Theo Luật TTTM 2010 thì trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các
bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt tồn tại khi
giải quyết xong vụ việc đó. Như vậy, việc thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc
cũng là để thực hiện việc giải quyết một vụ việc cụ thể bởi các thành viên của Hội
đồng trọng tài do các bên thành lập ra. Hội đồng trọng tài vụ việc sẽ không có một
quy tắc tố tụng trọng tài từ trước, do đó khi được thành lập, Hội đồng trọng tài vụ
việc sẽ giải quyết luôn các vấn đề về quy tắc tố tụng. Như vậy, ta có thể thấy, khi
xảy ra tranh chấp về kinh doanh thương mại, các bên sẽ thỏa thuận thành lập ra
Hội đồng trọng tài vụ việc để giải quyết, nếu bên bị đơn mà hết thời hạn không lựa
chọn Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án để lựa chọn Trọng tài
viên (Điều 41, Luật TTTM 2010). Điều đó đồng nghĩa với việc, trong trường hợp
các bên sử dụng trọng tài vụ việc là phương thức giải quyết tranh chấp thì khái
niệm này tương đồng với khái niệm Hội đồng trọng tài vụ việc.
23 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2898 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận văn Thẩm quyền của hội đồng trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG MINH PHƢƠNG
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG MINH PHƢƠNG
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đặng Minh Phƣơng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, đến nay em đã hoàn thành luận văn Thạc sỹ, đạt kết quả khả quan theo
các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
Qua đây, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình truyền thụ những kiến thức bổ ích, tạo
điều kiện giúp em hoàn thành tốt chương trình Thạc sỹ. Đặc biệt, em xin trân
trọng cảm ơn GVC,TS. Phan Thị Thanh Thủy, người đã rất tận tâm hướng dẫn
em thực hiện đề tài nghiên cứu, đã truyền tải những kiến thức chuyên sâu và
chia sẻ những kinh nghiệm thực tế hữu ích liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014
Học viên
Đặng Minh Phƣơng
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục tài liệu viết tắt
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 8
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .................................................................................... 13
1.1. Khái quát về Hội đồng trọng tài thƣơng mại ..................................................... 13
1.1.1. Khái niệm và sự hình thành của Hội đồng trọng tài thƣơng mại ................. 13
1.1.1.1. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài quy chế ................................................. 15
1.1.1.2. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài vụ việc .................................................. 16
1.1.2. Những đặc điểm của Hội đồng trọng tài thương mạiError! Bookmark not
defined.
1.1.3. Chức năng của Hội đồng trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Khái quát về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thƣơng mại ................ Error!
Bookmark not defined.
1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mạiError! Bookmark
not defined.
1.2.2. Phân biệt thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thẩm quyền của Tòa án
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.2.1. Giống nhau ....................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.2.2. Khác nhau ......................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài
thương mại .................................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN
CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thƣơng mại giai đoạn
trƣớc Luật Trọng tài thƣơng mại năm 2010 ............. Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 ......... Error!
Bookmark not defined.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2010..... Error! Bookmark not defined.
2.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thƣơng mại theo Luật trọng tài thƣơng
mại năm 2010 ............................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Quy định về thành lập Hội đồng trọng tài ......... Error! Bookmark not defined.
2.2.1.1. Thành lập Hội đồng trọng tài quy chế.............. Error! Bookmark not defined.
2.2.1.2. Thành lập trọng tài vụ việc ............................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong công tác chuẩn bị xét xử ...... Error!
Bookmark not defined.
2.2.2.1. Thẩm quyền xem xét sự tồn tại, hiệu lực, tính khả thi của thỏa thuận trọng tài
và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài .......................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2.2. Thẩm quyền trong việc xác minh sự việc và thu thập chứng cứ............... Error!
Bookmark not defined.
2.2.2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời...57
2.2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong phiên họp giải quyết tranh chấp
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3.1. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về triệu tập người làm chứng ......... Error!
Bookmark not defined.
2.2.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài khi đương sự vắng mặt trong phiên họp
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thương lượng và giải quyết
tranh chấp ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Thẩm quyền ra phán quyết của Hội đồng trọng tàiError! Bookmark not
defined.
2.3. Những vƣớng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài thƣơng mại ................................... Error! Bookmark not defined.
2.4. Thực tiễn việc thực thi các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
thƣơng mại ................................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA
HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .............. Error! Bookmark not defined.
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
thƣơng mại ................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài thƣơng mại .................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mạiError! Bookmark not
defined.
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ... Error!
Bookmark not defined.
3.3. Các giải pháp nâng cao uy tín và nhu cầu áp dụng trọng tài trong giải quyết
tranh chấp thƣơng mại ................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................................. Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 18
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
Công ước New York 1958 Công ước New York năm 1958 của
Liên Hợp Quốc về Công nhận và thi
hành quyết định trọng tài nước ngoài
Luật mẫu UNCITRAL Luật Mẫu về trọng tài thương mại
quốc tế của Uỷ ban Liên Hợp quốc về
luật thương mại quốc tế UNCITRAL
thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1985
Luật TTTM 2010 Luật Trọng tài thương mại số
54/2010/QH12 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
17 tháng 6 năm 2010
Pháp lệnh TTTM 2003 Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc
hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày
25 tháng 02 năm 2003 về Trọng tài
thương mại
Hội đồng TTTM Hội đồng trọng tài thương mại
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án thuận lợi
cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Trong
giao dịch dân sự thường ngày, nhất là các giao dịch kinh tế thương mại, việc phát
sinh tranh chấp là không thể tránh khỏi và giải quyết các tranh chấp phát sinh một
cách nhanh chóng, hiệu quả, công bằng là góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế,
thương mại, đầu tư, tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan
hệ và cả khi có phát sinh tranh chấp.
Tuy nhiên trên thực tế, trọng tài tại Việt Nam rất ít được sử dụng để giải
quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài
nhất là hợp đồng có giá trị lớn hầu như không lựa chọn trọng tài tại Việt Nam để
giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải
quyết thông qua hệ thống Tòa án hoặc trọng tài nước ngoài.
Nguyên nhân xuất phát từ việc hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về
trọng tài thương mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa thực
sự trở thành phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các
tranh chấp liên quan. Một trong những bất cập đó là vấn đề thủ tục tố tụng trọng tài
còn nhiều bất cập trong đó có quy định về thẩm quyền của Hội đồng TTTM. Các
quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài còn nhiều bất cập làm cho tính linh
hoạt, ưu thế của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không phát huy
được hoàn toàn. Điều này dẫn đến vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài chưa
thực sự mạnh, chưa phân định rõ thẩm quyền trong quá trình giải quyết; nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng trọng tài còn chưa được quy định cụ thể dẫn đến các chủ
thể có tranh chấp phát sinh được giải quyết bằng trọng tài thương mại chưa thực sự
tin tưởng sử dụng trọng tài thương mại như là phương thức giải quyết tranh chấp
hàng đầu.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế thế giới và Việt Nam có những
chuyển biến mang tính tiêu cực, tình hình khủng hoảng kinh tế đang còn diễn ra,
chính vì vậy các giao dịch thương mại, kinh tế phát sinh nhiều tranh chấp xảy ra.
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện cuối cùng các bước để
hoàn tất các cam kết đã ký khi tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc
hoàn thiện các quy định về trọng tài thương mại của Việt Nam trong đó có quy
định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là một vấn đề mang tính cấp thiết.
Xuất phát từ lý do này, tác giả đã chọn vấn đề “Thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu các vấn đề về trọng tài thương
mại với tư cách là bài bình luận, bài báo khoa học hoặc các luận văn, luận án. Tuy
nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và thỏa đáng về thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài trong thủ tục tố tụng trọng tài thương mại. Đặc biệt,
trong bối cảnh hiện nay, Luật TTTM 2010 đã được Quốc hội thông qua và đi vào
thực hiện thay thế cho Pháp lệnh TTTM 2003 bị đánh giá là còn nhiều điểm chưa
hợp lý, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp tìm đến con đường giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, một phương thức tỏ ra có ưu thế hơn hẳn Tòa án được thừa nhận ở
hầu hết các nước trên thế giới.
Ở cấp độ luận văn thạc sỹ có thể kể đến các công trình như Vũ Thanh Minh
với luận văn “Pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại”
năm 2011 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Nguyễn Thị Thu
Thủy với đề tài “Pháp luật về trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay” năm 2003
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội...
Ở cấp độ bài báo khoa học có thể kể đến các tác phẩm như: Tác giả Nguyễn
Vũ Hoàng với bài viết “Luật áp dụng trong lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế”
đăng trên Tạp chí Luật học Số đặc san về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
năm 2012; Tác giả Trần Quỳnh Anh với bài viết “Một số vướng mắc và hướng
hoàn thiện Luật trọng tài thương mại” đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2012...
Trong đó, thẩm quyền của Hội đồng TTTM theo pháp luật hiện hành là một
trong những vấn đề cần phải bàn tới nhiều nhất nhưng lại hoàn toàn thiếu vắng các
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Do vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu
vấn đề này, đồng thời so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới đề làm rõ
sự khác biệt về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong pháp luật trọng tài thương
mại của Việt Nam so với pháp luật trọng tài thương mại một số nước trên thế giới.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn nghiên cứu với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về trọng
tài thương mại và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong thủ tục tố tụng trọng
tài. Luận văn phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài trong tương quan so sánh với những quy định trước đây về
trọng tài thương mại của Việt Nam và quy định về trọng tài thương mại của luật
các quốc gia trên thế giới.
Từ những sự phân tích trên, luận văn tiến hành chỉ ra những vướng mắc, bất
cập trong quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng trọng tài nói chung
và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nói riêng. Qua đó, luận văn đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng trọng tài và thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn hướng đến hai đối tượng nghiên cứu chính. Đối tượng thứ nhất là
các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền Hội đồng TTTM ở Việt Nam
mà đặc biệt là các quy định tại Luật TTTM 2010. Đối tượng thứ hai mà tác giả
hướng đến đó là thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền Hội
đồng TTTM tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn cao học, nội dung nghiên cứu
của đề tài tiếp cận vấn đề thẩm quyền của Hội đồng TTTM trên hai phương diện lý
luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền Hội đồng
TTTM, tác giả đưa ra những đánh giá khách quan và đề xuất một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền của Hội
đồng TTTM tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Về mặt thời gian
Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn, luận văn
lấy mốc nghiên cứu từ năm 2010 – năm Luật TTTM 2010 được ban hành cho
đến nay. Nội dung luận văn cũng có sự đề cập và phân tích đối với các quy định
pháp luật trước năm 2010 về vấn đề thẩm quyền trọng tài, đặc biệt là các quy
định trong Pháp lệnh về Trọng tài thương mại năm 2003. Khi đề xuất giải pháp,
luận văn nêu ra những kiến nghị, đề xuất thực hiện trong thời gian 5 – 10 năm
tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phát triển kinh tế, tìm ra các phương
hướng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài ra, còn sử dụng các
thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về
nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề như:
phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, Đồng thời, việc
nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải
thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
6. Đóng góp của đề tài
Trong luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống cơ sở
lý luận về thẩm quyền của Hội đồng TTTM, phân tích các quy định của pháp luật
về thẩm quyền của Hội đồng TTTM ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở những phân
tích, đánh giá này, kết hợp tham khảo quy định của một số nước trên thế giới về
thẩm quyền của Hội đồng TTTM, luận văn chỉ ra một số bất cập còn tồn tại trong
cơ chế áp dụng thẩm quyền của Hội đồng trọng tài để qua đó đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả năng áp dụng trọng tài trong giải
quyết tranh chấp thương mại.
Với kết quả như trên, luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu phục vụ
việc học tập và giảng dạy, cũng như tham khảo để hoàn thiện các quy định của
pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt nam về thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài thương mại.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Hội đồng trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và sự hình thành của Hội đồng trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình diện
khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài. Theo
cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách giải quyết bất
đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình công”
[43]. Hoặc trong cuốn sách Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL: “Trọng
tài là những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được
xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng buộc
đối với hai bên” [21].
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét
giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh
chấp phải thi hành” [9].
Tại Việt Nam, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tà7i thương mại
năm 2010 “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại” [29].
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung
hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới góc độ:
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi nhà
nước (phi chính phủ) do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh
chấp thương mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp
chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở
đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự
thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải
quyết, các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
khá giống với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Cả hai phương
thức này đều có sự xuất hiện của người thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải,
vai trò của người thứ ba chỉ mang tính hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau.
Còn trong phương thức trọng tài, sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra
phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.
Trọng tài thương mại bao gồm hai hình thức là trọng tài vụ việc (Ad-hoc) và
trọng tài thường trực (trọng tài quy chế - Regular) với những phương thức thành
lập ra Hội đồng trọng tài khác nhau.
Trọng tài ad - hoc là thể loại trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể, sau khi vụ tranh chấp đã được giải quyết xong thì
trọng tài ad - hoc tự giải thể. Do đó, trọng tài ad - hoc còn được gọi là trọng tài vụ
việc, trọng tài đặc biệt, trọng tài đặc nhiệm... Hình thức trọng tài này có đặc điểm
là không có trụ sở cố định như trọng tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kỳ quy
tắc xét xử nào. Trong các vụ tranh chấp sử dụng trọng tài ad - hoc, thì các bên
thường thống nhất có một trọng tài viên.
Trọng tài thường trực là trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt động
một cách thường xuyên, có trụ sở, điều lệ và có quy tắc xét xử riêng. Trọng tài
thường trực giống trọng tài ad - hoc ở khả năng lựa chọn trọng tài viên nhưng lại
có hạn chế hơn là chỉ được lựa chọn trong số các trọng tài viên của trung tâm trọng
tài - mà số lượng các trọng tài viên trong danh sách này thường rất hạn chế. Ban
trọng tài có thể là một trọng tài viên duy nhất được chọn trong số trọng tài viên của
trung tâm trọng tài hoặc có thể là ba trọng tài (mỗi bên chọn ra một trọng tài viên
và hai người này sẽ chọn một trọng tài thứ ba làm chủ tịch Hội đồng trọng tài).
Trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng được quy định chặt chẽ, được công bố
công khai. Các bên đương sự buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng
trung tâm trọng tài, bất luận là những quy định phức tạp và bất hợp lý như thế nào.
Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rất hãn hữu. Bởi các trung tâm trọng tài muốn tồn
tại, bên cạnh chất lượng trọng tài viên thì quy chế tố tụng của từng trung tâm trọng
tài phải rất linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi hỏi các nhà kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp, có như vậy mới thu hút được được khách hàng. Lợi thế lớn nhất
của trọng tài thường trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài. Các bên đương
sự chỉ cần thoả thuận áp dụng các bộ quy tắc này là đủ, không cần mất công tạo lập
ra các bộ quy tắc mới. Điều này rất thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp. Nếu họ
không muốn có mạo hiểm cho mình thì họ chọn trọng tài thường trực với bộ quy
tắc có sẵn. Các tổ chức trọng tài thường trực đều độc lập và không có quan hệ gì
với nhau trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, không phụ thuộc vào nhau về
đều bình đẳng trước sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Việc lựa chọn tổ chức
trọng tài cũng như trọng tài viên hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các
bên tranh chấp.
Như vậy, Hội đồng trọng tài cũng cần được tìm hiểu dưới các khía cạnh
khác nhau về quy chế và quy trình thành lập.
1.1.1.1. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài quy chế
Luật TTTM 2010 đã đưa ra định nghĩa pháp lý về trọng tài quy chế để thay
cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp
lệnh TTTM 2003 quy định. Theo đó, trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được
tiến hành tại trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài.
Luật TTTM 2010 cho phép các trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố
tụng trọng tài phù hợp với đặc thù của mỗi trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối
với các bên tranh chấp. Chỉ khi các bên không có thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng
trọng tài của trung tâm trọng tài không có quy định khác, lúc đó Luật mới đưa ra
quy định hướng dẫn. Cuối cùng, Luật TTTM 2010 còn cho phép tổ chức trọng tài
nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của
pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Theo quy định của Luật TTTM 2010, Trọng tài thường trực là hình thức
trọng tài được tổ chức chặt chẽ, có bộ máy, trụ sở làm việc thường xuyên, có danh
sách trọng tài viên hoạt động theo điều lệ và quy chế tố tụng riêng. Hầu hết các tổ
chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành lập theo mô hình này
dưới những tên gọi như trung tâm trọng tài, ủy ban trọng tài, viện trọng tài, hội
đồng trọng tài quốc gia và quốc tế... nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới
dạng các trung tâm trọng tài. Về bản chất, Hội đồng trọng tài quy chế được thành
lập ra do sự lựa chọn của các bên tranh chấp trong danh sách Trọng tài viên là
thành viên của trung tâm trọng tài (về vấn đề này thì việc thành lập Hội đồng trọng
tài quy chế khác với thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc). Theo đó, các bên tranh
chấp sẽ lựa chọn trong số Trọng tài viên những người sẽ là thành viên của Hội
đồng trọng tài giải quyết vụ việc tranh chấp này. Hội đồng trọng tài quy chế sẽ sử
dụng quy tắc tố tụng thống nhất của trung tâm trọng tài để giải quyết vụ việc. Và
Hội đồng trọng tài này cũng chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà họ được
các bên đương sự lựa chọn mà thôi.
1.1.1.2. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài vụ việc
Đối với hình thức trọng tài vụ việc thì Luật TTTM 2010 có những quy định
khác về việc thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc. Trọng tài vụ việc là hình thức
trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, sau
khi vụ tranh chấp đã được giải quyết xong thì trọng tài vụ việc tự giải thể. Hình
thức trọng tài này có đặc điểm là không có trụ sở cố định như trọng tài thường trực,
không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào. Trong các vụ tranh chấp sử dụng
trọng tài vụ việc, thì các bên thường thống nhất có một trọng tài viên. Như vậy, có
thể hiểu, sự hình thành của Hội đồng TTTM do các bên giải quyết tranh chấp tự
thỏa thuận với nhau, nếu không có sự thỏa thuận thì việc thành lập Hội đồng trọng
tài sẽ tuân theo trình tự, thủ tục do Luật TTTM 2010 quy định, Hội đồng trọng tài
là cơ quan tiến hành xét xử vụ việc tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận.
Theo Luật TTTM 2010 thì trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các
bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt tồn tại khi
giải quyết xong vụ việc đó. Như vậy, việc thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc
cũng là để thực hiện việc giải quyết một vụ việc cụ thể bởi các thành viên của Hội
đồng trọng tài do các bên thành lập ra. Hội đồng trọng tài vụ việc sẽ không có một
quy tắc tố tụng trọng tài từ trước, do đó khi được thành lập, Hội đồng trọng tài vụ
việc sẽ giải quyết luôn các vấn đề về quy tắc tố tụng. Như vậy, ta có thể thấy, khi
xảy ra tranh chấp về kinh doanh thương mại, các bên sẽ thỏa thuận thành lập ra
Hội đồng trọng tài vụ việc để giải quyết, nếu bên bị đơn mà hết thời hạn không lựa
chọn Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án để lựa chọn Trọng tài
viên (Điều 41, Luật TTTM 2010). Điều đó đồng nghĩa với việc, trong trường hợp
các bên sử dụng trọng tài vụ việc là phương thức giải quyết tranh chấp thì khái
niệm này tương đồng với khái niệm Hội đồng trọng tài vụ việc.
Theo quy định tại Điều 2 của Luật mẫu UNCITRAL, thì "Trọng tài" là bất
cứ hình thức trọng tài được hoặc không được quản lý bởi một tổ chức trọng tài
thường trực. Còn Hội đồng trọng tài được định nghĩa là "Hội đồng trọng tài" là
trọng tài viên duy nhất hoặc các trọng tài viên.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về Hội đồng
trọng tài như sau: Hội đồng TTTM là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn và được quy định trong
Luật TTTM 2010. Hội đồng trọng tài bao gồm một hoặc nhiều trọng tài viên
được hình thành theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp
luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thông Anh (2012), “Giải quyết bằng trọng tài thương mại ADHOC ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”,
tai-thuong-mai-ad-hoc-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap, ngày đăng
05/02/2012.
2. Phan Thông Anh (2009), “Tại sao các doanh nghiệp Việt Nam không “mặn
mà” với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài?”,
ngày đăng 08/08/2009.
3. Chính phủ (1994), Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 của chính phủ về tổ
chức và hoạt động của trọng tài kinh tế, Hà Nội.
4. Chính phủ (2003), Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh trọng tài thương mại, Hà Nội.
5. Chính phủ (2004), Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/1/2004 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam, Hà
Nội.
6. Chính phủ (2011), Nghị định số 63/2011/NĐ-CP của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trọng tài thương mại năm
2010, Hà Nội.
7. Vũ Ánh Dương (2009), “Dự án luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận các
chuẩn mực quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2009(14), tr. 13-17.
8. Đỗ Văn Đại (2010), “Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở
Việt Nam”,
_content&view=article&id=343:gqtcbptttovn&catid=119:ctc20076&Itemid=110,
ngày đăng 12/12/2010.
9. Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ - AAA (1984), “Hướng dẫn về trọng tài thương
mại”, Bản dịch của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Hà Nội.
10. Phan Chí Hiếu (2005),” Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2005(12), tr. 8-11.
11. Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật trung ương (2013), “Đặc san tuyên
truyền - Trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại”, NXB. Tư
pháp, Hà Nội.
12. Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật trung ương (2013), “Trọng tài thương
mại và pháp luật về trọng tài thương mại”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
13. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2014), Nghị quyết số
01/2014/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật trọng tài
thương mại, Hà Nội.
14. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Tờ trình số 10/TTr-HLGVN ngày 01/9/2009
về Dự án Luật Trọng tài thương mại.
15. Trần Thị Lan Hương (2014), “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài: Thực tiễn tại Việt Nam”,
quyet-tranh-chap-thuong-mai-bang-trong-tai-Thuc-tien-tai-Viet-Nam/49610.tctc,
ngày đăng 27/5/2014.
16. Thế Lập (2013), “Bộ Tư pháp công bố danh sách các tổ chức trọng tài tại
Việt Nam và danh sách các trọng tài viên của các Trung tâm trọng tài”,
mID=286, ngày đăng 13/8/2013.
17. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2009), “Tuyển tập Luật trọng tài một số nước
trên thế giới”, Bản dịch của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hà Nội.
18. Liên hợp quốc (1958), Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành
quyết định trọng tài nước ngoài.
19. Liên hợp quốc (1985), Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Uỷ ban
Liên Hợp quốc về luật thương mại quốc tế UNCITRAL.
20. Liên hợp quốc (1996), Quy tắc trọng tài UNCITRAL.
21. Liên hợp quốc (1996), Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, Bản
dịch của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Hà Nội.
22. “Luật Trọng tài thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc”,
cua.html, ngày đăng 08/08/2013.
23. Nguyễn Thị Hằng Nga (2006), “Về thẩm quyền của trọng tài thương mại và
những lưu ý trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thỏa thuận trọng tài”, Tạp chí
Luật học, 2006(7), tr. 17-20.
24. Hà Phương (2011), “Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương
mại”,
View_Detail.aspx?ItemID=276, ngày đăng 04/08/2010.
25. Nguyễn Hoài Phương (2006), “Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ tố tụng trọng tài thương mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2006(3), tr. 15-
19.
26. Quốc hội (1992), Hiến pháp (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hà Nội.
27. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
28. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.
29. Quốc hội (2010), Luật trọng tài thương mại, Hà Nội.
30. Thủ tướng chính phủ (1993), Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 của
Thủ tướng chính phủ về tổ chức Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
31. Lê Minh Toàn (2002), Luật kinh tế Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
32. Trang thông tin pháp luật công thương (2011), “Lịch sử phát triển trọng tài
trong giải quyết tranh chấp”, ngày đăng 25/06/2011.
33. Trung tâm từ điển học (2008), Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
34. Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế (1998), Quy tắc tố tụng trọng tài của
phòng thương mại quốc tế ICC.
35. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam - VIAC (2004), Quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam năm 2004.
36. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2011), Báo cáo của Văn phòng trung
tâm trọng quốc tế Việt Nam.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Trọng tài kinh tế - một hình thức giải
quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta, Đề tài nghiên cứu cấp trường, Hà Nội.
38. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB.
Công an nhân dân, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thương mại, NXB.
Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Uỷ ban thường vụ quốc hội (1995), Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài, Hà Nội
41. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2003), Pháp lệnh trọng tài thương mại, Hà Nội.
42. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2008), Nghị quyết số 57/2008/NQ-UBTVQH
ngày 23/1/2008 Của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về thành lập ban soạn thảo Luật
trọng tài thương mại.
43. Viện nghiên cứu kinh tế trung ương (1996), Từ điển kinh tế thị trường từ A
đến Z, NXB. Từ điển bách khoa, Hà Nội
44. Nguyễn Thị Yến (2005), “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động
của trọng tài thương mại theo Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003”, Tạp chí
Luật học, 2005(2), tr. 16-20.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050004876_1564.pdf