Việc thí điểm mô hình là cần thiết, tuy nhiên cần phải xác định thời
gian thí điểm mô hình một cách hợp lý, đảm bảo đánh giá đầy đủ những
tác động của mô hình. Trong khoảng thời gian xác định thí điểm, từng
bước, liên tục đánh giá mô hình để có những thay đổi phù hợp, tiến tới
hoàn chỉnh mô hình. Đồng thời, tiến hành một cách thận trọng, từng bước23
việc đổi mới tổ chức bộ máy, chuyển dần bộ máy chính quyền các thành
phố trực thuộc tỉnh còn lại theo hướng “một cấp chính quyền, hai cấp hành
chính” theo như mô hình đã thí điểm. Trên cơ sở mô hình hoàn chỉnh, triển
khai áp dụng cho các thành phố trực thuộc tỉnh còn lại; sửa đổi, bổ sung
các điều kiện cần thiết để mô hình được triển khai ở tất cả các thành phố
trực thuộc tỉnh.
Việc huy động, chuẩn bị các nguồn lực để triển khai mô hình là một
vấn đề lớn, việc triển khai áp dụng mô hình là cần thiết và cũng là một
khó khăn lớn của toàn xã hội, của bản thân các đô thị nói riêng. Cho nên
để hoàn chỉnh mô hình và triển khai một cách toàn diện, có hiệu quả cần
phải có sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò lãnh đạo của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào là vấn đề đầu tiên, mang tính định hướng
cao nhất.
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 665 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................./................
BỘ NỘI VỤ
...../.....
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HANGPHONXAVAN CHANTHALA
TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TỈNH Ở NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60.34.04.03
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VÕ KIM SƠN
Phản biện 1: ..
....
Phản biện 2: ...
....
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp ....., Nhà......
- Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia
Số:77 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Thời gian: vào hồi giờ tháng năm 201...
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng, đổi mới và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước đã trở thành yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn quản lý, đặc biệt trong quá
trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế ở rất nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có nước CHDCND Lào.
Luật Hành chính địa phương 2015 của Lào mới được ban hành, trong
đó, có nhiều sửa đổi liên quan đến việc thành lập và hoạt động của chính
quyền đô thị thành phố nói chung, thành phố trực thuộc tỉnh nói riêng.
Hiện nay, chính quyền quản lý đô thị của Lào được tổ chức các cấp hành
chính và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn như chính quyền nông thôn
cùng cấp, đồng thời có thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý trên địa
bàn đô thị. Thực trạng như vậy chưa đủ để quản lý có hiệu lực, hiệu quả
các hoạt động trên địa bàn, dẫn đến nhiều vấn đề cấp thiết của đô thị như
quy hoạch, kiến trúc, xây dựng hạ tầng đô thị, xử lý ô nhiễm môi trường,
ùn tắc giao thông, trật tự an toàn xã hộichưa được giải quyết kịp thời và
cũng chưa phù hợp với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý
theo lãnh thổ trong đó đô thị do kết cấu hạ tầng thống nhất đòi hỏi phải
quản lý theo ngành là chủ yếu, khác với nông thôn quản lý theo lãnh thổ là
chủ yếu.
Thực trạng tổ chức chính quyền đô thị nói chung, xây dựng chính
quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh còn một số bất cập, đặt ra yêu cầu
cần phải làm rõ sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn, giữa đô thị thành
phố trực thuộc tỉnh với đô thị các cấp khác; từ đó xác định rõ mô hình tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ chế hoạt động phù hợp đối với
chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh - nơi đang đặt ra yêu cầu và
đòi hỏi hết sức cấp bách về một mô hình tổ chức chính quyền phù hợp với
vị trí, vai trò, quy mô đô thị ở nước CHDCND Lào hiện nay.
Với những kiến giải nêu trên, tác giả lựa chọn ý tưởng nghiên cứu về
“Tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, luận văn
2
đánh giá thực trạng để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, hoàn
thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý của bộ máy chính
quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào trong bối
cảnh thời kỳ đổi mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Đề tài “Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị” do
PGS.TS Bùi Xuân Đức chủ nhiệm đề tài. Đây là đề tài cấp viện của Viện
Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và
Nhân văn Quốc gia. Trong công trình này, các nhà Luật học đã nghiên cứu
lý luận, thực trạng và giải pháp đổi mới chính quyền địa phương ở đô thị,
chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương, chính quyền thị xã, thành
phố thuộc tỉnh. Đây là nền tảng cơ bản để tác giả có cơ sở đối chiếu, so
sánh quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm tổ chức và quản lý giữa
chính quyền đô thị của Việt Nam và Lào.
Về sách chuyên khảo có các công trình đáng chú ý như: “Những vấn
đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay” do
PGS.TS Lê Minh Thông và PGS.TS Nguyễn Như Phát đồng chủ biên.
Cuốn sách “Chính quyền địa phương trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do PGS.TS Lê Minh Thông. Cuốn sách
“Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh” của PGS.TS Phan Xuân Biên.
Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước của Bộ Nội vụ có “Báo
cáo tổng hợp kết quả điều tra thực trạng tổ chức và hoạt động của chính
quyền đô thị ở Việt Nam hiện nay”.
Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công về “Đổi mới tổ chức bộ
máy chính quyền đô thị ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Thị Lan, Học viện
Hành chính quốc gia năm 2014, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công
của tác giả Văn Đức Mạnh về “Tổ chức chính quyền đô thị ở Việt Nam đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước”, Học viện Hành chính quốc
gia năm 2015 là những công trình nghiên cứu và đưa ra hệ thống giải pháp
trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng hoạt động tổ chức chính quyền
3
đô thị các cấp ở Việt Nam.
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Về phía các công trình khoa học liên quan đến lĩnh vực tổ chức chính
quyền đô thị của nước CHDCND Lào, có đề tài “Hoàn thiện bộ máy quản
lý đô thị CHDCND Lào” - Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công năm
2003, Học viện Hành chính Quốc gia của tác giả Athiphon Bunnaphôn.
Bên cạnh đó còn có đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy
chính quyền cấp tỉnh nước CHDCND Lào”, luận văn thạc sĩ quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2007, của tác giả Bouaphanh Xayasongkham.
Tình hình nghiên cứu cho thấy, các công trình khoa học, đề tài
nghiên cứu, luận văn, sách báo đều đã tiếp cận ở nhiều nội dung cụ thể
khác nhau để giải quyết tốt mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Tuy
nhiên, cho đến nay, có thể khẳng định chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt và có hệ thống về tổ chức bộ
máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh của nước CHDCND Lào.
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này dưới
góc độ khoa học quản lý công.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra một số đề xuất tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố
trực thuộc tỉnh ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính quyền đô thị, mô hình
tổ chức của chính quyền đô thị và chính quyền đô thị thành phố trực
thuộc tỉnh.
- Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức bộ máy chính quyền đô thị và đô
thị thành phố trực thuộc tỉnh tại một số quốc gia trên thế giới.
- Tìm hiểu thực trạng và phân tích những hạn chế của tổ chức bộ
máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở Lào hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp để tổ chức hợp lý bộ máy chính quyền đô
thị thành phố trực thuộc tỉnh của Lào đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính
4
nhà nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tổ chức bộ máy chính quyền
đô thị thành phố trực thuộc tỉnh của nước CHDCND Lào.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Đề tài dự định tiến hành nghiên cứu những
mô hình chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh của Lào trong
khoảng thời gian từ năm 2003 đến nay trong phạm vi cả nước.
- Phạm vi về không gian: 17 tỉnh của nước CHDCND Lào.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Quan điểm duy vật biện chứng
- Quan điểm duy vật lịch sử
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu sẵn có (Desk review)
- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đánh giá các lý luận về tổ chức
chính quyền đô thị nói chung và chính quyền đô thị thành phố trực thuộc
tỉnh nói riêng.
- Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng trong thống kê số
liệu thực tế để phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Cung cấp cho những người học, nhà quản lý và các nhà nghiên cứu
một hệ thống lý luận tương đối đầy đủ về tổ chức bộ máy chính quyền đô
thị thành phố trực thuộc tỉnh ở CHDCND Lào.
Bên cạnh đó, lý luận về tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố
trực thuộc tỉnh cũng là nguồn bổ sung quan trọng cho các lĩnh vực nghiên
cứu liên quan.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Là một nguồn tài liệu tham khảo cho những nhà quản lý trong quá
trình lãnh đạo thực hiện. Nghiên cứu này có thể là nguồn tài liệu giảng dạy,
5
tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch địch chính sách, nhà làm luật, nhà
quản lý HCNN, nhà nghiên cứu chuyên sâu, các giảng viên, học viên...
Đề xuất giải pháp hướng đến hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền
đô thị thành phố trực thuộc tỉnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của nền công
vụ Lào nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương, bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức bộ máy chính quyền
đô thị thành phố trực thuộc tỉnh.
Chương 2: Thực trạng tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố
thực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào.
Chương 3: Phương hướng và đề xuất mô hình tổ chức bộ máy chính
quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY
CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH
1.1. Phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và chính quyền địa
phương
1.1.1. Phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ
1.1.1.1. Tổng quan chung về phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ
Lãnh thổ quốc gia của các nước đều được phân chia thành các đơn vị
hành chính lãnh thổ nhằm để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước từng vùng lãnh thổ đó.
Không có nguyên tắc chung về phân chia lãnh thổ quốc gia thành các
đơn vị hành chính lãnh thổ như thế nào để thống nhất chung. Tuy nhiên,
theo thống kê chung, lãnh thổ quốc gia có thể chia thành nhiều cấp độ khác
nhau và đánh số từ 1 đến 4. Và mỗi một cấp (cấp 1 đến cấp 4) có thề có
những tên gọi khác nhau tùy theo từng quốc gia.
1.1.1.2. Các loại đơn vị hành chính lãnh thổ trực thuộc tỉnh
6
Ở Việt Nam tên gọi các đơn vị hành chính lãnh thổ cấp dưới tỉnh
bao gồm:
- Thành phố thuộc tỉnh;
- Thị xã;
- Huyện;
- Quận.
Các nước trên thế giới cũng có tên gọi tương tự. Và có thể sử dụng
chung cụm từ “district” như là huyện, nhưng có thể sử dụng cụm từ
“municipality” như là cụm dân cư.
1.1.2. Chính quyền địa phương
1.1.2.1. Tổng quan về chính quyền địa phương
Hiện nay, có thể có nhiều cách thức tổ chức chính quyền địa phương
đơn vị hành chính lãnh thổ. Và mỗi một quốc gia có thể chọn cho mình
một dạng riêng.
Hai chủ thể đáng được chú ý của chính quyền địa phương là:
- Hội đồng địa phương (Hội đồng)
- Cơ quan chấp hành của Hội đồng địa phương
1.1.2.2. Một số dạng tổ chức chính quyền địa phương phổ biến
Với hai nhóm yếu tố đó có thể tạo ra một số dạng tổ chức chính
quyền địa phương.
- Mô hình “Hội đồng mạnh, Thị trưởng yếu”;
- Mô hình “Hội đồng yếu, Thị trưởng mạnh”;
- Mô hình “Hội đồng - Nhà quản lí chuyên nghiệp - Thị trưởng
danh dự”;
- Mô hình điều hành hoạt động quản lí thông qua ủy ban do Hội
đồng bầu.
1.2. Vùng đô thị và chính quyền đô thị
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng và phân loại đô thị
1.2.1.1. Khái niệm đô thị
Đô thị là cụm từ dùng để chỉ một khu vực, một vùng lãnh thổ mang
những tính chất, đặc điểm khác nhau về dân cư đô thị, mật độ dân số, tính
chất lao động của dân cư hay về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, vai trò, sự phát
7
triển kinh tế - xã hội... của một khu vực, vùng lãnh thổ. Mỗi quốc gia khác
nhau có những quy định, cách hiểu khác nhau về đô thị. Tuy nhiên, dù tiếp
cận theo góc độ nào thì khái niệm đô thị cũng thống nhất với nhau ở một
tiêu chí “đô thị là điểm dân cư tập trung phần lớn những người dân hoạt
động không phải là nông nghiệp, họ sống và làm việc theo kiểu thành thị”.
1.2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của đô thị
Đô thị là các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng và của cả
nước, có vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế, xã hội. Tại các đô thị
thường tập trung đông dân cư, có mật độ dân số cao, tập trung nhiều các
ngành công nghiệp và dịch vụ, sản xuất ra phần lớn của cải cho xã hội,
đồng thời cũng là nơi tiêu xài phần lớn của cải xã hội. Điều này tạo ra sự
phồn thịnh, điều kiện phát triển cho các đô thị. Bên cạnh đó, bản thân đô
thị luôn tiềm ẩn: Tội phạm, các tệ nạn xã hội, hỏa hoạn, dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường... Đồng thời, luôn đặt ra các thách thức về kinh tế và
cung cấp dịch vụ cho đô thị; cung cấp dịch vụ công cộng, nước sạch, thoát
nước, đất đai, nhà ở, việc làm, giao thông đi lại...
1.2.1.3. Phân loại đô thị
Để có cơ sở quy hoạch, xây dựng và quản lý các đô thị, cần phải
phân loại đô thị. Tùy thuộc vào điều kiện dân cư, vị trí địa lý, kinh tế, văn
hóa, xã hội mà mỗi quốc gia có những cách thức phân loại đô thị khác
nhau nhau và tùy theo những yếu tố mang tính đặc trưng. Tuy nhiên, nhiều
nước không quan tâm đến phân loại đô thị mà chỉ quan tâm đến tư cách
chính quyền địa phương hay tư cách thành phố trao cho vùng lãnh thổ đó
thuộc đơn vị hành chính cấp nào để có tướng ứng cấp chính quyền.
Việt Nam, Trung Quốc có cách phân loại đô thị theo quan điểm của
mức độ đô thị hóa.
Theo pháp luật hiện hành, Việt Nam chia đô thị thành 6 loại.
1.2.2. Chính quyền đô thị
1.2.2.1. Tổng quan về chính quyền đô thị
Chính quyền đô thị thường gắn với những vùng lãnh thổ theo cách
thức phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ. Cách tổ chức của chính quyền
các vùng lãnh thổ cấp 1 mang tính đô thị không khác nhau nhiều giữa các
8
quốc gia. Sự khác nhau chủ yếu nằm ở cách phân chia tiếp theo thành các
đơn vị hành chính lãnh thổ nhỏ hơn (cấp 2 hay cấp 3). Vùng đơn vị hành
chính lãnh thổ cấp 2 nẳm bên dưới cấp lãnh thổ cấp 1. Đơn vị hành chính
lãnh thổ này được xếp loại khu đô thị và cũng có thể có nhiều tên khác
nhau tùy thuộc vào quốc gia.
1.2.2.2. Đặc trưng của chính quyền đô thị
Về cơ bản chính quyền đô thị có các đặc trưng sau:
Thứ nhất: Chính quyền đô thị trực tiếp tác động đến các đối tượng.
Thứ hai: Chính quyền đô thị là nơi trực tiếp phân phối, cung cấp các
dịch vụ công cộng.
Thứ ba: Chất lượng dịch vụ công do chính quyền đô thị cung cấp
thường được đảm bảo hơn ở nông thôn.
Thứ tư: Quản lý của chính quyền đô thị có sự đan xen với khu vực
đang được đô thị hóa.
Thứ năm: Quản lý của chính quyền đô thị yêu cầu đảm bảo tập trung,
đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả cao.
1.3. Chính quyền thành phố và thành phố thuộc tỉnh
1.3.1. Chính quyền thành phố
1.3.1.1. Phân biệt thành phố và khu vực đô thị
Khu vực đô thị phải được trao tư cách pháp lý mới được chuyển từ
khu vực đô thị (Urban) thành tên gọi là thành phố (City).
Có thể các khu đô thị hình thành mang tính “đô thị hóa”, nhưng
thành phố thường gắn liền với tư cách pháp lý của nó. Hay nói khác đi, khu
đô thị được gọi là thành phố phải được văn bản pháp luật quy định.
1.3.1.2. Phân chia thành phố thành các cấp độ thành phố theo quy mô
và tính pháp lý
Có thể phân loại thành phố theo số dân. Tùy thuộc vào cấp lãnh thổ
hành chính để xác tư cách thành phố đó thuộc cấp hành chính nào.
Ngoài ra còn có cách phân chia thành thành phố trực thuộc thuộc
trung ương và thành phố trực thuộc tỉnh. Hai cách phân loại này chỉ gắn
liền với tư cách pháp lý được trao cho các thành phố đó.
Ngoài ra cũng có quốc gia, tính pháp lý của vùng lãnh thổ là đô thị
9
được trao là thành phố có thể cho tất cả các loại đơn vị hành chính lãnh thổ
đủ tư cách. Tuy nhiên, cần phân biệt tính pháp lý của thành phố với cấp
đơn vị hành chính cũng như loại khu vực đô thị. Việt Nam tư cách pháp lý
là thành phố chỉ trao cho hai cấp đơn vị hành chính là cấp tỉnh và cấp
huyện. Nhưng phân loại cấp đô thị có đến 6 cấp khác nhau.
1.3.2. Thành phố trực thuộc tỉnh
1.3.2.1. Tổng quan về chính quyền thành phố thuộc tỉnh
Thành phố thuộc tỉnh nhằm chỉ một đơn vị hành chính lãnh thổ thuộc
tỉnh; là khu đô thị thỏa mãn những quy định về thành phố.
Cụm từ tỉnh cũng không được sử dụng thống nhất trong phân chia
đơn vị hành chính lãnh thổ như trên. Có thể thống nhất, đơn vị hành chính
lãnh thổ cấp tỉnh là đơn vị hành chính lãnh thổ nằm sát cấp trung ương.
Do đó, để hiểu cụm từ thành phố thuộc tỉnh, cần xem xét cách thức phân
loại đô thị của các nước cũng như cách thức xác định đơn vị hành chính
lãnh thổ để thành lập chính quyền địa phương thuộc cấp nào.
1.3.2.2. Tổ chức chính quyền của thành phố thuộc tỉnh
Thành phố trực thuộc đơn vị hành chính cấp tỉnh nói chung của các
nước đều tổ chức theo mô hình khá tương đồng nhau.
Mỗi thành phố có thể chia thành nhiều khu vực dân cư khác nhau, có
những tên gọi khác nhau và đặc biệt là không có phân chia thành những
cấp chính quyền bên dưới chính quyền thành phố thuộc tỉnh.
Mỗi khu vực dân cư được hình thành với nhiều nghĩa khác nhau. Và
ý nghĩa cơ bản nhất là để trở thành đơn vị bầu cử để bầu cử Hội đồng thành
phố. Ngoài ra có thể phân chia để thực hiện một số công việc hành chính
như đăng ký khai sinh; hộ khẩu...
1.4. Kinh nghiệm tổ chức bộ máy chính quyền đô thị tại một số
nước trên thế giới
1.4.1. Chính quyền đô thị Trung quốc
1.4.1.1. Khái quát về tổ chức chính quyền đô thị ở Trung Quốc
Điều 30 Hiến pháp Trung Quốc hiện hành phân chia đơn vị hành
chính như sau: “1. Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc
trung ương; 2. Tỉnh, khu tự trị chia thành châu tự trị, huyện, huyện tự trị,
10
thành phố;
3. Huyện, huyện tự trị chia thành hương, hương dân tộc, trấn”.
Thành phố trực thuộc trung ương và thành phố tương đối lớn chia
thành khu, huyện. Châu tự trị chia thành huyện, huyện tự trị, thành phố.
Khu tự trị, châu tự trị, huyện tự trị đều là địa phương dân tộc tự trị.”
1.4.1.2. Thể chế chính quyền đô thị Trung Quốc
a. Cơ cấu tổ chức theo chiều dọc của chính quyền đô thị Trung Quốc
Nhìn theo chiều dọc, cơ cấu tổ chức chính quyền tại khu vực nội
thành của các thành phố Trung Quốc tồn tại hai loại hình thể chế là thể chế
“Hai cấp chính quyền, ba cấp quản lý” và thể chế “Một cấp chính quyền,
hai cấp quản lý”.
b. Cơ cấu tổ chức theo chiều ngang của chính quyền đô thị Trung Quốc
Kết cấu tổ chức theo chiều ngang ở mỗi cấp chính quyền gồm Nhân
đại và hành chính các cấp. Nhân đại là cơ quan quyền lực nhà nước. Trên
thực tế, tất cả các thành phố trực thuộc trung ương và thành phố thiết lập
khu đều thành lập Ủy ban chuyên môn. Ủy ban chuyên môn chịu sự lãnh
đạo của Nhân đại.
Chức năng và quyền hạn hành chính của Chính quyền nhân dân đô
thị Trung Quốc căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan, bao gồm sáu
phương diện chính là: 1. Quyền chấp hành hành chính; 2. Quyền quản lý
các việc công cộng trong khu vực hành chính; 3. Quyền quyết định các
biện pháp hành chính; 4. Quyền giám sát hành chính; 5. Quyền nhân sự
hành chính; 6. Quyền bảo hộ hành chính.
1.4.2. Chính quyền thành phố Ottawa, Canada
1.4.2.1. Sự hình thành chính quyền một cấp tại Ottawa
Chính quyền thành phố Ottawa được tổ chức theo mô hình một cấp
với các đặc trưng sau:
- Hội đồng thành phố gồm các thành viên được bầu ra là cơ quan
quản lý, cung cấp các dịch vụ và quy định; hoạt động như đại diện chính trị
của cộng đồng địa phương.
- Đứng đầu Hội đồng là thị trưởng được dân bầu trực tiếp.
- Hội đồng phải thực hiện tất cả các chức năng của chính quyền
11
trong địa bàn của mình.
- Hội đồng có thể là người tạo điều kiện cung cấp dịch vụ hơn là
người trực tiếp cung ứng các dịch vụ này.
- Cơ quan quản lý hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính.
1.4.2.2. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng thành phố
Hội đồng thành phố Ottawa có 22 thành viên Hội đồng bao gồm thị
trưởng đại diện chung cho thành phố và 21 thành viên Hội đồng đại diện
cho 21 khu (khu vực bầu cử) của thành phố Ottawa. Các thành viên Hội
đồng được bầu trong nhiệm kỳ 3 năm.
Để hỗ trợ mình trong hoạt động, Hội đồng thành phố bổ nhiệm Ủy
ban Thường trực (standing Committee) để nghiên cứu các vấn đề và đưa ra
các kiến nghị đối với Hội đồng.
Hội đồng thành phố còn có 16 uỷ ban tư vấn, bao gồm những người
tự nguyện tham gia. Các uỷ ban này đưa ra các khuyến nghị cho Hội đồng
trong những lĩnh vực chuyên môn.
1.4.2.3. Mô hình tổ chức chính quyền thành phố
Hệ thống chính quyền thành phố Ottawa chỉ có một cấp, bao gồm
Hội đồng thành phố và bộ máy hành chính thành phố. Dưới cấp thành phố
không có các cấp chính quyền bên dưới, mà chỉ chia ra thành 21 khu vực
bầu cử. Các khu vực này chỉ được hình thành để làm nhiệm vụ bầu cử ra
Hội đồng thành phố chứ không có chức năng hành chính.
Thị trưởng thành phố Ottawa là đại diện cho người dân Ottawa, giữ
vai trò lãnh đạo và kiểm soát việc cung ứng các dịch vụ của chính quyền
thành phố cho người dân. Giúp việc cho thị trưởng thành phố có 4 trợ lý.
Thị trưởng thành phố lãnh đạo bộ máy hành chính của thành phố,
bao gồm 6 trưởng ban về 6 lĩnh vực.
1.4.3. Một số nhận xét
- Cơ quan chính quyền địa phương đô thị là một bộ máy hành chính
đứng đầu là thị trưởng được bổ nhiệm từ trên. Toàn bộ quyền hạn trong tay
người đứng đầu, có toàn quyền thực hiện mọi công việc quản lý hành chính
nhà nước ở địa phương theo quy định của pháp luật.
- Chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh là cơ quan hành
12
chính do cấp Tỉnh bổ nhiệm và do dân cử, bầu cử ra.
- Mô hình chính quyền là cơ quan đại diện, do nhân dân địa phương
bầu ra, vừa đại diện cho nhân dân địa phương, vừa đại diện cho cơ quan
nhà nước cấp trên.
1.4.4. Những kinh nghiệm cho việc xây dựng chính quyền đô thị
thành phố trực thuộc tỉnh ở CHDCND Lào
- Đô thị là nơi tiêu biểu cho sự phát triển, thịnh vượng và văn minh
của một quốc gia, một khu vực hoặc một vùng lãnh thổ; là động lực thúc
đẩy các vùng xung quanh phát triển.
- Hệ thống cấu trúc thứ bậc chính quyền đô thị gồm chính quyền đô
thị thành phố và chính quyền cơ sở;
- Ở các nước có quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra từ
lâu và ở trình độ cao, hầu hết các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố
thuộc tỉnh là phường.
- Tuỳ thuộc thể chế chính trị của mỗi quốc gia, Cơ quan đại diện
nhân dân của chính quyền đô thị quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, phê chuẩn ngân sách, có thể quyết định về tổ chức,
nhân sự của bộ máy cơ quan hành chính...
- Do đặc thù của quản lý đô thị đòi hỏi nhanh nhạy, tập trung, thông
suốt, có hiệu lực cao; đồng thời nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân
trong quản lý nhà nước tại đô thị nên cơ quan hành chính của chính quyền
đô thị đều áp dụng chế độ thủ trưởng hành chính.
13
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH Ở NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và quá trình
phát triển đô thị của nước CHDCND Lào
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là quốc gia không giáp biển duy
nhất tại vùng Đông Nam Á. Diện tích khoảng 236.800 km2. Lào có nhiều
núi non bao phủ bởi rừng xanh; đỉnh cao nhất là Phou Bia cao 2.817 m.
Diện tích còn lại là bình nguyên và cao nguyên. 45 % dân số Lào sống ở
vùng núi. Lào có 800.000 ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số
sống bằng nghề nông.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
Dân số của Lào năm 2015 là 6.490.000 người.[60]
Lào có 17 tỉnh, 1 thành phố (Thủ đô Viêng-chăn). Các thành phố lớn
khác là: Louang Phrabang, Savannakhet và Pakse.
Về thành phần dân tộc, Lào có 49 dân tộc, có những dân tộc gồm
nhiều nhánh tộc và được chia thành 04 nhóm ngôn ngữ. Tôn giáo chính là
Phật giáo Theravada.
Đảng chính trị duy nhất ở Lào là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Người đứng đầu nhà nước là Chủ tịch nước được Quốc hội cử ra có nhiệm
kỳ 5 năm. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Nền kinh tế trong
những năm gần đây có nhiều tiến bộ.
Lào áp dụng hệ thống hành chính bốn cấp gồm cấp trung ương và ba
cấp địa phương. Cấp địa phương cao nhất là tỉnh có 17 đơn vị và thủ đô
Viêng Chăn. Cấp địa phương cấp hai là các quận, huyện, thị xã. Cấp địa
phương cơ sở là làng, bản.
2.1.3. Sự hình thành và phát triển đô thị của Lào
Từ xa xưa, đô thị cổ của Lào đã được hình thành từ yếu tố hành
chính, chính trị. Đó là sự xuất phát từ định cư thành những thị tộc, bản làng
14
đến phát triển thành “xiêng” là mầm mống đầu tiên của đô thị Lào.
Hiện nay hệ thống bộ máy hành chính địa phương ở Lào được chia
thành 3 cấp tỉnh, huyện và bản. Ngoài thành phố Viêng Chăn mỗi tỉnh hình
thành các thủ phủ của tỉnh là những trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế
văn hoá du lịch của tỉnh. Tại mỗi huyện cũng hình thành một đô thị huyện
lỵ tạo thành mạng lưới đô thị nhỏ là những trung tâm đầu não của chính
quyền địa phương cấp huyện. Sự hình thành thành hệ thống đô thị theo
trung tâm hành chính, chính trị đã tạo thành cấp bậc các đô thị theo cấp bậc
hành chính một cách rõ ràng.
Mỗi một tỉnh của Lào và mỗi một huyện cũng đều có như thông lệ
chung của các nước, một thủ phủ của tỉnh và một thủ phủ của huyện. Tùy
theo cách diễn đạt, một số tài liệu gọi một số thủ phủ là thành phố thủ phủ
của tỉnh; nhưng cũng có tài liệu chỉ gọi chung là thủ phủ.
Hiện nay Lào chưa xác định tư cách thành phố cho các thủ phủ của tỉnh.
2.2. Mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thuộc thủ phủ
của các tỉnh ở nước CHDCND Lào
2.2.1. Tổng quan chung về chính quyền địa phương thủ phủ của tỉnh
Cách thức tổ chức chính quyền địa phương của Lào khác với các
nước trong khu vực.
Đến nay, chính quyền địa phương của Lào mang tính tản quyền hơn
là chính quyền địa phương các nước trong khu vực. Các tỉnh, huyện của
Lào đều không tổ chức Hội đồng - một cơ quan đại diện cho dân được bầu.
Huỵện là cấp chịu sự giám sát trực tiếp của tỉnh/Thành phố Viêng-
chăn. Mỗi một tỉnh chia thành nhiều huyện. Về cơ cấu tổ chức và nhân sự
giống như cấp tỉnh.
Bên cạnh cụm từ huyện, Lào cũng phân biệt một khu vực đô thị được
gọi là thủ phủ của tỉnh, nơi các cơ quan của tỉnh đóng. Cụm từ
municipality
được sử dụng để phân biệt với huyện. Tuy nhiên, cụm từ này theo
quy định, các thủ phủ của huyện cũng có thể nâng lên thành municiplity nếu
đủ điều kiện.
15
2.2.2. Chính quyền thủ phủ của tỉnh theo văn bản pháp luật mới
2.2.2.1. Điều kiện thành lập
Điều 63 của Luật Hành chính địa phương 2015 của CHDCND Lào
quy định chung về điều kiện thành lập thủ phủ của tỉnh như sau:
1. Là huyện hoặc quận có mức độ dân số 60.000 người trở lên và là
nội thành hoặc nội quận phải có 25.000 người trở lên.
2. Có mật độ dân số trong địa bàn nội thành hoặc nội quận từ 900
người/km2 trở lên.
3. Có số người làm nghề nông nghiệp trong địa bàn nội thành hoặc
nội quận (nơi trụ sở cơ quan chính quyền huyện hoặc quận) không quá
25% số dân sinh sống ở địa bàn nội thành hoặc quận đó.
4. Có hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa - xã hội phát triển đầy đủ.
5. Tất cả các làng đều đạt tiêu chuẩn làng phát triển.
6. Tự chủ về thu, chi hành chính và có phần để đầu tư.
Để việc thành lập thủ phủ của tỉnh được tổ chức thực hiện hợp pháp
theo Hiến pháp và pháp luật, Thủ tướng Lào đã có Pháp lệnh số 23/PL-
TTg ngày 01/8/2016 về thành lập quận và thành phố.
Nhằm cụ thể hóa Luật Hành chính địa phương năm 2015, Pháp lệnh
số 23/PL-TTg, và tạo điều kiện hướng dẫn các địa phương trong cả nước
thực hiện thống nhất, Bộ Nội vụ Lào đã có Hướng dẫn số 14/HD-BNV
ngày 26/11/2016 về điều kiện và thủ tục thành lập quận, thành phố.
2.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền thành phố thuộc tỉnh
Theo Luật Hành chính địa phương 2015, cơ quan chính quyền thủ
phủ của tỉnh là cơ quan hành pháp cấp huyện, có vai trò quản lý hành chính
nhà nước về mặt chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng
an ninh, trật tự, đào tạo, sử dụng tài nhiên, thiên nhiên, môi trường và tài
nguyên khác; chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện hoạch định phát triển làng
thuộc địa bàn quản lý; tổ chức quản lý công cộng, dân chủ, trật tự, sạch đẹp
trong thành phố bằng kỹ thuật hiện đại.
Tuong ứng với vị trí, vai trò như trên, Luật Hành chính địa phương
cũng đã trao cho cơ quan chính quyền thủ phủ của tỉnh những nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể tại Điều 65.
16
2.2.2.3. Tổ chức chính quyền thủ phủ của tỉnh
Luật Hành chính địa phương năm 2015 đưa ra quy định chung về cơ
cấu tổ chức của chính quyền thủ phủ của tỉnh tại Điều 66, bao gồm:
1. Văn phòng;
2. Phòng, cơ quan ngang phòng được thành lập theo yêu cầu của
công việc trên cơ sở sự thông qua HĐND cấp tỉnh.
Trên cơ sở Luật Hành chính địa phương, Hướng dẫn số 14/HD-BNV
của Bộ Nội vụ xác định: Cơ cấu tổ chức của chính quyền thủ phủ của tỉnh
phải được quy định bộ máy sao cho phù hợp với thực tiễn của từng địa
phương, không phải chỉ thay thế về tên gọi từ huyện trở thành thành phố.
Việc quy định bộ máy sẽ dựa theo công việc cụ thể của từng địa
phương, nếu có việc mới thành lập bộ máy để cho phù hợp với tình hình,
đặc điểm và lợi thế của mình. Điều này cũng có nghĩa là, thủ phủ của từng
địa phương sẽ có cơ cấu tổ chức không giống nhau, nếu việc nào không
cần thiết cũng không cần lập phòng quản lý do cấp tỉnh phụ trách.
2.2.2.4. Hình thức hoạt động
a. Phiên họp của cơ quan chính quyền thủ phủ của tỉnh
Điều 76 - Luật Hành chính địa phương 2015 quy định: Phiên họp của
cơ quan chính quyền thủ phủ của tỉnh được tổ chức định kỳ một tháng một
lần, do Chủ tịch thành phố thủ phủ của tỉnh triệu tập và chủ trì.
Thành phần tham gia vào phiên họp gồm có Phó chủ tịch thành phố
thủ phủ của tỉnh, Chánh văn phòng, các Trưởng phòng chuyên môn, thủ
trưởng các cơ quan ngang phòng của chính quyền thủ phủ của tỉnh. Ngoài
ra, nếu cần thiết, có thể mời đại diện từ bộ phận khác có liên quan vào
tham gia cuộc họp.
b. Hoạt động của Chủ tịch thủ phủ của tỉnh
Điều 70, 71 của Luật Hành chính địa phương 2015 quy định về việc bổ
nhiệm, thuyên chuyển hoặc cách chức Chủ tịch, Phó chủ tịch thủ phủ của
tỉnh.
Điều 74 - Luật Hành chính địa phương 2015 quy định cụ thể về
quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch thủ phủ của tỉnh.
Với vị trí là người lãnh đạo và điều hành công tác của bộ máy chính
17
quyền thủ phủ của tỉnh; Chủ tịch thủ phủ của tỉnh phải thực hiện nhiệm vụ
của mình theo nguyên tắc tập trung dân chủ kết hợp với chế độ thủ trưởng,
tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ
quan nhà nước cấp trên, thường xuyên báo cáo và xin ý kiến của cấp trên.
Theo pháp luật hiện hành, Chủ tịch thủ phủ của tỉnh lãnh đạo các
công việc của bộ máy chính quyền thủ phủ của tỉnh, đôn đốc, kiểm tra
công việc của các cơ quan thuộc thủ phủ của tỉnh, cơ quan chuyên môn
ngành dọc tại thủ phủ của tỉnh trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật,
các văn bản cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của bộ máy chính
quyền thành phố.
Để tham mưu, giúp Chủ tịch thủ phủ của tỉnh thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của pháp luật còn có hoạt động của Văn phòng
thủ phủ của tỉnh, các cơ quan chuyên môn ngành dọc trực thuộc Sở, ngành
đóng ở địa phương (các phòng chuyên môn và các cơ quan tương đương).
2.2.2.5. Thủ tục và hồ sơ thành lập
Hướng dẫn số 14/HD-BNV ngày 26/11/2016 của Bộ Nội vụ Lào về
điều kiện và thủ tục thành lập quận, thành phố quy định cụ thể về thủ tục
và hồ sơ thành lập thủ phủ của tỉnh.
Ban chuyên trách thành lập thủ phủ của tỉnh được lập ở hai cấp:
- Ban chuyên trách cấp trung ương, thành phần bao gồm:
- Ban chuyên trách cấp địa phương, thành phần bao gồm:
Nói chung, những quy định trên chỉ mới mang tính định hướng cho
thành lập. Cho đến nay chưa có thủ phủ của tỉnh nào ở Lào được công
nhân tư cách thành phố.
18
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY
CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. Phương hướng tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành
phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào
3.1.1. Phương hướng chung của Đảng và Nhà nước CHDCND
Lào
Phương hướng chung trong việc tổ chức bộ máy chính quyền đô thị
thành phố trực thuộc tỉnh được xác định như sau:
Thứ nhất: Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân.
Thứ hai: Xây dựng bộ máy hành chính Nhà nước thích ứng với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương trên cơ sở
đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy hành chính Nhà nước.
3.1.2. Phương hướng cụ thể của Bộ Nội vụ Lào
- Chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh là một cấp chính
quyền hoàn chỉnh, gồm cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương và cơ
quan hành chính tại địa phương. Giảm bớt cấp chính quyền trong nội bộ đô
thị - cấp dưới thành phố là cấp cơ sở (cấp phường), không tổ chức bộ máy
chính quyền hoàn chỉnh, chỉ có cơ quan hành chính phường hay phường là
cơ quan nối dài để thực hiện hoạt động quản lý điều hành của thành phố.
- Các cơ quan chuyên môn được tổ chức theo hướng quản lý tập
trung, thống nhất, thông suốt; quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; trách nhiệm
rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy tinh gọn và hợp lý; tăng cường tính
chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc của người dân, tổ chức; cải tiến
phương thức quản lý; định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị về kết quả hoạt động.
- Đối với cấp làng, không tổ chức HĐND thì vai trò giám sát của
19
HĐND được thay thế bằng hoạt động giám sát của đại biểu HĐND theo địa
bàn; tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp, tự quản, bảo đảm cho nhân
dân có thể tham gia rộng rãi, liên tục vào quá trình quản lý đô thị.
3.2. Đề xuất mô hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành
phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng chính quyền đô thị thành
phố trực thuộc tỉnh ở nước CHDCND Lào, luận văn thực hiện nghiên cứu
mô hình chính quyền đô thị phù hợp với định hướng xây dựng chính quyền
địa phương và bối cảnh đất nước trong thời kỳ mới. Theo yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong nền kinh tế thị trường,
chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh cần phải có sự nhanh nhạy,
thông suốt, đảm bảo gọn nhẹ, ít tầng nấc.
Trong điều kiện nước CHDCND Lào hiện nay, chính quyền thành
phố trực thuộc tỉnh nên tổ chức theo mô hình “một cấp chính quyền, hai
cấp hành chính”. Theo mô hình này, cơ quan đại diện và cơ quan hành
chính chỉ có ở cấp thành phố, còn ở cấp cơ sở chỉ thiết lập cơ quan hành
chính, không tổ chức cơ quan đại diện để đảm bảo sự quản lý tập trung
thống nhất.
3.2.1. Hội đồng thành phố
Chỉ thiết lập cơ quan đại diện ở cấp thành phố và sử dụng tên gọi Hội
đồng thành phố thay cho tên gọi Hội đồng nhân dân, để đảm bảo tính bao
quát, thể hiện rõ Hội đồng thành phố là cơ quan đại diện của nhân dân toàn
thành phố. Hội đồng thành phố có chức năng quyết định những nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội của đô thị phù hợp với
chiến lược, quy hoạch phát triển của cả nước, hay vùng lãnh thổ và phù
hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát việc tổ chức triển
khai thực hiện mục tiêu và hoạt động quản lý của bộ máy hành chính các cấp
trong phạm vi đô thị.
3.2.2. Cơ quan hành chính thành phố
Cơ quan hành chính thành phố có chức năng thực hiện các nghị
quyết của Hội đồng thành phố về thực hiện nhiệm vụ quản lý phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, lợi ích
20
của xã hội...; thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn
đô thị. Cơ quan hành chính cơ sở chủ yếu đóng vai trò thực thi các quyết
định của cơ quan hành chính thành phố và Hội đồng thành phố; chịu trách
nhiệm trước Hội đồng thành phố và cơ quan hành chính thành phố về kết
quả thực hiện nhiệm vụ và những vấn đề xảy ra trên địa bàn cơ sở.
Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ
quan hành chính thành phố cần phải được:
- Trao thẩm quyền đủ lớn để có thể chủ động, tự chủ thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước một cách nhanh nhạy, kịp thời.
- Thực hiện chế độ thủ trưởng.
3.2.3. Thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa Hội đồng thành phố và
Chủ tịch thành phố
Mối quan hệ giữa Hội đồng thành phố và Chủ tịch thành phố được
xác định trên cơ sở quy định về chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên nhưng
đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng thành phố, quyền hạn của Chủ
tịch. Trên cơ sở đó:
- Hội đồng thành phố quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, quyết định ngân sách và tổ chức nhân sự của bộ máy chính
quyền đô thị. Các quyết định của Hội đồng thành phố được thể chế hóa
bằng các Nghị quyết. Chủ tịch thành phố có nhiệm vụ tổ chức thực hiện tốt
các Nghị quyết của Hội đồng thành phố (thực hiện chức năng là cơ quan
chấp hành của Hội đồng thành phố).
- Hội đồng thành phố giám sát đối với Chủ tịch thành phố.
3.2.4. Bộ máy chuyên môn của Chủ tịch thành phố
- Giúp việc Chủ tịch thành phố là các Phó chủ tịch thành phố, số
lượng Phó chủ tịch phụ thuộc vào quy mô thành phố.
- Cơ cấu bộ máy các cơ quan chuyên môn giúp việc Chủ tịch thành
phố phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm, tính chất, yêu cầu quản lý nhà
nước ở đô thị, đặc điểm đô thị. Các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chủ
tịch cũng cần phải được tổ chức theo ngành dọc đến tận đơn vị cơ sở
(phường, khu phố, cụm dân cư) không bị chia tách quản lý ra thành các
cấp khác nhau trong nội bộ đô thị như hiện nay. Theo cơ chế ủy quyền chứ
21
không phân cấp, phân quyền trong nội bộ đô thị.
- Số lượng, cơ cấu bộ máy, biên chế cán bộ, công chức của bộ máy
quản lý nhà nước được bố trí trên cơ sở quy mô, đặc điểm, tính chất của
từng thành phố, do Hội đồng thành phố quyết định theo quy định của pháp
luật.
3.3. Một số điều kiện và các bước triển khai để đảm bảo cho mô
hình tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh đi vào
hoạt động
3.3.1. Một số điều kiện đảm bảo cho mô hình đi vào hoạt động
- Cần có đủ điều kiện pháp lý để áp dụng mô hình và tạo điều kiện
cho mô hình đi vào hoạt động.
- Thực hiện đồng bộ bộ máy của hệ thống chính trị tại địa phương
như các tổ chức Đảng, đoàn thể, MTTQ và các cơ quan tư pháp theo mô
hình tương ứng.
- Chính quyền đô thị phải được hỗ trợ bởi chính quyền điện tử
(e-Gov).
- Chính quyền đô thị phải được phục vụ bởi đội ngũ công chức có
năng lực, được tuyển chọn cạnh tranh, bảo đảm tính chuyên nghiệp cao.
- Cần đổi mới về tổ chức, phương thức quản lý và nội dung phân
cấp, uỷ quyền quản lý nhà nước của chính quyền đô thị được thể hiện trong
Luật và các qui định của trung ương về phân cấp, ủy quyền.
3.3.2. Các bước triển khai mô hình
3.3.2.1. Xây dựng thể chế
Tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức chính quyền địa phương
hiện nay theo hướng trao nhiều thẩm quyền hơn cho chính quyền đô thị,
quy định bộ máy chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh theo hướng
“một cấp chính quyền, hai cấp hành chính” và tổ chức Hội đồng thành phố
ở các đô thị thành phố trực thuộc tỉnh.
Quy định thực hiện chế độ thủ trưởng (Chủ tịch thành phố và Trưởng
làng) trong quản lý hành chính nhà nước ở các cấp đô thị trực thuộc tỉnh.
3.3.2.2. Trang bị cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự
Chuẩn bị những trang thiết bị cần thiết (phòng làm việc, máy vi tính,
22
máy chiếu, điện thoại, hệ thống mạng Internet...) để các giao dịch nội bộ và
dịch vụ hành chính công được ứng dụng trên môi trường mạng.
Đào tạo, rèn luyện đội ngũ nhân sự hiện hành có đủ năng lực, phẩm
chất đạo đức theo tiêu chí của từng loại công việc và cần tuyển dụng nhân
sự để thành lập một tổ chức độc lập, chuyên nghiệp giám sát, đánh giá chất
lượng các dịch vụ công cung cấp cho cộng đồng dân cư đô thị.
3.3.2.3. Tuyên truyền, phổ biến
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đến tận người dân về tổ
chức bộ máy chính quyền theo mô hình mới. Công khai rộng rãi vai trò,
chức năng của Hội đồng thành phố và cơ quan hành chính các cấp. Tuyên
truyền, phổ biến về quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc bầu Hội
đồng thành phố, nghĩa vụ của đại biểu Hội đồng thành phố trong tiếp xúc
với nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, cũng như
giải quyết các vấn đề mà cử tri quan tâm, kiến nghị.
3.3.2.4. Thực hiện thí điểm mô hình
Với những đòi hỏi của thực tiễn về tổ chức bộ máy chính quyền đô
thị, nhất là tổ chức bộ máy chính quyền đô thị các thành phố trực thuộc
tỉnh hiện nay, đây là một điều mới, chưa có kinh nghiệm, cũng như đánh
giá một cách đầy đủ để thực hiện. Do đó, việc thí điểm bộ máy chính
quyền đô thị các thành phố trực thuộc tỉnh theo mô hình đề xuất là điều cần
thiết. Qua việc tổ chức thí điểm có thể đánh giá được một cách tổng quát,
đầy đủ các vấn đề, những bài học, những định hướng cần thiết khi áp dụng
cho các đô thị thành phố trực thuộc tỉnh khác.
Sau thời gian thí điểm, nếu kết quả thu được khả quan và thuận lợi,
tiến hành tổ chức áp dụng mô hình cho các thành phố khác trên phạm vi
cả nước.
3.3.2.5. Hoàn chỉnh mô hình và triển khai trên diện rộng
Việc thí điểm mô hình là cần thiết, tuy nhiên cần phải xác định thời
gian thí điểm mô hình một cách hợp lý, đảm bảo đánh giá đầy đủ những
tác động của mô hình. Trong khoảng thời gian xác định thí điểm, từng
bước, liên tục đánh giá mô hình để có những thay đổi phù hợp, tiến tới
hoàn chỉnh mô hình. Đồng thời, tiến hành một cách thận trọng, từng bước
23
việc đổi mới tổ chức bộ máy, chuyển dần bộ máy chính quyền các thành
phố trực thuộc tỉnh còn lại theo hướng “một cấp chính quyền, hai cấp hành
chính” theo như mô hình đã thí điểm. Trên cơ sở mô hình hoàn chỉnh, triển
khai áp dụng cho các thành phố trực thuộc tỉnh còn lại; sửa đổi, bổ sung
các điều kiện cần thiết để mô hình được triển khai ở tất cả các thành phố
trực thuộc tỉnh.
Việc huy động, chuẩn bị các nguồn lực để triển khai mô hình là một
vấn đề lớn, việc triển khai áp dụng mô hình là cần thiết và cũng là một
khó khăn lớn của toàn xã hội, của bản thân các đô thị nói riêng. Cho nên
để hoàn chỉnh mô hình và triển khai một cách toàn diện, có hiệu quả cần
phải có sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò lãnh đạo của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào là vấn đề đầu tiên, mang tính định hướng
cao nhất.
24
KẾT LUẬN
Đô thị ngày càng có vai trò to lớn trong sự phát triển mọi mặt về kinh
tế, văn hoá xã hội, không có một quốc gia nào được gọi là phát triển nếu
như không có các đô thị phát triển đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của người dân, thực hiện
tốt chức năng phục vụ nhân dân; đồng thời làm nền tảng, động lực, vai trò
thúc đẩy sự phát triển của đất nước, vùng lãnh thổ hoặc địa phương khác.
Thiết lập mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị xuất phát từ đòi
hỏi khách quan của đời sống đô thị, bảo đảm sao cho việc quản lý đô thị
được thống nhất, thông suốt, không bị chia cắt, cản trở bởi các cấp quản lý
đô thị như hiện nay. Đã đến lúc CHDCND Lào cần phải nghiêm túc và
khẩn trương nghiên cứu, xem xét toàn diện, đổi mới cơ bản mô hình tổ
chức chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh theo hướng nghiên cứu lại cơ
cấu chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh; giảm thiểu sự phân chia
cấp chính quyền trong nội bộ đô thị, đảm bảo hoạt động hành chính ở đô
thị tập trung thống nhất cao, nhanh nhạy, có hiệu lực trực tiếp, đồng thời
phát huy được những yếu tố tự quản, cộng đồng trong việc tự giải quyết
những vấn đề riêng, đặt ra từ thực tiễn của các thành phố trực thuộc tỉnh.
Đây thực sự là một đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, là giải pháp tích cực, cụ
thể để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà
nước, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước.
Để áp dụng mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị thành phố
trực thuộc tỉnh, cần phải có những bước thực nghiệm thích hợp, tránh tình
trạng duy y chí chủ quan, nóng vội. Mô hình tổ chức bộ máy chính quyền
đô thị thành phố trực thuộc tỉnh trong luận văn này đã đề xuất là mô hình
kết hợp sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước với sự trao một số
quyền tự quản cho chính quyền đô thị nhằm mục đích vừa đảm bảo tính tập
trung quyền lực của nhà nước, thống nhất quản lý đô thị, đồng thời khuyến
khích tính chủ động, tính hiệu quả và huy động nguồn lực của chính quyền
đô thị thành phố trực thuộc tỉnh hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_to_chuc_bo_may_chinh_quyen_do_thi_thanh_pho.pdf