Trong hệ thống các quyền con người, quyền công dân ở nước ta thì
quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân tồn tại với tư cách là "quyền
bảo vệ quyền". Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo,
công dân bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà
nước, xã hội, của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời việc thực
hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo thể hiện tính dân chủ của xã hội, tích
cực chính trị của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước, với xã hội.
Khiếu nại về đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội,
đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước
thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có24
thì khiếu nại về đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số
lượng cũng như tính chất phức tạp về mặt nội dung.
Để công dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, quyền tố cáo, cũng
như để việc GQKN có hiệu lực, hiệu quả thì điều kiện quan trọng hàng
đầu là phải có một hệ thống cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn, đầy đủ,
đồng bộ. Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng một hệ
thống cơ sở pháp lý cho quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân cũng
như quan tâm tới việc GQKN của công dân.
Pháp luật GQKN về đất đai là một bộ phận quan trọng của pháp luật
về khiếu nại, pháp luật về đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung. Hệ thống pháp luật GQKN về đất đai quy định trình tự,
thủ tục, thẩm quyền GQKN về đất đai, các nguyên tắc và căn cứ GQKN
về đất đai. Hệ thống pháp luật này được xây dựng và phát triển dựa trên
nền tảng là cơ sở kinh tế của xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
các quan hệ kinh tế vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi pháp luật
GQKN về đất đai cũng phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, nhằm
đáp ứng được các yêu cầu của quản lý và SDĐ.
Trước sự phức tạp của các khiếu nại hiện nay, pháp luật về khiếu nại
có nhiều điểm tỏ ra còn bất cập chưa tương xứng với vai trò của mình đã
làm hạn chế không nhỏ tới việc công dân thực hiền quyền khiếu nại của
mình. Xuất phát từ những những yêu cầu và đòi hỏi của tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN và từ nhược điểm của pháp luật về khiếu nại cho thấy
việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả
về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và cả thời gian dài về sau.
Do vậy, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, bất
cập của pháp luật GQKN về đất đai, để trên cơ sở đề xuất các giải pháp
nhằm không ngừng hoàn thiện chế định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việc "nhận dạng" bản chất của khiếu nại về đất đai có ý nghĩa quan
trọng, song điều quan trọng hơn là phải xác lập được một cơ chế GQKN về
đất đai thích hợp, nhằm xử lý dứt điểm, nhanh chóng các khiếu nại về đất
đai góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội.
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 688 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TÀO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN MẠNH HÙNG
PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI -
TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 60 38 01 02
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
Công trình được hoàn thành tại Học viện Hành chính Quốc gia
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2016
Có thể tìm hiểu luận văn
tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc
trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
1
MỞ ĐẦU
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được
ghi nhận tại Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam năm 2013. Đây là hiện tượng phát sinh trong đời sống
xã hội như là một phản ứng của con người trước một quyết định, một
hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là
không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc thực hiện quyền
khiếu nại là một hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia hoạt
động quản lý nhà nước, quản lý xã hội giám sát các hoạt động của cơ
quan nhà nước, công chức nhà nước. Giải quyết khiếu nại (GQKN) là
trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, giải quyết tốt khiếu nại
của công dân nhằm phát huy dân chủ xã hội; góp phần đấu tranh chống
quan liêu tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, góp phần ổn
định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong quá trình xây dựng phát triển và bảo vệ đất nước, Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác GQKN của công dân qua đó đã ban
hành nhiều văn bản, pháp luật quy định về vấn đề này. Chính sách, pháp
luật về GQKN ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ
chức, cá nhân thực hiện quyền khiếu nại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Vĩnh Phúc là một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa
ngõ của Thủ đô, gần sân bay quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh
phía Tây Bắc với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy có
vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc
gia. Là địa phương đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, Vĩnh Phúc
cũng có nhu cầu lớn về sử dụng đất (SDĐ) làm cho giá trị quyền sử dụng
đất (QSDĐ) trên địa bàn cũng tăng lên nhanh chóng. Điều này đã dẫn đến
một thực tế là khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc cũng đang diễn ra hết
sức phức tạp, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ trên cơ sở pháp
2
luật GQKN về đất đai để tháo gỡ những vướng mắc cho người dân góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người SDĐ.
Xuất phát từ bối cảnh đó tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Pháp
luật giải quyết khiếu nại về đất đai - từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc" làm
đề tài Luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp - Luật Hành chính,
nhằm tìm kiếm những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện
pháp luật GQKN về đất đai ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật GQKN nói chung và pháp luật GQKN về đất đai nói riêng
là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Hiện nay đã có
một số lượng lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về GQKN và pháp luật
GQKN, GQKN về đất đai, trong đó có một số công trình tiêu biểu sau:
- Phạm Văn Long (2005), "Việc thực hiện thẩm quyền giải quyết của
thủ trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan thanh tra
nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính", Đề tài khoa học cấp Bộ;
- Ngô Mạnh Toan (2005), "Xây dựng quy trình giải quyết khiếu nại
hành chính", Đề tài khoa học cấp cơ sở;
- Nguyễn Tuấn Khanh (2008), "Việc áp dụng pháp luật để giải quyết
khiếu nại về đất đai", Tạp chí Thanh tra, số 5/2008;
- Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), "Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa",
Luận văn Thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia;
- Đỗ Văn Tuấn (2013), "Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của
cơ quan hành chính nhà nước, thực tiễn tại Tỉnh Hưng Yên", Luận văn
Thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành chính.
- Doãn Hồng Nhung (2014), "Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Phi (2015), "Giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa
bàn huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính Quốc gia;...
Nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên mới dừng lại ở
mức độ chung nhất về GQKN hành chính và hoạt động GQKN về đất đai
3
trên một số địa bàn. Tuy nhiên chưa nhiều công trình nghiên cứu cụ thể
về pháp luật GQKN về đất đai trực tiếp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
về pháp luật GQKN về đất đai, đánh giá đúng thực trạng pháp luật
GQKN về đất đai và thực tiễn thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất một
số giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất
đai ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của
pháp luật GQKN về đất đai như: Khái niệm, đặc điểm của GQKN về đất
đai; khái niệm, đặc điểm pháp luật GQKN về đất đai, nội dung, vai trò
của pháp luật GQKN về đất đai.
Hai là, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật GQKN về đất đai và
thực trạng việc thực hiện pháp luật GQKN về đất đai trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc, qua đó thấy được những ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên
nhân dẫn tới những hạn chế đó.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật thực định về
GQKN đất đai và việc thực tiễn thực hiện các quy định đó trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng pháp luật GQKN về đất đai
trước và sau khi Luật GQKN năm 2011 có hiệu lực, tập trung chủ yếu
vào giai đoạn từ 2011 đến nay.
4
- Về không gian: Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật GQKN
về đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại của công dân và GQKN
của công dân; chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về GQKN đất đai, về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu
vấn đề hoàn thiện pháp luật GQKN về đất ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh,
lôgic, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, chú trọng việc
thu thập các số liệu từ các báo cáo thực tế về GQKN đất đai ở trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về
pháp luật GQKN về đất đai từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc nên có những
đóng góp mới như sau:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về pháp luật
GQKN về đất đai.
- Làm rõ thực trạng pháp luật GQKN về đất đai từ thực tiễn tỉnh
Vĩnh Phúc qua việc phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, làm tiền đề đưa ra quan điểm và giải
pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai, góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật về GQKN
nói riêng, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân.
5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hệ thống, xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật GQKN đất đai.
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu lập pháp
và các nhà thực tiễn áp dụng pháp luật về GQKN đất đai trong việc thực
hiện thẩm quyền quản lý và SDĐ có hiệu quả; ngăn ngừa, hạn chế
nguyên nhân gây nên khiếu nại về đất đai cũng như nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật GQKN về đất đai.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai và
thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết
khiếu nại về đất đai.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Giải quyết khiếu nại về đất đai
1.1.1. Khiếu nại đất đai
Qua phân tích, tác giả luận văn đưa ra khái niệm: Khiếu nại về đất đai là
việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân theo thủ tục do Luật Khiếu
nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét
lại quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến lĩnh vực đất
đai của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước, khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khiếu nại về đất đai có các đặc điểm sau:
- Đối tượng khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính đều liên quan tới quản lý đất đai của nhà nước mang tính đặc thù,
6
bao gồm: Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất,
cho phép chuyển mục đích SDĐ; quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải
phóng mặt bằng, tái định cư; quyết định về cấp hoặc thu hồi Giấy chứng
nhận QSDĐ; quyết định gia hạn thời hạn SDĐ;
- Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của
cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc hành chính trong
quản lý đất đai;
- Việc GQKN, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của
nhiều cơ quan khác nhau: Cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện
chức năng quản lý đất đai, cơ quan tài chính quản lý chính sách tài chính
về đất đai, cơ quan xây dựng quản lý về nhà ở; thanh tra và Ủy ban nhân
dân (UBND) các cấp...
- Phương thức giải quyết được thực hiện dưới nhiều phương diện
khác nhau thông qua mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.1.2. Giải quyết khiếu nại về đất đai
Khái niệm GQKN về đất đai được hiểu là việc thụ lý, xác minh, kết
luận và ra quyết định GQKN đối với các quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong quản lý và sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, người có thẩm quyền.
Bản chất việc GQKN về đất đai là một hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đất đai. Do đó đòi hỏi hoạt động này phải tuân thủ theo
những nguyên tắc và trình tự thủ tục nhất định nhằm đảm bảo tính hiệu
lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. GQKN về đất
đai là một hình thức GQKN nói chung, vì vậy, GQKN về đất đai mang
các đặc điểm của GQKN đó là:
Thứ nhất, GQKN về đất đai là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Thứ hai, GQKN về đất đai phải tuân theo những hình thức, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định.
Thứ ba, GQKN về đất đai mang tính cá biệt, cụ thể.
Thứ tư, GQKN về đất đai phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định
bao gồm nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc công
7
khai minh bạch, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kịp thời, nguyên tắc
đối thoại.
1.2. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
Qua phân tích, tác giả luận văn đưa ra quan niệm: Pháp luật GQKN
về đất đai là bộ phận của pháp luật về GQKN hành chính bao gồm tổng
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình GQKN về đất đai của cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền với chủ thể khiếu nại, như bao gồm các nhóm quy định về thẩm
quyền GQKN về đất đai; quy định về nội dung, hình thức, trình tự, thủ
tục GQKN về đất đai.
Xuất phát từ quan niệm như trên có thể nhận thấy pháp luật GQKN
về đất đai có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật GQKN về đất đai là bộ phận hợp thành của pháp
luật GQKN hành chính.
Thứ hai, pháp luật GQKN về đất đai vừa mang tính quy phạm hành
chính, quy phạm thủ tục và quy phạm chuyên môn.
Thứ ba, nguồn pháp luật GQKN về đất đai được ghi nhận trong
nhiều văn bản có hiệu lực khác nhau
Thứ tư, đối tượng điều chỉnh của pháp luật GQKN về đất đai là các
quan hệ giữa một bên là người khiếu nại với một bên là cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền GQKN trên cơ sở khiếu nại về quyết định hành
chính và hành vi hành chính về đất đai.
1.2.2. Nội dung pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
1.2.2.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai
Luật khiếu nại không quy định trực tiếp về nguyên tắc xác định thẩm
quyền GQKN, tuy nhiên căn cứ vào các quy định về thẩm quyền giải
quyết, có thể khái quát nguyên tắc xác định thẩm quyền như sau:
- Người có thẩm quyền GQKN lần đầu là người đã ra quyết định
hành chính bị khiếu nại hoặc người đứng đầu cơ quan có hành vi hành
chính bị khiếu nại.
8
- Người có thẩm quyền GQKN lần hai là Thủ trưởng cấp trên trực
tiếp của người có thẩm quyền GQKN lần đầu.
Thẩm quyền GQKN của các cơ quan hành chính nhà nước: Được
quy định từ Điều 17 đến Điều 26 Luật khiếu nại năm 2011.
Thẩm quyền của cơ quan thanh tra trong GQKN: Theo quy định của
Luật khiếu nại, trách nhiệm GQKN thuộc về thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn công tác GQKN cho thấy, nội dung vụ
việc thường rất đa dạng và phức tạp, cần phải có quá trình thẩm tra, xác
minh trước khi đưa ra quyết định giải quyết. Các cơ quan thanh tra đóng
vai trò quan trọng trong quá trình này. Điều 24 Luật khiếu nại quy định về
thẩm quyền của Tổng Thanh tra Chính phủ và Điều 25 Luật khiếu nại quy
định trách nhiệm của Chánh thanh tra các cấp.
1.2.2.2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại
Trình tự, thủ tục GQKN là các bước để giải quyết một khiếu nại hành
chính, được sắp xếp theo một nguyên tắc nhất định nhằm bảo đảm việc
GQKN khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời. Trong trường hợp người
khiếu nại không khởi kiện vụ việc ra Tòa án hành chính mà lựa chọn
khiếu nại theo con đường hành chính, việc GQKN tại các cơ quan hành
chính được thực hiện qua hai cấp. Trong luận văn tác giả đã trình bày cụ
thể về trình tự, thủ tục GQKN lần đầu và trình tự, thủ tục GQKN lần hai.
1.2.3. Vai trò của pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
Trong mục này, tác giả luận văn trình bày về vai trò của pháp luật
giải quyết khiếu nại về đất đai, bao gồm:
1.2.3.1. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
1.2.3.2. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
1.2.3.3. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố
mối quan hệ, lòng tin giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước
1.2.3.4. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan
trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
9
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỪ TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. Pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại đất đai
2.1.1. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai trước khi có Luật
Khiếu nại năm 2011
Trong mục này, tác giả luận văn trình bày sơ lược về sự hình thành và
phát triển về pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai của nước ta từ khi
thành lập nước 1945 đến trước khi có Luật Khiếu nại năm 2011. Qua đó,
các cấp, các ngành đã giải quyết hàng trăm nghìn vụ việc khiếu nại phát
sinh trong các lĩnh vực. Thông qua GQKN đã bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; đồng thời phát hiện nhiều sơ hở
trong công tác quản lý, từ đó có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Qua GQKN, nhiều hành vi vi phạm
pháp luật cũng được phát hiện kịp thời, các cơ quan nhà nước đã xử lý
nhiều tổ chức, cá nhân có sai phạm, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, ổn
định trật tự và an toàn xã hội.
2.1.2. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai từ khi có Luật
Khiếu nại năm 2011 đến nay
Ngày 11 tháng 11 năm 2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Khiếu nại. Luật Khiếu
nại gồm 8 Chương 70 Điều, có hiệu lực từ ngày 01/7/2012. Sự ra đời của
Luật này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập pháp của
pháp luật khiếu nại, lần đầu tiên quyền khiếu nại được quy định trong
một văn bản riêng biệt với quyền tố cáo.
Khác với GQKN thông thường, việc GQKN về đất đai một mặt căn
cứ trên cơ sở các quy định pháp luật về khiếu nại, mặt khác còn phải dựa
trên các quy định của pháp luật về quản lý đất đai.
Ngày 29/11/2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua
Luật Đất đai năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014, đã mở
10
rộng hơn nữa quyền của công dân trong việc yêu cầu các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai, khi
các bên SDĐ mâu thuẫn, không thống nhất với nhau trong quá trình SDĐ.
Để nâng cao hiệu quả việc GQKN của cơ quan, tổ chức và công dân,
những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn
bản pháp luật đề cập tới công tác GQKN, đồng thời coi việc giải quyết
hiệu quả các khiếu nại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các
cơ quan hành chính nhà nước, góp phần phát huy quyền dân chủ của nhân
dân và thực hiện cải cách hành chính nhà nước.
2.1.3. Đánh giá chung pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
2.1.3.1. Những ưu điểm
Thứ nhất, khắc phục những hạn chế, bất cập liên quan đến trình tự,
thủ tục GQKN.
Thứ hai, khắc phục hạn chế, bất cập trong quy định về quyền và
nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại, sự tham gia của luật sư
trong quá trình GQKN, việc tổ chức đối thoại trong GQKN.
Thứ ba, khắc phục bất cập, hạn chế liên quan đến việc tổ chức, thi
hành các quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật.
2.1.3.2. Những hạn chế
Thứ nhất, hệ thống pháp luật quy định GQKN về đất đai thiếu đồng
bộ. Luật Khiếu nại và Luật Đất đai có các quy định không thống nhất
trong việc GQKN của công dân.
Thứ hai, công tác GQKN về đất đai chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn
nhiều điểm có xung đột trong toàn hệ thống pháp luật nước ta. Riêng quy
định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai cũng
có nhiều điểm khác nhau giữa pháp luật về đất đai và pháp luật GQKN.
Thứ ba, cơ chế chuyển phần lớn việc GQKN về địa phương có ưu điểm
là tăng cường trách nhiệm giải quyết của cấp có thẩm quyền quản lý đất đai
nhưng lại có nhược điểm là không đáp ứng được nguyện vọng của người
có đơn khiếu nại là muốn được cấp có thẩm quyền ở Trung ương ra quyết
định cuối cùng để bảo đảm tính khách quan. Đây cũng chính là nguyên nhân
gây nên tình trạng khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương ngày càng tăng.
11
Thứ tư, cơ chế chuyển toàn bộ vụ việc tranh chấp đất đai có giấy tờ
sang Tòa án nhân dân, khuyến khích chuyển khiếu nại về quyết định hành
chính, hành vi hành chính sang khởi kiện lên tòa án hành chính có ưu
điểm là nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền nhưng lại bất cập
ngay với thực tế giải quyết của Tòa án nhân dân do trình độ chưa cao,
thiếu nhân lực và tòa án nhân dân chưa thực sự độc lập với cơ quan hành
chính cùng cấp.
Thứ năm, Luật Khiếu nại là luật chung và quy định trình tự, thủ tục
GQKN các quyết định hành chính và hành vi hành chính cho tất cả các
lĩnh vực thuộc quản lý hành chính. Tuy nhiên, theo Luật Đất đai năm
2013, các khiếu nại về quyết định hành chính và hành vi hành chính trong
lĩnh vực đất đai được giải quyết theo một cơ chế riêng, không theo trình
tự được quy định trong Luật Khiếu nại. Điều này có vẻ như nghịch lý,
song đây là một thực tế bất cập hiện nay.
Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân do chính sách, pháp luật về đất đai trong thời gian dài
không được hoàn thiện đồng bộ, thiếu cụ thể và nhất quán.
- Nguyên nhân do chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của
Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và quyền
của người SDĐ đã được pháp luật công nhận, dẫn tới nhấn mạnh quyền
thu hồi đất của Nhà nước, tạo vốn từ quỹ đất mà chưa quan tâm đầy đủ
lợi ích chính đáng của người SDĐ, đặc biệt là trong việc định giá đất bồi
thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi với giá đất tái định cư
(thu hồi giá quá thấp, giao lại giá cao).
- Nguyên nhân do bất cập trong công tác GQKN về đất đai:
Tổ chức và cơ chế GQKN về đất đai thiếu ổn định và bất cập so với
yêu cầu thực tế.
Trong tổ chức thực hiện pháp luật về GQKN lĩnh vực đất đai, nhiều
địa phương chưa làm tốt việc tiếp dân, nhận đơn, hướng dẫn cụ thể theo
pháp luật về việc nộp đơn dẫn đến tình trạng người đi khiếu kiện lúng
túng, mất nhiều thời gian, công sức khi phải đi hết nơi này đến nơi khác.
12
Công tác hòa giải ở cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, nhiều
địa phương chưa bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm
đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả chưa cao.
Công tác thanh tra chưa được thực hiện thường xuyên, còn thiếu
tính chủ động, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
2.2. Thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh
Vĩnh Phúc
2.2.1. Giới thiệu chung về tỉnh Vĩnh Phúc
Tỉnh Vĩnh Phúc thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ và vùng Thủ đô Hà Nội. Vĩnh Phúc có nhiều tuyến
giao thông quan trọng: đường bộ, đường sắt, đường sông, gần sân bay
quốc tế Nội Bài. Vĩnh Phúc là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa lâu
đời, với hàng trăm di tích lịch sử - văn hóa gắn với các địa danh nổi tiếng.
Người dân Vĩnh Phúc có truyền thống lao động cần cù, hiếu học, thông
minh, năng động và sáng tạo.
Tính đến năm 2015 Vĩnh Phúc có diện tích 1.235,13 km2 với dân số
khoảng 1.054.492 người, mật độ dân số khoảng 854 người/km2. Dân số
trung bình năm 2015 khoảng 1.054.492 người, trong đó dân số nam khoảng
518.559 người chiếm 49,18%, dân số nữ 535.933 người chiếm 50,82%.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 13,6%. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 60%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm 63%, tỷ lệ dân số làm
việc trong khu vực nhà nước chiếm 10,6%, làm việc ngoài nhà nước chiếm
78,6%, làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 10,8%.
Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế, đặc biệt sau 15 năm tái lập,
4 nhiệm kỳ Đại hội (XII, XIII, XIV, XV), dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và
đáng tự hào.
2.2.2. Tình hình khiếu nại đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc
Thực tiễn cho thấy, tình hình khiếu nại đất đai ở Vĩnh Phúc thời gian
qua có những chuyển biến phức tạp.
13
Khiếu nại về đất đai chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số đơn khiếu nại mà
cơ quan có thẩm quyền nhận được ở tỉnh Vĩnh Phúc. Nội dung khiếu nại,
kiến nghị chủ yếu liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ 75%; nội dung khiếu
nại, kiến nghị về thực hiện chính sách xã hội chiếm tỷ lệ 10%; khiếu nại,
kiến nghị nội dung khác chiếm tỷ lệ 15%.
Toàn tỉnh nhận trong giai đoạn 2012 - 2015 nhận trên 10.840 lượt
đơn thư trong đó: Khiếu nại 1.496 lượt đơn, tỷ lệ 13,8%; tố cáo 1.056
lượt đơn, tỷ lệ 9,7%; loại khác (Kiến nghị, đề nghị, phản ánh) 8.288 lượt
đơn, tỷ lệ 76,5%:
Trong tổng số 10.840 lượt đơn thư đã nhận, có 2.560 vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp,
trong đó: cấp tỉnh 856, cấp huyện 352, cấp xã 1.352 vụ việc; còn lại 8.280
lượt đơn thư trùng lặp và thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tư
pháp, tổ chức chính trị xã hội.
Tình hình khiếu nại, tố cáo nêu trên đã ảnh hưởng đến an ninh, trật tự
xã hội tại một số địa phương trong một số thời điểm; có nơi đã xuất hiện
những mâu thuẫn phát sinh giữa người dân với chính quyền, giữa người
dân với nhà đầu tư. Các vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đông
người phức tạp, tồn đọng, kéo dài đã được UBND tỉnh tập trung chỉ đạo
các cấp, các ngành kiểm tra, xác minh, rà soát; tổ chức đối thoại để giải
quyết kịp thời, tình hình đã có chuyển biến tích cực trong thời gian qua.
2.2.3. Kết quả thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở
tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.3.1. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật giải quyết
khiếu nại về đất đai
Để hiện thực hóa pháp luật GQKN về đất đai HĐND và UBND tỉnh
đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, đó là:
- Nghị quyết số 152/2014/NQ-HĐND ngày 22/12/2014 của HĐND
tỉnh thông qua bảng giá đất 5 năm 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc;
- Quyết định số 35/2014/QĐ-UBND ngày 15/8/2014 Ban hành quy
định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ tái định cư và đơn giá bồi thường, hỗ
trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc;
14
- Quyết định số 40/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 sửa đổi bổ sung
một số điều của Quyết định số 60/2009/QĐ-UBND và Quyết định số
06/2012/QĐ-UBND ngày 23/3/2012 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc
giải quyết đất dịch vụ hoặc đất ở theo các Nghị quyết của HĐND tỉnh;
- Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 về việc thành
lập Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Vĩnh Phúc;
- Quyết định số 47/2014/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 về việc phê
duyệt bổ sung giá đất khu vực Biệt thự-Sân Golf Tam Đảo trong bảng giá
đất năm 2014;
- Quyết định số 61/2014/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 về việc ban hành
quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 05 năm 2015-2019.
- Quyết định số 32/2015/QĐ-UBND ngày 16/11/2015 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của bản quy định chi tiết một số điều về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư và đơn giá bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh ban hành kèm theo Quyết định số
35/2014/QĐ-UBND ngày 15/8/2014.
Công tác triển khai thi hành Luật Đất đai và cụ thể hóa Luật đã được
Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả, góp phần
tăng cường công tác quản lý tài nguyên môi trường trên địa bàn tỉnh.
2.2.3.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Khiếu nại
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung, pháp luật khiếu nại nói
riêng đóng vai trò quan trọng trong GQKN về đất đai. Nhận thức được
vấn đề này, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố
cáo, đạt kết quả tốt.
2.2.3.3. Công tác tiếp công dân
Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt chế
độ tiếp công dân thường xuyên ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã); chế độ trực
tiếp tiếp công dân định kỳ của lãnh đạo UBND cấp xã, cấp huyện và các
sở, ngành được thực hiện nghiêm túc; các điều kiện phục vụ cho công tác
tiếp công dân được đảm bảo.
15
Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ đạo việc tiếp công dân phải gắn với
giải quyết khiếu nại, tố cáo; chế độ trực tiếp tiếp công dân định kỳ và đột
xuất của Lãnh đạo UBND tỉnh được thực hiện đúng quy định, phân công
lãnh đạo UBND tỉnh trực tiếp tiếp công dân theo định kỳ nhiều tháng liên tục
để thống nhất theo dõi chỉ đạo giải quyết các vụ việc. Trước các ngày tiếp
công dân định kỳ, Lãnh đạo UBND tỉnh đã trực tiếp nghe UBND các huyện,
thành, thị và các sở ngành báo cáo tiến độ, kết quả giải quyết cụ thể từng
vụ việc KNTC được giao. Sau mỗi kỳ tiếp công dân, UBND tỉnh có thông
báo kết quả tiếp công dân để giao nhiệm vụ cho các cấp, các ngành giải quyết.
2.2.3.4. Công tác giải quyết khiếu nại về đất đai
Công tác GQKN nói chung, khiếu nại về đất đai nói riêng trên địa
bàn tỉnh được các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quan tâm
thực hiện và có những chuyển biến tích cực. Hầu hết các vụ việc khiếu
nại của công dân đều được giải quyết kịp thời, chất lượng GQKN được
nâng lên so với giai đoạn trước.
2.2.4. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về
đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.4.1. Ưu điểm
Công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và GQKN nói chung, GQKN
trong lĩnh vực đất đai nói riêng đã có những chuyển biến tích cực; đặc
biệt là sự quan tâm chỉ đạo tích cực của cấp ủy các cấp, sự tham gia tích
cực của các tổ chức đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng, tạo được
sự thống nhất của cả hệ thống chính trị trong công tác tiếp công dân và
GQKN; nhận thức và trách nhiệm của nhiều cấp ủy, chính quyền địa
phương đối với công tác này được nâng lên rõ rệt.
Thủ trưởng các cấp, các ngành Tài nguyên - Môi trường, Thanh tra tỉnh
đã có nhiều biện pháp chỉ đạo tích cực trong việc giải quyết đơn thư khiếu
nại về đất đai. Hầu hết các đơn thư khiếu nại về đất đai mới phát sinh đều
được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Việc giải quyết về cơ bản đã đảm
bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, pháp luật về đất đai.
Đặc biệt, đã chủ động rà soát các vụ việc khiếu nại về đất đai kéo dài, phức
16
tạp, tổ chức đối thoại trực tiếp với những người khiếu nại và có biện pháp chỉ
đạo giải quyết dứt điểm, hạn chế đơn thư khiếu nại vượt cấp, không để đơn
thư tồn đọng, góp phần giữ vững ổn định an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.
2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Về hạn chế
Thứ nhất, công tác GQKN trong lĩnh vực đất đai cơ bản được thực hiện
đúng trình tự, thủ tục và thời gian theo quy định của pháp luật, tuy nhiên,
một số vụ còn kéo dài, cá biệt có vụ vượt thời gian từ 1-2 tháng theo quy
định của pháp luật khiếu nại.
Thứ hai, một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác GQKN trong
lĩnh vực đất đai tinh thần trách nhiệm đối với công việc chưa cao, năng
lực còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, ảnh hưởng đến chất
lượng GQKN, gây bức xúc cho công dân.
Thứ ba, một số quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật chưa
được tổ chức thực hiện triệt để. Một số vụ việc mặc dù quyết định GQKN
đã có hiệu lực pháp luật, nhưng khi người dân tiếp tục khiếu nại vẫn được cơ
quan có thẩm quyền giao cho cơ quan chuyên môn xem xét, giải quyết lại.
Thứ tư, việc GQKN, giải quyết tranh chấp về đất đai có nơi làm chưa
triệt để, còn có biểu hiện ngại khó, ngại va chạm, không tổ chức đối thoại
với người khiếu nại. Nhiều vụ việc đã thanh tra, kiểm tra, có kết luận
nhưng chậm ban hành quyết định giải quyết.
Thứ năm, một số công dân do không hiểu biết, hoặc cố tình hiểu sai
chính sách, pháp luật về đất đai dẫn đến khiếu nại không có căn cứ,
không đúng sự thật, chạy theo lợi ích kinh tế, đeo bám dai dẳng, thái độ
gay gắt, quá khích. Một số công dân lợi dụng quyền khiếu nại để kích
động, gây rối làm mất an ninh trật tự và làm cho tình hình phức tạp thêm.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên:
Một là, chính sách, pháp luật về đất đai luôn thay đổi, còn chồng
chéo, bất cập. Công tác quản lý đất đai qua nhiều thời kỳ có cơ chế quản
lý khác nhau, bị buông lỏng trong thời gian dài. Việc lưu trữ hồ sơ phục
vụ công tác quản lý đất đai qua các thời kỳ còn nhiều thiếu sót.
17
Hai là, cấp ủy, chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa quan
tâm đúng mức đến công tác tiếp công dân, chưa phối hợp chặt chẽ giữa
việc tiếp công dân và GQKN nói chung, khiếu nại về đất đai nói riêng.
Một số vụ việc chưa được giải quyết kịp thời, nghiêm minh, gây bức xúc
trong nhân dân.
Ba là, biên chế cán bộ làm công tác GQKN về đất đai còn thiếu, chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Một số cán bộ trong khi thi hành công
vụ về quản lý đất đai chưa thực hiện đúng chính sách, pháp luật, sách
nhiễu, tiêu cực, gây bức xúc cho người dân trong quá trình đòi quyền lợi.
Bốn là, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, GQKN về
đất đai chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao, kiến thức, ý thức tôn trọng
và chấp hành pháp luật về đất đai, GQKN trong lĩnh vực đất đai của các
tầng lớp nhân dân còn hạn chế.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
Pháp luật khiếu nại là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp
luật, góp phần hiện thực hóa việc sử dụng pháp luật để bảo vệ các giá trị
mà Nhà nước pháp quyền đưa lại cho xã hội, cho con người. Khi quyền
khiếu nại của công dân được bảo đảm, thì Nhà nước và xã hội sẽ có
phương thức đơn giản, dễ thực hiện trong phòng ngừa đấu tranh với các
hành vi vi phạm pháp luật và kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong luận văn, tác giả trình bày về quan điểm hoàn thiện pháp luật
giải quyết khiếu nại về đất đai, bao gồm:
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên nền tảng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên cơ sở tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thực hiện công bằng xã hội
18
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên cơ sở đảm
bảo tính hệ thống, đồng bộ
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai theo
hướng mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
3.2.1. Rà soát, hệ thống hóa thường xuyên và sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật giải quyết khiếu nại đất đai
Công tác rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật GQKN
xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn quản lý nhà nước về khiếu nại, từ thực
trạng ban hành và thực hiện pháp luật GQKN. Để thực hiện công tác quản lý
nhà nước về khiếu nại, tố cáo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban
hành với một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản này
được ban hành vào những thời điểm khác nhau, trong những điều kiện và
hoàn cảnh khác nhau do vậy không thể tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn,
chồng chéo, lạc hậu so với tình hình phái triển của đất nước, tạo nên sự
thiếu đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật GQKN. Khắc phục tình trạng nêu trên cần phải tiến hành
thường xuyên rà soát và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật GQKN.
Pháp luật GQKN đất đai cần được hoàn thiện các nội dung sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai: Luật Đất đai năm 2013
mới vừa có hiệu lực thi hành, do đó, cần hướng dẫn thực hiện một cách
cụ thể, tránh áp dụng tùy tiện vấn đề thu hồi đất theo hướng khẳng định
rõ và rất hạn chế các trường hợp được coi là "thật sự cần thiết" mới được
thu hồi, theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, cần làm
rõ hơn vai trò của HĐND như là tiếng nói của cử tri trong việc kiểm soát
những quyết định thu hồi đất của UBND cùng cấp. Về xác định giá đất,
cần quy định thành phần bắt buộc trong hội đồng thẩm định giá đất,
không chỉ có UBND, đại diện ban, ngành liên quan, tổ chức cung cấp
dịch vụ định giá đất độc lập, mà còn cần tới nhiều thành viên là các
chuyên gia cao cấp về định giá đất như các chuyên gia định giá từ các cơ
sở đào tạo, viện nghiên cứu, khu vực doanh nghiệp định giá, hiệp hội
định giá. Với thành phần như vậy mới đảm bảo việc định giá đất có cơ sở
19
khách quan. Về lâu dài, cũng cần tính đến việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất
đai để luật hóa nội dung nói trên cho thực sự phù hợp với những yêu cầu
chung và với tình hình thực tế.
Hai là, đổi mới về mô hình tổ chức bộ máy giải quyết tranh chấp
hành chính trong lĩnh vực đất đai: Cần tăng cường trách nhiệm GQKN
của cơ quan hành chính nhà nước bằng các biện pháp: Xác định rõ chế độ
trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước là người có
thẩm quyền GQKN; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trách nhiệm
của người có thẩm quyền GQKN; chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử
lý nghiêm những người vi phạm, thiếu trách nhiệm trong công tác
GQKN. Đồng thời, bảo đảm, tăng cường tính độc lập, khách quan của
Tòa án trong việc xét xử các vụ án hành chính, các cấp Tòa án cần được
bố trí theo khu vực, vùng, không theo cấp hành chính lãnh thổ nhằm bảo
đảm tính độc lập khi xét xử các vụ án hành chính của Tòa án.
Ba là, hoàn thiện về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hành chính
trong lĩnh vực đất đai: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy
định về tổ chức đối thoại; luật sư tham gia quá trình GQKN; công khai,
minh bạch các tài liệu, chứng cứ của các bên; tăng cường việc "tranh
tụng" để phá vỡ tính "khép kín" trong quá trình GQKN. Đồng thời, quy
định thẩm quyền, căn cứ, thủ tục xem xét lại khiếu nại trong một số
trường hợp cụ thể khi phát hiện việc GQKN có vi phạm pháp luật; các vụ
việc khiếu nại phức tạp, kéo dài... Song song với giải pháp đối với trình
tự, thủ tục bằng con đường hành chính, cũng cần phải đơn giản, rút gọn
một số thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính trong
trường hợp vụ việc đơn giản, rõ ràng, có căn cứ để phán quyết và bảo
đảm, tăng cường hiệu lực xử vụ án hành chính của Tòa án, thông qua việc
nghiên cứu có cơ chế hữu hiệu thi hành bản án hành chính.
3.2.2. Đổi mới quy trình xây dựng ban hành văn bản quy phạm
pháp luật giải quyết khiếu nại
Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó quy
trình soạn thảo, thẩm định và trình ban hành có một vai trò rất quan trọng
20
cho nên cần tập trung làm tốt các khâu soạn thảo và thẩm định dự thảo
văn bản. Đối với hoạt động soạn thảo cần chú ý những vấn đề sau:
- Trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ của đơn vị nào thì giao cho đơn vị đó chủ trì việc soạn
thảo. Đơn vị chủ trì việc soạn thảo có trách nhiệm lập chương trình, kế
hoạch soạn thảo, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị có liên quan để thực
hiện đúng tiến độ và có chất lượng.
- Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng văn bản là cần đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa hoạt
động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bằng việc mở rộng phạm vi
và đa dạng hóa các hình thức tổ chức lấy ý kiến tham gia đóng góp của cá
nhân và các đơn vị có liên quan.
Công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về khiếu
nại, tố cáo cần tập trung chủ yếu vào những nội dung sau: sự cần thiết
phải ban hành văn bản; sự phù hợp của hình thức văn bản đối với vấn đề
cần được giải quyết; đối tượng và phạm vi điều chỉnh của văn bản; bố cục
của văn bản; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong
toàn hệ thống; tính khả thi của văn bản; kỹ thuật soạn thảo văn bản.
Sau khi thẩm định, đơn vị chủ trì soạn thảo trình hồ sơ đã được thẩm
định lên cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ký ban hành văn bản.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học pháp lý
và công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức liên quan
đến hoạt động xây dựng pháp luật giải quyết khiếu nại
Hoạt động nghiên cứu khoa học và thông tin khoa học pháp lý là
công tác mang tính bổ trợ cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật nói chung cũng như hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
khiếu nại, tố cáo nói riêng, nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng góp phần
vào việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn pháp lý đặt ra. Qua việc
nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu khoa học pháp lý sẽ đưa ra
nhiều đóng góp đáng kể đối với công tác xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về khiếu nại, tố cáo với mục tiêu chung là: Khắc phục sự chậm trễ
của khoa học xã hội... phát triển nhanh các ngành kinh tế học, xã hội học,
21
luật học, khoa học chính trị và khoa học quản lý, đặc biệt là khoa học
quản lý kinh tế và quản lý nhà nước.
Liên quan trực tiếp tới việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về khiếu nại, tố cáo là yếu tố con người. Muốn xây dựng và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng tốt cần có những con người
có năng lực, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý cao. Vì vậy, phải
đẩy mạnh công tác bồi dưỡng và đào tạo kiến thức trước hết cho đội ngũ cán
bộ, công chức có liên quan trực tiếp tới công tác xây dựng pháp luật về khiếu
nại, tố cáo kiến thức chuyên môn về xây dựng pháp luật, về khiếu nại, tố cáo,
nâng cao trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này cần tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi
dưỡng kiến thức pháp lý cho những đối tượng nhất định; ưu tiên cho những
đối tượng làm công tác pháp chế và những người có liên quan đến hoạt động
xây dựng pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng và xây dựng pháp luật nói
chung; đầu tư và khuyến khích đào tạo và sử dụng cán bộ về pháp lý có
trình độ trên đại học, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin để học
tập và khai thác kiến thức từ tài liệu và chuyên gia nước ngoài.
3.2.4. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của quyền khiếu nại
của công dân, của công tác giải quyết khiếu nại, huy động sức mạnh
đồng bộ của các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết khiếu nại
Khiếu nại, tố cáo của công dân là vấn đề có tính chính trị - pháp lý -
xã hội. Do đó, việc GQKN, tố cáo của nhân dân vừa là bức xúc vừa là lâu
dài, là vấn đề nhạy cảm, việc xử lý không chỉ thuần túy về quyền lợi về
kinh tế, mà nó gắn chặt với công tác chính trị tư tưởng, tổ chức, liên quan
đến an ninh và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rằng đảm bảo
hiệu lực, hiệu quả công tác GQKN, tố cáo không chỉ là công việc của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mà cần phải có sự lãnh đạo chặt
chẽ của cấp ủy đảng, sự phối hợp đồng bộ của các tổ chức chính trị - xã
hội: Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,
Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên và các đoàn thể khác.
Tiếp tục quán triệt tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật sâu
rộng trong cán bộ, nhân dân, để mọi người nắm vững và thực hiện
22
nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nhất là trong
lĩnh vực trọng tâm thường phát sinh nhiều khiếu nại như đất đai, nhà cửa,
chính sách xã hội, các lĩnh vực tư pháp, để cơ quan nhà nước, công dân
nắm vững và thực hiện; giám sát cán bộ, công chức thực hiện đúng pháp
luật. Tuyên truyền pháp luật về khiếu nại mà tập trung trước hết là Luật
khiếu nại.
3.2.5. Tập trung giải quyết dứt điểm các khiếu nại kéo dài, phức
tạp, kiên quyết xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật giải
quyết khiếu nại
Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ khiếu nại đông người,
phức tạp và vụ việc khiếu tố gay gắt, dai dẳng, kéo dài, chấn chỉnh các
mặt quản lý nhằm hạn chế các vi phạm pháp luật; giải quyết về cơ bản
tình trạng khiếu nại đông người không đúng chỗ. Đối với những vụ việc
khiếu nại đông người, phức tạp, kéo dài phải có những chủ trương, biện
pháp hiệu quả nhằm giải quyết dứt điểm, không để tình hình phức tạp
thêm, từng bước hạn chế và đi đến chấm dứt tình trạng khiếu nại này.
Việc xem xét, giải quyết các vụ việc phải dứt điểm từ địa phương, cơ sở
nơi phát sinh khiếu nại, đảm bảo lợi ích chính đáng của nhân dân và lợi
ích của Nhà nước. Quá trình xem xét, giải quyết phải dân chủ, công khai,
công bằng, kết hợp chặt chẽ giáo dục, thuyết phục và tôn trọng pháp luật;
kết hợp các biện pháp hòa giải, kinh tế, hành chính, hình sự để việc giải
quyết có hiệu quả và hiệu lực.
Xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ, công chức thiếu tinh thần
trách nhiệm trong việc GQKN, có hành vi tiêu cực, vi phạm quyền dân
chủ của nhân dân, lợi dụng quyền dân chủ làm trái pháp luật. Đối với
người khiếu nại đã được nhiều cấp, ngành giải quyết có lý, có tình, đúng
chính sách pháp luật, nhưng cố ý không chấp hành, lợi dụng khiếu nại để
đeo bám, gây mất trật tự xã hội, vu cáo và những kẻ kích động, cầm đầu,
đứng ra tổ chức khiếu nại trái pháp luật, thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm phải xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp có sai lầm, thiếu sót từ phía chính quyền mà gây
thiệt hại đến các lợi ích hợp pháp của công dân thì chính quyền phải công
23
khai xin lỗi dân và kiên quyết sửa chữa, bồi thường thỏa đáng cho dân và
xử lý công khai, nghiêm minh đối với cán bộ, công chức có sai phạm.
3.2.6. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công tác chỉ
đạo, điều hành việc giải quyết khiếu nại, nâng cao trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại
Thực tiễn cho thấy ở những nơi phát huy dân chủ, những việc liên
quan đến lợi ích chính đáng của người dân được công khai bàn bạc để
nhân dân biết và cùng thực hiện thì số lượng khiếu nại giảm phần lớn,
không có phát sinh khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người. Vì vậy, thực
hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở để mọi việc đều làm theo pháp luật
có sự giám sát, kiểm tra của quần chúng là vấn đề rất quan trọng để hạn
chế với mức tối đa việc vi phạm pháp luật, vi phạm quyền dân chủ là
nguyên nhân dẫn đến khiếu nại.
Thủ trưởng các cơ quan nhà nước các ngành, các cấp phải đề cao
trách nhiệm, quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp, các đơn vị thuộc
quyền xem xét giải quyết kịp thời các vụ khiếu nại thuộc thẩm quyền theo
đúng qui định của Luật khiếu nại, đặc biệt là các khiếu nại phức tạp, đông
người và phải chịu trách nhiệm đối với việc GQKN, thi hành các quyết
định GQKN đã có hiệu lực pháp luật.
KẾT LUẬN
Trong hệ thống các quyền con người, quyền công dân ở nước ta thì
quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân tồn tại với tư cách là "quyền
bảo vệ quyền". Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo,
công dân bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà
nước, xã hội, của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời việc thực
hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo thể hiện tính dân chủ của xã hội, tích
cực chính trị của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước, với xã hội.
Khiếu nại về đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội,
đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước
thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có
24
thì khiếu nại về đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số
lượng cũng như tính chất phức tạp về mặt nội dung.
Để công dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, quyền tố cáo, cũng
như để việc GQKN có hiệu lực, hiệu quả thì điều kiện quan trọng hàng
đầu là phải có một hệ thống cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn, đầy đủ,
đồng bộ. Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng một hệ
thống cơ sở pháp lý cho quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân cũng
như quan tâm tới việc GQKN của công dân.
Pháp luật GQKN về đất đai là một bộ phận quan trọng của pháp luật
về khiếu nại, pháp luật về đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung. Hệ thống pháp luật GQKN về đất đai quy định trình tự,
thủ tục, thẩm quyền GQKN về đất đai, các nguyên tắc và căn cứ GQKN
về đất đai... Hệ thống pháp luật này được xây dựng và phát triển dựa trên
nền tảng là cơ sở kinh tế của xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
các quan hệ kinh tế vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi pháp luật
GQKN về đất đai cũng phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, nhằm
đáp ứng được các yêu cầu của quản lý và SDĐ.
Trước sự phức tạp của các khiếu nại hiện nay, pháp luật về khiếu nại
có nhiều điểm tỏ ra còn bất cập chưa tương xứng với vai trò của mình đã
làm hạn chế không nhỏ tới việc công dân thực hiền quyền khiếu nại của
mình. Xuất phát từ những những yêu cầu và đòi hỏi của tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN và từ nhược điểm của pháp luật về khiếu nại cho thấy
việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả
về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và cả thời gian dài về sau.
Do vậy, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, bất
cập của pháp luật GQKN về đất đai, để trên cơ sở đề xuất các giải pháp
nhằm không ngừng hoàn thiện chế định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việc "nhận dạng" bản chất của khiếu nại về đất đai có ý nghĩa quan
trọng, song điều quan trọng hơn là phải xác lập được một cơ chế GQKN về
đất đai thích hợp, nhằm xử lý dứt điểm, nhanh chóng các khiếu nại về đất
đai góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_luat_giai_quyet_khieu_nai_ve_dat_dai_t.pdf