Thời gian qua, ở tỉnh Thái Bình đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các văn bản này là công cụ hữu hiệu để các cấp, các
ngành thực hiện việc quản lý nhà nước, có tác động trực tiếp đến nhiều mặt của đời
sống xã hội. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng soạn thảo văn bản cũng như hiệu quả
việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là hết sức quan trọng.
Theo quy định của các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ bản
đầu tiên đến văn bản Luật năm 2015 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành, việc
kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những văn bản trái pháp luật ngay sau
khi được ban hành được thực hiện bằng hai phương thức chính là: tự kiểm tra văn
bản và kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật; sự quan tâm của các cấp, các ngành đối với công tác kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật; năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; yếu tố tài chính; ứng dụng công nghệ thông
tin; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Trong nội dung lý luận ở chương 1 của luận văn, tác giả đã hệ thống hóa các
khái niệm mang tính mấu chốt như: văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật, các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật.
Trên cơ sở lý luận của chương 1, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Thái Bình. Quá trình kiểm tra,
xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã được các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh
quan tâm tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả tích cực. Thông qua kiểm
tra văn bản đã phát hiện ra các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, từ đó đã kịp thời
đưa ra các giải pháp xử lý để bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các văn bản quy phạm
pháp luật.
Bằng việc nghiên cứu về lý luận cũng như cơ sở thực tế thực hiện công tác
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Thái Bình, một số phương
hướng, giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác
này. Theo quan điểm của tác giả, không có một giải pháp nào là tối ưu, mà việc
tăng cường kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể được nâng lên
khi chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp. Có như vậy, công tác ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở tỉnh Thái Bình nói riêng và
trong cả nước nói chung sẽ được cải thiện, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho các quan hệ pháp luật, nhất là các
quan hệ kinh tế trong thời gian này.
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 574 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
1.2.5.2. Ý nghĩa của kiểm tra, xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa
phương
Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật góp phần đảm bảo tính hợp
hiến, tính hợp pháp, tính hợp lý, thống nhất của hệ thống pháp luật; góp phần nâng
cao chất lượng quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo
đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật; đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của
chính quyền địa phƣơng
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật, đó là: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kiểm tra và
xử lý văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương; sự quan tâm của
các cấp, các ngành đối với công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật;
năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật; yếu tố tài chính, việc ứng dụng công nghệ thông tin.
7
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Văn bản QPPL của chính quyền địa phương là công cụ hữu hiệu giúp cho
các cơ quan nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước được
thuận lợi và hiệu quả.
Kiểm tra văn bản QPPL của chính quyền địa phương là việc xem xét, đánh
giá, kết luận về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL
của chính quyền địa phương được kiểm tra. Hoạt động kiểm tra văn bản QPPL của
chính quyền địa phương có các hình thức: tự kiểm tra, kiểm tra theo thẩm quyền,
kiểm tra khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát
hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, kiểm tra đột xuất.
Xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương là việc các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền xem xét, đánh giá, quyết định các hình thức xử lý đối với văn
bản trái pháp luật theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật
quy định.
Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương là việc việc
xem xét, đánh giá, kết luận về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của
văn bản QPPL được kiểm tra từ đó đưa hình thức xử lý đối với văn bản QPPL trái
pháp luật và cơ quan, cá nhân ban hành văn bản trái pháp luật theo đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định.
Hoạt động xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương có các hình
thức: đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản, bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ văn bản, đính chính văn bản và xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người
đã ban hành văn bản trái pháp luật.
Kiểm tra, xử lý văn bản là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý
nhà nước, gớp phần phát hiện, loại bỏ những văn bản trái pháp luật, từ đó đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; đồng thời nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vì thế, khi
tiến hành kiểm tra, xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương cần tuân thủ
theo đúng các nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Chương 1 đã
tổng quan về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, từ đó là căn cứ, cơ sở cho việc xem
xét, đánh giá thực trạng kiểm tra, xử lý văn bản QPPL ở tỉnh Thái Bình.
8
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QPPL CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở TỈNH THÁI BÌNH
2.1. Khái quát những vấn đề tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình và
tổ chức bộ máy thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản QPPL ở tỉnh Thái Bình
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình có
liên quan đến kiểm tra và xử lý văn bản QPPL
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam.
Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông
nam, cách thành phố Hải Phòng 70 km về phía tây nam.
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội những năm gần đây trên địa bàn tỉnh có
nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu..
Tỉnh Thái Bình có 286 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 267 xã.
Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc là: thành phố Thái
Bình, huyện Hưng Hà, huyện Đông Hưng, huyện Thái Thụy, huyện Tiền Hải,
huyện Quỳnh Phụ, huyện Kiến Xương, huyện Vũ Thư.
Dân số của tỉnh là 1.786.000 người với mật độ dân số 1196,7 người/ km²
(năm 2016).
2.1.2. Khái quát về tổ chức bộ máy thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL ở tỉnh Thái Bình.
* Sở Tƣ pháp tỉnh Thái Bình.
Hiện nay, Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình gồm 08 phòng chuyên môn, nghiệp vụ
(xem Bảng 2.1). Trong đó, phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật là đơn vị được giao tham mưu cho Lãnh đạo Sở giúp Ủy ban nhân dân tỉnh về
công tác xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
Bảng 2.1. Số lƣợng công chức các phòng, ban thuộc Sở Tƣ pháp tỉnh
Thái Bình tính đến tháng 3/2017.
STT TÊN ĐƠN VỊ SL (NGƢỜI)
01 Văn phòng Sở 08
02 Thanh tra Sở 04
03 Phòng Kiểm soát TTHC 03
04 Phòng Phổ biến giáo dục pháp luật 04
05 Phòng Hành chính tư pháp 04
06 Phòng Xây dựng và Kiểm tra văn bản QPPL 05
07 Phòng QLXL vi phạm HC và theo dõi thi hành pháp luật 04
08 Phòng Bổ trợ Tư pháp 03
Tổng cộng 35
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình
9
* Phòng Tư pháp các huyện, thành phố:
Phòng Tư pháp là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực
hiện việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Toàn tỉnh hiện nay có 08 phòng Tư pháp với 30 công chức, trong đó có 15
nam và 15 nữ..
- Ở cấp xã:
Cán bộ Tư pháp – Hộ tịch ở các xã, phường, thị trấn chủ yếu kiêm nhiệm
công tác kiểm tra văn bản với tổng số 286 người. Trình độ chuyên môn: Đại học:
64 người, Cao đẳng: 35 người, Trung cấp: 187 người.
- Ban Pháp chế HĐND tỉnh và HĐND cấp huyện: bố trí từ 01-02 cán bộ
thực hiện công tác tự kiểm tra văn bản do cấp mình ban hành.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác văn bản ở cơ quan khác: Văn phòng các Sở
thuộc UBND tỉnh bố trí 01 cán bộ kiêm nhiệm công tác tự kiểm tra văn bản; Văn
phòng HĐND và UBND tỉnh có 02 người, Văn phòng HĐND và UBND cấp
huyện có 14 người, Văn phòng HĐND và UBND cấp xã có 286 người.
Về cơ bản, đội ngũ công chức làm công tác kiểm tra văn bản đã được đào
tạo, bồi dưỡng đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Việc xây dựng đội ngũ cộng tác viên còn hạn chế do kinh phí cho công tác
này còn hạn hẹp và việc kiểm tra đôi lúc không được tiến hành thường xuyên.
Công tác tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL đã
được thực hiện song chưa được tổ chức thường xuyên và hàng năm theo kế hoạch.
Nhìn chung, những năm qua, UBND các cấp trên địa bàn tỉnh đã chú trọng,
xây dựng và phát triển đội ngũ công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản.
2.2. Số lƣợng văn bản QPPL đã ban hành và kết quả kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL của chính quyền địa phƣơng ở tỉnh Thái Bình
2.2.1. Số lượng văn bản QPPL đã ban hành của chính quyền địa phương
ở tỉnh Thái Bình
Trong những năm qua, công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh
Thái Bình luôn được các cấp, các ngành quan tâm, chú trọng, đảm bảo sự tuân thủ
thống nhất với các quy định của cấp trên, là công cụ hữu hiệu cho hoạt động quản
lý nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác văn bản
đang được củng cố và kiện toàn ở các cấp; công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức được chú trọng
và thực hiện hàng năm. Số lượng văn bản được ban hành tương đối lớn, nội dung
trải đều các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định trên địa bàn tỉnh làm cho hệ thống pháp
luật ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Kết quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai
đoạn 2011 – 2016 như sau:
10
Bảng 2.2. Số lƣợng văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành ở tỉnh Thái
Bình giai đoạn 2011 – 2016.
ĐVT: văn bản
Năm ban
hành
Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã
Nghị
quyết
Quyết
định
Chỉ thị Nghị
quyết
Quyết
định
Chỉ thị Nghị
quyết
Quyết
định
Chỉ thị
2011 11 15 0 12 05 0 245 224 23
2012 17 19 02 11 07 0 387 154 31
2013 12 22 0 13 04 0 329 797 73
2014 24 30 01 13 06 02 589 513 44
2015 18 13 0 19 06 0 417 162 22
2016 20 21 0 13 5 0 490 243 0
Tổng vộng 102 120 03 81 33 02 2.457 2.093 193
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình.
Nhìn chung, quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật ở tỉnh Thái Bình được thực hiện khá nghiêm túc từ khâu lập chương trình xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật; bổ sung chương trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật; phân công tổ chức soạn thảo văn bản; nghiên cứu, đánh giá thực
trạng các quan hệ xã hội cần ban hành văn bản để điều chỉnh; sưu tầm, đối chiếu
các văn bản, tài liệu có liên quan; lấy ý kiến của các cấp, các ngành và đối tượng
chịu tác động trực tiếp của văn bản; giải trình, tiếp thu ý kiến đóng góp; thẩm định;
tiếp thu ý kiến thẩm định; trình ký ban hành; đăng Công báo, niêm yết công khai,
đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng và gửi đến cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra theo quy định. Việc tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật đều được tuân thủ khá chặt chẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc tuân thủ quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế như:
- Ở cấp tỉnh:
Một số Sở, ngành chưa chủ động đề xuất danh mục các văn bản QPPL cần
ban hành để tổng hợp vào Chương trình xây dựng văn bản QPPL trong năm, chưa
chủ động xây dựng dự thảo văn bản theo Chương trình xây dựng văn bản QPPL,
chưa tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục xây dựng văn bản như chưa tổ chức khảo sát,
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội trước khi xây dựng dự thảo; việc lấy ý kiến góp
ý vào dự thảo chưa đảm bảo thời gian theo quy định, đối tượng lấy ý kiến hẹp..
- Ở cấp huyện:
+ Một số văn bản dự thảo chưa tổ chức lấy ý kiến góp ý của các cơ quan,
đơn vị liên quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản hoặc có lấy ý
kiến nhưng đối tượng lấy ý kiến hẹp, thời gian lấy ý kiến không đảm bảo.
+ Một số văn bản sau khi ban hành không được niêm yết công khai, không
gửi đầy đủ cho Sở Tư pháp để kiểm tra theo quy định của pháp luật.
11
+ Công tác lưu trữ văn bản sau khi ban hành của một số huyện còn hạn chế
như: lưu trữ không đầy đủ, sắp xếp văn bản không theo thứ tự ban hành nên khó
tìm kiếm, tra cứu văn bản.
- Ở cấp xã:
Văn bản QPPL do HĐND, UBND cấp xã ban hành nội dung còn sơ sài,
chưa sát với thực tế địa phương, còn nhiều sai sót về thể thức và kỹ thuật trình bày.
Việc lấy ý kiến tham gia vào dự thảo văn bản QPPL và việc tiếp thu ý kiến, chỉnh
lý dự thảo văn bản chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ, mang tính
hình thức.
Từ thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật như trên đòi hỏi cần
phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật để nâng
cao chất lượng soạn thảo, ban hành văn bản cũng như nhằm đảm bảo các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân.
2.2.2. Kết quả kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa
phương ở tỉnh Thái Bình
2.2.2.1. Về tổ chức thực hiện
Hàng năm, UBND tỉnh cũng ban hành các Kế hoạch thực hiện công tác kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh để thực hiện, đồng thời
hướng dẫn, yêu cầu các huyện, thành phố xây dựng các Kế hoạch kiểm tra văn bản
quy phạm pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương.
Ủy ban nhân dân các cấp cũng chú trọng chỉ đạo việc xây dựng, củng cố,
kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc bố trí biên chế thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật như hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tế đặt ra, đặc biệt là cấp huyện.
Hàng năm, kinh phí thực hiện công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật đều được bố trí cho các Sở, ban, ngành và các huyện, thành phố song mức
chi còn thấp, chưa đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
2.2.2.2. Tình hình kiểm tra văn bản QPPL của chính quyền địa phương
* Tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
Từ năm 2011 - 2016, cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn tỉnh đã tiến hành tự kiểm
tra 51.709 văn bản, trong đó có 335 văn bản quy phạm pháp luật (xem Bảng 2.3). Qua
kiểm tra đã phát hiện 61 văn bản QPPL trái pháp luật với những lỗi cơ bản như sau: sai
sót về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản (38 văn bản); ghi số không đúng quy định (24
văn bản); chưa phù hợp với quy định của cấp trên như: (01 văn bản).
Bảng 2.3. Số lƣợng văn bản quy phạm pháp luật tự kiểm tra ở tỉnh Thái
Bình từ năm 2011 – 2016.
ĐVT: văn bản
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Số lƣợng 43 56 51 74 52 59
Tổng cộng 335 văn bản
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình.
12
Ở cấp xã, công tác tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được quan tâm
thực hiện, từ năm 2016 đến nay đã tự kiểm tra 63.921 văn bản, trong đó có 4.542
văn bản quy phạm pháp luật. Kết quả kiểm tra phát hiện 301 văn bản sai sót về thể
thức, kỹ thuật trình bày văn bản, ngoài ra không phát hiện văn bản nào vi phạm
pháp luật nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn.
* Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền
Từ năm 2011 đến nay, Sở Tư pháp, phòng Tư pháp thành phố và các huyện
đã tiếp nhận 62.840 văn bản để kiểm tra, trong đó có 2.920 văn bản quy phạm pháp
luật (xem Bảng 2.4).
Bảng 2.4. Số lƣợng văn bản quy phạm pháp luật đƣợc Sở Tƣ pháp,
Phòng Tƣ pháp huyện, thành phố kiểm tra theo thẩm quyền ở tỉnh Thái Bình
từ năm 2011 – 2016.
ĐVT: văn bản
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Số lƣợng 128 80 975 414 607 716
Tổng cộng 2.920 văn bản
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình.
Qua kiểm tra, đã phát hiện 413 văn bản trái pháp luật, có thể tổng hợp những
vi phạm trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:
- Về thể thức văn bản: Một số địa phương còn chưa phân biệt được văn bản
quy phạm pháp luật với văn bản hành chính thông thường nên còn nhầm lẫn trong
việc đánh số, ký hiệu văn bản dẫn đến sai về hình thức văn bản (một số Nghị quyết
là văn bản quy phạm pháp luật lại ban hành dưới hình thức văn bản áp dụng pháp luật).
Ngoài ra, còn một số văn bản sai sót về chính tả, không đúng văn phong
pháp luật làm giảm tính trang trọng và rõ rang của văn bản.
- Về nội dung văn bản quy phạm pháp luật: Ở một số xã do trình độ,
năng lực soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế nên hầu hết
các văn bản được ban hành áp dụng pháp luật, chỉ có số ít là Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân thì hầu như nhắc lại nội dung đã được nêu ra ở Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp trên.
* Tình hình xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Việc xử lý văn bản trái pháp luật được thực hiện nghiêm túc theo quy định
của pháp luật. Đối với các văn bản sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản
hoặc căn cứ pháp lý để ban hành mà không gây ảnh hưởng đến nội dung của văn
bản thì cơ quan kiểm tra trao đổi cụ thể để cơ quan ban hành văn bản sửa đổi, rút
kinh nghiệm trong quá trình soạn thảo văn bản.
Đối với văn bản sai về nội dung hoặc ban hành không đúng thẩm quyền thì
cơ quan kiểm tra có thông báo yêu cầu cơ quan ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý
theo quy định hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định
của pháp luật.
13
Các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật cơ bản được xử
lý kịp thời nên không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân; không gây tình trạng mất ổn định tình hình kinh tế - xã
hội cũng như sự phát triển chung của tỉnh.
Nhìn chung, tình hình xử lý văn bản trái pháp luật ở tỉnh Thái Bình thời gian
qua khá khẩn trương và tích cực; được sự quan tâm của các cấp, các ngành; sự theo
dõi và đồng tình của nhân dân song thực tế việc xử lý trách nhiệm của cá nhân, tập
thể liên quan trong việc ban hành văn bản trái pháp luật vẫn chưa quyết liệt và triệt
để. Hình thức xử lý chủ yếu vẫn chỉ là kiểm điểm cá nhân; yêu cầu sửa đổi, bổ
sung nội dung, hình thức văn bản cho phù hợp với quy định của pháp luật hoặc bãi
bỏ, ban hành thay thế mới văn bản..
2.2.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kiểm tra văn bản QPPL
của chính quyền địa phương
Đội ngũ cán bộ, công chức về cơ bản đều biết áp dụng công nghệ thông tin
vào thực hiện công việc chuyên môn song vẫn còn một số cán bộ, công chức (chủ
yếu là cấp xã) đôi khi vẫn lúng túng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn do đó hiệu quả công việc đôi khi bị ảnh hưởng.
2.2.2.4. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
Hàng năm, ngân sách của tỉnh chi cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL được áp dụng theo Thông tư số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17 tháng
08 năm 2011 Quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật. Tuy nhiên, kinh phí chi cho kiểm tra, xử lý văn bản ở các cấp, các ngành còn
hết sức hạn chế.
2.3. Đánh giá chung về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính quyền
địa phƣơng ở tỉnh Thái Bình.
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Có thể kể đến những kết quả đáng ghi nhận trong công tác kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh như sau:
Một là, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đạt được
những hiệu quả tích cực, chất lượng ban hành văn bản QPPL được nâng lên.
Số lượng văn bản được kiểm tra dần tăng lên (xem Bảng 2.5). Trước đây, do
nhận thức về vai trò của việc kiểm tra văn bản chưa được chú trọng nên các cơ
quan ban hành văn bản sau khi soạn thảo, ban hành văn bản đã không chú ý đến
việc gửi văn bản đến các cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra theo quy định. Qua
công tác kiểm tra theo địa bàn và qua các cuộc giao ban, tập huấn, tuyên truyền
thông qua các Hội nghị, nhận thức của cán bộ, công chức về công tác này được
nâng lên. Vì vậy những năm gần đây, các cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản đã
tích cực, chủ động hơn trong việc gửi văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để kiểm
tra cũng như chú trọng hơn đến công tác tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
do mình ban hành.
14
Bảng 2.5. Số lƣợng văn bản quy phạm pháp luật đƣợc kiểm tra ở tỉnh Thái
Bình từ năm 2011 - 2016.
ĐVT: văn bản
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Số
lƣợng
640 677 2.152 1.582 1.238 1.508
Nguồn: Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình
Không chỉ số lượng văn bản quy phạm pháp luật tăng lên mà việc phát hiện, xử
lý văn bản trái pháp luật cũng đạt được nhiều kết quả: đã phát hiện nhiều văn bản trái
pháp luật do nhiều cơ quan, đơn vị ban hành, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều
văn bản có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý được phát hiện và xử lý kịp thời.
Theo báo cáo của Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình, từ năm 2011 đến nay số lượng
văn bản trái pháp luật được phát hiện là 775 văn bản quy phạm pháp luật trên tổng
số 7.797 văn bản quy phạm pháp luật được kiểm tra. Tất cả các văn bản trái pháp
luật đều được xử lý đúng quy định của pháp luật.
Hai là, phương thức kiểm tra được áp dụng linh hoạt, quy trình kiểm tra
được tuân thủ ngày càng chặt chẽ và đúng quy định của pháp luật.
Các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền kiểm tra văn bản đã chủ động và linh hoạt
trong việc áp dụng các phương thức kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đó là
phương thức tự kiểm tra văn bản và phương thức kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
Thời gian qua, khi kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, đội ngũ cán bộ, công
chức đã tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc cũng như quy trình kiểm tra, xử lý văn
bản. Trong quá trình kiểm tra mà phát hiện văn bản trái pháp luật, cơ quan kiểm tra
văn bản đã trao đổi cụ thể với cơ quan ban hành văn bản và cơ quan có thẩm quyền
để xử lý văn bản. Các cơ quan có văn bản trái pháp luật đều tiếp thu và nghiêm túc
xử lý những sai phạm tồn tại trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Để đạt được những kết quả trên là do những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, hệ thống pháp luật ngày càng cụ thể, rõ ràng và hoàn thiện hơn, là
cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.
Hai là, sự quan tâm của các cấp, các ngành đối với kiểm tra, xử lý văn bản
Ba là, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL ngày càng được nâng cao về năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ
Bốn là, các điều kiện phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản ngày
càng được đảm bảo.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận song trên thực tế công tác
kiểm tra, xử lý văn bản QPPL vẫn còn tồn tại một số hạn chế, đó là:
Một là, hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL chưa được tiến hành
thường xuyên và kịp thời. Số lượng văn bản được kiểm tra còn hạn chế.
Hai là, nội dung kiểm tra văn bản chưa được tiến hành đầy đủ.
Ba là, phương thức kiểm tra chưa được áp dụng hiệu quả trên thực tế.
Bốn là, công tác báo cáo chưa đúng quy định.
15
Năm là, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác kiểm tra văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
Sáu là, việc xử lý đối với các văn bản trái pháp luật của các cơ quan, người
có thẩm quyền chưa kiên quyết, triệt để.
Bảy là, việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các văn bản quy phạm pháp
luật về công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL chưa được thường xuyên; nhận thức
của các cấp, các ngành về ý nghĩa, vai trò cũng như quy trình thực hiện của công
tác này chưa đầy đủ, chính xác.
Những hạn chế nêu trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số
nguyên nhân quan trọng sau:
Thứ nhất, về nhận thức của các cấp, các ngành về kiểm tra, xử lý văn bản
còn chưa đúng đắn và đầy đủ.
Thứ hai, quy định của pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
còn chưa rõ ràng, đầy đủ.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật còn thiếu, năng lực, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ tư, việc tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng cho cán bộ, công chức về
kiểm tra, xử lý văn bản còn mang tính hình thức.
Thứ năm, sự phối hợp giữa các cơ quan ban hành văn bản với cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền kiểm tra văn bản còn lỏng lẻo.
Thứ sáu, điều kiện vật chất phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản
chưa được đảm bảo.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Thời gian qua, công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của
chính quyền địa phương ở tỉnh Thái Bình đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ
đạo, tổ chức thực hiện một cách khá toàn diện như: ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật và các kế hoạch hàng năm để hướng dẫn thực hiện; bố trí cán bộ,
công chức có năng lực, phẩm chất làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật; quan tâm xây dựng đội ngũ cộng tác viên; kinh phí và các điều kiện bảo
đảm khác cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản được quan tâm hơn.
Từ kết quả đạt được cho thấy công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật đã dần đi vào nề nếp, số lượng và chất lượng kiểm tra ngày càng được
nâng cao. Bên cạnh việc thực hiện việc kiểm tra các văn bản do cơ quan ban hành
gửi đến, các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra văn bản đã tiến hành kiểm tra theo
địa bàn, theo chuyên đề, lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Hoạt động kiểm tra giúp phát hiện và loại bỏ
được nhiều văn bản trái pháp luật, củng cố thêm lòng tin của người dân, các tổ
chức xã hội cũng như các cơ quan nhà nước vào pháp luật.
Việc xử lý văn bản quy phạm pháp luật cơ bản được thực hiện kịp thời và
đúng theo quy định pháp luật đã tạo được sự quan tâm, đồng tình của các cơ quan,
tổ chức, dư luận xã hội và người dân. Điều này có tác động tích cực đối với người
16
trực tiếp làm công tác kiểm tra văn bản và các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra,
thúc đẩy hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản ngày một tích
cực hơn, đi vào chiều sâu.
Tuy nhiên, trên thực tế triển khai thực hiện kiểm tra và xử lý văn bản quy
phạm pháp luật cũng có một số hạn chế nhất định mà Chương 2 đã nêu ra cụ thể,
đồng thời cũng làm rõ các nguyên nhân của những hạn chế đó. Do vậy, để khắc
phục những hạn chế cũng như để tăng cường hiệu quả của kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật ở địa bàn tỉnh Thái Bình trong thời gian tới cần phải có các
phương hướng và giải pháp cụ thể.
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG KIỂM TRA VÀ
XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƢƠNG Ở TỈNH THÁI BÌNH
3.1. Phƣơng hƣớng chung
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật nói riêng luôn được Đảng và nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Điều đó được thể hiện trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến
2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1980, những quy định về kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật còn mờ nhạt vì trong Hiến pháp chỉ quy
định quyền giám sát của Quốc hội đối với việc thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Nhưng đến Hiến pháp năm 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 không chỉ quy
định quyền giám sát tối cao của Quốc hội mà còn quy định thẩm quyền kiểm tra và
xử lý văn bản của cơ quan hành chính. Điều này thể hiện sự quan tâm, chú trọng
của nhà nước ta với công tác kiểm tra, xử lý văn bản nói chung và văn bản quy
phạm pháp luật ngày càng cao. Nó được thể hiện cụ thể hơn thông qua việc nhà
nước ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi năm
2002, năm 2008 và gần đây nhất là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan có thẩm quyền kiểm
tra thực hiện việc kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Đối với tỉnh Thái Bình, việc nâng cao hiệu quả công tác soạn thảo, ban hành
và kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ quan trọng và cần phải
được chú trọng thường xuyên. Ngay khi Chính phủ ban hành Nghị định số
135/2003/NĐ-CP ngày 14/11//2003 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp
luật, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình đã ban hành Quyết định số 13/2009/QĐ-
UBND ngày 10/9/2009 ban hành quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành
và kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp. Sau
khi Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về kiểm tra và xử lý văn bản quy
17
phạm pháp luật có hiệu lực thi hành, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình đã kịp thời
ban hành Quyết định số 17/2011/QĐ-UBND ngày 14/12/2011 về việc sửa đổi, bổ
sung một số nội dung của Quyết định số 13/2009/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 ban
hành quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp.
Ngay sau khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được
Quốc hội thông qua, Ủy ban nhân dân các cấp đã tích cực tổ chức các Hội nghị
tuyên truyền, phổ biến và triển khai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015, đồng thời ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật này tới các cấp,
các ngành và địa phương trên địa bàn tỉnh.
Từ những yêu cầu khách quan và thực trạng công tác kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật từ thực tiễn đặt ra phương hướng đối với công tác kiểm tra, xử
lý văn bản quy phạm pháp luật ở địa bàn tỉnh Thái Bình trong thời gian tới như sau:
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn, làm cho công tác
này diễn ra thường xuyên, có kế hoạch triển khai cụ thể, rõ ràng và chủ động;
- Triển khai một cách sâu rộng, có hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Thực hiện tốt công tác ban hành văn bản; các phương thức kiểm tra văn bản.
- Xây dựng cơ chế kiểm tra thực sự có hiệu quả, từ khâu phát hiện, tiếp nhận
văn bản đến khâu xử lý và công bố kết quả xử lý văn bản QPPL.
- Các cơ quan kiểm tra ở cơ sở cần có sự phối hợp thường xuyên và chủ
động báo cáo thông tin trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật;
- Nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan tư pháp trong việc giúp Uỷ ban nhân
dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn bản.
Hàng năm, cơ quan tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp
xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản ở địa phương; đôn đốc,
chỉ đạo, sơ, tổng kết công tác kiểm tra văn bản; tổ chức mạng lưới thông tin, xây
dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc kiểm tra văn bản.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
bảo đảm có năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức.
- Kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản thực hiện nghiêm
túc theo quy định tại Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP. Hàng năm,
căn cứ vào yêu cầu công tác, các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lập dự toán kinh
phí bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản tổng hợp chung trong dự toán kinh phí
hoạt động thường xuyên.
3.2. Giải pháp tăng cƣờng kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính
quyền địa phƣơng ở tỉnh Thái Bình
3.2.1. Tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, các ngành trên địa bàn
tỉnh về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương
Để nâng cao chất lượng ban hành cũng như kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật cần nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước về ý nghĩa của
18
kiểm tra, xử lý văn bản thông qua việc quán triệt thực hiện nhiệm vụ, tuyên truyền
các văn bản pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản bằng nhiều hình thức khác nhau
như thông qua Hội nghị, các cuộc họp giao ban, xây dựng và phát tài liệu nghiên
cứu về nghiệp vụ kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Các cơ quan có thẩm quyền ban hành các Kế hoạch thực hiện kiểm tra, xử lý
văn bản cần theo dõi, giám sát, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện Kế hoạch của
các cấp, các ngành, yêu cầu các Sở, các phòng, ban, ngành trên địa bàn tỉnh thực
hiện việc báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về kết quả thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra,
cần tổ chức các cuộc họp sơ kết, tổng kết về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật để đánh giá thực trạng triển khai thực hiện các Kế hoạch đặt ra từ
đó rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng trong việc thực hiện công tác này.
3.2.2. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan
trong công tác kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương
Thứ nhất, cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa cơ quan ban hành văn bản và
cơ quan kiểm tra văn bản.
Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên
môn của UBND tỉnh cũng như với cơ quan nhà nước địa phương trong việc kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật với cơ quan truyền thông.
3.2.3. Xây dựng, kiện toàn tổ chức các cơ quan làm công tác kiểm tra và
xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương
* Đề xuất thành lập Phòng Kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật thuộc Sở Tƣ pháp
Hiện nay, Phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc
Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình có chức năng tham mưu cho Lãnh đạo Sở Tư pháp giúp
Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác xây dựng, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính độc lập của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật đối với hoạt động xây dựng văn bản, đồng thời để tránh sự
chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ cũng như nhằm tạo điều kiện tập trung
thực hiện tốt công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật thì vấn đề tách
riêng Phòng Xây dựng và Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thành hai phòng
chuyên môn Phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và Phòng Kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết.
Để thành lập phòng Kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật, Sở Tư pháp cần xây dựng Đề án thành lập phòng Kiểm tra, rà soát, hệ thống
hóa văn bản quy phạm pháp luật trong đó cần chú trọng đến việc xem xét, tuyển
dụng những cán bộ, công chức có đủ năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công việc; bước đầu ngoài việc tuyển dụng những công
chức đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ, phòng có thể lựa chọn một số công
chức của phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có kinh nghiệm về công tác
19
văn bản làm kiêm nhiệm công việc của phòng Kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn
bản quy phạm pháp luật để công tác kiểm tra, xử lý văn bản được thực hiện liên
tục, đạt chất lượng tốt. Ngoài ra, cần đề xuất các yêu cầu về điều kiện cơ sở vật
chất, tài chính để đảm bảo cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản được tiến hành kịp
thời, hiệu quả.
* Tăng cƣờng hoạt động tự kiểm tra văn bản của Ban Pháp chế Hội
đồng nhân dân
Theo quy định của pháp luật về việc tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
thì Ban Pháp chế HĐND là đầu mối giúp HĐND cùng cấp thực hiện việc tự kiểm
tra văn bản. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, Ban Pháp chế hoạt động chưa hiệu
quả, các văn bản do HĐND ban hành ít được kiểm tra, chưa có sự tham gia của đại
diện Ban Pháp chế trong các hoạt động kiểm tra theo địa bàn. Vì vậy, cần đổi mới
phương thức giám sát, tăng cường sự phối hợp giữa Ban Pháp chế và Sở Tư pháp
trong việc kiểm tra văn bản. Ngay từ đầu năm, Ban pháp chế HĐND các cấp cần
lập Kế hoạch kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của năm để làm cơ sở cho việc
thực hiện, phối hợp với các đơn vị có liên quan và tổng kết, đánh giá công tác kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cần bố trí kinh phí, tạo điều kiện cơ
sở, vật chất để hoàn thành công việc.
* Kiện toàn và thành lập các tổ chức pháp chế thuộc các Sở, ban, ngành
Việc củng cố, kiện toàn và thành lập tổ chức bộ máy pháp chế thuộc các Sở,
ban, ngành hiện nay là rất quan trọng và cần thiết. Để đảm bảo đủ biên chế, công
chức làm công tác kiểm tra văn bản, hạn chế cán bộ, công chức kiêm nhiệm nhiều
việc cần làm tốt một số việc sau:
Thứ nhất, trên cơ sở các quy định của trung ương, UBND tỉnh cần ban hành
văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức pháp chế
cũng như điều kiện, tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ của công chức làm công
tác pháp chế.
Thứ hai, thành lập phòng pháp chế ở các Sở để tham mưu về lĩnh vực pháp
lý cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật từ đó giảm bớt gánh nặng
cho công tác kiểm tra văn bản của Sở Tư pháp, hạn chế sai sót và tăng cường tính
hiệu lực, hiệu quả của văn bản.
Thứ ba, cần chú trọng việc tuyển chọn cán bộ, công chức làm nhiệm vụ pháp chế.
Thứ tư, sắp xếp hợp lý cơ cấu nhân sự trong tổ chức pháp chế.
Thứ năm, giao kinh phí cho việc thành lập và hoạt động của tổ chức pháp chế.
Trên thực tế hiện nay, đội ngũ, cán bộ công chức còn thiếu về số lượng, yếu
về chuyên môn trong khi kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật lại là công
việc khó khăn, phức tạp vì vậy việc chủ động xây dựng đội ngũ pháp chế ngành
như trên là cần thiết và hợp lý.
3.2.4. Nâng cao chất lượng, năng lực cán bộ, công chức làm công tác
kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương
Về thể chế quản lý: Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh tiếp tục hoàn
thiện thể chế, cơ chế xây dựng, quản lý cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra
20
văn bản. Trên cơ sở đó hoàn thiện các chế độ về tuyển dụng, điều động, luân
chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.
Về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật.
Để lựa chọn được những cán bộ, công chức đáp ứng nhiệm vụ công việc cần
phải đáp ứng đồng thời các tiêu chuẩn chuyên môn sau đây: phải là công chức có
trình độ chuyên ngành Luật, có chứng chỉ đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn
bản hoặc có thời gian làm công tác pháp luật nhất định. Bên cạnh kiến thức pháp lý
vững vàng còn đòi hỏi những người thực hiện công việc này phải có kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu trong từng lĩnh vực kiểm tra được phân công.
Cần phải tiến hành rà soát, đánh giá về tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Cấp huyện, cấp xã cần phân công,
bố trí cán bộ có đủ trình độ chuyên môn bảo đảm cho cán bộ, công chức kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật không phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Do vậy,
việc bố trí riêng 01 cán bộ chuyên trách công việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật ở các phòng Tư pháp là hết sức cần thiết. Đối với các xã, thị trấn có trên 1000
người dân thì cần bố trí thêm 01 cán bộ Tư pháp – Hộ tịch để thực hiện nhiệm vụ,
trong đó có nhiệm vụ tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, muốn tuyển chọn được những cán bộ, công chức có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cao thì khâu thi tuyển, xét tuyển phải được tổ chức nghiêm
túc. Sau tuyển dụng cũng cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật.
Sở Tư pháp, phòng Tư pháp cần chủ động xây dựng đội ngũ cộng tác viên
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật để họ có thể tư vấn giúp khi có khó khăn,
vướng mắc.
Về xây dựng đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức thực hiện kiểm tra, xử
lý văn bản QPPL: cần xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công
chức; nâng cao tinh thần làm việc và ý thức chấp hành tốt các quy định của cơ
quan, đơn vị; xây dựng chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
gắn trách nhiệm với quyền hạn; xây dựng quy chế khen thưởng, kỷ luật rõ ràng để
đảm bảo kỷ cương hành chính và hiệu quả của công tác quản lý.
3.2.5. Tăng cường công tác soạn thảo, ban hành văn bản QPPL do
HĐND, UBND các cấp ban hành
- Nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về công tác xây dựng
văn bản.
- Nâng cao chất lượng chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
hàng năm.
- Nâng cao chất lượng xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra, thẩm định văn bản quy phạm
pháp luật.
- Tăng cường công tác lưu trữ văn bản
21
3.2.6. Tăng cường công tác tự kiểm tra văn bản QPPL của chính quyền
địa phương
Cần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vai trò của công tác tự
kiểm tra văn bản, trong quá trình thực hiện tự kiểm tra văn bản cần tuân thủ triệt để
các nguyên tắc theo quy định. Công tác tự kiểm tra văn bản phải được tiến hành
thường xuyên, ngay sau khi văn bản được ban hành, kết hợp với công tác rà soát,
hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành để kịp thời phát hiện những
văn bản trái pháp luật.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi, yêu cầu quản lý và số lượng văn bản được
ban hành, việc tự kiểm tra có thể được giao cho Ban Pháp chế của HĐND cấp tỉnh,
cấp huyện, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp xã trực tiếp thực hiện hoặc
phối hợp với Văn phòng HĐND và UBND các cấp hoặc phân công cho cơ quan
chuyên môn thực hiện theo lĩnh vực được giao phụ trách bảo đảm sự phối hợp chặt
chẽ và phát huy vai trò làm đầu mối của các tổ chức tư pháp trong việc xây dựng
kế hoạch, đôn đốc theo dõi công tác tự kiểm tra, tổng hợp, báo cáo kết quả tự kiểm
tra với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đối với văn bản do HĐND, UBND các cấp ban hành hoặc người có thẩm
quyền ký ban hành, khi phát hành văn bản, đơn vị phát hành văn bản cần gửi ngay
văn bản cho đơn vị được phân công thực hiện nhiệm vụ tự kiểm tra văn bản để
kiểm tra. Khi phát hiện văn bản trái pháp luật, cơ quan kiểm tra có trách nhiệm
thông báo ngay cho đơn vị đã chủ trì soạn thảo văn bản đồng thời phối hợp trao đổi
để thống nhất các nội dung trái pháp luật và các biện pháp xử lý, chuẩn bị dự thảo
văn bản xử lý, báo cáo cơ quan, người đã ban hành văn bản để kịp thời xử lý theo
thẩm quyền.
Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản có trách nhiệm bảo đảm
kinh phí, biên chế và các điều kiện cần thiết khác phục vụ cho việc tự kiểm tra văn
bản do mình ban hành.
3.2.7. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho công tác kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL của chính quyền địa phương
* Về tài chính:
Hiện nay, việc bố trí và sử dụng kinh phí cho công tác kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Thái Bình được thực hiện theo Thông tư liên tịch số
122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011 của liên Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy
định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công
tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên,
so với yêu cầu thực tế của công việc thì mức chi như vậy vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu nhiệm vụ công việc. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung thêm các mức chi, các
mục cần chi cho phù hợp như: mức chi cho việc họp hành, trao đổi, thảo luận về
các vấn đề chưa thống nhất giữa các bên liên quan trong quá trình kiểm tra, xử lý
văn bản; mức chi cho chế độ phụ cấp trách nhiệm nghề cho cán bộ, công chức thực
hiện kiểm tra, xử lý văn bản; tài chính bổ sung cho việc khen thưởng, động viên
cho các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong công tác kiểm tra, xử lý văn
22
bản quy phạm pháp luật, tăng mức chi thù lao cho các cộng tác viên kiểm tra văn
bản (mức chi 70 – 140 nghìn đồng trên một văn bản được kiểm tra là khá ít).
Ngoài ra, các cấp, các ngành cũng cần quan tâm bố trí kinh phí tương xứng
cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là cấp huyện
và cấp xã, các tổ chức pháp chế thuộc Sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh để công tác
kiểm tra, xử lý văn bản được diễn ra thường xuyên và hiệu quả.
Ngoài ra, hiện nay việc cấp kinh phí chi cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật chưa đồng đều giữa các địa phương. Bởi vậy, cần ban hành
văn bản quy định thống nhất chung của tỉnh về việc cấp kinh phí cho công tác kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật ở các cơ quan, trong đó quy định cụ thể, rõ ràng
các mục chi, mức chi; cũng có thể tính toán đến việc khoán mức chi chung cho
công tác kiểm tra văn bản cho từng địa phương, từng Sở, ban, ngành.
Bên cạnh đó, cũng nên cho phép các cơ quan ở địa phương có thể chủ động huy
động các nguồn kinh phí khác nhau ngoài nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
* Về các điều kiện kỹ thuật khác:
Các cấp, các ngành cần chủ động hơn nữa trong việc cung cấp, bố trí các
thiết bị, máy móc phục vụ cho công việc: máy tính, máy in, máy fax, hệ thống đường
truyền mạng và các công cụ, dụng cụ văn phòng cần thiết khác.
Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ cơ sở dữ liệu, các thông tin, tư liệu (chủ yếu
thông tin về văn bản quy phạm pháp luật) phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật bằng các hình thức hình thức truyền thống thông qua việc
xây dựng Tủ sách pháp luật hoặc bằng nguồn thông tin điện tử qua việc xây dựng
hệ cơ sở dữ liệu thông tin điện tử về văn bản quy phạm pháp luật.
Ở Thái Bình hiện nay, hệ cơ sở dữ liệu điện tử phục vụ cho công tác kiểm tra,
xử lý văn bản quy phạm pháp luật chưa được xây dựng. Do đó, thời gian tới cần tập
trung xây dựng để phục vụ cho công tác tra cứu văn bản quy phạm pháp luật.
3.2.8. Học tập, trao đổi kinh nghiệm kiểm tra, xử lý văn bản QPPL của
chính quyền địa phương
Do tình hình thực tế, điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương không
giống nhau nên việc triển khai thực hiện cũng có nhiều điểm khác nhau, dẫn đến
kết quả kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có địa phương rất tốt nhưng có
địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, lúng túng. Vì thế, việc học tập, trao đổi kinh
nghiệm thực tế giữa các địa phương với nhau là cơ hội tốt để tiếp thu những cách
làm hay, xử lý khéo những vấn đề còn bất cập trong quá trình thực hiện, từ đó nâng
cao được hiệu quả của công việc.
23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong
việc giúp nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, cá nhân. Để công tác này diễn ra
được hiệu quả, hạn chế được những tác động tiêu cực xảy ra cần có những giải
pháp cụ thể.
Từ những phân tích về nguyên nhân của những thành tựu cũng như hạn chế
về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, luận văn tập trung xác định
phương hướng chung của việc tăng cường kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp
luật: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công
tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn, làm cho công tác này
diễn ra thường xuyên, có kế hoạch triển khai cụ thể, rõ ràng và chủ động; triển khai
một cách sâu rộng, có hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành; xây dựng cơ chế kiểm tra thực sự có hiệu
quả, từ khâu phát hiện, tiếp nhận văn bản đến khâu xử lý và công bố kết quả xử lý
văn bản QPPL; các cơ quan kiểm tra ở cơ sở cần có sự phối hợp thường xuyên và
chủ động báo cáo thông tin trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp
luật; xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy về cơ cấu, điều kiện và cách thức làm việc
đối với các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và xử lý văn bản quy
phạm pháp luật cho hợp lý, khoa học và hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL bảo đảm có năng lực, trình độ và
phẩm chất đạo đức.
Luận văn đã đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường công tác kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh, cụ thể là: tăng cường sự quan tâm, chỉ
đạo của các cấp, các ngành đối với công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật; tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong
công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Bình;
xây dựng, kiện toàn tổ chức các cơ quan làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật; nâng cao chất lượng, năng lực cán bộ, công chức làm công tác
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường công tác tự kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật; về tài chính; bảo đảm các điều kiện kỹ thuật cần thiết cho
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; học tập, trao đổi kinh nghiệm kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Các giải pháp này vừa khái quát, vừa cụ
thể, phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh Thái Bình.
Các giải pháp này cần được tiến hành đồng bộ và có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhằm mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật chung.
24
KẾT LUẬN
Thời gian qua, ở tỉnh Thái Bình đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các văn bản này là công cụ hữu hiệu để các cấp, các
ngành thực hiện việc quản lý nhà nước, có tác động trực tiếp đến nhiều mặt của đời
sống xã hội. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng soạn thảo văn bản cũng như hiệu quả
việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là hết sức quan trọng.
Theo quy định của các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ bản
đầu tiên đến văn bản Luật năm 2015 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành, việc
kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những văn bản trái pháp luật ngay sau
khi được ban hành được thực hiện bằng hai phương thức chính là: tự kiểm tra văn
bản và kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật; sự quan tâm của các cấp, các ngành đối với công tác kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật; năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; yếu tố tài chính; ứng dụng công nghệ thông
tin; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Trong nội dung lý luận ở chương 1 của luận văn, tác giả đã hệ thống hóa các
khái niệm mang tính mấu chốt như: văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật, các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật.
Trên cơ sở lý luận của chương 1, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Thái Bình. Quá trình kiểm tra,
xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã được các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh
quan tâm tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả tích cực. Thông qua kiểm
tra văn bản đã phát hiện ra các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, từ đó đã kịp thời
đưa ra các giải pháp xử lý để bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các văn bản quy phạm
pháp luật.
Bằng việc nghiên cứu về lý luận cũng như cơ sở thực tế thực hiện công tác
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Thái Bình, một số phương
hướng, giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác
này. Theo quan điểm của tác giả, không có một giải pháp nào là tối ưu, mà việc
tăng cường kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể được nâng lên
khi chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp. Có như vậy, công tác ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở tỉnh Thái Bình nói riêng và
trong cả nước nói chung sẽ được cải thiện, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho các quan hệ pháp luật, nhất là các
quan hệ kinh tế trong thời gian này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_kiem_tra_va_xu_ly_van_ban_quy_pham_phap_lua.pdf