Nhà nước pháp quyền XHCN đã, đang và tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện ở nước ta. Điều này đã
được thể chế hóa trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất là Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung
năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đóng vai trò hết sức quan trọng và
cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó có hệ thống Tòa án nói
chung, TAND cấp huyện nói riêng. Cùng với quyền hạn, nhiệm vụ của mình TAND cần có cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Hiện nay, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn nhiều hạn
chế, vướng mắc phải khắc phục, do đó cần được các cấp ủy Đảng và nhà nước quan tâm nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động của TAND cấp huyện trong việc giải quyết số lượng án ngày càng tăng. Đó là những hạn
chế về văn bản pháp luật, về biên chế công chức, về phương thức hoạt động, năng lực của Thẩm phán, Hội
thẩm trong quá trình giải quyết công việc, về cơ sở vật chất, về áp dụng công nghệ thông tin trong công việc,
về kinh phí hoạt động. Điều này đã thúc đẩy cần có các giải pháp đồng bộ để giải quyết triệt để các vấn đề
trên. Trong đó, trọng tâm là hoạt động của TAND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Và để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên, công chức của TAND cấp huyện cần nhận thức rõ quyền hạn,
trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của TAND. Trên cơ sở quyền hạn, trách nhiệm đó, công chức
TAND cấp huyện khi thực hiện công việc phải khách quan, công tâm, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng,
nhà nước và Nhân dân. Chỉ khi TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có những công chức có năng
lực chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng thì mới có thể đưa ra những phán quyết đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức trong quá trình hoạt động của mình khi mà tình hình
kinh tế - xã hội trên địa bàn ngày càng chuyển biến phức tạp. Khi điều kiện chưa khắc phục những hạn chế,
vướng mắc trong hoạt động, TAND cấp huyện cần tự mình quán triệt và đề xuất những giải pháp thiết thực
lên cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết, giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để chất lượng hoạt
động xét xử ngày càng được nâng cao, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, nhà nước và nhân dân, là nơi
thực hiện công lý trong xã hội, góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta.
19 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 743 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” của tác giả Trương Hòa Bình – Bí thư Trương Đảng, Chánh án TAND tối cao, được đăng trên Báo
điện tử Công lý, (ngày 05/4/2014).
- Bài viết “Đảm bảo công lý trong thể chế pháp quyền” của Nguyễn Thanh Tuấn - Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, được đăng trên Tạp chí điện tử Tổ chức Nhà nước, (ngày 24/3/2015).
- Bài viết “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong những năm đổi
mới” của Huy Khiên, được đăng trên Tạp chí điện tử Cộng sản, (ngày 15/8/2016).
Các công trình, bài viết nêu trên, ở chừng mực nhất định đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào ở cấp độ Thạc sĩ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nên việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam” không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào trước đây và là đề tài có tính lý luận, thực tiễn cao trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND cấp
huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; đánh giá một cách có căn cứ và
khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; trên cơ sở
đó nêu lên một số quan điểm và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bảo đảm
hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động TAND trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; đánh giá những thành công, đặc biệt tìm ra những bất cập, vướng mắc trong tổ
chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
+ Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc để hoàn thiện cơ
cấu tổ chức, bảo đảm hoạt động của TAND cấp huyện nói chung và TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi nói riêng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề sau:
+ Các công trình khoa học, tài liệu có nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;
+ Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện;
3
+ Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
+ Về thời gian: Đề tài lấy số liệu nghiên cứu trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
+ Về nội dung: Đề tài đi vào nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay; một số vấn đề
liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện từ đó nêu lên một số quan điểm, đưa ra một số giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bảo đảm hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn được xây dựng dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, quan điểm của các nhà khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: Phương pháp phân
tích tài liệu, thu thập và xử lý thông tin, so sánh, thống kê, tổng hợp, sử dụng phương pháp phân tích định
tính để từ đó phân tích định lượng làm rõ những kết quả đạt được.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Đề tài luận văn sẽ hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện để có
cái nhìn tổng thể, cụ thể về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của TAND cấp huyện, từ đó làm rõ
những điểm phù hợp, cũng như hạn chế, chưa phù hợp cần hoàn thiện trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quan điểm lý luận và thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn xây dựng hệ thống quan điểm và đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bảo đảm hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm về Tòa án nhân dân cấp huyện
Hoạt động xét xử của Tòa án là lĩnh vực thể hiện tập trung của quyền tư pháp. TAND là cơ quan xét
xử, thực hiện quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, TAND cấp huyện là một bộ phận của TAND
Đây là cấp Tòa án thực hiện xét xử thấp nhất tại địa phương đối với các vụ án được pháp luật quy
định.
Cán bộ, công chức làm việc tại TAND cấp huyện có chế độ lương, phụ cấp theo quy định chung của
hệ thống Tòa án giống như các Tòa án khác trong hệ thống TAND; chịu sự điều chỉnh của quy chế, quy định
riêng về quy tắc ứng xử, về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của nội bộ hệ thống Tòa án.
Thứ hai, TAND cấp huyện có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết các
việc khác theo quy định pháp luật
Chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết các việc khác theo quy định pháp
luật của TAND cấp huyện hiện nay được quy định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và một số văn bản pháp luật
có liên quan khác.
Thứ ba, TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
Nói một cách khái quát, quan niệm về nhà nước pháp quyền là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề
cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, bảo đảm tính thượng tôn pháp luật và đề cao
các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo
vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía
cơ quan nhà nước và công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là nhà nước mà tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức,
kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân
về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải sống và
làm việc theo pháp luật. Căn cứ vào những đặc trưng đó của nhà nước pháp quyền, có thể thấy TAND cấp
huyện là cơ quan tài phán đưa ra phán quyết xử lý đối với hành vi phạm tội, tranh chấp, yêu cầu trong lĩnh
vực dân sự, kinh tế, lao động nên đóng vai trò quan trọng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện góp phần quan trọng trong việc xây dựng và
củng cố nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vì vậy tổ chức và hoạt động TAND cấp huyện cần được
hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện trong bộ máy nhà nước
TAND cấp huyện là một bộ phận trong hệ thống TAND, có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà
nước, là nơi thể hiện công lý trong xã hội. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước để
5
xem xét, đánh giá và phán quyết tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay tính công bằng trong các tranh chấp
giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản của hoạt động xét xử là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và
sự nhân danh quyền lực nhà nước đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban hành được bảo đảm thực
thi bởi nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Bằng hoạt động của mình, TAND cấp huyện
còn góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng
những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù từ 15 năm tù trở xuống, trừ những tội sau đây: các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh
quốc gia; các tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226,
263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự; sơ thẩm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia
đình, vụ án kinh doanh thương mại, vụ án lao động, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật, trừ một số
vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án có yêu cầu hủy quyết định hành chính mà chủ thể ban hành là Uỷ ban
nhân dân (UBND) cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trở lên, các tranh chấp về sở hữu công nghiệp; giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm các việc dân sự, việc hôn nhân và gia đình, việc kinh doanh thương mại, việc lao
động, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh; giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật gồm: áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TAND, thi hành án hình sự và các việc
khác theo quy định pháp luật.
1.4. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.4.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì nhiều nội dung quan trọng về cơ
cấu tổ chức của TAND, về Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên đã được sửa đổi, bổ sung, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức: Điều 3 của Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định cơ cấu tổ chức
TAND bao gồm: TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương và Tòa án quân sự. Như vậy, Tòa án được tổ chức
trong một hệ thống thống nhất là hệ thống TAND, gồm các TAND và các Tòa án quân sự.
Thứ hai, về Thẩm phán: Ngạch của Thẩm phán TAND gồm Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán
cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp; nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm, trường hợp
được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm; Về chế
độ, chính sách đối với Thẩm phán: Công việc xét xử của Thẩm phán là một loại lao động đặc biệt, khi xét
xử, Thẩm phán không nhân danh cá nhân hay Hội đồng xét xử mà nhân danh nhà nước để định tội danh,
hình phạt trong các vụ án hình sự, để phân định đúng, sai trong các vụ việc, tranh chấp dân sự, hành chính,
lao động, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình. Khi xét xử, Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt
những nguyên tắc nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất là độc lập, chỉ tuân theo pháp
luật.
Thứ ba, về Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên: Thư ký Tòa án có các ngạch gồm Thư ký viên, Thư ký
viên chính, Thư ký viên cao cấp; Thẩm tra viên có các ngạch là Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm
tra viên cao cấp.
Đối với TAND cấp huyện, Luật Tổ chức TAND năm 2014 có những quy định mới cơ bản so với
6
Luật Tổ chức TAND năm 2002, góp phần vào hoàn thiện hệ thống TAND, cụ thể: TAND cấp huyện có thể
có các Tòa chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý
hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác
theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. Căn cứ quy định này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án TAND tối cao quyết định việc tổ
chức Tòa chuyên trách, Bộ máy giúp việc.
1.4.2. Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, về chức năng: TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn, Chánh án có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Tổ chức công tác xét xử
của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân (HĐND) có thẩm quyền theo luật định và TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật. Phó
Chánh án TAND cấp huyện giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi
Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh
án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của luật tố tụng.
Thứ ba, về thẩm quyền xét xử: TAND cấp huyện có chức năng sơ thẩm vụ việc theo quy định của
pháp luật; giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
1.5. Nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
1.5.1. Nguyên tắc tổ chức của Tòa án nhân dân
1.5.1.1. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán; bầu hoặc cử Hội thẩm
1.5.1.2. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp
xét xử theo thủ tục rút gọn
1.5.1.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
1.5.2. Nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân
1.5.2.1. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số trừ trường hợp xét xử
theo thủ tục rút gọn
1.5.2.2. Nguyên tắc xét xử công khai
1.5.2.3. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
1.5.2.4. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
1.5.2.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự
1.5.2.6. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
1.5.2.7. Nguyên tắc người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình
trước Tòa án nhân dân
1.6. Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối
với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.6.1. Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện nay được xây dựng và phát triển theo hai hướng nhà nước
7
pháp quyền XHCN và nhà nước pháp quyền tư sản. Nhà nước ta hiện nay đang xây dựng trên cơ sở những
tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền XHCN và có những đặc điểm phù hợp với tình hình kinh tế, chính
trị và xã hội trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ
phong kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
- Trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật của
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp luật.
1.6.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.6.2.1. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với tổ chức của Tòa án
nhân dân cấp huyện
Tòa án phải là thiết chế độc lập thực sự. Các quy định pháp luật đang dần tăng cường tính độc lập
của Tòa án trong bộ máy nhà nước, Tòa án đã trở thành cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra
những phán quyết đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội cũng như các tranh chấp được đưa đến
Tòa án giải quyết.
Để tăng cường sức mạnh cho hệ thống TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, nhà nước ta
đã có nhiều phương thức từng bước bảo đảm cho sự độc lập của Tòa án: tách hệ thống Tòa án ra khỏi Chính
phủ và chỉ chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội; nhiệm kỳ của Thẩm phán bền vững hơn; chế độ lương
được cải thiện; tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, thẩm quyền xét xử được mở rộng... Tòa án xét xử
độc lập, không chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống Tòa án.
Tuy nhiên, nguyên tắc tổ chức độc lập cũng phải được thực hiện trong phạm vi đã được phân công và chịu sự
giám sát của nhân dân thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân cùng cấp. Các quyết định cuối cùng của Tòa
án không thể bị đưa ra xem xét lại bởi cơ quan ngoài Tòa án.
1.6.2.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, nhiệm vụ của hệ thống TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng là bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Chức năng xét xử của TAND thể hiện ở chỗ: Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về
các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài
nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án.
TAND cấp huyện được pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền đối với xét xử vụ án hình sự, hành
8
chính, xét xử vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân gia đình. Phán quyết mà Tòa án
đưa ra là nhân danh nhà nước giải quyết quan hệ pháp luật, xử lý hành vi phạm tội.
Thẩm quyền giải quyết của TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng được mở rộng để bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tất cả các quyết định của cơ quan hành pháp xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân phải đều được coi là đối tượng khởi kiện tại Tòa án.
Thứ hai, TAND cấp huyện hoạt động chỉ tuân theo pháp luật
Hệ thống pháp luật có các văn bản pháp luật cụ thể quy định về trình tự, thủ tục trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự, hành chính và vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao động
như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính và các văn bản dưới luật khác.
TAND cấp huyện buộc phải tuân theo những quy định trong các văn bản này trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của TAND cấp huyện đều bị coi là vi phạm pháp luật và
ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử.
Tiểu kết chương 1
9
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện từ năm 1945 đến năm 2013
Sự hình thành và phát triển của TAND cấp huyện trong hệ thống TAND ở nước ta gắn liền với
những giai đoạn phát triển của cách mạng, gắn liền với việc phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng ở từng thời kỳ
lịch sử nhất định. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời. Bên cạnh nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà nước thực dân, phong kiến, nhà nước ta khẩn trương
xây dựng bộ máy nhà nước cách mạng “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, trong đó TAND là một
bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước.
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013
2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Tình hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1.1. Tình hình tổ chức
Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hầu hết đều có cơ cấu tổ chức bao gồm lãnh đạo
là 01 Chánh án, 01 Phó Chánh án, các Thẩm phán sơ cấp, các Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao
động. Theo Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì TAND cấp huyện có thể có các Tòa chuyên trách như Tòa
hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính nhưng hiện nay chưa có
TAND cấp huyện nào trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có các Tòa chuyên trách này. Vì vậy, trong cơ cấu tổ
chức cũng không có các Chánh tòa chuyên trách. Hiện tại TAND tỉnh Quảng Ngãi đã đề nghị thành lập các
Tòa án chuyên trách tại các TAND nhân dân cấp huyện trong tỉnh có đủ điều kiện theo quy định của Luật Tổ
chức TAND năm 2014 và văn bản hướng dẫn, với cơ cấu tổ chức ở mỗi Tòa đều có Chánh tòa, Phó Chánh
tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án.
Tùy từng TAND cấp huyện có sự phân công số lượng nhân sự khác nhau để phù hợp và tương ứng
với số lượng vụ việc mà từng đơn vị phải giải quyết, qua từng năm từ năm 2012 – 2016 số lượng nhân sự của
từng đơn vị TAND cấp huyện có sự thay đổi nhưng không nhiều, phần lớn là biến động nhân sự từ quyết
định biệt phái từ đơn vị TAND tỉnh về các TAND cấp huyện hoặc từ TAND huyện này sang TAND huyện
khác. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đơn vị có số lượng vụ việc phải giải quyết cao nhất là TAND
thành phố Quảng Ngãi và cũng là đơn vị có số lượng nhân sự đông nhất với 29 người, trong đó có 03 Thẩm
phán trung cấp, 06 Thẩm phán sơ cấp, 13 Thư ký Tòa án và 03 công chức và 04 người lao động; huyện có số
lượng án phải giải quyết thấp nhất là huyện đảo Lý Sơn có số lượng nhân sự thấp nhất với 06 người, trong đó
có 02 Thẩm phán sơ cấp, 02 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
Về Hội thẩm nhân dân, trên cơ sở đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm của
TAND cấp huyện, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn
theo quy định pháp luật để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu Hội thẩm nhân dân. Nguồn của các Hội thẩm
nhân dân ở TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay thường là công chức, viên chức của các
cơ quan nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ quốc lựa chọn và giới thiệu. Số lượng
Hội thẩm nhân dân tại TAND cấp huyện tùy thuộc vào số lượng án của từng TAND cấp huyện. Trên địa bàn
10
tỉnh Quảng Ngãi, TAND thành phố Quảng Ngãi có số lượng Hội thẩm nhân dân nhiều nhất với 30 Hội thẩm,
TAND huyện Lý Sơn có số lượng Hội thẩm nhân dân ít nhất với 13 Hội thẩm.
2.2.1.2. Tình hình hoạt động
Các TAND cấp huyện hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách do Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án, Phó Chánh án chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công
tác được phân công. Trong đó Chánh án TAND cấp huyện là người đứng đầu cơ quan, chịu trách nhiệm quản
lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại Luật Tổ chức TAND và Quyết định số 1138/QĐ-
TCCB, ngày 22/8/2008 của Chánh án TAND tối cao về phân cấp quản lý cán bộ TAND địa phương. Phó
Chánh án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở sự phân công của Chánh án. Phó Chánh án theo dõi, điều hành
một số lĩnh vực công tác được phân công phụ trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án về những hoạt động
thuộc phạm vi của mình quản lý. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án, các Thẩm phán, các
Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động được quy định cụ thể trong Luật Tổ chức TAND năm
2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
và các văn bản quy phạm pháp luật do TAND tối cao ban hành cũng như quy định trong Quy chế làm việc
của từng đơn vị phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương.
2.2.2. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.2.2.1. Những kết quả đạt được về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
- Những kết quả đạt được về tổ chức
Đội ngũ công chức tại các TAND cấp huyện tương đối đồng đều về trình độ chuyên môn, hầu hết có
trình độ cử nhân luật chính quy, 16 công chức có trình độ thạc sĩ luật, 42 công chức có trình độ cao cấp lý
luận chính trị và trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác tại các
đơn vị. Công tác luân chuyển, điều động, biệt phái nhằm nâng cao năng lực của cán bộ, công chức cũng như
phù hợp với tình hình của từng TAND cấp huyện được thực hiện hiệu quả. Trong 5 năm từ năm 2012 đến
năm 2016 các TAND cấp huyện đều có công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái, cũng như có sự
bổ nhiệm mới chức danh lãnh đạo Chánh án, Phó Chánh án trong trường hợp bị khuyết để kịp thời phục vụ
yêu cầu công tác tại đơn vị. Hầu hết Chánh án các TAND cấp huyện đều trúng vào HĐND cùng cấp.
Tổ chức của các TAND cấp huyện ngày càng phù hợp hơn với tình hình của từng TAND cấp huyện,
điều này đã góp phần đảm bảo chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Những kết quả đạt được về hoạt động
Theo thống kê của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ngãi thì từ năm 2012 đến năm 2016 số lượng giải
quyết án của các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng tăng lên.
Kết quả đạt được của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã được ghi nhận trong phong
trào thi đua khen thưởng, nhiều cá nhân, đơn vị đã được tặng thưởng giấy khen của Chánh án TAND tỉnh,
bằng khen của Chánh án TAND tối cao, khen thưởng cấp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ tặng thưởng.
2.2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
- Một số tồn tại, hạn chế về tổ chức
+ Trên thực tế, tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, thành phố Quảng Ngãi là đơn vị luôn phải giải quyết,
xét xử số lượng lớn các vụ việc và còn tiếp tục tăng lên.Trong khi đó, TAND cấp huyện ở khu vực miền núi,
hải đảo lại có số lượng vụ việc thấp. dẫn đến công chức ở nơi có số lượng vụ việc ít thì không có kinh
nghiệm công tác, còn công chức ở nơi có số lượng án nhiều thì lại phải kham số lượng công việc quá tải nên
đang tạo ra những trở ngại, khó khăn trong việc kiện toàn, nâng cao năng lực và bảo đảm chất lượng hoạt
11
động xét xử của các Tòa án.
+ Hiện nay chế độ lương, phụ cấp cho Thẩm phán, Thư ký TAND nói chung, cũng như TAND cấp
huyện nói riêng còn thấp, gần bằng với chế độ lương, phụ cấp của cán bộ, công chức các cơ quan hành chính
khác.
+ Trang thiết bị, cơ sở vật chất của TAND cấp huyện còn hạn chế, một số trụ sở TAND cấp huyện
đã xuống cấp, phòng xét xử cũng như phòng làm việc của Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn thiếu trang thiết bị
phục vụ cho công tác, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của đơn vị. Một số công chức được điều động,
biệt phái đến đơn vị TAND cấp huyện xa nhà nhưng không được bố trí nơi ở, nhiều trường hợp phải ở lại
trong chính phòng làm việc, rất bất tiện cho sinh hoạt.
+ Ảnh hưởng từ mối quan hệ chỉ đạo, tác động của các chủ thể như cấp ủy Đảng, HĐND, UBND
cùng cấp.
- Một số tồn tại, hạn chế về hoạt động
+ Về năng lực của Thẩm phán, Thư ký Tòa án vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Hội thẩm nhân dân có vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa án nói chung và TAND cấp
huyện nói riêng khi mà Hội thẩm chiếm tỷ lệ lớn về mặt số lượng trong Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, có sự
chênh lệch về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét xử của Hội thẩm so với Thẩm phán khi tham gia xét xử.
+ Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, các Bộ luật, Luật mới đã có hiệu
lực thi hành trong một thời gian khá dài mà chưa có văn bản hướng dẫn thi hành đối với những vấn đề sửa
đổi, bổ sung gây ra nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động TAND cấp huyện. Bởi có nhiều văn bản pháp
luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, có nhiều vấn đề về tố tụng chưa có văn bản quy phạm hướng dẫn nên trong
những vụ án cụ thể, Thẩm phán khó xác định làm thế nào mới đúng quy định pháp luật.
Tiểu kết chương 2
12
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC,
BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1.1. Về quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng của điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố tụng”,
đã khẳng định sự cần thiết phải tăng quyền hạn, trách nhiệm của người có nhiệm vụ quan trọng trong việc
đưa ra phán quyết xét định các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Nhưng tăng
quyền hạn của Thẩm phán phải đi cùng với tăng trách nhiệm, đó là trách nhiệm thực hiện chủ trương của
Đảng, pháp luật của nhà nước, trách nhiệm bằng năng lực của bản thân, bản lĩnh nghề nghiệp thực hiện
nhiệm vụ của mình một cách công tâm, không bị bất cứ lợi ích nào chi phối, xét định bất cứ vấn đề gì cũng
dựa trên cơ sở các chế định của pháp luật, bảo vệ các lợi ích mà pháp luật bảo vệ, trừng trị nghiêm khắc đối
với các hành vi xâm phạm các giá trị này, góp phần vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Bên cạnh việc tăng quyền hạn, nhiệm vụ của Thẩm phán để nâng cao tính độc lập của họ trong hoạt
động của chính Thẩm phán nói riêng và của TAND cấp huyện nói chung thì cũng cần có cơ chế giám sát phù
hợp nhằm tránh việc lợi dụng quyền hạn của mình để thu lợi ích cá nhân.
3.1.2. Về thẩm quyền xét xử và công tác nhân sự
TAND cấp huyện là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp với số lượng giải quyết sơ thẩm các
vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính, lao động nhiều nhất tại địa phương. Vì vậy, vai trò quan trọng
trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện còn được nêu trong nhiều văn kiện của Đảng.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 nhấn mạnh: “khẩn trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực
hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện”, “tăng cường cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cơ
quan tư pháp ở Trung ương và địa phương; chú trọng đề bạt số cán bộ có quan điểm chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, đã được đào tạo cơ bản và kinh nghiệm trong thực tiễn công tác đảm nhiệm các chức
vụ lãnh đạo các cơ quan tư pháp”.
3.1.3. Về điều kiện cơ sở vật chất
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị cũng nêu rõ: “Nhà nước bảo
đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng
của đất nước”, “Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ
tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác
xét xử, công tác giám định tư pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan tư
pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp”.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đã được đề
ra và vẫn trong quá trình thực hiện, cho thấy hiệu quả tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và cũng cố nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cần được cụ
thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của nhà nước.
13
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
3.2.1.1. Thành lập các Tòa chuyên trách
Tòa chuyên trách tại TAND cấp huyện được thành lập nếu có đủ điều kiện sau: Số lượng vụ việc mà
Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải
từ 50 vụ/năm trở lên; có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức
Tòa chuyên trách. Trường hợp tại Tòa án không đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách trên thì
không tổ chức Tòa chuyên trách nhưng phải bố trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết. TAND có thể có
các Tòa chuyên trách gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành
chính.
Thực tế, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có một số TAND huyện đáp ứng đủ điều kiện thành lập Tòa
chuyên trách các lĩnh vực khi có số án từng lĩnh vực từ 50 vụ/năm trở lên như Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức,
Sơn Hà, Sơn Tịnh, thành phố Quảng Ngãi, Trà Bồng, Tư Nghĩa. Nhưng hiện nay việc tổ chức thành lập các
Tòa chuyên trách chưa được thực hiện ở bất kỳ đơn vị TAND huyện nào. TAND tỉnh Quảng Ngãi cần có kế
hoạch triển khai thực hiện việc thành lập Tòa chuyên trách ở TAND cấp huyện trong địa bàn tỉnh mà trước
hết là ở TAND thành phố Quảng Ngãi, nơi có số lượng án trên các lĩnh vực nhiều nhất, đối với các TAND
cấp huyện khác không đủ điều kiện thành lập Tòa chuyên trách thì bố trí Thẩm phán chuyên trách.
3.2.1.2. Thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn
Tiếp dân và xử lý đơn là khâu quan trọng trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc thuộc thẩm
quyền của mình (kể cả vụ án hình sự trong trường hợp có các đơn kiếu nại, thay đổi biện pháp ngăn chặn,
cho phép gặp mặt bị cáo). Vì vậy, nếu TAND cấp huyện làm tốt khâu này sẽ bảo đảm chất lượng hoạt động
của Tòa án.
Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nên áp dụng việc thành lập bộ phận tiếp dân,
tiếp nhận và xử lý đơn thuộc Văn phòng, có cơ cấu gồm Thẩm phán và công chức khác; đối với TAND cấp
huyện có số lượng vụ việc phải giải quyết không nhiều thì bố trí người ở bộ phận này. Như vậy, hoạt động
này được thực hiện theo quy trình khép kín, xử lý đơn khởi kiện, đơn khiếu nại của người dân với thời gian
ngắn nhất, không vi phạm quy định về thời hạn của pháp luật tố tụng. Đồng thời nâng cao năng lực của cán
bộ chuyên trách bộ phận này, tránh tình trạng gây khó khăn, phiền hà cho người dân, hoặc thụ lý khi chưa đủ
điều kiện khởi kiện, thụ lý sai, dẫn đến thụ lý tràn lan các vụ việc và từ đó dẫn đến tình trạng án tồn
đọng quá hạn.
3.2.1.3. Đầu tư kinh phí phù hợp
- Trang bị cơ sở vật chất hiện đại để bảo đảm hoạt động của TAND cấp huyện
- Chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chức danh khác trong TAND cấp
huyện
3.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
3.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân cấp huyện
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật khoa học,
đồng bộ, thống nhất và dự liệu được cơ bản những quan hệ pháp luật có thể phát sinh trong xã hội. Ngay từ
giai đoạn soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà trước hết là các đạo luật, pháp lệnh, tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp
14
luật phải được bảo đảm. Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình lập
pháp, lập quy.
Cần có sự thể chế hóa nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để nâng cao hơn nữa
chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện. Mặt khác, cần hoàn thiện các quy định để nâng cao trách nhiệm
của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức
hoặc năng lực xét xử yếu, kém.
3.2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm
phán và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân cấp huyện
Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo vệ hay không, việc xét xử của Tòa án có góp
phần vào việc răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng trong việc tuyên truyền, giáo
dục pháp luật trong nhân dân hay không, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong hệ thống TAND.
Để có được đội ngũ Thẩm phán giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có bản lĩnh nghề nghiệp cần có cơ
sở đào tạo tốt, để tạo điều kiện trang bị mặt bằng kiến thức chung về chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán,
trước hết là nguồn bổ nhiệm Thẩm phán.
Trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức
danh khác trong TAND cấp huyện được tốt thì chất lượng trong hoạt động của TAND sẽ được nâng cao, góp
phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam hiện nay.
3.2.2.3. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân
Qua quá trình đánh giá chất lượng xét xử của Hội thẩm nhân dân tại các TAND cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi, bên cạnh những ưu điểm còn có một số hạn chế, vướng mắc nhất định như Hội thẩm
nhân dân tham gia xét xử nhưng chưa phát huy hết vai trò của mình, Hội thẩm nhân dân ít tham gia nghiên
cứu hồ sơ vụ án, chưa hiểu kỹ được nội dung vụ án, dễ dẫn đến khi xét xử đưa ra phán quyết không đúng với
thực tế nội dung vụ án, không đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
Hội thẩm mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế về trình độ pháp lý. Cơ quan có
liên quan cần phối hợp tốt hơn với TAND cấp huyện trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, đặc
biệt là tập huấn các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ chức rút kinh
nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù. Hằng năm, cần quan tâm đầu tư kinh phí để bồi dưỡng nâng
cao trình độ pháp lý cho đội ngũ Hội thẩm. Ngoài ra, cần phải có cơ chế trách nhiệm đối với Hội thẩm khi
tham gia xét xử, cùng ban hành các bản án, quyết định để Hội thẩm phát huy hết năng lực và trách nhiệm của
mình. Nếu Hội thẩm nào có nhiều bản án bị hủy, sửa, vi phạm các vấn đề đạo đức nghề nghiệp hoặc thiếu tinh
thần trách nhiệm đối với hoạt động xét xử thì cần xem xét có các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm và các chế tài
xử lý khác.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
3.3.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh
TAND tối cao, TAND cấp tỉnh cần phân bổ số lượng Thẩm phán, Thư ký Tòa án hợp lý, theo số
lượng án của từng TAND cấp huyện nhưng trừ các chức danh quản lý ra. Đồng thời, có sự biệt phái, luân
chuyển cán bộ, công chức giữa các TAND cấp huyện để cán bộ, công chức có điều kiện tiếp xúc, va chạm
giải quyết các vụ việc với nhiều đặc điểm khác nhau theo điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của từng địa
phương, qua đó trau dồi thêm kiến thức xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp.
Việc tổ chức các Tòa chuyên trách ở các TAND huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có đủ điều kiện
15
theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về
quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương là cần thiết. Chánh án TAND tỉnh
Quảng Ngãi căn cứ vào các điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức Tòa
chuyên trách tại các TAND huyện trên địa bàn, rà soát về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa
án hiện có, xây dựng hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa chuyên trách tại các TAND huyện gửi cho TAND tối cao
xem xét, quyết định. Trong đề án tổ chức Tòa chuyên trách tại các TAND huyện, TAND tỉnh Quảng Ngãi
cần nêu rõ sự cần thiết tổ chức Tòa chuyên trách, cơ sở của việc đề xuất, số lượng Tòa chuyên trách cần tổ
chức, tên các Tòa chuyên trách, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương án tổ chức nhân sự và đề xuất
về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án của từng Tòa chuyên trách.
Việc nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của TAND cấp huyện tại địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND cấp trên quan tâm, trước mắt là nguồn bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp.
Đồng thời, có kế hoạch và thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc đột xuất về
chuyên môn nghiệp vụ cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để phán xét của TAND cấp huyện công
bằng, đúng pháp luật đảm bảo công lý được thực thi; đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về
tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực hiện chế độ khen thưởng,
kỷ luật trong hoạt động của TAND cấp huyện.
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND tối cao, TAND tỉnh Quảng
Ngãi quan tâm xây mới hoặc tu sửa đối với trụ sở những TAND cấp huyện đã xuống cấp trầm trọng, trang bị
cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật cần cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết, xét xử những vụ việc
thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.
TAND tối cao, TAND tỉnh quảng Ngãi cần quan tâm hơn đến chế định thừa phát lại, có thể áp dụng
tại một số TAND cấp huyện có nhiều công việc, số lượng án nhiều. Nếu áp dụng chế định này, Thẩm phán
và Thư ký Tòa án có thời gian để nghiên cứu chuyên môn và thực hiện các công việc khác.
TAND tối cao cần xây dựng kế hoạch về cải thiện chế độ tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đặc trưng mà họ phải thực hiện.
3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện
Lãnh đạo TAND cấp huyện cần đề nghị TAND cấp trên bố trí số lượng nhân sự hợp lý, phù hợp với
số lượng vụ việc phải quyết để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Thẩm phán, Thư ký Tòa án và các công chức có chức danh khác của TAND cấp huyện cần nhận
thức được vai trò của việc nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay.
Lãnh đạo TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tạo điều kiện để Thẩm phán, Thư ký
Toà án, Hội thẩm nhân dân đơn vị mình nâng cao năng lực, tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, tài liệu,
trang thiết bị kỹ thuật để hỗ trợ cho quá trình công tác nhằm giúp họ phát huy tối đa năng lực, bản lĩnh nghề
nghiệp của mình trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện. Đồng thời, tạo điều kiện về
thời gian để Thẩm phán, Thư ký Tòa án tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nghiên cứu tài liệu để phục
vụ cho quá trình công tác.
TAND cấp huyện cần triển khai và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, văn bản pháp luật mới,
tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh tới toàn công chức trong đơn vị. Bên cạnh đó, TAND cấp huyện
cần có cơ chế giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện công việc của công chức trong đơn vị mình để kịp thời
phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của công chức trong đơn vị. Mặt khác, TAND cấp huyện cần có
16
chế độ khen thưởng phù hợp đối với những cá nhân có thành tích vượt bậc.
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay hầu hết đều hoạt động theo cơ chế mọi
hướng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền đều có ý kiến của Chánh án hoặc cấp ủy TAND cấp huyện
đó, điều này ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được quy định tại Hiến pháp
và Luật Tổ chức TAND. TAND cấp huyện cần khắc phục cơ chế hoạt động này. TAND cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi cần nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và thực hiện việc tiếp nhận xử lý đơn theo quy định của
pháp luật. Nếu bộ phận chuyên trách này được thành lập và thực hiện đúng các quy định tố tụng sẽ thuận lợi
cho việc nộp đơn của công dân; giúp TAND thụ lý đúng vụ việc tránh trường hợp thụ lý không đúng quy
định dẫn đến việc giải quyết án tồn đọng, kéo dài.
Chánh án của các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần chuẩn bị nhân lực, vật lực cho
việc thành lập các Tòa chuyên trách nếu đủ điều kiện theo quy định. Ngay từ bây giờ, Chánh án TAND cấp
huyện xem xét, phân công án cho Thẩm phán theo hướng chuyên trách để thuận lợi cho việc nghiên cứu tài
liệu, văn bản pháp luật, đến khi Tòa chuyên trách được tổ chức, TAND cấp huyện sẽ không bị động.
Lãnh đạo, cấp ủy của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần phối hợp với cơ quan, đơn
vị có công chức, viên chức là Hội thẩm nhân dân của Tòa án mình để đề nghị các cơ quan, đơn vị này tạo
điều kiện cho Hội thẩm có thời gian nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử, tránh trường hợp vì thực hiện
nhiệm vụ công tác tại đơn vị mà không thể nghiên cứu hồ sơ được, ảnh hưởng đến chất lượng trong quá trình
xét xử, hoặc không tham gia xét xử được ảnh hưởng đến hoạt động của TAND cấp huyện.
Tiểu kết chương 3
17
KẾT LUẬN
Nhà nước pháp quyền XHCN đã, đang và tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện ở nước ta. Điều này đã
được thể chế hóa trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất là Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung
năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đóng vai trò hết sức quan trọng và
cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó có hệ thống Tòa án nói
chung, TAND cấp huyện nói riêng. Cùng với quyền hạn, nhiệm vụ của mình TAND cần có cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Hiện nay, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn nhiều hạn
chế, vướng mắc phải khắc phục, do đó cần được các cấp ủy Đảng và nhà nước quan tâm nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động của TAND cấp huyện trong việc giải quyết số lượng án ngày càng tăng. Đó là những hạn
chế về văn bản pháp luật, về biên chế công chức, về phương thức hoạt động, năng lực của Thẩm phán, Hội
thẩm trong quá trình giải quyết công việc, về cơ sở vật chất, về áp dụng công nghệ thông tin trong công việc,
về kinh phí hoạt động... Điều này đã thúc đẩy cần có các giải pháp đồng bộ để giải quyết triệt để các vấn đề
trên. Trong đó, trọng tâm là hoạt động của TAND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Và để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên, công chức của TAND cấp huyện cần nhận thức rõ quyền hạn,
trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của TAND. Trên cơ sở quyền hạn, trách nhiệm đó, công chức
TAND cấp huyện khi thực hiện công việc phải khách quan, công tâm, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng,
nhà nước và Nhân dân. Chỉ khi TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có những công chức có năng
lực chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng thì mới có thể đưa ra những phán quyết đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức trong quá trình hoạt động của mình khi mà tình hình
kinh tế - xã hội trên địa bàn ngày càng chuyển biến phức tạp. Khi điều kiện chưa khắc phục những hạn chế,
vướng mắc trong hoạt động, TAND cấp huyện cần tự mình quán triệt và đề xuất những giải pháp thiết thực
lên cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết, giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để chất lượng hoạt
động xét xử ngày càng được nâng cao, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, nhà nước và nhân dân, là nơi
thực hiện công lý trong xã hội, góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_to_chuc_va_hoat_dong_cua_toa_an_nhan_dan_ca.pdf