Để làm tốt việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện
nay cần thực hiện nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài. Giải pháp trước mắt là: Thực
hiện tổng rà soát tình hình đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý và nguồn nữ công
chức lãnh đạo, quản lý; cần có một Nghị quyết riêng của Ban cán sự đảng Bộ về công
tác cán bộ nữ và tạo nguồn cán bộ nữ của Bộ; khẩn trương rà soát toàn bộ các quy
định của Bộ có liên quan đến việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ;
phân công bộ phận thường trực hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện
công tác cán bộ nữ và tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ
Giải pháp lâu dài, thực hiện thường xuyên, bao gồm: Nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và của cán bộ, công chức,
viên chức về tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong công tác cán bộ; hoàn
thiện thể chế, chính sách về tạo nguồn cán bộ nữ; Cụ thể hóa tiêu chuẩn công chức
lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ; xác định và thực hiện tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh
đạo, quản lý trong quy hoạch, bổ nhiệm ở Bộ Nội vụ; tổ chức thực hiện tốt các khâu
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán
bộ nữ; thực hiện tốt chính sách đối với nữ trong quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo,
quản lý
Các giải pháp nêu trên được đưa ra nhằm tập trung xử lý tồn tại, hạn chế trong
tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ, tiến tới đề xuất hoàn thiện
chính sách, pháp luật hiện hành về công tác cán bộ nữ để đạt được mục tiêu bình
đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và tăng cường phụ nữ tham chính ở Việt Nam nói
chung, ở Bộ Nội vụ nói riêng trong giai đoạn hiện nay./.
25 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở bộ nội vụ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh nghiệm quý báu trong việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực
chính trị ở Việt Nam nói chung và tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ
Nội vụ nói riêng, đó là:
Một là, cam kết chính trị và chính sách phù hợp là điều kiện tiên quyết cho sự
tham gia các vị trí lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Để thực hiện cam kết, việc quy định
về tỷ lệ giới tính trong các danh sách bầu cử và dành các vị trí lãnh đạo nhất định cho
phụ nữ trong bộ máy chính trị là một trong những biện pháp hữu hiệu, khả thi nhất có
thể áp dụng để tăng cường thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.
Hai là, những cam kết của Đảng và Chính phủ cần cần được cụ thể hóa và thực
thi một cách nhất quán trong hệ thống chính sách từ trung ương đến địa phương, với
những biện pháp triển khai phù hợp, gắn với những điều kiện thực tế cụ thể và phù
hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Ba là, công tác quy hoạch cán bộ cần được coi trọng để có thể chủ động tuyển
chọn và bồi dưỡng nguồn tài nguyên cán bộ của Nhà nước; quy hoạch phải gắn chặt
với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ để sớm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và
bổ nhiệm họ vào những vị trí xứng đáng để phát huy năng lực và hiệu quả làm việc
của họ.
Bốn là, phải coi trọng nâng cao năng lực của nguồn nữ, tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng bảo đảm chất lượng nguồn nữ để tiến tới thực hiện tuyển chọn, bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo, quản lý bằng hình thức thi tuyển theo nguyên tắc bình đẳng.
Năm là, tại những nơi vẫn còn tồn tại định kiến giới về vai trò, năng lực của
phụ nữ trong đời sống chính trị, cần không ngừng thực hiện các biện pháp truyền
thông, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội để từng bước tăng cường sự
tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ và đạt được các mục tiêu bình đẳng giới.
Chương 2
THỰC TRẠNG TẠO NGUỒN NỮ CÔNG CHỨC
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở BỘ NỘI VỤ
2.1. Khái quát đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
2.1.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình của Bộ Nội vụ
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
các ngành, lĩnh vực tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nước; chính quyền địa
phương, địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; đào tạo, bồi
8
dưỡng về chuyên ngành hành chính và quản lý nhà nước; hội, tổ chức phi chính phủ;
thi đua, khen thưởng; tôn giáo; văn thư, lưu trữ nhà nước; thanh niên.
2.1.2. Thực trạng nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
Về số lượng, cơ cấu, theo số liệu thống kê đến tháng 12 năm 2016, Bộ Nội vụ có
57 nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong tổng số 186 công chức lãnh đạo, quản lý của
Bộ, đạt tỷ lệ 30,65%. Cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý theo chức danh như sau:
Thứ trưởng: 01 người; Phó Tổng cục trưởng và tương đương: 01 người; Vụ trưởng và
tương đương: 02 người; Phó Vụ trưởng và tương đương: 12 người; Trưởng phòng,
Phó Trưởng phòng của các đơn vị thuộc Bộ: 03 người; Cấp Vụ trưởng và tương
đương của các đơn vị trực thuộc: 08 người; Cấp Phó Vụ trưởng và tương đương của
các đơn vị trực thuộc: 30 người.
Về chất lượng, về cơ bản, đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ đều
là những những người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực, trình độ
chuyên môn vững vàng, phát huy tốt vai trò, năng lực lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu
cầu công việc; bảo đảm đủ về điều kiện, tiêu chuẩn theo ngạch, chức danh lãnh đạo,
quản lý; có trình độ đại học và trên đại học trở lên.
2.2. Những yếu tố tác động đến việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo,
quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
2.2.1. Yếu tố thuận lợi
- Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật tạo cơ sở
và khung pháp lý cho việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở
Bộ Nội vụ được Ban cán sự đảng Bộ, các cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn
vị quan tâm thực hiện.
- Đội ngũ nữ công chức, viên chức của Bộ Nội vụ có số lượng đông đảo, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng; có tinh thần tự giác học tập, rèn luyện nâng
cao trình độ, tạo nên một nguồn nữ đủ mạnh để thúc đẩy quá trình tạo nguồn nữ công
chức lãnh đạo, quản lý.
- Bộ Nội vụ là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cán bộ, công
chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành về hành chính và quản lý nhà
nước là những yếu tố thuận lợi của quá trình tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản
lý ở Bô Nội vụ hiện nay.
2.2.2. Những khó khăn, thách thức
Những định kiến về văn hóa – xã hội, về vai trò giới truyền thống và định kiến
về khả năng của phụ nữ trong quản lý nhà nước vẫn còn tồn tại.
Những rào cản về thể chế, chính sách có ảnh hưởng không nhỏ tới việc tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ. Các công cụ về thể chế, chính
sách ở Việt Nam chưa đủ cụ thể và mạnh mẽ để thực hiện cam kết chính trị của Đảng
9
và Nhà nước trong việc thúc đẩy quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ; chỉ
tiêu về giới trong lãnh đạo, quản lý chủ yếu dừng ở mức độ mục tiêu chung, có ý
nghĩa khuyến khích phấn đấu chứ chưa phải là những quy định cứng, với những ràng
buộc cụ thể hoặc những biện pháp xử lý đối với các trường hợp không đạt chỉ tiêu.
- Đặc thù công tác trong lĩnh vực quản lý Nhà nước của ngành Nội vụ, trước
đây là Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, là lĩnh vực khó, phức tạp, nhạy cảm, liên
quan trực tiếp đến con người, vì vậy đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý từ trước
tới nay đều đạt thấp, đây là vấn đề mang tính lịch sử và đặc thù trong công tác cán bộ
của Bộ.
2.3. Tình hình thực hiện các nội dung tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo,
quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
2.3.1. Hoạt động cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý
Tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý được quy định tại Quyết định số
1204/QĐ-BNV ngày 19 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định tiêu
chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý của Bộ Nội vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đã được cụ thể hóa đối với từng chức danh công chức lãnh đạo,
quản lý, được áp dụng trong công tác cán bộ của Bộ khi xem xét bổ nhiệm đối với
từng chức danh. Nhìn chung, các quy định tương đối rõ ràng, cụ thể, phù hợp với đặc
điểm, tình hình của Bộ, tuy nhiên các quy định mới chỉ dừng lại ở tiêu chuẩn chung
đối với các chức danh, chưa có sự cụ thể hóa đối với từng chức danh gắn với vị trí
việc làm.
2.3.2. Xác định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý và tỷ lệ nữ
trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý
Bộ đã bước đầu xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Kế hoạch
hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, trong đó xác định “tăng tỷ lệ nữ tham
gia lãnh đạo, quản lý tại Bộ”. Mặc dù chưa có chỉ tiêu cụ thể để phấn đấu thực hiện về
mặt tỷ lệ cán bộ nữ, nhưng qua việc xác định mục tiêu tăng tỷ lệ nữ công chức lãnh
đạo, quản lý, công tác tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý cũng được các cấp
ủy đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ quan tâm thực hiện,
qua đó nữ công chức lãnh đạo, quản lý đã từng bước có sự cải thiện cả về số lượng và
chất lượng, tạo nên chất lượng tổng hợp của đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ.
Tuy nhiên, nguồn nữ công chức, viên chức để quy hoạch, đào tạo đủ điều kiện,
tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý ở Bộ còn gặp khó khăn, tỷ lệ nữ
trong quy hoạch nhiều chức danh chưa đạt tỷ lệ không dưới 15% như chủ trương của
Đảng; tỷ lệ nữ được bổ nhiệm vẫn còn rất thấp. Về độ tuổi, nữ lãnh đạo, quản lý cấp
trưởng độ tuổi trên 50 chiếm tỷ lệ cao, khó có khả năng phát triển ở vị trí cao hơn
trong khi tỷ lệ nữ cấp phó để kế cận còn hạn chế.
10
2.3.3. Quy hoạch đối với nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được thực hiện theo quy định
chung của Đảng và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. Để tạo nguồn nữ công
chức lãnh đạo, quản lý, trong hướng dẫn công tác quy hoạch trong từng nhiệm kỳ và
hướng dẫn bổ sung quy hoạch hàng năm, Bộ đặt ra chủ trương bảo đảm tỷ lệ nữ trong
quy hoạch không dưới 15% theo hướng dẫn tại Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày
05 tháng 11 năm 2012 của Ban Tổ chức Trung ương. Kết quả, tỷ lệ nữ công chức,
viên chức quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý các đơn vị thuộc và trực thuộc
Bộ giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, nữ quy hoạch chức danh Vụ trưởng và
tương đương nhiệm kỳ 2016 – 2021 tăng hơn so với giai đoạn 2012 – 2016 trên 10%;
chức danh Phó Vụ trưởng và tương đương tăng hơn 6%. Tuy nhiên, qua các giai
đoạn, tỷ lệ nữ trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý tại Bộ vẫn duy trì ở
mức thấp, nhất là tại quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý người đứng đầu.
2.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng nữ công chức, viên chức, nữ công chức, viên chức
trong diện quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Trên cơ sở quy hoạch, Bộ đã chú trọng vào công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nữ theo tiêu chuẩn, chức danh và theo vị trí việc làm. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ, đặc
điểm tình hình của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nữ công chức, viên chức, nữ trong diện
quy hoạch khi đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn được cử tham gia các lớp đào tạo, bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn chức danh, tạo tiền đề quan trọng cho công
tác quy hoạch, bổ nhiệm đối với nguồn nữ.
Theo Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức Bộ
Nội vụ giai đoạn 2016 – 2020, Bộ đặt ra yêu cầu bám sát quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp trong Bộ, đảm bảo 100% cán bộ, công chức được đi đào tạo, bồi
dưỡng đủ tiêu chuẩn ngạch và tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đồng thời thực hiện ưu tiên cử nữ công
chức, viên chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng trong trường hợp số lượng công chức,
viên chức đủ tiêu chuẩn, điều kiện đi học nhiều hơn số chỉ tiêu được cử đi học.
2.3.5. Điều động, luân chuyển đối với nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25 tháng 01 năm 2002 của Bộ
Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, Luật cán bộ, công chức,
Quyết định số 1205/QĐ-BNV ngày 19 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ
ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm công
chức, viên chức lãnh đạo, quản lý và điều động, biệt phái công chức, viên chức làm
việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, công chức lãnh đạo, quản lý nói
chung và nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ nói riêng được thực
hiện điều động, luân chuyển theo nguyên tắc giải quyết tốt mối quan hệ giữa điều
động, luân chuyển với ổn định và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu; vừa coi trọng
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác, vừa coi trọng mục đích bồi dưỡng, rèn luyện cán
bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận.
11
Nhìn chung, các quy định về điều động, luân chuyển được quy định và áp dụng
chung cho cả đối tượng nam và nữ, thời gian luân chuyển nói chung từ 3 năm trở lên;
chưa có quy định riêng về điều động, luân chuyển riêng dành đối với nữ cho phù hợp
với đặc điểm giới.
2.3.6. Bố trí, thực hiện chính sách đặc thù đối với nguồn nữ công chức lãnh
đạo, quản lý; khuyến khích, tạo điều kiện cho nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản
lý học tập, rèn luyện nâng cao trình độ
Để thúc đẩy tăng tỷ lệ nữ công chức lãnh đạo, quản lý, Ban Cán sự đảng Bộ
Nội vụ đã chủ trương thực hiện quy trình bổ nhiệm nữ công chức lãnh đạo, quản lý
tại một số đơn vị cụ thể của Bộ; thực hiện ưu tiên bổ nhiệm nữ khi nam và nữ công
chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn nhưng có số phiếu tín nhiệm bằng nhau. Việc bố trí,
phân công công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức thực hiện theo quy định
hiện hành trên cơ sở bảo đảm phù hợp giữa quyền hạn và nhiệm vụ được giao với
chức danh, chức vụ và ngạch công chức được bổ nhiệm; bảo đảm các điều kiện cần
thiết để công chức, viên chức thi hành nhiệm vụ và thực hiện các chế độ, chính sách
đối với công chức, viên chức.
Về chính sách đặc thù dành cho nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ
Nội vụ, Bộ mới chỉ tổ chức thực hiện theo các quy định chung của Nhà nước về chính
sách ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức nói chung;
các chính sách riêng, đặc thù đối với nguồn nữ phù hợp với đặc điểm tình hình của
Bộ thì mới bước đầu được quy định lồng ghép trong một số lĩnh vực cụ thể, như
trong đào tạo, bồi dưỡng là ưu tiên cử nữ công chức, viên chức tham gia đào tạo, bồi
dưỡng trong trường hợp số lượng công chức, viên chức đủ tiêu chuẩn, điều kiện đi
học nhiều hơn số chỉ tiêu được cử đi học; trong ưu tiên nữ khi có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn như nam và ngang bằng nhau ở chỉ tiêu cuối cùng của nâng lương trước thời
hạn do lập thành tích xuất sắc.
Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ luôn quan tâm dành kinh phí thích đáng cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt cho cán bộ nữ, công tác đào tạo, bồi dưỡng được
triển khai với nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực, chú trọng cả đào tạo chuyên
ngành, chính trị, đào tạo gắn với bồi dưỡng cập nhật kiến thức, ngoại ngữ, đồng thời
đào tạo sau đại học, gắn yêu cầu đào tạo với chức danh quy hoạch. Do đó, về cơ bản
đội ngũ nữ công chức, viên chức của Bộ đều được khuyến khích, tạo động lực và điều
kiện để học tập nâng cao trình độ, năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ với những hình
thức phù hợp.
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Những mặt tích cực
Bộ đã quan tâm chỉ đạo và thường xuyên quán triệt thực hiện công tác tạo
nguồn cán bộ nữ.
12
Các quy định về tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý của Bộ Nội vụ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cơ sở quan trọng định hướng cho
việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ
Việc xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý đã được quan tâm chỉ đạo
thực hiện, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ đối với công tác cán bộ nữ, từng bước cải
thiện số lượng và chất lượng của đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ.
Công tác quy hoạch nữ công chức lãnh đạo, quản lý cấp Bộ, cấp Vụ được quan
tâm chỉ đạo nhằm bảo đảm tỷ lệ theo quy định. Trên cơ sở quy hoạch lãnh đạo, quản
lý, nhiều cấp uỷ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị đã chủ động xây dựng kế hoạch đào
tạo, bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận; từng bước
thực hiện việc bổ nhiệm, giới thiệu nhân sự để bầu cử theo quy hoạch, khắc phục dần
tình trạng quy hoạch mang tính hình thức, tỷ lệ nữ trong quy hoạch có xu hướng tăng
dần.
Bộ đã quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý theo
tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý theo quy định. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng đối với nguồn nữ đã bảo đảm tập trung vào các các điều kiện, tiêu
chuẩn của chức danh lãnh đạo, quản lý, tạo tiền đề cho công tác bổ nhiệm đối với
nguồn nữ này được thuận lợi.
2.4.2. Những mặt còn hạn chế, tồn tại
Bộ chưa có quy định để cụ thể hóa tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý đối
với từng chức danh theo vị trí việc làm, Bộ chưa có các quy định cụ thể về tiêu chuẩn
đối với từng chức danh gắn với vị trí việc làm, chưa gắn với nhiệm vụ chính trị của
cơ quan, đơn vị; chưa có quy định về tiêu chuẩn đối với các chức danh công chức
lãnh đạo, quản lý đã được phân cấp thẩm quyền cho các đơn vị trực thuộc Bộ; chưa
có quy định tiêu chuẩn riêng dành cho nữ công chức lãnh đạo, quản lý phù hợp với
đặc thù giới.
Chưa xác định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý làm cơ sở cho
công tác tạo nguồn, Bộ mới chỉ bước đầu xác định “tăng tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý tại Bộ” tại Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27
tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; chưa có quy định về tỷ lệ, cơ cấu nữ lãnh đạo, quản lý
trong cơ cấu công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ; chưa có chủ trương hoặc quy định
về tỷ lệ nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong công tác cán bộ của Bộ; chưa có chiến
lược, quy hoạch cán bộ dài hạn để xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý về
độ tuổi, chuyên môn, vị trí.
Công tác quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế,
chưa đặt trong chiến lược tạo nguồn lâu dài và chưa có quy hoạch riêng dành cho
cán bộ nữ
13
Việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế, tỷ lệ nguồn nữ được tham
gia đào tạo, bồi dưỡng còn thấp, tỷ lệ nữ tham gia đào tạo tại các trường lý luận chính
trị, quản lý hành chính nhà nước chưa đạt tỷ lệ từ 30% trở lên theo quy định tại Nghị
quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nhiều cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa
thực sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để bố trí nữ công chức trong diện quy hoạch
giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch; còn có biểu hiện hẹp hòi trong bố trí
cán bộ nữ tại những vị trí cấp trưởng hoặc giữ vị trí lãnh đạo, quản lý tại những đơn
vị chủ chốt, quan trọng của Bộ; tỷ lệ nữ được bổ nhiệm còn thấp; việc điều động,
luân chuyển nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý và nữ công chức, viên chức trong
diện quy hoạch chưa được quan tâm thực hiện. Cho đến nay, chưa có trường hợp nữ
công chức lãnh đạo, quản lý được luân chuyển sang vị trí lãnh đạo, quản lý ở cơ
quan, đơn vị hay địa phương khác.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
Thứ nhất, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền một số đơn vị thuộc và
trực thuộc Bộ về bình đẳng giới, về vai trò năng lực của phụ nữ còn hạn chế, chưa coi
trọng công tác cán bộ nữ.
Thứ hai, hệ thống thể chế, chính sách đối với nữ công chức, viên chức và công
tác cán bộ nữ chưa kịp thời, thiếu đồng bộ, chưa tạo động lực thúc đẩy, khuyến khích
phụ nữ tham gia các hoạt động chính trị, xã hội và nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản
lý trong các cơ quan Nhà nước.
Thứ ba, một số quy định của pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan đến
công tác cán bộ còn chưa phù hợp đã dẫn tới những hạn chế về điều kiện và cơ hội
phát triển của phụ nữ như vấn đề tuổi nghỉ hưu; tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ
nhiệm của cán bộ nữ.
Thứ tư, việc tuyển chọn, bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý chưa có nhiều
đổi mới, do đó phương thức tạo nguồn chưa linh hoạt, chưa đa dạng về hình thức tạo
nguồn.
Thứ năm, việc xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý và quy định tiêu
chuẩn chức danh lãnh đạo quản lý đối với từng chức danh theo vị trí việc làm trong
trong các cơ quan nhà nước hiện nay là một vấn đề mới, do đó quá trình thực hiện các
nội dung này để định hướng cho việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ
Nội vụ còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ sáu, chưa có đơn vị, bộ phận chuyên trách trong việc hướng dẫn, theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra thực hiện công tác cán bộ nữ tại Bộ Nội vụ dẫn đến chất lượng tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý bị hạn chế và chưa đạt kết quả như mong
muốn.
Thứ bảy, bản thân một bộ phận nữ công chức, viên chức còn biểu hiện an phận,
chưa có ý chí phấn đấu vươn lên ; nhiều trường hợp nữ công chức, viên chức chưa có
14
sự chia sẻ, động viên của người chồng và của gia đình; hoặc còn có hiện tượng phụ
nữ níu kéo lẫn nhau, gây ra những hạn chế, cản trở đối với việc tạo nguồn nữ công
chức lãnh đạo, nhất là tại các khâu quy hoạch, bố trí, luân chuyển bổ nhiệm.
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN NỮ CÔNG CHỨC
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở BỘ NỘI VỤ HIỆN NAY
3.1. Phƣơng hƣớng tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
hiện nay
Tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác cán bộ nữ
và tạo nguồn cán bộ nữ trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia; các
nhiệm vụ, giải pháp về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trên cơ sở thực trạng đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý và yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của Bộ để xác định những nhiệm vụ trước mắt, lâu dài trong công
tác tạo nguồn cán bộ nữ ở Bộ Nội vụ.
Bảo đảm sự ổn định, kế thừa và phát triển của đội ngũ nữ công chức lãnh đạo,
quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị; phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp của nữ công
chức lãnh đạo, quản lý.
Bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự đảng Bộ, các cấp ủy Đảng, đề
cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ
trong công tác tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ.
3.2. Giải pháp tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
3.2.1. Giải pháp trước mắt
Một là, thực hiện tổng rà soát tình hình đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản
lý và nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Trước mắt, Bộ Nội vụ cần chỉ đạo thực hiện tổng rà soát tình hình đội ngũ nữ
công chức lãnh đạo, quản lý và nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ cả về
số lượng, chất lượng; tổng điều tra, đánh giá nhu cầu của đội ngũ nữ công chức, viên
chức của Bộ. Trên cơ sở đó, tổ chức đánh giá thực trạng nguồn làm cơ sở để định
hướng tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ.
15
Hai là, cần có một Nghị quyết riêng của Ban cán sự đảng Bộ về công tác cán
bộ nữ và tạo nguồn cán bộ nữ của Bộ
Từ thực tiễn công tác cán bộ của Bộ Nội vụ, có thể thấy sự lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt, sát sao, cụ thể của Ban cán sự đảng Bộ, Lãnh đạo Bộ là yếu tố có tác động
rất lớn tới hiệu quả của công tác tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý, thậm chí
có thể nói đây là yếu tố quyết định tới thành công của công tác tạo nguồn cán bộ nữ.
Do đó, cần thiết phải có một chủ trương riêng được thể hiện bằng văn bản của Ban
cán sự đảng Bộ về công tác này.
Ba là, khẩn trương rà soát toàn bộ các quy định của Bộ có liên quan đến việc
tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ
Khẩn trương rà soát toàn bộ các quy định, quy chế của Bộ có liên quan đến
việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ để kịp thời sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp; trong quá trình sửa đổi, bổ sung, nhất thiết phải lồng ghép vấn đề giới
trong các quy định về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, điều động, luân
chuyển.
Bốn là, phân công bộ phận thường trực hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
thực hiện công tác cán bộ nữ và tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ
Để khắc phục tình trạng chưa có đơn vị, bộ phận theo dõi, tham mưu công tác
cán bộ nữ, trong đó có công tác tạo nguồn cán bộ nữ tại Bộ, Ban cán sự đảng Bộ,
Lãnh đạo Bộ cần chỉ đạo, giao Vụ Tổ chức cán bộ - đơn vị làm chức năng tham mưu
công tác tổ chức cán bộ của Bộ, đồng thời là Thường trực Ban Vì sự tiến bộ của phụ
nữ của Bộ - thực hiện nhiệm vụ này. Tại đây, phân công một bộ phận thường trực
hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ nữ, trong đó có
tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc
Bộ. Đối với những đơn vị trực thuộc Bộ như Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Thi đua –
Khen thưởng Trung ương, Học viện Hành chính Quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ
Nhà nước cũng cần thực hiện tương tự như vậy. Qua đó, đưa công tác tạo nguồn nữ
công chức lãnh đạo, quản lý đi vào nền nếp, trở thành một việc làm thường xuyên
trong công tác cán bộ của Bộ.
3.2.2. Giải pháp lâu dài, thực hiện thường xuyên
3.2.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị và của cán bộ, công chức, viên chức về tạo nguồn nữ công chức lãnh
đạo, quản lý trong công tác cán bộ
Để tạo nguồn nữ công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
đạt kết quả đồng đều, vấn đề quan trọng cần giải quyết tốt là nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, nhất
là người đứng đầu cơ quan, về vai trò của phụ nữ và sự cần thiết phải tạo nguồn cán
bộ nữ. Trước hết, cần quán triệt sâu sắc vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Vai trò của phụ nữ và công tác cán bộ nữ trong sự nghiệp cách mạng và
16
đối với việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đã được Đảng ta khẳng định. Các
cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ cần nhận thức sâu sắc
sự cần thiết xây dựng đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ, nhất là trong giai
đoạn hiện nay khi tiến trình bình đẳng giới đang được Đảng và Nhà nước ta thúc đẩy
thực hiện mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chính trị.
3.2.2.2. Hoàn thiện thể chế, chính sách về tạo nguồn cán bộ nữ
Từ những phân tích về thực trạng, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế trong công tác tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ Nội
vụ, cần phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung những quy định sau:
Trong quy hoạch, tỷ lệ cán bộ nữ trong quy được quy định tại Hướng dẫn số
15-HD/TW ngày 15 tháng 11 năm 2012 của Ban Tổ chức Trung ương. Tuy nhiên, để
căn cứ thực trạng công tác quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý thời gian
qua, cần quy định tỷ lệ nữ linh động hơn cho phù hợp với nguồn nữ của cơ quan, đơn
vị. Giải pháp đưa ra là bảo đảm tỷ lệ nữ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý
các cấp không dưới 15% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức đối với các cơ
quan, tổ chức, đơn vị có tổng số cán bộ, công chức, viên chức nữ dưới 30%; còn các
cơ quan, tổ chức, đơn vị có từ 30% cán bộ, công chức, viên chức nữ trở lên, đảm bảo
tỷ lệ tối thiểu 30% nữ trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức quy hoạch các chức
danh lãnh đạo quản lý các cấp.
Bên cạnh quy định về tỷ lệ nữ trong quy hoạch, cần quy định thêm về quyền
lựa chọn, ưu tiên đưa vào quy hoạch khi nữ công chức, viên chức đủ điều kiện, tiêu
chuẩn như nam công chức, viên chức nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất trong
trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội
phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy
định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này.
Bên cạnh đó, để tạo nguồn nữ quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý cấp Thứ
trưởng, cần thực hiện như quy định đối với nam về độ tuổi quy hoạch các chức danh
lãnh đạo, quản lý đối với nữ Thứ trưởng và tương đương.
Trong bổ nhiệm, cần thiết phải có quy định về tỷ lệ nữ thích đáng để bổ nhiệm
các chức danh trong các cơ quan nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tạo
nguồn cán bộ nữ. Trong thực hiện giải pháp này, Bộ Nội vụ với vai trò là cơ quan
quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức, cần nghiên cứu để đề xuất cấp có
thẩm quyền quy định về tỷ lệ này dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đào tạo, bồi dưỡng, đối chiếu những quy định tại Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ quy định về đào tạo, bồi
dưỡng công chức với mục tiêu tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý nói chung
và tại Bộ Nội vụ nói riêng cho thấy, cần sửa đổi quy định về điều kiện thời gian công
tác để nữ công chức được cử đi học sau đại học từ 05 năm xuống còn từ 2 đến 3 năm;
không giới hạn độ tuổi đào tạo sau đại học dưới 40 tuổi như hiện nay đối với nữ công
17
chức để tạo cơ hội, điều kiện cho nữ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng, không bị ảnh
hưởng bởi thời gian sinh con và nuôi con nhỏ để bảo đảm chất lượng nguồn nữ.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo đặc thù
cho cán bộ nữ công chức lãnh đạo, quản lý, lãnh đạo và nguồn nữ trong quy hoạch;
thực hiện phân cấp đào tạo, bồi dưỡng và đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp dành cho nữ công chức nói chung và nữ công chức lãnh đạo, quản lý
nói riêng.
Đối với các khóa học bồi dưỡng nâng cao tiếng Anh ở nước ngoài theo Đề án
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước
(Đề án 165), không nên quy định độ tuổi đối với nữ công chức lãnh đạo, quản lý và
nữ trong diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, cần sửa đổi quy
định về độ tuổi đào tạo, bồi dưỡng hoặc hình thức đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận
chính trị phù hợp đối với nguồn cán bộ nữ; cần bổ sung quy định để đa dạng các hình
thức đào tạo đối với nữ công chức, viên chức phù hợp với đặc điểm giới. Đổi mới nội
dung, chương trình, hình thức đào tạo phù hợp với từng đối tượng, có chế độ vừa
khuyến khích, vừa bắt buộc đối với việc tự học tập, nghiên cứu để bổ sung kiến thức
mọi mặt của nữ công chức, viên chức và nữ công chức lãnh đạo, quản lý.
Trong điều động, luân chuyển, để phù hợp với đặc điểm riêng của nữ công
chức lãnh đạo, quản lý, trước mắt Chính phủ cần nghiên cứu, đề xuất để sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức, trong đó quy định thời gian luân chuyển đối với nữ công
chức lãnh đạo, quản lý là 02 năm, khắc phục những hạn chế của công tác luân chuyển
trong tạo nguồn cán bộ nữ hiện nay.
Trong thời gian tiếp theo, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, xây dựng và
thực hiện quy định về luân chuyển nữ công chức lãnh đạo, quản lý , trong đó xác định
cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn, đối tượng luân chuyển, đào tạo theo quy hoạch và quy
trình luân chuyển để đào tạo, thử thách, tích lũy kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý để
thúc đẩy quá trình tạo nguồn cán bộ nữ đạt hiệu quả.
Trong bố trí cán bộ nữ, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các quy
định về tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm đối với nữ công chức, viên chức cho phù hợp
với các mục tiêu bình đẳng giới
Trong nâng ngạch công chức hành chính, để tăng hiệu quả cho tạo nguồn nữ
công chức lãnh đạo, quản lý, cần có những quy định ưu tiên đối với nữ, như: Ưu tiên
về thời gian giữ ngạch đối với nữ công chức được cử tham dự kỳ thi nâng ngạch
chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp; trường hợp nữ và nam công chức có tổng số
điểm bằng nhau ở chỉ tiêu nâng ngạch cuối cùng thì nữ được quyền ưu tiên trúng
tuyển kỳ thi nâng ngạch.
18
3.2.2.3. Cụ thể hóa tiêu chuẩn công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
Trên cơ sở nhiệm vụ chính trị và đặc điểm của đội ngũ nữ công chức lãnh đạo,
quản lý tại cơ quan, đơn vị của Bộ, Bộ cần quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với từng
chức danh gắn với vị trí việc làm, gắn với chức năng, nhiệm vụ chính trị của cơ quan
và của từng đơn vị; chỉ đạo xây dựng mới quy định về tiêu chuẩn đối với từng chức
danh công chức lãnh đạo, quản lý đã được phân cấp thẩm quyền quản lý cho các đơn
vị trực thuộc Bộ.
Về lâu dài, cần nghiên cứu để xây dựng, ban hành quy định cụ thể về tiêu
chuẩn nữ công chức lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí việc làm trên cơ sở xác định cơ
cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý phù hợp để làm căn cứ tổ chức thực hiện các nội
dung khác của công tác tạo nguồn cán bộ nữ, trong đó những yêu cầu về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ được xem xét, quy định một cách hợp lý.
3.2.2.4. Xác định và thực hiện tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý
trong quy hoạch, bổ nhiệm ở Bộ Nội vụ
Trên cơ sở tiêu chuẩn các chức danh công chức lãnh đạo, quản lý đã được cụ
thể hóa, Bộ cần rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ nữ để xác định tỷ lệ, cơ
cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý phù hợp với thực tiễn hoạt động quản lý nhà
nước của Bộ.
Về tỷ lệ, cần có quy định các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ có tỷ lệ
công chức, viên chức đạt từ 30% trở lên phải có ít nhất 01 nữ giữ chức danh lãnh đạo,
quản lý; các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ công chức, viên chức đạt từ 30% trở xuống
cần bảo đảm tỷ lệ nữ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý so với tổng số công chức lãnh
đạo, quản lý đạt tối thiểu 15%; đối với quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý cấp
Lãnh đạo Bộ, nhất thiết phải có tối thiểu 01 người là nữ. Trường hợp các đơn vị thuộc
và trực thuộc không đủ nguồn nữ công chức, viên chức để đưa vào quy hoạch thì cấp
có thẩm quyền chỉ phê duyệt quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý khi đơn vị
đó có kế hoạch tạo nguồn nữ trong nhiệm kỳ kế tiếp.
Về cơ cấu, cần xuất phát từ điều kiện cụ thể và nguồn nữ công chức, viên chức
để xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ một cách hợp lý, sát thực
tế, phù hợp với nhiệm vụ cụ thể và phương hướng phát triển của bộ. Cần xác định
những vị trí lãnh đạo, quản lý cần phải có nữ. Việc quy đinh tỷ lệ và cơ cấu nữ công
chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ cần được thể chế hóa thành văn bản chỉ đạo để các cơ
quan, đơn vị có căn cứ xây dựng kế hoạch tạo nguồn cán bộ nữ.
3.2.2.5. Tổ chức thực hiện tốt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí,
bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán bộ nữ; thực hiện tốt chính sách đối với
nữ trong quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo, quản lý
- Trong quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Để làm tốt nội dung này, trước hết cần làm tốt tại khâu xây dựng quy hoạch;
cần căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tiêu chuẩn các chức danh
19
công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ đã được cụ thể hóa; tình hình đội ngũ nữ công
chức lãnh đạo, quản lý đương chức và nguồn nữ có thể đưa vào quy hoạch. Đồng
thời, cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị thuộc và trực
thuộc Bộ; vào chức năng, nhiệm vụ của người đứng đầu từng cơ quan, đơn vị trực
thuộc để đưa những công chức, viên chức phù hợp vào quy hoạch.
Trước mắt, Bộ cần xây dựng quy hoạch nữ công chức, viên chức trong quy
hoạch tổng thể về công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ; có kế hoạch tạo nguồn nữ
công chức lãnh đạo, quản lý theo giai đoạn, đẩy mạnh tạo nguồn cán bộ nữ sớm và
bảo đảm chất lượng thực sự; có kế hoạch đưa những nữ công chức lãnh đạo, quản lý
chưa đạt chuẩn và nữ công chức trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý tại
Bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức thích hợp tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
chính trị để được đào tạo cơ bản, cập nhật kiến thức, trong đó coi trọng bồi dưỡng
trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, các cấp ủy, tổ chức đảng tại các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ
cần sớm có chiến lược tạo nguồn cán bộ nữ, bảo đảm tỷ lệ nguồn nữ trong quy hoạch
tương ứng với tỷ lệ công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị, bảo đảm quy định,
hướng dẫn và chủ trương của Ban cán sự đảng Bộ. Mọi kế hoạch thực hiện quy hoạch
như đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí sử dụng, thử thách cán bộ cũng phải tuân
thủ cơ cấu, tỷ lệ trên; đồng thời có chính sách chăm lo, ưu tiên để tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho cán bộ nữ trong quá trình phấn đấu. Về điều kiện, tiêu chuẩn để quy
hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý, khi cụ thể hóa tiêu chuẩn quy hoạch và hướng
dẫn quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý của Bộ, Bộ cần vận dụng một cách linh
hoạt quy định nêu trên của Bộ Chính trị về trình độ đào tạo của nữ công chức, viên
chức, bảo đảm nguồn nữ dồi dào để đưa vào quy hoạch.
Khi tiến hành quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý đối với nguồn nữ
trong quy hoạch, bên cạnh việc căn cứ vào phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
năng lực, trình độ, kết quả công tác, uy tín, chiều hướng, triển vọng phát triển, đánh
giá của cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và kết quả bỏ phiếu của tập thể lãnh đạo, coi
trọng, chú ý đến những nữ công chức, viên chức trẻ tuổi, có triển vọng phát triển; để
tăng hiệu quả công tác tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý, cần quán triệt quan
điểm kết quả lấy phiếu tín nhiệm quy hoạch chỉ mang tính chất tham khảo, không
mang tính chất quyết định đối với việc quy hoạch nguồn nữ.
- Trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Để nâng cao hiệu quả tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ, cần có
chủ trương, chỉ tiêu cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nguồn nữ công chức lãnh
đạo, quản lý trong từng giai đoạn; cùng với đó, xác định mục tiêu tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng để bảo đảm 100% nữ công chức, viên chức có trình độ trung cấp lý luận chính
trị trở lên, 100% nữ công chức, viên chức trong diện quy hoạch các chức danh lãnh
đạo, quản lý đạt điều kiện, tiêu chuẩn của chức danh quy hoạch. Để thực hiện điều
này, Bộ cần xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với nữ
20
công chức, viên chức đến năm 2020 bảo đảm phù hợp với Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới.
Các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để
cán bộ nữ tham gia học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác; ưu tiên, tạo điều
kiện cử nữ công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, nữ trong diện quy hoạch được
đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu, tiêu chuẩn của chức danh, vị trí và chức vụ lãnh đạo,
quản lý; được lựa chọn hình thức học, thời gian học phù hợp với điều kiện cụ thể của
bản thân và phù hợp với yêu cầu của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, chương trình, nội
dung đào tạo theo quy định.
Nghiên cứu để xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ của ngành Nội vụ và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng dành cho công chức lãnh đạo,
quản lý của ngành, nhất là trong những lĩnh vực đặc thù như: Chính quyền địa
phương, tổ chức – biên chế, công chức – viên chức, tiền lương, tôn giáo; nghiên
cứu để xây dựng chương trình riêng để đào tạo, bồi dưỡng cho từng chức danh lãnh
đạo, quản lý theo vị trí việc làm, cho nữ lãnh đạo, quản lý của Bộ để tạo điều kiện tốt
nhất phát huy năng lực, vai trò của nguồn nữ khi thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý.
Bộ và các cơ quan, đơn vị trực thuộc có thẩm quyền quản lý công chức, viên
chức có trách nhiệm xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
để tạo nguồn và nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức,
viên chức nữ theo thẩm quyền quản lý; đảm bảo tỷ lệ công chức, viên chức nữ được
cử tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền cần tạo mọi điều kiện để khuyến khích, động
viên nữ công chức, viên chức của Bộ không ngừng nỗ lực, phấn đấu học tập, bồi
dưỡng, tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trưởng thành;
tích cực rèn luyện trong thực tiễn công tác để tích lũy kinh nghiệm để tham gia hiệu
quả vào hoạt động quản lý nhà nước. Cần có cơ chế hỗ trợ kinh phí cho nữ công
chức, viên chức của Bộ, nhất là nữ trong diện quy hoạch khi tham gia học tập lý luận
chính trị, kiến thức quản lý nhà nước chuyên môn, nghiệp vụ.
Cần nghiên cứu, xây dựng chính sách riêng của Bộ hỗ trợ đối với công chức,
viên chức nữ khi đi đào tạo, bồi dưỡng ; nghiên cứu để sửa đổi Quyết định số
490/QĐ-BNV theo hướng quy định ưu tiên lựa chọn nữ trong trường hợp nữ có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn như nam trong việc xét tuyển đi học các chương trình sau đại
học, học các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở trong nước và ngoài
nước.
- Trong bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển
Trong bố trí nguồn cán bộ nữ, trên cơ sở quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Bộ cần chủ động lên kế hoạch sắp xếp, bố trí
cán bộ nữ, đảm bảo đủ nguồn cán bộ nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn, năng lực, trình
21
độ để bổ sung, thay thế cho nhiệm kỳ tiếp theo, đặc biệt đối với lĩnh vực, vị trí cần có
cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ.
Khi kiện toàn, sắp xếp, bố trí đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ, cần
bảo đảm các cơ quan, tổ chức, đơn vị có từ 30% nữ trở lên nhất thiết phải có ít nhất
01 cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ ở tất cả các đơn vị. Việc bố trí, phân công công tác
cho nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý cần bảo đảm không phân biệt đối xử giữa
nam và nữ ở cùng vị trí việc làm.
Trong đề bạt, bổ nhiệm nữ công chức lãnh đạo, quản lý, cần thực hiện nghiêm
chỉnh nguyên tắc dân chủ, công khai và quyết định theo đa số, bảo đảm tuyển chọn
đúng người, đủ tổ chức theo yêu cầu của từng chức danh lãnh đạo, quản lý. Quy trình
tuyển chọn, bổ nhiệm nữ công chức lãnh đạo, quản lý phải chặt chẽ, đúng trình tự các
bước trên cơ sở đánh giá chính xác mọi mặt. Mạnh dạn bổ nhiệm những nữ công
chức, viên chức đã được rèn luyện, thử thách, được đào tạo và có đủ tổ chức vào các
chức danh người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Thực hiện thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp Vụ, cấp Sở,
cấp phòng theo Thông báo Kết luận số 202-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2015 của
Bộ Chính trị về Đề án "Thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ,
cấp sở, cấp phòng" có tính đến cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý để có những
quy định, ưu tiên cho phù hợp.
Cần xác định rõ căn cứ để lựa chọn, đề bạt nữ công chức lãnh đạo, quản lý là
quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý tại Bộ, trên cơ sở kết quả
nhận xét hàng năm, trong đó có coi trọng những nhân tố nữ tài năng trong đội ngũ nữ
công chức, viên chức tại Bộ; đồng thời những đối tượng đó đã bảo đảm được đầy đủ
các tổ chức cơ bản của chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan. Khi bổ nhiệm đối
với nguồn cán bộ nữ, cần ưu tiên lựa chọn công chức nữ đã có trong quy hoạch,
trường hợp đặc biệt, Bộ có thể xem xét cất nhắc, bổ nhiệm vượt cấp đối với những
công chức, viên chức nữ đặc biệt xuất sắc.
Tiếp tục mở rộng phạm vi triển khai chủ trương chỉ định bổ nhiệm nữ tại các
cơ quan, đơn vị. Trường hợp nữ công chức được cấp có thẩm quyền quyết định quy
hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý, đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của chức
danh lãnh đạo, quản lý, nếu quá tuổi bổ nhiệm so với quy định từ 12 tháng trở xuống
tính đến thời điểm thực hiện quy trình bổ nhiệm thì vẫn được xem xét bổ nhiệm giữ
chức danh lãnh đạo, quản lý đã được quy hoạch. Cần quy định tỷ lệ nữ để bổ nhiệm
giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý tại Bộ căn cứ theo các quy định trong Nghị quyết
và văn bản hướng dẫn của Đảng, căn cứ vào các chỉ tiêu đề ra trong mục tiêu của
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, cam kết của Chính phủ
Việt Nam trong thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ, ý kiến chỉ đạo của Ban cán sự
đảng Chính phủ về công tác cán bộ nữ và phù hợp với tình hình thực tế.
Bộ cũng cần phải xác định những giải pháp cụ thể để thực hiện đạt kết quả các
chỉ tiêu của Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị
22
nhằm đảm bảo chỉ tiêu nữ công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý. Nghiên cứu để sửa
đổi, bổ sung tiêu chuẩn về bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý theo Quyết định số
1205/QĐ-BNV theo hướng không áp dụng tiêu chuẩn bổ nhiệm “Thuộc đối tượng
quy hoạch chức danh bổ nhiệm hoặc chức danh tương đương với chức danh được bổ
nhiệm đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nói chung ít nhất 01 năm” đối với nữ.
Trong điều động, luân chuyển, trước hết cần quán triệt nhận thức, quan điểm
để nữ công chức lãnh đạo, quản lý, nữ trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản
lý hiểu rõ mục đích của công tác luân chuyển là nhằm tạo môi trường để nữ công
chức lãnh đạo, quản lý được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn cuộc sống để có
bước trưởng thành nhanh, toàn diện, đáp ứng yêu cầu công việc lâu dài, đáp ứng yêu
cầu sử dụng cán bộ theo kế hoạch; là quá trình tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng một cách
toàn diện trong thực tiễn.
Để việc luân chuyển đạt kết quả, cần thực hiện tốt chủ trương của Đảng; có
biện pháp tổ chức, thực hiện chính sách và công tác tư tưởng để nữ công chức lãnh
đạo, quản lý thông suốt và tự giác thực hiện; bảo đảm yếu tố giới trong việc lựa chọn
lĩnh vực, địa bàn luân chuyển bảo đảm phù hợp với đặc điểm về giới của nữ công
chức lãnh đạo, quản lý; cần quan tâm đến đặc điểm của phụ nữ, xem xét cẩn thận khi
quyết định địa bàn luân chuyển và tạo điều kiện thuận lợi để nữ công chức lãnh đạo,
quản lý hoàn thành nhiệm vụ; lưu ý ưu tiên luân chuyển nữ công chức, lãnh đạo quản
lý về công tác tại những lĩnh vực như tổ chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức
biên chế, tiền lương cho phù hợp với năng lực, sở trường, kinh nghiệm lãnh đạo,
quản lý của cán bộ nữ khi ở Bộ Nội vụ; cần có quy hoạch, kế hoạch cụ thể để bố trí,
luân chuyển đối với các vị trí cần thực hiện chuyển đổi vị trí công tác; không thực
hiện luân chuyển đối với nữ công chức lãnh đạo, quản lý đang nuôi con nhỏ dưới 36
tháng tuổi. Có biện pháp chính sách hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho nữ công chức,
viên chức khi thực hiện công tác luân chuyển, vừa bảo đảm yêu cầu công tác, vừa
thực hiện tốt thiên chức làm mẹ, làm vợ.
3.2.2.6. Có biện pháp, chính sách phát huy, thúc đẩy tinh thần tự học tập, rèn
luyện của nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý
Để phát huy tinh thần tự học tập, rèn luyện của nữ công chức, viên chức, nữ
công chức, viên chức trong diện quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ,
cần thực hiện tốt những nội dung sau đây:
Một là, từng nữ công chức, viên chức tích cực, chủ động học tập nâng cao trình
độ lý luận chính trị và trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ.
Hai là, cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng nữ công chức, viên chức cần quan
tâm xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích, động viên phù hợp, cần coi
trọng và thực hiện tốt hơn nữa chính sách cán bộ đối với nữ công chức lãnh đạo, quản
lý đương chức và nữ công chức, viên chức trong diện quy hoạch các chức danh lãnh
đạo, quản lý tại cơ quan, đơn vị.
23
KẾT LUẬN
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, bên cạnh việc thực hiện chức năng quản
lý nhà nước trong các lĩnh vực được giao, Bộ Nội vụ còn thực hiện quản lý nhà nước
đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và có chức năng, nhiệm vụ
nhất định trong công tác cán bộ nữ theo quy định của Chính phủ. Do đó, việc tạo
nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý vừa là một nhiệm vụ trong quản lý, sử dụng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo thẩm quyền, vừa là chức năng trong công
tác quản lý nhà nước của Bộ.
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại các cơ quan nhà nước là một
nhiệm vụ trong công tác cán bộ tại cơ quan, đơn vị, trong đó có Bộ Nội vụ; là quá
trình gồm hệ thống các công việc từ xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn, đến phát
hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, bố trí và sử dụng nguồn
nhằm tạo ra nguồn nữ đủ điều kiện, tiêu chuẩn để đề bạt, bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo,
quản lý; đồng thời bảo đảm phát huy năng lực, sở trường, phù hợp với mục tiêu bình
đẳng giới theo chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay gồm các
nội dung chủ yếu: Cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý; xác
định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý và và tỷ lệ nữ quy hoạch các chức
danh lãnh đạo, quản lý; quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý; đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý; luân chuyển, điều động nguồn nữ;
bố trí và thực hiện chính sách đối với nguồn nữ; việc tự học, tự rèn luyện của nguồn
nữ công chức lãnh đạo, quản lý.
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ thời gian qua đã có
nhiều tiến bộ, ưu điểm: Bộ đã quan tâm chỉ đạo quyết liệt và thường xuyên quán triệt
thực hiện công tác cán bộ nữ; đã xây dựng tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý
của Bộ Nội vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở
định hướng cho việc tạo nguồn; việc xác định cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý
đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện; công tác quy hoạch nữ công chức lãnh đạo, quản
lý cấp Bộ, cấp Vụ được quan tâm chỉ đạo thực hiện theo quy định; đã quan tâm đào
tạo, bồi dưỡng đối với nữ công chức, viên chức để bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn để
bổ nhiệm theo quy định; bước đầu thực hiện chủ trương ưu tiên đối với nữ công chức
trong bổ nhiệm, điều động, luân chuyển và bố trí.
Tuy nhiên, tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
cũng có không ít hạn chế. Đó là: Chưa có quy định của Bộ để cụ thể hóa tiêu chuẩn
công chức lãnh đạo, quản lý đối với từng chức danh theo vị trí việc làm; chưa xác
định tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh đạo, quản lý làm cơ sở cho công tác tạo nguồn;
công tác quy hoạch nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế, chưa
24
đặt trong chiến lược tạo nguồn lâu dài và chưa có quy hoạch riêng dành cho cán bộ
nữ; đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với nguồn nữ
công chức lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế.
Để làm tốt việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện
nay cần thực hiện nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài. Giải pháp trước mắt là: Thực
hiện tổng rà soát tình hình đội ngũ nữ công chức lãnh đạo, quản lý và nguồn nữ công
chức lãnh đạo, quản lý; cần có một Nghị quyết riêng của Ban cán sự đảng Bộ về công
tác cán bộ nữ và tạo nguồn cán bộ nữ của Bộ; khẩn trương rà soát toàn bộ các quy
định của Bộ có liên quan đến việc tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý của Bộ;
phân công bộ phận thường trực hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện
công tác cán bộ nữ và tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý tại Bộ
Giải pháp lâu dài, thực hiện thường xuyên, bao gồm: Nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và của cán bộ, công chức,
viên chức về tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý trong công tác cán bộ; hoàn
thiện thể chế, chính sách về tạo nguồn cán bộ nữ; Cụ thể hóa tiêu chuẩn công chức
lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ; xác định và thực hiện tỷ lệ, cơ cấu nữ công chức lãnh
đạo, quản lý trong quy hoạch, bổ nhiệm ở Bộ Nội vụ; tổ chức thực hiện tốt các khâu
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán
bộ nữ; thực hiện tốt chính sách đối với nữ trong quy hoạch và nữ công chức lãnh đạo,
quản lý
Các giải pháp nêu trên được đưa ra nhằm tập trung xử lý tồn tại, hạn chế trong
tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ, tiến tới đề xuất hoàn thiện
chính sách, pháp luật hiện hành về công tác cán bộ nữ để đạt được mục tiêu bình
đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và tăng cường phụ nữ tham chính ở Việt Nam nói
chung, ở Bộ Nội vụ nói riêng trong giai đoạn hiện nay./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_tao_nguon_nu_cong_chuc_lanh_dao_quan_ly_o_b.pdf