Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu không thể chối bỏ, mà ngược lại,
chúng ta phải chủ động hội nhập để tranh thủ tận dụng những cơ hội mà nó đưa23
lại nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia chỉ có thể xây dựng nguồn nội lực đủ
mạnh trên cơ sở một nền tảng tinh thần thật vững chắc, đó là bản sắc văn hóa
dân tộc và tính thống nhất trong đa dạng văn hóa. Việt Nam đã nhận thức rõ vai
trò quan trọng của ngoại giao văn hóa trong mục tiêu lợi ích quốc gia, và có
những hành động cụ thể thúc đẩy hình thức ngoại giao tích cực và hiệu quả này.
Thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, các giá trị, tinh hoa văn hóa và tri
thức của các nước trên thế giới đã được tiếp thu có chọn lọc nhằm góp phần làm
phong phú thêm nền văn hóa của Việt Nam, đồng thời chuyển tải nhiều ý tưởng
và chương trình lớn của Liên hợp quốc và UNESCO vào các chương trình hành
động quốc gia.
Bên cạnh đó, “Di sản hóa” là một xu hướng thịnh hành ở Việt Nam gần
đây. Xu hướng này dẫn đến nhiều hệ quả: một mặt là sự khát khao danh hiệu,
chạy theo và kiếm tìm sự tôn vinh danh hiệu; mặt khác, di sản cũng đang được
sử dụng như một thế mạnh và tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy di sản được
sinh ra trong cộng đồng, nhưng Nhà nước cũng phải đứng ra chủ trì việc quản lý
các di sản văn hóa chứ không thể phó mặc hết cho cộng đồng.
Các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh
chính là sự công nhận của thế giới đối những giá trị văn hóa tinh hoa truyền
thống của Việt Nam. Phú Thọ, một tỉnh có ba di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO công nhận, trong đó hát Xoan - di sản đầu tiên trên thế giới xin ra
khỏi Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp và chuyển
sang Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại có thể trở thành
một ví dụ điển hình cho sự thành công bước đầu từ mô hình quản lý nhà nước về
các di sản văn hóa sau khi được công nhận.
27 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về hoạt động thư viện công cộng - Từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c
và Phượng Lâu (nơi có các làng Xoan cổ), Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
Nam (nơi làm hồ sơ Ca trù của người Việt và hát Xoan Phú Thọ), Viện Văn hóa
4
Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (nơi làm hồ sơ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương), một số nghệ nhân dân gian và người dân ở Phú Thọ với 100 bảng hỏi
và tiến hành xử lý dữ liệu trên phần mềm Epidata.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để xử lý tư liệu thu
thập được từ thực tiễn và các bản ghi chép của các cá nhân tại địa phương nhằm
làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiến của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên trực tiếp nghiên cứu một cách toàn diện và
hệ thống về thực trạng quản lý nhà nước các di sản văn hóa phi vật thể đã được
UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; chỉ ra thực trạng hoạt động quản
lý nhà nước đối với các di sản văn hóa phi vật thể sau khi được ghi danh. Hình
thành các luận cứ khoa học nhằm bước đầu phác họa một mô hình quản lý nhà
nước về di sản văn hóa thế giới đang được áp dụng tại Phú Thọ, giúp làm tiền đề
tham khảo cho việc vận dụng và đề ra các giải pháp phù hợp, sát thực tiễn, chấn
chỉnh, đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể sau khi
được UNESCO vinh danh, góp phần bảo tồn, khai thác và phát huy di sản văn
hoá phi vật thể theo hướng bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học đối với quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi
vật thể đã được UNESCO công nhận
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã
được UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp quản lý nhà nước về di
sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.1.1. Di sản văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa
Văn hóa là một phạm trù rất rộng và có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau
khi định nghĩa về nó. Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra
và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội, song chính văn hóa
lại tham gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Di
sản văn hóa chính là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do một cộng đồng
người sáng tạo và tích lũy trong một quá trình lịch sử lâu dài và được lưu truyền
từ thế hệ trước cho thế hệ sau.
Di sản văn hóa bao gồm hầu hết các giá trị văn hóa do thiên nhiên và con
người tạo nên và được chia ra thành di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa
vật thể. Di sản văn hóa là phần tinh túy, mang tính chất đặc trưng của từng vùng
miền, được sáng tạo, bảo vệ, lưu truyền ở trong chính cộng đồng và được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.1.2. Đặc trưng, tính chất của di sản văn hóa
Đặc trưng cơ bản của di sản văn hóa phải mang những nét đặc trưng cơ
bản của văn hóa là: tính nhân sinh, tính lịch sử, tính giá trị và tính hệ thống.
Ngoài những đặc trưng cơ bản, di sản văn hóa còn có một vài đặc trưng
riêng xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của văn hóa đó là tính hiểu biết, tính
biểu tượng và tính sử liệu.
Tuy một đối tượng hay sự vật không nhất thiết phải hội tụ cả ba yếu tố
trên nhưng ít nhất phải có một tiêu chí đặc sắc thì đối tượng hay sự vật ấy mới
trở thành di sản văn hóa.
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể
1.1.2.1. Khái niệm
Trong khoản 1, điều 4 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di
sản văn hóa, số 32/2009/QH12 có nêu “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm
tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng,
6
không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.”
UNSECO cũng đã cố gắng cụ thể hóa tính “trừu tượng” của di sản văn
hóa phi vật thể bằng việc đưa ra một số định dạng của di sản văn hóa phi vật thể
như: tập quán, biểu đạt tri thức, kỹ năng, các không gian văn hóa có liên quan
Di sản văn hóa phi vật thể phải có sự gắn bó chặt chẽ với đời sống tinh thần của
cộng đồng, được lưu truyền, tái tạo để tạo nên bản sắc riêng của mỗi một cộng
đồng và sự đa dạng văn hóa trên toàn thế giới.
1.1.2.2. Đặc điểm, tính chất của di sản văn hóa phi vật thể
Tính chất của di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: tính truyền thống,
đương đại, sống động; tính bao hàm, tính đại diện, tính tùy thuộc vào cộng đồng.
UNESCO và các quốc gia đều công nhận di sản văn hóa phi vật thể có những
giá trị cơ bản sau: giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị khoa học, giá trị gắn
kết các dân tộc. Ngoài ra, di sản văn hóa phi vật thể còn có giá trị về kinh tế.
Di sản văn hóa phi vật thể không “nhất thành bất biến” mà chúng hàm
chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang hơi thở của thời
đại. Điều đó còn nhấn mạnh rằng để tồn tại đến ngày hôm nay, di sản văn hóa
phi vật thể đã trải qua một quá trình sàng lọc và sáng tạo không ngừng nghỉ.
1.1.3. Di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận tại Việt Nam
Danh hiệu UNESCO ở Việt Nam bao gồm danh sách khu dự trữ sinh
quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản thiên
nhiên, di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam đã được
UNESCO công nhận.
Tính đến tháng 12 năm 2016, Việt Nam đã có 11 di sản văn hóa phi vật
thể được UNESCO công nhận là: Nhã nhạc cung đình Huế (2003); Không gian
văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (2005), Dân ca Quan họ (2009); Ca trù
(2009); Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng, Hà Nội (2010); hát Xoan
(2011);Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (2012); Đờn ca tài tử Nam Bộ (2013),
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh (2014); nghi lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam,
Campuchia, Hàn Quốc và Philippines (2015), Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của
người Việt( 2016).
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ CÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.2.1. Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa góp phần định hướng, điều chỉnh
sự phát triển văn hóa của quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ trương, đường lối
văn hóa, văn nghệ của Đảng; từ đó tác động đến mục tiêu, bản chất của văn hóa
7
dân tộc. Trong công tác quản lý văn hóa không thể thiếu việc quản lý các di sản
văn hóa. Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Công tác bảo vệ và phát huy di
sản đã có một truyền thống lâu đời và nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng,
Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành từ trung ương đến địa phương.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Cục Di sản văn hóa là cơ quan có chức
năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về di sản
văn hóa, được Bộ trưởng giao trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động phát
triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phạm vi cả nước.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Phòng Văn hoá và Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp huyện, dưới nữa là quản lý văn hóa cấp xã, phường, có ban Văn xã, và cộng
đồng đang gìn giữ di sản.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận
1.2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã được
UNESCO công nhận
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể là việc Đảng và Nhà nước
sử dụng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách thông qua bộ máy quản lý tác
động có tính chất định hướng tới cộng đồng xã hội nhằm đạt được mục tiêu bảo
tồn và phát huy giá trị các di sản. Đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã được
UNESCO công nhận thì quốc gia đang sở hữu di sản đó yêu cầu phải tuân theo
đúng những cam kết bảo tồn và phát huy đã nêu ra trong hồ sơ đệ trình, cũng
như những điều khoản của Công ước 2003 mà nước đó là thành viên. Quản lý
nhà nước về các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh nhìn chung
vẫn giống với việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước, nhưng
vẫn có những đặc trưng riêng biệt.
1.2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO công nhận
* Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý nhà
nước đối với di sản văn hóa phí vật thể đã được UNESCO công nhận
Quản lý nhà nước về di sản nói chung và quản lý nhà nước về di sản văn
hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận nói riêng có công cụ là hệ thống
luật và các văn bản có tính pháp quy. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu
tiên đưa di sản văn hóa phi vật thể trở thành đối tượng điều chỉnh của Luật Di
8
sản văn hóa năm 2001 và được điều chỉnh, bổ sung năm 2009. Các tiêu chí để
bảo tồn và lưu truyền di sản văn hóa phi vật thể của thế giới cũng được thể hiện
một cách rõ ràng và cụ thể hóa trong Luật và Nghị định. Tuy đó là một quá trình
dài và yêu cầu sự hợp tác phối hợp của rất nhiều bên, nhưng khi một di sản văn
hóa phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh thì đó không chỉ là
niềm tự hào của riêng địa phương mà còn là cách để Việt Nam nâng cao vị thế
của mình trên thế giới. Đây là cách quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới một
cách hiệu quả, tinh tế và thuyết phục.
* Xây dựng và vận hành bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về di sản văn hóa phí
vật thể đã được UNESCO công nhận
Việc quản lý các di sản sau khi được công nhận vẫn gắn liền với chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý di sản văn hóa từ trung ương đến địa
phương, trong đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
Bộ máy quản lý các di sản văn hóa phi vật thể sau khi được UNESCO
công nhận thì ngoài bộ máy quản lý nhà nước về các di sản văn hóa phi vật thể
còn cần thêm sự quản lý và giám sát của Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam
(Bộ Ngoại giao). Đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công
nhận thì theo cam kết với UNESCO, quốc gia có di sản được công nhận phải
báo cáo về tình trạng của di sản theo định kỳ. Yêu cầu báo cáo định kỳ đối với
Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là 6 năm, đối với Di sản văn
hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp là 4 năm.
* Tuyên truyền, phổ biến và phát huy các di sản văn hóa phí vật thể đã được
UNESCO công nhận
Sau khi được UNESCO công nhận, thì các di sản của địa phương đã
vượt xa khỏi tầm quốc gia mà đã trở thành di sản của thế giới. Nhà nước và các
tỉnh có di sản được vinh danh luôn quan tâm đến việc tuyên truyền, phổ biến và
giáo dục về các di sản, gây dựng niềm tự hào trong nhân dân và ở các cộng đồng
đang trực tiếp gìn giữ di sản. Hàng loạt kế hoạch, chương trình đưa di sản vào
dạy trong nhà trường cũng như đào tạo cán bộ, giảng viên chuyên sâu về di sản
đã được triển khai liên tục và rộng khắp trên cả nước trong những năm qua.
1.2.3. Yêu cầu và sự cần thiết của quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi
vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận
Tuy di sản văn hóa phi vật thể là một phần quan trọng cấu thành nên di
sản văn hóa nhưng nó lại không được quan tâm như những di sản văn hóa vật
thể. Xác định được tầm quan trọng của di sản văn hóa và đặc biệt là di sản văn
hóa phi vật thể, Đảng và Chính phủ đã luôn nhấn mạnh đến vai trò chủ chốt của
các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý di sản văn hóa phi vật thể.
9
Việt Nam đã ý thức được từ sớm vai trò của UNESCO trong việc bảo vệ
di sản và đặc biệt là Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (Công ước
2003). Sau khi các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận thì Nhà
nước và các cấp quản lý đã có trách nhiệm hơn trong việc bảo tồn, khai thác và
lưu truyền các di sản đó. Vai trò của quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa
phi vật thể được UNESCO vinh danh là rất quan trọng. Điều này đảm bảo các di
sản văn hóa phi vật thể sau khi được công nhận sẽ được bảo vệ và phát huy một
cách đúng đắn.
1.3. THÁCH THỨC, KHÓ KHĂN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa còn nhiều
hạn chế, chưa đồng bộ. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa chưa phát
huy hiệu quả cao. Một số văn bản pháp luật về di sản văn hóa mà đặc biệt là di
sản văn hóa phi vật thể chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, việc tổ chức
thực hiện còn chậm chạm, quan liêu, một số văn bản chưa thực sự đi vào cuộc
sống. Công tác kiện toàn tổ chức, bộ máy nhân sự ngành Văn hóa, nhất là khi
mới sáp nhập thành bộ đa ngành còn nhiều lúng túng. Thêm vào đó, năng lực
của nguồn nhân lực quản lý văn hóa của đất nước vẫn còn nhiều yếu kém
Năng lực quản lý nhà nước về các di sản văn hóa phi vật thể ở một số địa
phương còn chưa cao. Sự tách bạch giữa quản lý nhà nước với hoạt động tác
nghiệp chưa rõ, vẫn còn sự trùng chéo, nhầm lẫn giữa chức năng quản lý nhà
nước với chức năng triển khai các hoạt động mang tính sự nghiệp. Có lúc, có nơi
còn có biểu hiện buông lỏng quản lý. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nội
dung quản lý ở một số đơn vị còn yếu, ngân sách sử dụng chưa hiệu quả.
Đặc biệt, đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công
nhận, trong việc quản lý các di sản đó, Việt Nam còn phải tuân theo những điều
đã cam kết trong Công ước 2003.
1.4. KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.4.1. Kinh nghiệm từ các địa phƣơng có di sản văn hóa phi vật thể đƣợc
UNESCO công nhận
1.4.1.1. Tỉnh Thừa Thiên Huế
1.4.1.2. Tỉnh Bắc Ninh
1.4.2. Kinh nghiệm từ các quốc gia có di sản văn hóa phi vật thể đƣợc
UNESCO công nhận
10
UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên, trụ sở chính đặt tại Paris,
Pháp. Trong nhiều năm qua, hàng trăm các di sản văn hóa phi vật thể của các
quốc gia khác nhau đã được UNESO ghi danh. Sau khi được công nhận, mỗi
nước lại có một hình thức bảo tồn và phát huy di sản khác nhau.
1.4.2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
1.4.2.2. Kinh nghiệm của Nigeria
1.4.3. Bài học về quản lý nhà nƣớc đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận
Các tỉnh như Huế hay Bắc Ninh đều đã trở thành một tấm gương trong
việc bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể sau khi được UNESCO công nhận.
Với kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng các
nước rất quan tâm đến việc quảng bá di sản văn hóa. Chính phủ các nước đều
thành lập các cơ quan chuyên trách để bảo tồn và phát huy các di sản. Đồng
thời, các quốc gia sử dụng di sản như một “chìa khóa” ngoại giao hiệu quả và
thuyết phục.
11
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
2.1. TỔNG QUAN VỀ TỈNH PHÚ THỌ
2.1.1. Địa lý hành chính
Phú Thọ là tỉnh thuộc trung du miền núi phía Bắc, nằm trong khu vực
giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc (vị trí địa lý
mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông - Bắc).
Thành phố Việt Trì là điểm đầu của tam giác châu Bắc Bộ - trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh Phú Thọ. Đây cũng là nơi
tập trung của rất nhiều loại hình di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Phú
Thọ. Bốn phường Xoan cổ là Phù Đức, Kim Đái (Kim Đới), Thét và An Thái
nằm ở 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu nằm ở Phú Thọ. Câu lạc bộ Ca trù cũng
nằm ở thành phố Việt Trì. Theo các nghiên cứu thì xưa kia ở Phú Thọ, ca trù
từng tồn tại song hành với các làn điệu dân ca Xoan, Ghẹo - đặc sản của địa
phương. Việt Trì còn nổi tiếng với Đền Hùng - khu Di tích Lịch sử đặc biệt cấp
Quốc gia, đây chính là trung tâm thực hành Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
lớn nhất và lâu đời nhất của dân tộc Việt Nam.
2.1.2. Lịch sử hình thành
Phú Thọ được coi là vùng Đất tổ, mảnh đất linh thiêng của dân tộc Việt
Nam với hàng ngàn năm lịch sử, nơi khởi nghiệp của 18 đời vua Hùng, mảnh
đất được coi là văn hiến và văn vật với nền văn minh nông nghiệp từ thuở sơ
khai dựng nước. Mảnh đất này đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử nên còn lưu giữ
rất nhiều giá trị thiên nhiên và di sản văn hóa vô cùng phong phú.
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi với rất nhiều tiềm năng để phát
triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của vùng chuyển
biến tích cực, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục và công tác xã hội đã có những tiến bộ
đáng kể; điều kiện và mức sống của nhân dân trong tỉnh được nâng cao rõ rệt,
bước đầu tạo diện mạo mới về kinh tế - xã hội, đưa Phú Thọ hòa nhập cùng cả
nước trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ đến năm 2020” với mục tiêu “Xây dựng Phú Thọ
12
trở thành Trung tâm kinh tế Vùng; là một trong những trung tâm khoa học, công
nghệ; giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch của vùng trung du và
miền núi Bắc Bộ; là đầu mối giao thông quan trọng nội Vùng”.
2.1.4. Đặc điểm văn hóa
Phú Thọ là mảnh đất thiêng liêng cội nguồn của dân tộc Việt Nam với
hàng ngàn năm lịch sử. Với dòng chảy của lịch sử, Phú Thọ là nơi bảo lưu các
giá trị văn hoá dân gian cổ truyền, hệ thống di tích và lễ hội. Nơi đây lưu giữ và
bảo tồn một khối lượng lớn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đa dạng,
phong phú và đặc trưng, phản ánh cuộc sống của cư dân nông nghiệp trong tiến
trình lịch sử hình thành và phát triển của quốc gia, dân tộc. Đến với Phú Thọ,
người ta có thể tìm ra những lời giải đáp của quá khứ về văn hóa dân tộc đi từ
cội nguồn, có thể xới lên nhiều tầng văn hóa chồng phủ lên nhau, trong đó có cả
tầng nền móng để đi từ văn hóa Văn Lang tới văn hóa Đại Việt.
2.1.5. Khái quát về các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ - vùng đất này hiện đang bảo tồn, phát huy giá trị 1372 di tích
lịch sử gồm 161 di tích khảo cổ học, 262 chùa, còn lại là di tích kiến trúc nghệ
thuật hoặc dấu vết kiến trúc và các di tích lịch sử cách mạng kháng chiến. Trong
số đó có di tích lịch sử Đền Hùng được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp
quốc gia đặc biệt; 73 di tích được xếp hạng quốc gia, 12 di tích lịch sử; 207 di
tích kiến trúc nghệ thuật đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Có
260 lễ hội, gồm 223 lễ hội dân gian, 5 lễ hội tôn giáo, 32 lễ hội cách mạng; hiện
còn 97 lễ hội được duy trì hoạt động thường niên và mới khôi phục lại.
2.2. CÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO
CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
2.2.1. Ca Trù của ngƣời Việt
Ca Trù có nhiều tên gọi, theo từng địa phương. Có nơi gọi là hát cửa
đình, hát ả đào, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò và hát ca công.
Ca Trù là loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong
kho tàng âm nhạc Việt Nam; gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn
chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. năm 2009, Ca trù được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Tỉnh Phú Thọ hiện có 3 câu lạc bộ Ca Trù đang duy trì hoạt động là câu
lạc bộ Ca Trù của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, câu lạc bộ Ca Trù thành phố
Việt Trì và câu lạc bộ Ca Trù xã Bình Bộ (huyện Phù Ninh).
2.2.2. Hát Xoan
Hát Xoan còn được gọi là Khúc môn đình, Ca môn đình (hát cửa đình), là
lối hát thờ thần; tương truyền có từ thời các Vua Hùng. Hát Xoan là loại hình
13
dân ca nghi lễ phong tục, với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa;
thường biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng Đất Tổ Hùng Vương-Phú
Thọ. Hát Xoan Phú Thọ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
cần được bảo vệ khẩn cấp ngày 24 tháng 11 năm 2011.
2.2.3. Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phải một tôn giáo mà chính là
biểu trưng của lòng thành kính, sự biết ơn- tri ân công đức các Vua Hùng là
những người có công dựng nước Văn Lang. Hàng năm, Việt Nam lấy ngày
mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ Tổ hay còn gọi là Quốc giỗ.
Năm 2012, UNESCO đã công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở
Phú Thọ, Việt Nam” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được phủ rộng với mật độ dày đặc ở tất cả các
làng, xã, song Đền Hùng là trung tâm thực hành Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương lớn nhất và lâu đời nhất trong tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc
Việt Nam.
2.2.4. Hiện trạng chung của các di sản
Nhiều giá trị văn hóa phi vật thể bị biến dạng và bị mai một, thất truyền.
Hai di sản văn hóa phi vật thể của Phú Thọ được UNESCO công nhận đó là Ca
Trù và hát Xoan thì đều được xếp vào Danh sách cần được bảo vệ khẩn cấp. Các
di sản văn hóa phi vật thể hầu hết được truyền khẩu. Các nghệ nhân đều đã cao
tuổi và có rất nhiều người đã qua đời làm mất mát một phần lớn các di sản.
2.3. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ
ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
2.3.1. Xây dựng, ban hành, tổ chức thực thi chính sách về di sản văn hóa
phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc những khuyến
nghị của UNESCO tại Điều II của Công ước 2003 liên quan tới trách nhiệm của
mỗi quốc gia thành viên. Sau khi các di sản của tình được công nhận, Phú Thọ
đã có những chủ trương, chính sách, biện pháp tích cực để bảo vệ và phát huy
giá trị các di sản.
* Ca trù của người Việt
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã xây dựng kế hoạch,
tham mưu cho UBND tỉnh có chính sách hỗ trợ nghệ nhân cao tuổi và tăng
cường tổ chức các lớp truyền nghề; đồng thời xây dựng, ban hành cơ chế quản
lý, tổ chức và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các câu lạc bộ Ca trù. Hiện nay, Sở
đang xây dựng kế hoạch, tham mưu cho UBND tỉnh để có chính sách hỗ trợ các
nghệ nhân cao tuổi và tăng cường tổ chức các lớp truyền dạy cho lớp trẻ. Đồng
14
thời, xây dựng và ban hành cơ chế quản lý, tổ chức và kinh phí hoạt động cho
các câu lạc bộ Ca trù.
* Hát Xoan Phú Thọ
Ngay từ khi hát Xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi
vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại, UBND tỉnh Phú Thọ đã ban
hành “Chương trình Hành động về việc Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp - hát Xoan Phú Thọ, giai đoạn 2012 - 2015”.
Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - hát Xoan Phú
Thọ, giai đoạn 2013 - 2020”. Bên cạnh những chính sách của Đảng và Nhà
nước, tỉnh Phú Thọ chú trọng làm tốt công tác rà soát, tôn vinh các danh hiệu
cao quý.
Việc tu bổ, tôn tạo lại các di tích liên quan đến hát Xoan như miếu Lãi
Lèn, đình Thét, đình An Thái, để khôi phục lại một không gian riêng cho hát
Xoan được tỉnh hết sức chú trọng. Tỉnh Phú Thọ đã tăng cường các nguồn lực
đầu tư từ ngân sách Nhà nước đi đôi với các nguồn lực xã hội hóa để bảo vệ,
phát huy giá trị các di sản nhưng vẫn gắn liền với cộng đồng.
Những kết quả trên là cơ sở để tỉnh Phú Thọ hoàn thành hồ sơ đề nghị
UNESCO xem xét, công nhận đưa hát Xoan ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn
cấp và chuyển sang danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
* Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Sau 4 năm Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, tỉnh Phú Thọ đã tiếp
tục công tác nghiên cứu, kiểm kê khoa học các di tích thờ cúng Hùng Vương
trên địa bàn tỉnh và cả nước. Tỉnh đã bảo tồn, khôi phục hoạt động Giỗ Tổ Hùng
Vương - Lễ hội Đền Hùng hàng năm gắn với “Chương trình về miền lễ hội cội
nguồn dân tộc Việt Nam”, chương trình “Du lịch về cội nguồn 3 tỉnh Phú Thọ -
Yên Bái - Lào Cai”... Phú Thọ có nhiều chương trình, dự án, đề tài khoa học liên
quan đến Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với tính thực tiễn hiệu quả cao.
Các chính sách do Nhà nước và tỉnh Phú Thọ đưa ra đã bước đầu giúp
khôi phục lại các di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận trên
địa bàn tỉnh. Việc các di sản được công nhận đã giúp cho công tác bảo tồn được
đề ra và thực thi một cách đồng bộ, có hệ thống hơn. Bước đầu, việc khôi phục
và bảo tồn các di sản thế giới đã được các cấp lãnh đạo quan tâm cũng như tích
cực tìm hướng phát triển để quảng bá những di sản đó.
2.3.2. Bộ máy tổ chức quản lý nhà nƣớc về văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận của tỉnh Phú Thọ
15
Cũng giống như bộ máy quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa phi
vật nói chung, bộ máy tổ chức quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã được
UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng có sự phân cấp rõ rệt.
Chính phủ thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Do đặc thù của các
di sản được công nhận, các di sản không chỉ mang tầm quốc gia mà đã trở thành
di sản của thế giới, nên cần một bộ phận chuyên trách của quốc gia quản lý
chúng đó là Uỷ ban quốc gia UNESCO Việt Nam.
Bộ máy quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa phi vật thể sau khi
được UNESCO công nhận ở các địa phương có di sản thường là giống nhau, tuy
nhiên, do đặc thù của Phú Thọ nên 3 di sản thế giới của tỉnh đang được đặt dưới
sự quản lý của hai bên khác nhau đó là Sở Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Khu di
tích lịch sử quốc gia Đền Hùng - nơi trực tiếp nắm giữ và thực hành di sản.
Ca trù và hát Xoan thuộc sự quản lý trực tiếp của Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Phú Thọ. Hàng năm, cán bộ quản lý cấp địa phương, nơi có các
cộng đồng đang gìn giữ di sản phải báo cáo thường xuyên về công tác bảo tồn
và phát huy. Đặc biệt, cả hai di sản này đều được UNESCO ghi vào Danh sách
cần được bảo vệ khẩn cấp, nên các biện pháp bảo vệ càng cần sự quan tâm và có
sự giám sát chặt chẽ của Sở.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lại nằm dưới sự quản lý của Ban Quản
lý khu di tích Đền Hùng - nơi trực tiếp lưu giữ, thực hành của tín ngưỡng này.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã trở thành đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND
tỉnh Phú Thọ, hàng năm, Ban quản lý di tích phải làm hồ sơ báo cáo tỉnh về tình
trạng và công tác bảo tồn di sản. UBND tỉnh sẽ tổ chức họp tổng kết và gửi báo
cáo cho Cục Di sản cũng như Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (ban thư ký
của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam) để báo cáo về thực trạng và công tác
bảo tồn di sản theo cam kết với UNESCO.
2.3.3. Tuyên truyền, giáo dục và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Sau khi các di sản văn hóa phi vật thể của Phú Thọ được công nhận thì
các cơ quan báo chí trong tỉnh cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền đến các
cơ quan, địa phương và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo tồn di
sản văn hóa, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân
trong việc xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh;
quảng bá về ý nghĩa, tầm quan trọng đồng thời khôi phục và phát huy giá trị của
các di sản trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Các di sản văn hóa
phi vật thể của Phú Thọ sau khi được vinh danh đã được quảng bá rộng rãi ra thế
giới thông qua các kênh khác nhau, mang lại cơ hội phát triển du lịch lớn cho
Phú Thọ.
16
Tỉnh Phú Thọ còn tuyên truyền giáo dục thông qua việc mở các lớp
truyền dạy hát Xoan tới mọi lứa tuổi, tầng lớp bằng các biện pháp: khuyến
khích, hỗ trợ cộng đồng truyền dạy, đào tạo thế hệ trẻ để sáng tạo, tiếp nối, duy
trì và phát triển di sản văn hóa phi vật thể trong cuộc sống đương đại. Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Phú Thọ đã
bước đầu thực hiện thành công việc đưa hát Xoan vào chương trình hoạt động
ngoại khóa ở các trường học. Phú Thọ đã tích hợp hát Xoan vào chương trình giảng
dạy âm nhạc ở hầu hết các trường học trên địa bàn tỉnh (cả 4 khối từ mầm non đến
trung học phổ thông).
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
2.4.1. Kết quả đạt đƣợc trong công tác quản lý các di sản văn hóa phi vật
thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Giai đoạn 2011 - 2015, hơn 50 di tích lịch sử - văn hóa - không gian
văn hóa bảo tồn và thực hành di sản “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”, được
đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi. Nhiều hoạt động sinh hoạt văn hóa truyền
thống được phục hồi làm phong phú đời sống tinh thần của cộng đồng.
Cùng với sự chuyển biến về nhận thức, sự phục hồi hát Xoan là rất
mạnh mẽ: số lượng thành viên ở 4 phường Xoan đều tăng. Nhiều công trình
nghiên cứu về hát Xoan Phú Thọ đã được xuất bản. Nhà nước ban hành các
chính sách, phê duyệt đề án, dự án bảo vệ và nhanh chóng đưa hát Xoan ra khỏi
tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp. Từ những thành công bước đầu trong hành trình
bền bỉ bảo tồn di sản hát Xoan, ngày 22 tháng 11 năm 2015, ông Hà Kế San,
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ cho biết, tỉnh Phú Thọ đã chính thức đề nghị
các cơ quan chức năng đệ trình hồ sơ, báo cáo UNESCO đưa hát Xoan ra khỏi
danh mục di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại, và nếu
được chấp thuận thì đây sẽ trở thành trường hợp đầu tiên trên thế giới.
2.4.2. Tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý các di sản văn hóa phi vật thể
đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Thứ nhất, Nhà nước và địa phương chưa có những chính sách đồng bộ
để phát huy cả 3 di sản thế giới. Hiện nay, 3 di sản thuộc các bên quản lý khác
nhau, điều này đã gây khó khăn trong việc thống nhất quản lý cũng như chưa
đưa ra được các chương trình liên kết và quảng bá tất cả các loại hình di sản.
Khi đánh giá cả 3 di sản thế giới thì hầu như tỉnh đã quên các chính sách dành
cho Ca trù, hiện nay di sản này vẫn đang loay hoay tìm hướng tự tồn tại. Đã có
rất nhiều chuyên gia cảnh báo rằng, nếu tỉnh Phú Thọ không đưa ra được các
17
chính sách kịp thời, hợp lý giúp bảo tồn và gìn giữ di sản thì vùng đất Tổ sẽ vĩnh
viễn đánh mất Ca trù.
Thứ hai, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về di sản chưa được thực
hiện một cách đồng bộ. Tuy rằng tỉnh cũng đã thực hiện rất nhiều biện pháp để
tuyên truyền giáo dục về di sản văn hóa nhưng lại hầu như tập trung chủ yếu vào
hai di sản là Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và hát Xoan mà đã quên mất các
di sản khác, đó là Ca trù. Công tác giáo dục cũng như phổ biến Ca trù còn nhiều
yếu kém, các nghệ nhân biết Ca trù tuổi đều đã cao hoặc đã qua đời, những
người hiểu và hát được Ca trù tại Phú Thọ hiện còn rất ít. “Hiệu ứng di sản”
thuần túy không nuôi nổi Ca trù, sự tồn tại của các câu lạc bộ mỗi lúc càng trở
nên lỏng lẻo vì thiếu vắng khán giả và thiếu nguồn kế cận để tiếp tục duy trì hoạt
động.
Thứ ba, việc thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm đã không được các cán
bộ quản lý địa phương thực hiện nghiêm ngặt và cụ thể.
2.4.3. Những yếu tố tác động đến quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Các di sản văn hóa phi vật thể được sinh ra từ cộng đồng nên để duy trì nó
phải gắn với cộng đồng, gắn với không gian văn hóa bao đời nay, nhưng điều
này rất khó trong việc quảng bá di sản. Nếu nhà quản lý phó mặc hết cho cộng
đồng tự gìn giữ di sản thì sẽ dẫn đến những sai lệch, làm biến đổi, méo mó di
sản.
Xuất hiện xu hướng nhà nước hóa, hiện đại hóa Tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương ở một số lễ hội, chính quyền địa phương không hiểu biết về di sản
mà lại tham gia chỉ đạo làm cho các nghi thức bị sai lệch, sao chép mất đi bản
sắc riêng và tách di sản phi vật thể ra khỏi không gian văn hóa của nó.
Đội ngũ cán bộ văn hoá từ cấp huyện đến cấp xã còn hạn chế nhất định về
năng lực hướng dẫn, tổ chức, phục dựng các hoạt động văn hoá dân gian; bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Ngoài ra, cấp uỷ, chính quyền
một số nơi chưa nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của di
sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể trong quá trình đổi mới và hội
nhập quốc tế. Việc đuổi theo lợi ích kinh tế nhiều lúc đã gây ra những ảnh
hưởng xấu đến việc bảo tồn nguyên gốc các di sản.
Nguồn kinh phí, phương tiện, kỹ thuật, con người để đầu tư, bố trí cho
hoạt động bảo tồn, khai thác còn gặp không ít khó khăn. Đặc biệt, việc thiếu
nguồn vốn và sự đầu tư chưa đúng đắn đã gây ra những khó khăn trong việc bảo
tồn các di sản, đặc biệt với các di sản cần được bảo vệ khẩn cấp như hát Xoan và
Ca trù.
18
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO
CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
3.1. QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỤC TIÊU VỀ BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY CÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC
UNESCO CÔNG NHẬN
3.1.1. Quan điểm của Đảng về việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một chính sách lớn, xuyên
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm đó đã được
thể hiện rất rõ trong nhiều văn kiện quan trọng như: Đề cương văn hóaViệt Nam
(1943). Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL về
việc bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII) về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sau
15 năm thực hiện, đã ghi nhận: sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng, công tác
quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được
hoàn thiện.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI về “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học”. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Gắn kết bảo tồn, phát huy di
sản văn hóa với phát triển du lịch. Phát huy các di sản được UNESCO công
nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.
Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa trong chiến lược phát triển văn hóa
đến năm 2020 được xác định rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của
Đảng. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nghiên cứu và vận dụng sáng tạo 5
quan điểm chỉ đạo và xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có nhiệm vụ
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
3.1.2. Phƣơng hƣớng chung về việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể
Văn hóa chính là “sức mạnh mềm” trong sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Chính vì vậy, các quốc gia ngày càng chú ý nhiều đến các chủ đề văn hóa, như
đa dạng văn hóa, đối thoại giữa các nền văn hóa - văn minh, văn hóa hòa bình.
Việt Nam cũng rất cần hình thành mạng lưới các tổ chức có trách nhiệm bảo tồn
di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời tạo ra sự hợp tác liên địa phương
19
cũng như tạo lập một diễn đàn trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm trong
nước và quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Mạng lưới di sản đó sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản văn hóa, đặc biệt là các
di sản đã được UNESCO công nhận, cũng như làm tăng thêm vị thế của Việt
Nam trong các kỳ họp của Uỷ Ban di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, Uỷ
Ban liên chính phủ về di sản văn hóa phi vật thể. Uỷ ban Quốc gia UNESCO
Việt Nam và Cục Di sản văn hóa cần trở thành đầu mối quan trọng trong lĩnh
vực hoạt động này.
Đối với tỉnh Phú Thọ cần tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế
nguồn tài nguyên du lịch phong phú sẵn có. Các di sản chính là bản sắc văn hóa,
tiềm năng du lịch to lớn của tỉnh. Đây là hình thức phát triển du lịch theo hướng
bền vững, hiệu quả cao gắn với lợi ích cộng đồng dân cư tại các khu, điểm du
lịch.
3.1.3. Mục tiêu của Phú Thọ về việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể
trên địa bàn tỉnh
Trong năm tới, Phú Thọ cần làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn và phát huy
giá trị Ca trù để khôi phục lại loại hình truyền thống đang báo động đỏ này, cũng
như tiếp tục thực hiện các kế hoạch bảo vệ “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương”. Đặc biệt, tỉnh cần hoàn thành các nhiệm vụ và thực hiện tốt các cam
kết để đề nghị UNESCO đưa hát Xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ
khẩn cấp và trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hiện nay, UBND tỉnh Phú Thọ cùng các sở, ban, ngành chức năng đang
nỗ lực thực hiện các chính sách trong công cuộc bảo tồn gìn giữ, phát huy các di
sản văn hóa, đồng thời đẩy mạnh quảng bá hình ảnh, nét văn hóa truyền thống
cội nguồn với tất cả các quốc gia bè bạn trên toàn thế giới. Các di sản văn hóa
phi vật thể đã được UNESCO công nhận chính là biểu tượng giúp khẳng định
bản sắc đồng thời là tiềm năng to lớn đối với việc phát triển du lịch của tỉnh Phú
Thọ.
3.2. HỆ THỐNG CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC
UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
3.2.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật
thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
* Phân cấp quản lý
Do đặc thù của những di sản văn hóa phi vật thể đã được thế giới công
nhận mà Phú Thọ càng cần phải thành lập riêng một ban chuyên trách để quản lý
các di sản này. Các di sản sau khi được công nhận đều phải thực hiện chương
20
trình bảo tồn và phát huy theo cam kết của tỉnh với UNESCO. Để việc quản lý
các di sản này đạt được hiệu quả cao thì việc thành lập ban chuyên môn am hiểu
về di sản, được đào tạo bài bản về công tác bảo tồn, thường xuyên được bồi
dưỡng thông qua các khóa tập huấn trong và ngoài nước là điều cần thiết cũng
như cần phải sớm thực hiện.
* Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về di sản văn hóa phi vật thể
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. Đặc biệt đối với các di sản đã
được UNESCO công nhận, cán bộ làm công tác quản lý di sản càng phải nắm rõ
được về di sản và cảnh báo thực trạng mai một nghiêm trọng của các di sản thế
giới.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên phối hợp với Cục Di sản văn hóa
(Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam
và Văn phòng UNESCO Hà Nội, tổ chức các khóa tập huấn về kiểm kê di sản
văn hóa phi vật thể dựa vào cộng đồng. Khi quản lý các di sản văn hóa thế giới,
cán bộ quản lý di sản văn hóa không chỉ đòi hỏi phải nắm rõ về các luật, nghị
định, chính sách quản lý di sản văn hóa của Việt Nam, mà còn phải có sự hiểu
biết Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể mà Việt Nam đã
đồng ý tham gia. Cán bộ quản lý di sản phải hiểu và biết sử dụng bộ tài liệu của
UNESCO về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể.
3.2.2. Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả xây dựng, ban hành và tổ chức thực
thi chính sách về quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO
công nhận
Nhà nước cần ban hành quy chế quản lý cụ thể đối với các di sản văn
hóa phi vật thể sau khi được UNESCO công nhận. Xây dựng khung pháp lý về
bảo vệ và phát huy các di sản đối với từng loại danh sách:
- Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại;
- Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Để công tác quản lý ngày càng hiệu quả thì trước hết, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch cần tiếp tục tích cực, chủ động làm tốt công tác tham
mưu cho tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, tăng cường công tác quản lý các
di sản thế giới trên địa bàn. UBND tỉnh Phú Thọ cũng cần ban hành quy chế
quản lý đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã được công nhận.
Tỉnh cần đưa ra chính sách hỗ trợ cụ thể, chi tiết trong từng giai đoạn
đối với các câu lạc bộ đang gìn giữ di sản văn hóa, đặc biệt là đối với Ca trù
đang bị mai một và có nguy cơ biến mất trên đất Tổ. Sở cần xây dựng ngay Kế
21
hoạch về tổ chức lớp truyền dạy và thực hành hát Ca trù trên địa bàn tỉnh để bảo
tồn được loại hình nghệ thuật bác học này.
Xây dựng một kế hoạch tổng thể quản lý di sản, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức cho du khách và người dân địa phương. Đồng thời
tạo dựng mối liên kết giữa di sản vật thể và di sản phi vật thể để tạo thành sức
mạnh tổng hợp, tôn vinh các giá trị toàn cầu.
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa
Có chương trình tuyên truyền, giáo dục một cách đồng bộ và rộng rãi đối
với tất cả các di sản đã được UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh (mà ở đây là
3 di sản bao gồm: hát Xoan, Ca trù và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương) cho
các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ trong
cộng đồng mà đặc biệt là thế hệ trẻ.
Để việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục di sản cho giới trẻ phát huy hết
hiệu quả thì cần phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan chức năng bằng
những chương trình, hành động cụ thể. Các ngành liên quan cần phối hợp xây
dựng và ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về tuyên truyền, giáo dục di sản
như: hướng dẫn tổ chức học tập ở các bảo tàng, di tích, thư viện, danh lam thắng
cảnh; biên soạn tài liệu giới thiệu di sản phi vật thể một cách hoàn chỉnh; lập
website về di sản; tập huấn giáo viên và cán bộ quản lý về giáo dục di sản; từng
bước đưa nội dung giáo dục di sản vào đào tạo giáo viên trong các trường sư
phạm, trường văn hóa nghệ thuật, Trường Đại học Hùng Vương; xây dựng các
chương trình giới thiệu và quảng bá di sản trên các kênh thông tin đại chúng
3.2.4. Các giải pháp khác giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về di
sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ
3.2.4.1. Tăng cường xã hội hóa
Để các di sản văn hóa phi vật thể sau khi được thế giới công nhận được
bảo tồn và phát huy tích cực thì việc đầu tư kinh phí duy trì hoạt động là rất cần
thiết. Việc huy động các nguồn vốn từ trong và ngoài nước đã trở thành một bài
toán không chỉ với riêng Phú Thọ mà còn với các địa phương khác đang sở hữu
các di sản thế giới. Để phát huy hiệu quả giá trị của các di sản thì cần phải đẩy
mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn, tuy nhiên vẫn đề cao vai trò quản lý và định
hướng của Nhà nước. Việc huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội sẽ phục
vụ cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Không ỷ lại hay trông
chờ vào nguồn kinh phí của nhà nước, mà từng địa phương cần phải chủ động
đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa với các hình thức phù hợp.
3.2.4.2. Tư liệu hóa di sản
22
Tư liệu hóa di sản là điều cần thiết. Trên cơ sở các nguyên tắc bảo tồn để
xây dựng được một bộ công cụ hướng dẫn rõ ràng. Trong các cuộc họp trước
đây của UNESCO, một yêu cầu đã được đưa ra là vấn đề bảo tồn và tiếp cận di
sản dưới dạng số nên được quy định ở tầm quốc tế bằng công cụ Khuyến nghị.
Các di sản tư liệu dưới dạng số này có thể được bảo tồn, lưu trữ phân cấp tại các
thư viện, bảo tàng; nó còn được đảm bảo bảo vệ theo thời gian và ấn định các
phương pháp khai thác. Khuyến nghị về việc bảo tồn và tiếp cận di sản tư liệu
dưới dạng số có tầm quan trọng và là trách nhiệm lâu dài đối với cộng đồng.
3.2.4.3. Nâng cao vai trò của cộng đồng
Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng và chỉ dẫn, việc nhận diện
giá trị, lựa chọn cách thức, phương pháp bảo vệ và phát huy các giá trị di sản thì
nên trao lại cho chính các chủ thể văn hóa - cộng đồng đã sáng tạo và hiện đang
sử dụng cũng như khai thác chúng.
Chính UNESCO cũng luôn đề cao vai trò của cộng đồng trong việc bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể. Theo Công ước năm 2003 của
UNESCO, cộng đồng là chủ sở hữu di sản và cũng là người có đủ điều kiện để
bảo vệ di sản nhất. Phải để cho các di sản văn hóa sống trong không gian văn
hóa của cộng đồng. Chính nhân dân và cộng đồng là người tự chủ động bảo tồn
và duy trì hoạt động của các di sản dưới sự hướng dẫn, quản lý của các cơ quan
chuyên môn.
3.2.4.4. Thanh tra, kiểm tra và giám sát
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra văn hóa, gắn với
trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khi xảy ra sai phạm. Để công tác thanh tra
có chất lượng thì cần phát huy vai trò giám sát, phản biện của các tổ chức xã hội,
cộng đồng dân cư và nhân dân.
Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời các tổ chức,
cá nhân có đóng góp hiệu quả trong công tác quản lý các di sản này. Song hành
với biện pháp trên, các cấp ủy, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, rà soát lại các lễ hội nhằm tìm ra và loại bỏ các
yếu tố phản cảm.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra, đánh giá, báo cáo định kỳ 06 tháng, 01
năm về việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Sở có nhiệm vụ tham mưu
cho UBND tỉnh thành lập đoàn kiểm tra, giám sát với các huyện, thành phố, thị
xã về công tác quản lý di sản văn hóa.
3.3. DỰ BÁO VỀ XU THẾ CỦA CÔNG TRÌNH
Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu không thể chối bỏ, mà ngược lại,
chúng ta phải chủ động hội nhập để tranh thủ tận dụng những cơ hội mà nó đưa
23
lại nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia chỉ có thể xây dựng nguồn nội lực đủ
mạnh trên cơ sở một nền tảng tinh thần thật vững chắc, đó là bản sắc văn hóa
dân tộc và tính thống nhất trong đa dạng văn hóa. Việt Nam đã nhận thức rõ vai
trò quan trọng của ngoại giao văn hóa trong mục tiêu lợi ích quốc gia, và có
những hành động cụ thể thúc đẩy hình thức ngoại giao tích cực và hiệu quả này.
Thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, các giá trị, tinh hoa văn hóa và tri
thức của các nước trên thế giới đã được tiếp thu có chọn lọc nhằm góp phần làm
phong phú thêm nền văn hóa của Việt Nam, đồng thời chuyển tải nhiều ý tưởng
và chương trình lớn của Liên hợp quốc và UNESCO vào các chương trình hành
động quốc gia.
Bên cạnh đó, “Di sản hóa” là một xu hướng thịnh hành ở Việt Nam gần
đây. Xu hướng này dẫn đến nhiều hệ quả: một mặt là sự khát khao danh hiệu,
chạy theo và kiếm tìm sự tôn vinh danh hiệu; mặt khác, di sản cũng đang được
sử dụng như một thế mạnh và tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy di sản được
sinh ra trong cộng đồng, nhưng Nhà nước cũng phải đứng ra chủ trì việc quản lý
các di sản văn hóa chứ không thể phó mặc hết cho cộng đồng.
Các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh
chính là sự công nhận của thế giới đối những giá trị văn hóa tinh hoa truyền
thống của Việt Nam. Phú Thọ, một tỉnh có ba di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO công nhận, trong đó hát Xoan - di sản đầu tiên trên thế giới xin ra
khỏi Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp và chuyển
sang Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại có thể trở thành
một ví dụ điển hình cho sự thành công bước đầu từ mô hình quản lý nhà nước về
các di sản văn hóa sau khi được công nhận.
24
KẾT LUẬN
Phú Thọ là vùng Đất tổ, mảnh đất thiêng liêng, cội nguồn của dân tộc
Việt Nam với hàng ngàn năm lịch sử. Phú Thọ trong nhiều năm qua đã có những
chủ trương, chính sách, biện pháp tích cực để bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản. Ngay sau khi các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận, tỉnh
đã đề ra, thực hiện rất nhiều chính sách, chương trình hành động cụ thể và đã có
những thành công bước đầu đáng khích lệ trong hành trình bảo tồn di sản hát
Xoan – sau 4 năm, năm 2006, Phú Thọ đã trình báo cáo lên UNESCO đề nghị
đưa hát Xoan ra khỏi tình trạng báo động đỏ và đưa vào Danh sách di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - đây cũng là trường hợp đầu tiên trên thế
giới xin rút khỏi Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Công tác quản lý Nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn đã góp
phần không nhỏ trong việc định hướng, đưa ra các chính sách, chương trình
hành động thiết thực, hiệu quả để đạt được những kết quả đó.
Tuy Phú Thọ đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình
quản lý các di sản văn hóa phi vật thể của thế giới, nhưng những bất cập khó
khăn, thách thức vẫn đang hiện hữu. Trong thời gian tới, ngoài những chính sách
từ trung ương, các cấp quản lý di sản văn hóa ở Phú Thọ còn cần nâng cao năng
lực quản lý, xây dựng chương trình hành động nhằm sưu tầm, khôi phục, bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản thế giới để cho tương xứng với tiềm năng hiện
có. Thêm vào đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hoá cũng cần được
thực hiện khẩn trương, có hệ thống và toàn diện. Tỉnh Phú Thọ cũng cần thành
lập một ban chuyên môn phụ trách quản lý các di sản sau khi đã được
UNESCO công nhậnCấp uỷ, chính quyền địa phương cần nhận thức sâu sắc
vị trí, vai trò của di sản văn hóa, đặc biệt là di sản phi vật thể đã được vinh danh
trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế./.
25
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
- Bài tham luận: “Vai trò của giới trẻ Việt Nam trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc” trình bày trong Hội thảo
quốc tế “Vai trò của giới trẻ ASEAN trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể sau năm 2015”, tổ chức tại Campuchia tháng 12 năm 2015.
- Bài tạp chí: “Kim Đức: Vùng đất chứa đựng các di tích gắn với ba
phường Xoan cổ” in trong Tạp chí Thông tin và Truyền thông (cơ quan của Bộ
Thông tin và Truyền thông) trang 46 – 47, số 321 tháng 4 năm 2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_hoat_dong_thu_vien_cong.pdf