do Tổng cục VIII phối
hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào
tạo) biên soạn, mỗi tập đều có phần GDPL với những nội dung cụ
thể:
Nội dung GDPL trong Tập I gồm: 1) Chính sách hình sự của
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đối với người phạm tội; 2) Một
số nội dung cơ bản của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế
TG; 3) Tôn trọng Nội quy TG; 4) Quyền và nghĩa vụ của PN.
Nội dung GDPL trong tập II gồm: 1) Một số nội dung cơ bản
của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; 2) Quyền được bảo
hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; 3) Quyền sở hữu tài
sản và nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản của công dân, của Nhà
nước và lợi ích công cộng; 4) Nghĩa vụ công dân trong việc bảo vệ
môi trường; 5) Phòng chống tệ nạn xã hội; 6) Phòng chống
HIV/AIDS và các bệnh tuyền nhiễm; 7) Một số nội dung cơ bản của
Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự; 8) Một số nội dung cơ
bản của Luật Đặc xá. Ngoài 8 nội dung GDPL bắt buộc cho PN nêu
trên còn có phần tự chọn, linh hoạt: một số vấn đề cơ bản của Luật
10
Giao thông đường thủy nội địa; pháp luật và chính sách của Nhà
nước về tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc; quyền trẻ em; quyền phụ nữ.
Nội dung GDPL ở tập III gồm: 1) Giữ gìn trật tự an toàn xã
hội; 2) Giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ; 3) Một số nội
dung cơ bản của Luật Cư trú; 4, Quyền và nghĩa vụ công dân trong
hôn nhân, gia đình.
1.2.3. Hình thức giáo dục pháp luật
Hình thức tổ chức thành các lớp học tập trung tại hội trường;
Hình thức cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật cho phạm; Hình thức
niêm yết thông tin pháp luật tại bảng tin của trại/phân trại, ở buồng
giam phạm nhân; Hình thức giáo dục pháp luật thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, pa - nô, áp -
phích, tranh cổ động.
Hình thức GDPL cho PN trong các TG là những mô hình tổ
chức triển khai thực hiện, những cách làm cụ thể mà thông qua đó,
chủ thể thực hiện hoạt động GDPL cho PN. Với cách tiếp cận này,
có thể đưa ra định nghĩa hình thức GDPL cho PN trong các TG ở
Việt Nam như sau: hình thức GDPL cho PN trong các trại giam là
tập hợp các mô hình tổ chức triển khai thực hiện, những cách làm cụ
thể, đa dạng khác nhau; thông qua đó, chủ thể giáo dục pháp luật
chuyển giao các nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân; hướng
tới đạt được mục đích, mục tiêu giáo dục pháp luật cho đối tượng
này.
1.2.4. Phương pháp giáo dục pháp luật
- Để GDPL nhằm hình thành, củng cố ý thức pháp luật cho
PN, có thể sử dụng các phương pháp GDPL sau:
+ Phương pháp thông tin pháp luật:
+ Phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật
+ Phương pháp nói chuyện, trao đổi về pháp luật:
+ Phương pháp nêu gương điển hình
+ Phương pháp tạo dư luận xã hội trong PN để GDPL:
+ Phương pháp giảng dạy pháp luật trên hội trường, trong
lớp học:
- Để GDPL làm hình thành kinh nghiệm giao tiếp, ứng xử
phù hợp với các quy định pháp luật, nội quy, quy chế TG... cho PN,
chủ thể GDPL có thể dùng các phương pháp GDPL sau:
+ Phương pháp nêu các yêu cầu pháp luật:
+ Phương pháp tạo tình huống pháp luật:
+ Phương pháp rèn luyện, thực hành pháp luật: Chủ thể
GDPL tổ chức cho PN rèn luyện, thực hành vận dụng những kiến
thức pháp luật, nội quy, quy chế đã được học vào môi trường thực tế
trong TG; qua đó, giúp PN biết cách lựa chọn và thực hiện những
11
hành vi đúng đắn, phù hợp với quy định pháp luật về thi hành án
hình sự.
1.3. Các điều kiện bảo đảm cho công tác giáo dục pháp luật cho
phạm nhân
1.3.1. Từ phía Nhà nước
Hiện nay, kinh phí phục vụ các mặt hoạt động của các TG,
trong đó có GDPL cho PN, chủ yếu lấy từ nguồn ngân sách nhà nước
và được bảo đảm trong dự toán kinh phí hàng năm của Bộ Công an.
1.3.2. Từ phía các trại giam
Mọi hoạt động của TG hầu như phụ thuộc vào nguồn kinh
phí được phân bổ từ ngân sách nhà nước. Là cơ quan thi hành án
phạt tù, TG có một trong những nhiệm vụ là tiếp nhận, tổ chức quản
lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân, bao gồm cả công tác GDPL
cho PN.
1.3.3. Về phía đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục pháp
luật
Điều kiện kinh tế cũng có tác động quan trọng tới những cán
bộ trực tiếp làm công tác GDPL cho PN. Kinh tế phát triển, đời sống
vật chất được cải thiện và nâng cao, đội ngũ CBGDPL có điều kiện
tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, tự trang bị thêm thông tin, kiến thức
pháp luật mới; đầu tư thời gian, công sức để soạn bài, xây dựng giáo
án điện tử, chuẩn bị các bài tập trắc nghiệm, tình huống pháp lý thực
tiễn trước khi lên lớp giảng bài cho PN, tạo ra những giờ giảng hấp
dẫn, lý thú, thu hút PN.
1.3.4. Về phía phạm nhân trong các trại giam
Phạm nhân là những người tham dự và thụ hưởng thành quả
công tác GDPL dành cho họ cả trong quá trình chấp hành án phạt tù
cũng như sau khi mãn hạn tù, trở về với đời sống cộng đồng. Điều
kiện kinh tế, đời sống vật chất trong TG có ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động học tập pháp luật của họ. Việc Nhà nước, lãnh đạo TG
quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất của TG ngày càng
tiện nghi, đầy đủ hơn chính là nhằm bảo đảm cho cuộc sống, lao
động, học tập, sinh hoạt của PN. Với điều kiện kinh tế gia đình khá
giả, thân nhân có điều kiện định kỳ thăm gặp, hỗ trợ thêm kinh phí,
khích lệ, động viên tinh thần PN sẽ giúp họ yên tâm tư tưởng, phấn
đấu học tập, cải tạo tốt. Còn điều kiện kinh tế gia đình không cho
phép, người thân ít có cơ hội thăm gặp PN thì dễ khiến họ rơi vào
trạng thái tâm lý tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến tinh thần học tập pháp
luật.
Tiểu kết chương 1
12
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬTCHO
PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN
TRUNG
2.1. Khái quát chung về các trại giam khu vực Miền Trung
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên - địa lí và cơ sở vật của các trại
giam khu vực miền Trung ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp
luật cho các phạm nhân
Về vị trí địa lý:
Về khí hậu:
Tài nguyên đất:
Tài nguyên biển:
2.1.2. Tình hình phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam
khu vực miền Trung ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp luật
Hiện tại, theo nghiên cứu của tác giả, chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu và công bố số liệu liên quan đến tình hình
phạm nhân ở miền Trung. Để có được các số liệu chính xác, tác giả
đã thực hiện điều tra vào tháng 3 năm 2017, phát phiếu khảo sát
nhằm thu thập thông tin. Kết quả điều tra, thu thập thông tin được
ghi rõ tại Phần Phục Lục của Luận văn này.
Những năm gần đây tình trạng phạm tội có những diễn biến
phức tạp, số lượng người có án phạt tù đưa đến các trại giam chấp
hành án với hành vi, tính chất phạm tội cũng nguy hiểm hơn (Vì theo
quy định của ngành nên tác giả chỉ đưa số liệu tỷ lệ % không đưa số
tuyệt đối, ngoài những số liệu đã công khai).
Số lượng người bị kết án phạt tù vào trại giam năm sau cao
hơn năm trước, nếu lấy năm 2013 là 100,0% thì năm 2016 tỷ lệ phạm
nhân nhân trại giam tăng lên 127,0%. Sự biến động số lượng phạm
nhân sẽ là khó khăn, thách thức đối với trại giam trong công tác tổ
chức giáo dục pháp luật cho phạm nhân; gây áp lực về cơ sở vật chất
phục vụ giáo dục pháp luật; về đội ngũ cán bộ giáo dục pháp luật đáp
ứng yêu cầu giáo dục pháp luật do sự gia tăng số lượng phạm nhân
trong từng trại.
Giới tính: thực tế trong công tác quản lý trại giam cho thấy
phạm nhân là nam giới đông: năm 2013 phạm nhân nam chiếm tỷ lệ
87,4%, phạm nhân nữ là 12,6%; năm 2016 tỷ lệ phạm nhân nam
chiếm 85,91%, phạm nhân nữ là 14,09%. Cũng qua nghiên cứu 50
hồ sơ phạm nhân nữ (tháng 3/2012) có 40% phạm nhân tội trộm cắp;
13% phạm nhân tội giết người; 16,6% phạm nhân phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; 10% phạm nhân phạm tội buôn bán phụ nữ;
6,6% phạm nhân phạm tội buôn bán và sử dụng chất ma túy; 6,6%
phạm nhân phạm tội tham ô tài sản; 7,2% phạm nhân phạm tội
khác.
13
Từ thực tế công tác quản lý và theo các số liệu thống kê hàng
năm cho thấy số lượng phạm nhân nữ đưa vào trại trong các năm gần
đây có xu hướng tăng, kéo theo rất nhiều phức tạp trong công tác
quản lý, giam giữ và bố trí lao động cải tạo (số phạm nhân nữ được
giam khu vực riêng; nhiều trường hợp phạm nhân nữ có thai, sinh
con, nuôi con trong trại giam,...). Điều này cũng ảnh hưởng không
nhỏ tới việc tổ chức và thực hiện các chế độ chính sách đối với họ,
việc bố trí cải tạo lao động cho họ cũng rất khó khăn và có thể ảnh
hưởng đến quyền lợi mà họ được hưởng.
Đặc điểm lứa tuổi: thực tế cho thấy trong tổng thể phạm
nhân ở các trại giam, phạm nhân ở độ tuổi sung sức để lao động
chiếm số đông, nhưng do động cơ phạm tội, họ đã vi phạm pháp luật
phải vào trại. Qua khảo sát năm 2013 số lượng phạm nhân nói trên ở
các trại giam cho thấy lứa tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm
0.05 %; từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm 0.97%; từ 18 tuổi đến dưới
30 tuổi chiếm 47.2%; từ 30 tuổi đến dưới 40 tuổi chiếm 28,2%; từ 40
tuổi đến dưới 50 tuổi chiếm 16,3%; từ 50 tuổi đến dưới 60 tuổi
chiếm 6.0%; từ 60 tuổi trở lên 1,0%. Cũng qua số liệu trên cho thấy
ở lứa tuổi thanh niên chiếm đa phần, đặc điểm ở lứa tuổi này dễ bị
kích động, lôi kéo rủ rê, bên cạnh đó về nghề nghiệp lại không có
hoặc có nhưng không ổn định, lười biếng lao động cộng với tính hiếu
thắng ngông cuồng, thích đua đòi ăn chơi, hưởng lạc dẫn đến vi
phạm pháp luật.
Về phạm nhân đa số trong độ tuổi lao động chiếm đến trên
92%, về trình độ văn hóa nếu tính trong 5 năm qua: có 428/2.459
phạm nhân mù chữ, chiếm tỉ lệ 17,4%; tiểu học: có 636/2.459 chiếm
tỉ lệ 25,3%; trung học cơ sở: có 446/2.459 phạm nhân, chiếm tỉ lệ
19.8%; trung học phổ thông trở lên: có 208/2.459 phạm nhân, chiếm
tỉ lệ 8,4%. Trong công tác quản lý phạm nhân, việc áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định
như: Số lượng cộng tác viên bí mật (CTVBM) còn ít (thời điểm cao
nhất là 06 cơ sở bí mật – năm 2016) chưa đủ để bố trí trong tất cả các
buồng giam, tổ, đội phạm nhân, hiệu quả hoạt động của một số
CTVBM còn hạn chế. Công tác khai thác phạm nhân còn quá ít, cá
biệt có trường hợp bị đối tượng nghi ngờ, cô lập, không phát huy
được tác dụng hoặc bị khống chế, lợi dụng cung cấp thông tin sai sự
thật. Thời gian chấp hành án của số phạm nhân được giữ lại phân trại
rất ngắn nên việc xây dựng và sử dụng CTVBM cũng gặp rất nhiều
khó khăn. Hoạt động kiểm soát công khai thường xuyên (kiểm tra,
soát xét thân thể, thư, quà khi xuất, nhập trại) hiệu quả còn thấp,
chưa có máy móc, công cụ, phương tiện hỗ trợ phát hiện vật cấm do
thân nhân phạm nhân gửi vào. Do vậy, trong những năm qua nhiều
trường hợp phạm nhân lợi dụng sự sơ hở để mang vật cấm như:
14
thuốc lá, tiền mặt vào buồng giam, khu giam. Thống kê cho thấy
trong thời gian từ 2005 đến 2015 đã có 248 lượt phạm nhân bị xử lý
kỷ luật, trung bình có trên 24 lượt phạm nhân vi phạm/1 năm.
Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp: Kết quả khảo sát
số lượng phạm nhân ở các trại giam cho thấy số phạm nhân có nghề
nghiệp làm ở các công ty nhà nước chiếm 14,3%, số người làm
ruộng chiếm 8%, số làm ăn tự do chiếm 71,9%. Trong số làm ăn tự
do thì một số lớn có nghề thuộc loại lao động giản đơn hoặc lao động
phổ thông, công việc không ổn định, thu nhập thấp không đáp ứng
được nhu cầu vật chất của cuộc sống. Số còn lại (loại không có nghề
nghiệp) thì lười biếng, cuộc sống chỉ dựa dẫm vào người khác nhưng
lại muốn có nhiều tiền ăn tiêu. Số này vào trại giam rất khó bố trí
công việc, bên cạnh đó vì thói quen lười nhác không muốn lao động
nên thường trốn tránh lao động bằng nhiều thủ đoạn và bịa ra các lý
do khác nhau để xin nghỉ lao động. Vì vậy trên phương diện giáo dục
cải tạo cần tổ chức dạy nghề, tổ chức lao động cho phạm nhân, một
mặt tạo thói quen lao động, mặt khác giúp họ có nghề nghiệp biết
làm việc để khi hết hạn tù trở về gia đình, cộng đồng xã hội tự làm
ăn sinh sống, không tái phạm.
Công tác giáo dục phạm nhân, đơn vị đã triển khai thực hiện
tốt quy định của pháp luật và nội dung giáo dục của Tổng cục Thi
hành án Hình sự và Hỗ trợ tư pháp (THAHS&HTTP), những năm
qua đã tổ chức các lớp học đầu vào, đầu ra và tổ chức các lớp học
theo chương trình, kế hoạch chung của Tổng cục THAHS&HTTP và
Công an tỉnh hướng dẫn. Tuy nhiên, trong công tác giáo dục phạm
nhân việc áp dụng công tác vận động quần chúng còn những khó
khăn hạn chế như: địa bàn trại tiếp giáp nhiều nhà trọ, công ty, xí
nghiệp, với số đông công nhân, người ở trọ là những người nhập cư
đến từ những địa phương khác nên gây ra rất nhiều khó khăn cho
công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục họ kết hợp phòng chống
sự lôi kéo móc nối của phạm nhân với đối tượng bên ngoài (chủ yếu
là người thân hoặc đồng bọn đã ra trại) để thực hiện các hành vi vi
phạm (năm 2014 đã bắt được 5 vụ phạm nhân câu kết với người thân
cất giấu điện thoại di động, thuốc lá, thuốc tân dược vào khu vực lao
động để sử dụng). Mặt khác, trách nhiệm quản lý của chính quyền
địa phương đôi lúc còn lỏng lẻo, sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các
chủ nhà trọ và ban lãnh đạo của các công ty, xí nghiệp khiến cho tình
hình an ninh trật tự ở địa bàn xung quanh khu vực trại luôn phức tạp,
gây ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý, giáo dục phạm nhân; trại
chưa có thư viện, phòng đọc sách báo chuyên dụng. Việc tổ chức
giáo dục dạy nghề và định hướng nghề nghiệp cho phạm nhân chưa
triển khai thực hiện được do tính chất công việc của số phạm nhân
được giữ lại chủ yếu là phục vụ vệ sinh, sửa chữa và giúp việc trong
15
công tác quản lý can phạm. Trong công tác tổ chức ăn, mặc, ở, khám
chữa bệnh, thực hiện chế độ, chính sách cho phạm nhân được bố trí ở
trong 11 buồng giam tập thể; diện tích nằm trung bình của mỗi phạm
nhân là 1,5 m2.
2.2. Đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại
các trại giam khu vực Miền Trung
2.2.1. Những thành tựu đạt được
2.2.1.1. Nâng cao nhận thức pháp luật
2.2.1.2. Phạm nhân nhận thức được tội lỗi của mình gây ra
“Khi mới đến qua học tập tôi nhận thức pháp luật thi hành
án hình sự, 50 điều nội quy trại giam, 4 tiêu chuẩn thi đua chấp hành
án, 20 điều nếp sống văn hoá mới, 8 chỉ tiêu thi đua, cùng tất cả các
quy định đối với phạm nhân thể hiện đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước là nhân đạo là tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm
tội cải tạo để trở thành người công dân tốt. Tuy nhiên phương hướng
cải tạo của tôi là không cải tạo chỉ chờ pháp luật công minh xem xét
bản án oan sai để sớm trả lại công lý và công bằng cho tôi theo đúng
chính sách pháp luật của Nhà nước”. (Một Nam phạm nhân trong
cuộc khảo sát của tác giả).
2.2.1.3. Hình thành ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của phạm nhân
Ý thức trách nhiệm bắt đầu từ việc chăm lo sức khỏe, trau
dồi tri thức cho bản thân, cho đến thực hiện các hành vi của mình
theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội, rồi từ đó thực thi nghĩa vụ và
trách nhiệm một cách tự nguyện. Từ những việc tưởng chừng là đơn
giản như vậy nhưng đã góp phần xây dựng được ý thức trách nhiệm
với trại giam nói riêng và xã hội nói chung.
2.2.2. Một số vấn đề đang đặt ra trong công tác giáo dục pháp luật
tại các trại giam khu vực miền Trung
Thứ nhất, khoản 1 Điều 28 Luật Thi hành án hình sự quy
định “Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học
văn hoá, học nghề”. Theo tinh thần đó, việc học pháp luật (GDPL)
phải được đặt ngang hàng với giáo dục công dân. Tuy nhiên, theo
chương trình hiện hành thì nội dung GDPL cho PN chỉ là một chủ
đề thuộc nội dung giáo dục công dân.
Thứ hai, trong Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 3 tập
nêu trên, mỗi tập đều gồm 3 chủ đề là giáo dục đạo đức, GDPL và
giáo dục kỹ năng sống với số tiết giảng được phân bổ còn nhiều bất
cập.
Ngoài ra, trong tập II còn dành 4 bài (7 tiết) cho phần tự
chọn, linh hoạt thuộc nội dung giáo dục đạo đức và 4 bài (7 tiết) cho
phần tự chọn, linh hoạt thuộc nội dung GDPL. Trong 3 nhóm nội
dung ở 3 tập tài liệu nói trên, nội dung GDPL luôn được dành số
trang nhiều nhất. Ví dụ, tập II có 183 trang thì nội dung giáo dục đạo
16
đức gồm 53 trang, nội dung GDPL gồm 106 trang và nội dung giáo
dục kỹ năng sống gồm 24 trang; suy ra, nội dung GDPL chiếm
57.92% dung lượng trang của tập II. So sánh giữa số tiết dành cho
GDPL với số lượng trang dành cho nội dung GDPL thì dễ dàng nhận
thấy phần GDPL là quá nặng đối với cả người dạy và người học; nói
đúng hơn, số tiết dành cho mỗi phần đều ít so với nội dung cần
truyền đạt cho PN. Từ đây, khó tránh khỏi tình trạng dạy và học theo
kiểu hình thức, đối phó cho xong chương trình mà không chú trọng
tới chất lượng, hiệu quả học tập của PN.
Thứ ba, nhiều nội dung GDPL trong tập I liên quan đến
Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế TG, quyền và nghĩa vụ
của PN không còn phù hợp sau khi Luật Thi hành án hình sự và Nghị
định số 117/2011/NĐ-CP có hiệu lực thi hành. Trong khi chờ đợi
Tổng cục VIII tổ chức biên soạn lại Bộ tài liệu “Giáo dục công dân”
mới, nếu đội ngũ CBGDPL của các TG không chủ động, linh hoạt
trong cập nhật thông tin, không tự giác biên soạn lại bài giảng theo
các văn bản QPPL mới thì sẽ dẫn đến việc truyền đạt cho PN những
thông tin, kiến thức pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời.
Thứ tƣ, vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, một
số TG ở nước ta chưa tổ chức được các lớp GDPL cho số PN đang
chấp hành án phạt tù trong TG theo những nội dung GDPL quy định
tại Tập II “Giáo dục công dân”; nhiều PN, do đó, cũng chưa được
học tập những nội dung pháp luật này. Đây là sự thiệt thòi đối với
PN trong quá trình chấp hành án phạt tù; những TG đó, bởi vậy,
cũng chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao nếu không nói là chưa
thực hiện đúng quy định pháp luật về GDPL cho PN.
Thứ năm, tài liệu học tập pháp luật dành cho PN hiện cũng
rất ít, số lượng bản photocopy Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” trong
thư viện, tủ sách, của các TG hiện không đáng kể, đồng nghĩa với
việc nhiều PN không được phát tài liệu học tập, phải dùng chung tài
liệu học tập cùng PN khác.
Thứ sáu, đặc điểm tình hình PN trong các TG ở Việt Nam
cho thấy nổi lên sự khác biệt về cơ cấu các tội danh giữa các TG
đứng chân trên những khu vực, địa bàn khác nhau (chẳng hạn, tại các
trại giam ở khu vực miền núi phía Bắc Trung Bộ tỷ lệ phạm nhân
phạm các tội về ma túy chiếm tỷ lệ cao tới 63.13%); khác biệt về đặc
điểm nhân thân (phạm tội lần đầu, đã có tiền án...); khác biệt về cơ
cấu giới tính, lứa tuổi, thành phần dân tộc...
Tiểu kết chương 2
17
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
PHẠM NHÂNTẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN
TRUNG
3.1. Quan điểm, chính sách chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc về
công tác giáo dục pháp luật cho các phạm nhân tại trại giam khu
vực miền Trung
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vai
trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động của Nhà nước và xã hội;
bởi vậy, hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho các đối tượng xã hội
cụ thể nói riêng phải luôn bám sát quan điểm, đường lối và gắn liền
với sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta luôn quan
tâm, coi trọng GDPL cho các tầng lớp nhân dân, cho từng nhóm đối
tượng xã hội vì GDPL là biện pháp hữu hiệu để đưa thông tin, kiến
thức pháp luật đến với nhân dân nói chung, đội ngũ CBCC, viên
chức nói riêng; mặt khác, khẳng định Nhà nước ta luôn đảm bảo tôn
trọng quyền con người, quyền công dân, mọi người đếu bình đẳng
trước pháp luật.
Nghị quyết Đại hội VI đã xác định: “Coi trọng công tác giáo
dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp, từ
trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính
và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp
để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật”. Mục tiêu của công tác
GDPL được Đảng ta xác định: “Tăng cường giáo dục ý thức pháp
luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”. Chủ thể,
hình thức GDPL cũng đã được Đảng ta đề cập rất cụ thể trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII:
Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp
luật. Huy động các lực lượng đoàn thể, chính trị, xã hội, nghề
nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận
động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên, xây
dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà
nước và xã hội.
3.2. Các nguyên tắc cơ bản trong giáo dục pháp luật
Thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về giáo dục
pháp luật cho phạm nhân: đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải
chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở
thành người có ích cho xã hội; nếu họ đã có nhiều tiến bộ thì xét để
giảm việc chấp hành hình phạt
18
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc pháp chế
đòi hỏi mỗi phạm nhân phải tuyệt đối chấp hành các quy định pháp
luật về nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức và thời lượng
giáo dục pháp luật mà chủ thể giáo dục đã xây dựng và triển khai
dành riêng cho phạm nhân đang chấp hành án phạt tù trong các trại
giam; phải có tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao trong việc học
tập pháp luật để vừa vận dụng, phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp
hành án phạt tù, vừa chuẩn bị hành trang kiến thức pháp luật để tái
hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù.
Nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nghiêm khắc và đối xử
nhân đạo với phạm nhân: Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm
trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù,
giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Đối
với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại
giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội;
nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
Nguyên tắc phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan
hữu quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân
Công tác giáo dục pháp luật không chỉ là trách nhiệm của cá
nhân, cơ quan hay đơn vị chức năng, mà còn là trách nhiệm chung
của toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên: Đảng, Nhà nước,
các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, các tổ chức, cơ
quan, đoàn thể xã hội, nhà trường, gia đình và sự nỗ lực của mỗi cá
nhân. Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam đòi hỏi
phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan hữu
quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân
Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật cho phạm nhân với
giáo dục công dân, dạy văn hóa: phạm nhân phải học pháp luật, giáo
dục công dân và được học văn hoá, học nghề. Phạm nhân chưa biết
chữ phải học văn hoá để xoá mù chữ. Phạm nhân là người nước
ngoài được khuyến khích học tiếng Việt. Việc quán triệt quan điểm
kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật cho phạm nhân với giáo dục
công dân, dạy văn hóa và dạy nghề cho họ là nhằm bảo đảm tính
đồng bộ, hài hòa và hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho
phạm nhân trong các trại giam.
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giáo dục
pháp luật tại các trại giam
3.3.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy hướng
dẫn tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho phạm nhân
Nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho phạm
nhân đảm bảo hiện thực hóa mục đích của hình phạt, Nhà nước, các
cơ quan chức năng cần xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm
19
pháp luật, trong đó có các quy định cụ thể về chủ thể, nội dung, hình
thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm
về phổ biến, giáo dục pháp luật cần:
Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương
trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật;
Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật;
Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục
pháp luật;
Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật;
Thống kê, tổng kết về phổ biến, giáo dục pháp luật;
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm trong phổ biến, giáo dục pháp luật;
Hợp tác quốc tế về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Thứ hai, nội dung tuyên truyền, giáo dục cần đề cập đến nội
dung chính sau:
Những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước và của địa phương; những chủ trương, chính sách mới của
Đảng, Nhà nước liên quan đến phạm nhân và tái hòa nhập cộng đồng
cho người chấp hành xong án phạt tù;
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong
Hiến pháp, pháp luật; Quyền và nghĩa vụ của phạm nhân được quy
định trong Luật Thi hành án hình sự; Luật đặc xá và các văn bản
hướng dẫn thi hành khác;
Quy định về tội phạm, hình phạt, về hoãn, tạm đình chỉ,
miễn, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, về đặc xá, xóa án tích và
những nội dung cơ bản, cần thiết khác được quy định trong các Nghị
quyết của Quốc hội, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Thi hành án hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Thi
hành án dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Cư trú, Luật Giáo dục, Luật
Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy nội địa, Luật Dạy
nghề, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đặc xá, Luật Phòng, chống
ma túy, Luật Phòng, chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS);
Nội quy trại giam và các quy định về tiêu chuẩn thi đua chấp
hành án phạt tù, xếp loại chấp hành án phạt tù;
Những quy tắc cơ bản về nếp sống trật tự, văn minh trong
trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;
Các chuẩn mực đạo đức xã hội trong các mối quan hệ với
bản thân, với người khác, với công việc, với gia đình và cộng đồng;
Các kỹ năng sống cơ bản, cần thiết đối với phạm nhân trong
quá trình chấp hành án phạt tù và tái hòa nhập cộng đồng;
20
3.3.2. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra,
thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân
Kiểm tra, giám sát (KTGS) là một trong những chức năng
lãnh đạo chủ yếu của Đảng; đồng thời, là biện pháp cơ bản, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ,
đảng viên (CB,ĐV) quản lý trại giam.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với việc đổi
mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, công tác KTGS và
thi hành kỷ luật Đảng (THKLĐ) luôn được bổ sung chức năng,
nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu của công tác xây dựng Đảng và
rèn luyện đội ngũ CB,ĐV. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa
X) đã bổ sung hai nội dung quan trọng về công tác KTGS và
THKLĐ. Thứ nhất, cấp ủy và ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp được
giao nhiệm vụ giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban
Chấp hành Trung ương. Thứ hai, tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật
của chi bộ đối với đảng viên. Mục đích của công tác KTGS và
THKLĐ là nhằm xây dựng các tổ chức đảng và đội ngũ CB,ĐV
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị được giao. Trong đó, giám sát là việc làm thường
xuyên, liên tục để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các vi phạm
ngay từ lúc manh nha. Cùng với giám sát, kiểm tra là để làm rõ đúng,
sai, kết luận và xử lý các vi phạm; trên cơ sở đó, cấp ủy xem xét, thi
hành kỷ luật theo đúng nguyên tắc, quyền hạn và mức độ vi phạm,
bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, nâng cao tính
tiền phong, gương mẫu của CB,ĐV. Công tác KTGS và THKLĐ
luôn đi liền và hỗ trợ lẫn nhau, bám sát nhiệm vụ chính trị và công
tác xây dựng Đảng, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những sai
phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và CB,ĐV, giữ nghiêm kỷ
cương, kỷ luật của Đảng.
3.3.3. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, nguồn
nhân lực phục vụ công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân
trong các trại giam
Trong thời gian qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực của
pháp luật, hiệu quả quản lý của Nhà nước.Tuy nhiên, hiện nay công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trại giam đang bộc lộ một số tồn
tại, dẫn đến trình độ nhận thức pháp luật của một bộ phận cán bộ
quản lý trại giam còn hạn chế.
Nguyên nhân của tình trạng trên là: Nhận thức chung của xã
hội về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trại giam chưa tương
21
xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này; Hình thức
phổ biến, giáo dục pháp luật mặc dù đã được áp dụng khá đa dạng,
phong phú, song nhìn chung hiệu quả còn chưa cao, có một số hình
thức chưa phù hợp với đối tượng tuyên truyền, phổ biến và tình hình
thực tiễn; Đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
còn có mặt hạn chế và chưa đồng đều, đặc biệt là ở các trại giam; Cơ
chế phối hợp giữa các trại giam trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật còn chưa đồng bộ, kém hiệu quả. Kinh phí, cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
nhìn chung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác
này.
3.3.4. Nâng cao trình độ kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ sư
phạm của đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật cho
phạm nhân
Để bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp
luật cho phạm nhân trong các trại giam thì nhất thiết phải nâng cao
trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ
sư phạm cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục pháp luật
cho phạm nhân trong các trại giam.
Thời gian quan, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc
thực hiện các nhiệm vụ được giao của cán bộ làm công tác tuyên
truyền pháp luật tại các trại giam còn bộc lộ một số khó khăn, hạn
chế
3.3.5. Đổi mới giáo dục pháp luật cho phạm nhân
- Về nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân:
Ngoài những nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân có
tính chất “quy định cứng”, tùy theo tỷ lệ thống kê tội danh mà phạm
nhân đã phạm phải, phụ thuộc vào tình hình tội phạm tái phạm, tái
phạm nguy hiểm, cán bộ giáo dục pháp luật có thể chủ động đề xuất
với Ban Giám thị trại giam xây dựng những chuyên đề giáo dục pháp
luật có tính chất hẹp, chuyên sâu hơn để giảng dạy cho phạm nhân
nhằm ngăn ngừa diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm ở khu vực
có thể tác động tiêu cực tới phạm nhân sau khi họ ra trại, khiến họ có
thể tái phạm.
- Về hình thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân:
Hình thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam được sử dụng phổ biến, bắt buộc lâu nay là học tập tập trung
trên lớp. Ngoài việc tập trung tối đa cơ sở vật chất, nhân lực nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hình thức này, các trại giam cần
tiếp tục đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật khác phù hợp
với điều kiện của từng trại giam.
3.3.6. Xã hội hóa công tác tuyên truyền pháp luật
22
Xã hội hóa công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân:Công tác
giáo dục cải tạo, hướng nghiệp, đào tạo nghề cho phạmnhân đã có
nhiều đổi mới, cải cách mang ý nghĩa nhân văn, tạo môi trường
thuận lợi để phạm nhân học tập, lao động, rèn luyện, cải tạo tiến bộ.
Đã thực hiện chủ trương xã hội hóa một bước công tác giáo dục, cải
tạo phạm nhân.
3.4. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo
dục pháp luật tại các trại giam khu vực miền Trung
3.4.1. Cần tăng cường chương trình hỗ trợ pháp lý
Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng (C86) Bộ Công
an có nhiệm vụ giáo dục phổ biến pháp luật cho phạm nhân, đây là
nội dung rất quan trọng trong công tác giáo dục cải tạo phạm nhân.
Nội dung này cũng đã được quy định trong các văn bản pháp luật và
văn bản hướng dẫn thi hành. Đặc biệt, khi phạm nhân sắp chấp hành
xong hình phạt tù, họ được học chương trình đầu ra do trại giam tổ
chức, gồm các nội dung: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành
xong án phạt tù; giới thiệu một số thủ tục hành chính, văn bản pháp
luật có những điều luật liên quan đến các hoạt động thường ngày
như:
Luật Giao thông, Luật Cư trú, thông tin về HIV/AIDS và
phòng chống lây nhiễm; tư vấn hỗ trợ kỹ năng sống, kỹ năng tìm
việc làm Một số trại giam trong chương trình giáo dục tại lớp học
đầu ra còn mời cả người hoàn lương tiến bộ đến trao đổi kinh nghiệm
để tái hòa nhập cộng đồng.
Thời gian qua, Bộ Công an cũng đã xây dựng trang web giáo
dục hướng thiện và hòa nhập cộng đồng, trong đó có chuyên mục tư
vấn trao đổi, chủ yếu là tư vấn pháp luật nhằm giúp người mãn hạn
tù có kiến thức pháp luật để vận dụng trong cuộc sống. Người chấp
hành xong án phạt tù được tư vấn pháp luật qua email, trực tiếp qua
điện thoại
Các trại giam đã tích cực trong thực hiện công tác phổ biến,
giáo dục tư vấn pháp lý với nhiều biện pháp, hình thức sáng tạo khác
nhau như: Tổ chức lớp học giáo dục công dân; tuyên truyền chính
sách pháp luật qua hệ thống phát thanh của trại giam; thi tìm hiểu
Hiến pháp, pháp luật
Trong các trại giam, cán bộ giáo dục, cán bộ quản giáo là lực
lượng nòng cốt thực hiện công tác giáo dục, tư vấn pháp luật cho
phạm nhân; họ là người nắm rõ hoàn cảnh, lai lịch, tội trạng của
phạm nhân vì vậy công tác giáo dục phổ biến tư vấn pháp luật cho
kết quả tốt, tác động hiệu quả đến nhận thức của phạm nhân.
Bộ Công an đã có chương trình phối hợp với Hội Luật gia
Việt Nam về việc phổ biến, giáo dục, tư vấn pháp luật, hỗ trợ cho
phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù. Khi thấy cần thiết, các trại
23
giam có thể mời cán bộ hội luật gia các tỉnh, thành phố thực hiện
việc tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, giải đáp những vấn đề
phạm nhân quan tâm, giúp họ có nhận thức đầy đủ khi tái hòa nhập
cộng đồng.
Từ thực tiễn các đơn vị trại giam, Bộ Công an cũng đưa ra
những kiến nghị, đó là: đối tượng giáo dục, tư vấn ở đây là phạm
nhân đang chấp hành hình phạt tù trong các cơ sở giam giữ, họ có
nhiều điểm khác nhau như trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật, độ
tuổi, giới tính, đặc điểm văn hóa vùng miền và nhất là tính chất, mức
độ phạm tội cũng khác nhau Vì vậy, phải nghiên cứu từng con
người cụ thể mới có biện pháp tư vấn, giáo dục phù hợp.
3.4.2. Gắn kết việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và pháp luật
với đào tạo nghề
Gắn kết việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và pháp luật là
một yêu cầu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Việc gắn kết, một
mặt không chỉ đảm bảo quán triệt hiệu quả phương pháp luận trong
giáo dục, nghiên cứu nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc lịch sử cụ thể
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi phải
đảm bảo, chú ý đến tính đặc thù trong giáo dục người phạm tội.
Từ đó hình thành thái độ học tập, nghiên cứu đúng đắn, đạt
hiệu quả cao trong quá trình cải tạo.
Gắn kết không chỉ được xem là một yêu cầu, mà còn được
xem là một biện pháp, phương pháp giảng dạy và học tập cả với cán
bộ trại giam và phạm nhân nhằm khơi tạo hứng thú, động lực trong
quá trình cải tạo vốn đã, đang còn ý kiến cho rằng chương trình giáo
dục pháp luật này thường rất khô khan, khó, khổ.
Để có sự gắn kết phù hợp, trước hết cần hiểu thế nào là gắn
kết. Theo quan điểm của tác giả, gắn kết có thể được hiểu, xem xét
dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong bài viết này, tác giả
xem xét gắn kết như một liên kết, liên hệ và phương pháp thực hiện.
Theo đó, trọng tâm của bài viết là chỉ ra sự liên kết hay liên hệ quan
điểm của Triết học Mác – Lênin về bản chất con người với Điều 28,
Điều 29, Điều 36 của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và biện
pháp thực hiện.
Sự gắn kết này cần được thực hiện qua hai bước:
Một là, trình bày và phân tích quan điểm của Triết học Mác
– Lênin về bản chất con người.
Hai là, liên hệ với quy định của pháp luật về việc giáo dục,
đào tạo nghề cho phạm nhân để thấy mối tương quan giữa hai vấn đề
triết học và luật pháp. Hay nói cách khác, bài viết xem xét một số
điều luật của Luật Thi hành án hình sự từ góc nhìn của Triết học Mác
– Lênin về bản chất con người.
24
Cụ thể, Điều 28 của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy
định về chế độ học tập, học nghề và được thông tin của phạm nhân
(1. Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học
văn hóa, học nghề. Phạm nhân chưa biết chữ phải học văn hóa để
xóa mù chữ. Phạm nhân là người nước ngoài được khuyến khích học
tiếng Việt. Phạm nhân được bố trí ngày thứ bảy để học tập, học nghề
và được nghỉ ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của pháp luật. Căn
cứ yêu cầu quản lý, giáo dục phạm nhân và thời hạn chấp hành án,
trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện tổ chức dạy học cho phạm nhân theo chương trình, nội dung
do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Quốc
phòng quy định. 2. Phạm nhân được cung cấp thông tin về thời sự,
chính sách, pháp luật của Nhà nước).
Điều 29 quy định về chế độ lao động của phạm nhân (1.
Phạm nhân được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và
đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng; được nghỉ
lao động các ngày thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của
pháp luật. Thời gian phạm nhân lao động và học tập, học nghề không
quá 08 giờ trong 01 ngày. Trường hợp đột xuất hoặc thời vụ, giám
thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng không
được quá 02 giờ trong 01 ngày. Trường hợp phạm nhân lao động
thêm giờ hoặc lao động trong ngày thứ bảy, chủ nhật thì được nghỉ
bù hoặc bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật. 2. Phạm nhân nữ được bố trí
làm những công việc phù hợp với giới tính, sức khỏe và độ tuổi;
không làm công việc nặng nhọc, độc hại thuộc danh mục cấm sử
dụng lao động nữ. 3. Phạm nhân mắc bệnh hoặc có nhược điểm về
thể chất, tinh thần thì tuỳ mức độ, tính chất của bệnh tật và trên cơ sở
chỉ định của y tế trại giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời
gian lao động).
Điều 36 quy định về khen thưởng phạm nhân (1. Trong thời
gian chấp hành ánphạt tù, phạm nhân chấp hành tốt nội quy, quy chế
trại giam, có thành tích trong lao động hoặc lập công thì được khen
thưởng theo một hoặc nhiều hình thức sau: a) Biểu dương; b)
Thưởng tiền hoặc hiện vật; c) Tăng số lần được liên lạc bằng điện
thoại, số lần gặp thân nhân, số lần và số lượng quà được nhận. 2.
Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, giám
thị trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, thủ trưởng cơ quan thi hành
án hình sự công an cấp tỉnh, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân khu quyết định khen thưởng phạm nhân. Việc khen thưởng
phải bằng văn bản, được lưu vào hồ sơ phạm nhân. Phạm nhân được
khen thưởng thì được ưu tiên đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án
phạt tù và đề nghị xét đặc xá theo quy định của pháp luật).
25
Ở góc độ giải pháp này, tác giả chưa phân tích ý nghĩa, tác
dụng của các điều luật trên cũng như những thành công và hạn chế
của công tác giáo dục và đào tạo nghề cho phạm nhân, mà chủ yếu là
tập trung chỉ rõ sự gắn kết phù hợp quan điểm của Triết học Mác –
Lênin về bản chất con người với một số điều của Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 cũng như mối tương quan giữa hai vấn đề.
Tóm lại, giảng dạy quan điểm của Triết học Mác – Lênin về
bản chất con người cần chú trọng việc gắn kết nội dung với các điều
luật trên của Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Sự gắn kết này có
nhiều ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn to lớn. Một trong những ý
nghĩa quan trọng của sự gắn kết trên đây là giúp đảm bảo quán triệt
tốt phương pháp luận triết học: đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
3.4.3. Xây dựng nội dung cụ thể để thực hiện
- Thứ nhất, phân loại tập trung đối tượng được giáo dục:
- Thứ hai, về nội dung, chương trình giáo dục chính, bao
gồm:
a) Giáo dục pháp luật: Các quy định về xóa án tích, về quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định của pháp luật về cư trú,
về bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tội
phạm và các tệ nạn xã hội;
b) Phổ biến một số chủ trương, chính sách mới của Đảng,
Nhà nước và các thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng;
c) Giáo dục về chính sách đại đoàn kết dân tộc; về đạo đức,
lối sống, nghị lực lập thân, lập nghiệp, nếp sống văn hóa, ý thức chấp
hành các quy tắc đạo đức xã hội; trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình và xã hội;
d) Giáo dục về hòa nhập cộng đồng; kỹ năng tìm kiếm việc
làm, ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, thách thức của cuộc
sống, từ chối việc rủ rê, lôi kéo của các đối tượng xấu và phòng tránh
các tệ nạn xã hội.
- Thứ ba, về phương pháp, hình thức giáo dục:
- Thứ tư, về tài liệu giáo dục:
- Thứ năm, về cán bộ giáo dục:
Tiểu kết chương 3
26
KẾT LUẬN
Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là
hoạt động có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch được các trại
giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù và
bằng những hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp cho phạm nhân
những kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể liên quan đến quá trình
chấp hành án phạt tù trong trại giam nói riêng; làm hình thành ở
phạm nhân hiểu biết pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật
và hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý giam
giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; giúp họ có khả năng hòa nhập cộng
đồng, biết sống và làm việc theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp
hành án phạt tù.
Trong giai đoạn hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật có xu
hướng gia tăng, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp thì việc
giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam nói chung, trại
giam Miền Trung nói riêng càng có vai trò đặc biệt quan trọng: giúp
cho phạm nhân nâng cao pháp luật; nhận thức được tội lỗi của mình
gây ra; ý thức, trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân.
Cũng như hoạt động giáo dục pháp luật cho các đối tượng xã
hội khác, hoạt động giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam được cấu thành từ các yếu tố cơ bản: mục đích, mục tiêu, chủ
thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp
luật. Ngoài các đặc điểm chung, mỗi yếu tố cấu thành giáo dục pháp
luật cho phạm nhân đều mang những nét đặc thù xuất phát từ đối
tượng đặc thù là phạm nhân và môi trường đặc thù là trại giam.
Quá trình giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại
giam chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau: yếu tố
trực tiếp (đối tượng giáo dục, chủ thể giáo dục); yếu tố gián tiếp (nhu
cầu văn hoá, tinh thần, chính sách và tổ chức thực hiện chính sách
của Nhà nước đối với phạm nhân).
Qua khảo sát, đánh giá cho thấy điều kiện địa lý, cơ sở vật
chất của trại giam có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục
pháp luật cho phạm nhân. Cơ cấu tình hình phạm nhân trong các trại
giam bao gồm diễn biến tăng, giảm số lượng phạm nhân, cơ cấu lứa
tuổi, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thành phần dân tộc, cơ cấu trình độ
văn hóa, cơ cấu tội danh... cũng là những nhân tố khác nhau dẫn
phạm nhân đến việc thực hiện hành vi phạm tội khi còn ở ngoài xã
hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_giao_duc_phap_luat_cho_pham_nhan_o_cac_trai.pdf