Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ là một hoạt động quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ, bảo đảm
an toàn kỹ thuật cho các phương tiện giao thông và bảo vệ môi trường.
Chính vì vậy, công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ cần
được thực hiện dưới sự giám sát trực tiếp của các cơ quan nhà nước.
Trong những năm qua, công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới
đã đạt được nhiều thành công nhất định, góp phần quan trọng vào việc
tăng cường chất lượng kiểm định, giảm thời gian, chi phí và phiền hà
cho các chủ phương tiện cần kiểm định. Một trong những nỗ lực nhằm
nâng cao chất lượng kiểm định, giảm gánh nặng của Nhà nước là xã hội
hóa hoạt động kiểm định xe cơ giới đã được Bộ Giao thông vận tải tiến
hành thí điểm từ năm 2010 và cho tới nay đã được chứng minh là mang
lại những hiệu quả thiết thực. Chính vì vậy, tăng cường xã hội hóa theo
hướng tách biệt công tác đăng kiểm với hoạt động quản lý nhà nước về
đăng kiểm sẽ được tiếp tục triển khai trong thời gian tới.
Ninh Thuận là một tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế-xã hội khá
nhanh và bền vững. Tỉnh lại nằm trên trục quốc lộ hành lang Bắc-Nam,
là một đầu mối giao thông quan trọng, do đó, số lượng các phương tiện
đăng kiểm sẽ gia tăng nhanh chóng trong thời gian tới. trong khi đó,
công tác đăng kiểm hiện nay do một trung tâm đăng kiểm phương tiện
giao thông duy nhất triển khai nên việc đăng kiểm trở nên quá tải, gây
nên sự chờ đợi, làm giảm mức độ hài lòng của lái xe và chủ phương tiện
khi tới đăng kiểm. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh các
tiêu cực trong công tác đăng kiểm. Chính vì vậy, việc xã hội hóa công
tác đăng kiểm ở Ninh Thuận là một yêu cầu cấp bách và khách quan.
Việc xã hội hóa công tác đăng kiểm ở Ninh Thuận trong điều
kiện hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đăng kiểm trên
địa bàn tỉnh, góp phần quan trọng vào việc giảm tải cho trung tâm
đăng kiểm hiện có, đồng thời tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh góp
phần vào việc nâng cao chất lượng đăng kiểm trên địa bàn tỉnh. Vì
vậy, cần phải nghiên cứu cụ thể để triển khai xã hội hóa trung tâm
này trong tương lai gần.
25 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 598 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay, nghiên cứu đề xuất
phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận từ giác độ xã hội hóa
Để đạt mục tiêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau:
Làm rõ cơ sở lý luận của việc xã hội hóa dịch vụ công nói chung và
xã hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nói riêng;
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác đăng kiểm xe cơ giới đường
bộ ở tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn từ năm 2011-2016.
Đề xuất phương hướng, giải pháp xã hội hóa công tác đăng kiểm
xe cơ giới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường
bộ ở tỉnh Ninh Thuận từ giác độ xã hội hóa trong điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ đang lưu hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về không gian nghiên cứu: trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận;
Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 đến năm 2016;
Luận văn không nghiên cứu việc đăng kiểm các phương tiện giao
thông đường bộ mới đưa vào lưu hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
3
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác- Lênin; quan điểm
của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa dịch vụ công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu (desk study).
- Phương pháp quan sát, phỏng vấn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu theo hình thức phi cấu trúc.
6. Đóng góp của đề tài
Góp phần tổng kết và hoàn chỉnh lý luận về xã hội hóa dịch vụ
công nói chung và dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới nói riêng; đánh giá thực
trạng đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận để
rút ra các thành công và bất cập còn tồn tại trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, luận cứ
cho việc triển khai xã hội hóa Trung tâm đăng kiểm trên địa bàn tỉnh
Ninh Thuận nói riêng và các Trung tâm đăng kiểm khác trong thời gian
tới nhằm nâng cao chất lượng và sự hài lòng của người dân thực hiện
đăng kiểm
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Lý luận chung về xã hội hóa và xã hội hóa công tác
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Chương 2: Thực trạng đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ở tỉnh Ninh
Thuận giai đoạn từ năm 2011-2016.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp triển khai xã hội hóa công
tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ tại tỉnh Ninh Thuận.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ
GIỚI ĐƯỜNG BỘ VÀ XÃ HỘI HÓA ĐĂNG KIỂM PTCGĐB
1.1. Tổng quan về đăng kiểm phương tiện GTCGĐB
1.1.1. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
Phương tiện giao thông đường bộ là toàn bộ các phương tiện giao
thông có thể lưu hành trên đường bộ bao gồm phương tiện cơ giới đường
bộ (gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe
ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy và
4
phương tiện thô sơ đường bộ. Tuy nhiên trong Luận văn này chỉ tập trung
vào phương tiện giao thông đang lưu hành.
Các phương tiện cơ giới phải đảm bảo một số tiêu chuẩn nhất định
về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường và được cấp giấy phép lưu hành
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp sau khi đã được kiểm định về
chất lượng và xác nhận đã đạt đầy đủ các tiêu chuẩn về an toàn kỹ thuật
và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành. Để có được
giấy phép lưu hành xe cơ giới này, các chủ phương tiện phải thực hiện
việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ tại các trung tâm đăng kiểm.
1.1.2. Đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
Đăng kiểm xe cơ giới là dịch vụ kiểm định an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường cho xe cơ giới đang lưu hành, là việc tiến hành kiểm
tra, đánh giá định kỳ tình trạng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
của xe cơ giới để chứng nhận xe cơ giới đủ điều kiện tham gia giao
thông nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông và bảo vệ môi
trường.
Đối với các phương tiện mới tham gia giao thông cần phải kiểm
định mới (kiểm định lần đầu tiên), còn các phương tiện đang tham gia
giao thông thì sau một khoảng thời gian nhất định (gọi là chu kỳ đăng
kiểm) phải được chủ phương tiện đưa tới các cơ sở đăng kiểm có thẩm
quyền để kiểm định lại và cấp phép lưu hành sau khi đã xác nhận đủ
điều kiện kỹ thuật để lưu hành.
1.1.3. Mục đích của việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nhằm nâng cao an toàn
sinh mạng con người, tài sản và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn giao thông ngày càng
gia tăng và ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng là chất lượng
phương tiện không đảm bảo, vì vậy công tác đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ có ý nghĩa rất lớn trong việc góp phần giảm thiểu tai nạn giao
thông và ô nhiễm mội trường. Để giảm bớt tại nạn giao thông do các
phương tiện cơ giới đường bộ tham gia giao thông không đảm bảo các
tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và chống ô nhiễm môi trường, cần xác định
rõ các quy định về kỹ thuật và môi trường, đồng thời kiểm soát chặt chẽ
việc tuân thủ các quy định này của các chủ phương tiện tham gia giao
thông.
Như vậy, mục đích của công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
là góp phần phòng ngừa ô nhiễm môi trường và bảo đảm trật tự an toàn
giao thông, bảo vệ tính mạng, tài sản người tham gia giao thông.
5
1.1.4. Quản lý công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ hiện
nay
1.1.4.1. Hệ thống thể chế quy định về đăng kiểm và tiêu chuẩn
kỹ thuật đối với các phương tiện tham gia giao thông hiện nay
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về đăng
kiểm đối với xe cơ giới đường bộ ở Việt Nam đã được ban hành tương
đối đầy đủ và toàn diện từ trong các Luật chuyên ngành tới các quy định
của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và các quy định cụ thể của UBND
tỉnh các tỉnh.
Cho đến nay, có thể nói hệ thống văn bản, quy phạm pháp luật
và tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các loại phương tiện cơ giới
đường bộ đã được xây dựng, bổ sung, sửa đổi tương đối hoàn thiện làm
căn cứ pháp lý cho các công tác đăng kiểm.
Tuy nhiên, vẫn cần bổ sung, cập nhật, sửa đổi kịp thời hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với yêu cầu thực tế của nhiệm
vụ đăng kiểm trong tình hình mới và mở rộng việc đăng kiểm sang
những lĩnh vực chưa được thực hiện.
1.1.4.2. Cơ quan quản lý nhà nước về đăng kiểm xe cơ giới
Công tác đăng kiểm ở Việt Nam bắt đầu bằng việc đăng kiểm
tàu thủy được hình thành từ năm 1884, khi lần đầu tiên ở Việt Nam có ụ
khô để đóng tàu mới và sửa chữa tàu biển tại Ba Son, Sài Gòn. Năm
1960, Phòng Ðăng ký hải sự trực thuộc Bộ Giao thông vận tải được
thành lập để thực hiện việc kiểm tra các loại phương tiện vận tải đường
thủy. Trụ sở của Phòng Ðăng ký hải sự đóng tại Hà Nội. Cơ quan này là
cơ sở tiền thân của Cục Ðăng kiểm Việt Nam ngày nay.
Việc xây dựng và triển khai kiểm định phương tiện cơ giới
đường bộ được thực hiện một cách hệ thống thực hiện từ tháng 5 năm
1995. Hiện nay, hệ thống cơ quan đăng kiểm xe cơ giới đường bộ được
tổ chức thống nhất trên cả nước với 139 trung tâm đăng kiểm trải ra
trên phạm vi cả nước dưới sự quản lý nhà nước của Cục đăng kiểm Việt
Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Cục Đăng kiểm Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ. Bên cạnh Cục Đăng
kiểm Việt Nam, Sở Giao thông vận tải ở các tỉnh là cơ quan thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với công tác đăng kiểm xe cơ giới của
các Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới thuộc các Sở quản lý.
1.1.4.3. Các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới
Việc đăng kiểm xe cơ giới được thực hiện tại các Trung tâm
đăng kiểm xe cơ giới. Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới là tổ chức sự
6
nghiệp có thu, thực hiện chức năng kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ
mội trường phương tiện cơ giới đường bộ theo quy định của Bộ Giao
thông vận tải và chịu sự quản lý Nhà nước của Cục Đăng kiểm Việt
Nam (với các Trung tâm thuộc Cục) hoặc Sở Giao thông vận tải (với
các Trung tâm thuộc Sở). Các trung tâm này được tổ chức như các
doanh nghiệp hoạt động công ích trong lĩnh vực kiểm định kỹ thuật
phương tiện cơ giới đường bộ, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng,
hạch toán kinh tế độc lập, được vay vốn và mở tài khoản tại ngân hàng
để hoạt động theo quy định của Nhà nước.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới được
quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành bao gồm:
- Kiểm tra kỹ thuật và cấp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật
cho các loại phương tiện cơ giới đường bộ.
- Thu phí, lệ phí kiểm định phương tiện theo giá, khung giá quy
định của Nhà nước.
- Cung cấp hồ sơ, tài liệu về chất lượng các phương tiện đã qua
kiểm tra đến các cơ quan quản lý chức năng có thẩm quyền.
- Chịu trách nhiệm bảo toàn phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật,
tài sản, trang thiết bị được giao quản lý.
Theo quy định pháp luật hiện hành về đăng kiểm, mọi tổ chức,
cá nhân đều có thể đăng ký thành lập các Trung tâm đăng kiểm và được
phép đăng ký thành lập Trung tâm kiểm định chất lượng xe cơ giới khi
có đủ các điều kiện.
Các trung tâm đăng kiểm đã được xây dựng trên tất cả các tỉnh
trên cả nước, tuy nhiên có sự phân bổ không đồng đều và bố trí chưa
phù hợp dẫn tới một số trung tâm quá tải nhưng một số trung tâm lại có
số lượng xe kiểm định khá thấp.
1.2. Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
1.2.1. Khái niệm xã hội hóa
Thời gian gần đây, thuật ngữ “xã hội hóa” không chỉ được đề
cập trong các văn bản mang tính chất định hướng của Đảng, Nhà nước,
mà còn được sự quan tâm khá đặc biệt từ phía các nhà nghiên cứu.
Thậm chí, nó đã không còn xa lạ với đa số người dân, mặc dù không
hẳn ai cũng hiểu tường tận khái niệm này. Liên quan đến công việc quản
lý nhà nước, thuật ngữ này được sử dụng như một “giải pháp” cho cải
cách việc cung ứng các dịch vụ công. Theo cách hiểu này, vai trò cung
ứng dịch vụ của các chủ thể cung ứng có sự thay đổi: chuyển từ sự độc
quyền của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các dịch vụ này ra
7
ngoài khu vực nhà nước nhằm tập hợp nguồn lực của xã hội để cùng
thực hiện mục tiêu cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công.
Hiện nay, chưa có một khái niệm chung duy nhất về xã hội hóa
mà phụ thuộc vào cách tiếp cận của các tác giả khác nhau thì khác nhau.
Tiếp cận ở gốc độ xã hội học thì xã hội hóa là quá trình mà qua
đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn mẫu
xã hội.
Tiếp cận khác của GS.Ngô Thành Dương, xã hội hóa là nói lên
sự chuyển hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội.
Tiếp cận của TS. Nông Phú Bình (2000), Một số thuật ngữ hành
chính, Nxb Thế giới thì “xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ
chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt
động kinh tế-xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước”.
Qua một số khái niệm về xã hội hóa trên thì theo tác giả khái
niệm được TS. Nông Phú Bình dễ hiểu, đầy đủ, phù hợp. Tuy nhiên, vấn
đề là cần có sự phân định rõ ràng, những lĩnh vực do Nhà nước thực
hiện, những lĩnh vực mà Nhà nước có thể giao cho tư nhân thực hiện và
những lĩnh vực mà Nhà nước và tư nhân cùng thực hiện để tránh tình
trạng Nhà nước ôm đồm, độc quyền nhưng thực hiện không hiệu quả,
những việc mà đáng ra thuộc về khu vực tư.
Vì vậy, xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt
động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh
tế-xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước.
Xã hội hóa dịch vụ công được hiểu là quá trình vận động và tổ
chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào hoạt động
cung cấp dịch vụ công nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về
dịch vụ của nhân dân. Xã hội hoá dịch vụ công được hiểu trước hết là
việc xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với
việc tạo lập và cải thiện việc cung cấp dịch vụ công; đa dạng hoá các
hình thức cung cấp dịch vụ, mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân
dân tham gia chủ động và bình đẳng vào các hoạt động cung cấp dịch vụ
công. Đó là hoạt động nhằm mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các
tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội tham gia cùng với
nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ công đáp ứng các đòi hỏi của
8
xã hội. Phá bỏ sự độc quyền, bao cấp của Nhà nước một mặt sẽ giảm tải
được gánh nặng cho các cơ quan công quyền, mặt khác huy động được
các nguồn lực trong xã hội. Không chỉ vậy, xã hội hóa còn được hiểu là
quá trình để mọi người được tham gia bình đẳng vào môi trường lành
mạnh, được thụ hưởng những lợi ích công bằng do dịch vụ công đem
lại.
1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của xã hội hóa công tác đăng kiểm xe
cơ giới
1.2.2.1. Khái niệm
Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới ở nước ta là một bộ
phận của xã hội hóa, là quá trình lôi cuốn người dân và các tổ chức
trong toàn xã hội tham gia vào công tác đăng kiểm vốn do nhà nước
hoàn toàn đảm nhận trước đây.
1.2.2.2. Quá trình triển khai hoạt động xã hội hóa đăng kiểm xe
cơ giới
Trong những năm vừa qua, cùng với việc triển khai mạnh mẽ sự
nghiệp xã hội hóa nói chung của Đảng và Nhà nước, xã hội hóa đăng
kiểm xe cơ giới đã từng bước được hình thành và triển khai mạnh mẽ.
Dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ được bắt đầu đề xuất
thí điểm xã hội hóa từ năm 2005 theo Đề án “Xã hội hóa đăng kiểm xe
cơ giới đang lưu hành” của Bộ Giao thông vận tải. Cùng với việc triển
khai Đề án, nhiều Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có sự tham
gia của tư nhân đã được phê duyệt xây dựng và đi vào hoạt động. Chỉ
hai năm sau khi Đề án được thông qua, vào năm 2007 đã có 9 trung tâm
đi vào hoạt động trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Tính đến năm 2016, cả nước có 135 đơn vị đăng kiểm xe cơ
giới. Như vậy, từ khi thực hiện Đề án “Xã hội hóa công tác đăng kiểm
xe cơ giới đang lưu hành” và Đề án “Quy hoạch tổng thể các trung tâm
đăng kiểm và dây chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn
2030” đến nay, số trung tâm đăng kiểm xã hội hóa là 73 đơn vị, trong đó
57 đơn vị đã hoạt động và 16 đơn vị đang xây dựng (14 đơn vị đi vào
hoạt động năm 2016 và 02 đơn vị đang được xây dựng, sẽ đưa vào hoạt
động năm 2017).
Cục ĐKVN tiếp tục phối hợp với các địa phương thực hiện Đề
án “Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đang lưu hành” theo chủ
trương xã hội hóa công tác đăng kiểm của Chính phủ và Bộ Giao thông
vận tải.
9
1.2.2.3. Các mô hình cơ bản để kiểm định xe cơ giới đường bộ
Hiện nay, tùy theo mức độ xã hội hóa khác nhau, các Trung tâm
đăng kiểm xe cơ giới được tổ chức và hoạt động theo nhiều mô hình
khác nhau, từ mô hình nhà nước tổ chức và vận hành toàn bộ đến tư
nhân tổ chức và vận hành toàn bộ.
Thực hiện Quyết định số 1658/QĐ-BGTVT ngày 16/5/2005 của
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải phê duyệt Đề án “Xã hội hóa công tác
đăng kiểm xe cơ giới đang lưu hành”, Cục Đăng kiểm đã thí điểm thành
lập một số trung tâm đăng kiểm theo hai mô hình chủ yếu:
- Mô hình thứ nhất theo hướng các thành phần kinh tế ngoài nhà
nước (doanh nghiệp) đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trung tâm đăng
kiểm và trực tiếp tuyển dụng nhân sự (có sát hạch, đánh giá của Cục
Đăng kiểm Việt Nam) để tổ chức thực hiện công tác kiểm định xe cơ
giới. Mô hình này được thực hiện chủ yếu trong giai đoạn 2005-2008
(với 9 trung tâm đăng kiểm trên cả nước). Hiện nay chỉ còn 5 trung tâm
hoạt động theo mô hình này vì 02 trung tâm đã dừng hoạt động từ năm
2011 và 02 trung tâm chuyển đổi sang mô hình thứ hai dưới đây.
- Mô hình thứ hai được triển khai thực hiện từ 2009 đến nay đi
theo hướng các thành phần kinh tế (doanh nghiệp) đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất nhưng nhân viên đăng kiểm không phải là do doanh nghiệp
tuyển dụng mà đăng kiểm viên là viên chức, công chức thuộc các sở
Giao thông vận tải hoặc Cục Đăng kiểm Việt Nam (trong trường hợp
các Sở Giao thông vận tải không đảm nhận) thực hiện công tác kiểm
định và cấp giấy chứng nhận.
Đánh giá về các mô hình thí điểm này, Cục Đăng kiểm cho biết,
cả hai mô hình đều có ưu điểm huy động được các nguồn lực, tiềm lực
của xã hội đầu tư cho hoạt động kiểm định, giảm chi ngân sách nhà
nước, đáp ứng từng bước nhu cầu kiểm định tăng lên do tăng trưởng
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy tại các trung tâm kiểm định được xã
hội hóa này vẫn luôn tồn tại những nhược điểm nhất định cần khắc
phục: các doanh nghiệp thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên cao, do vậy
đã có tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, hạ thấp tiêu chuẩn không
thực hiện đúng, đủ quy trình kiểm định, việc sử dụng cán bộ đăng kiểm
của một số đơn vị chưa đúng tiêu chuẩn, thiếu kiến thức thực tế. Đối với
mô hình cử công chức viên chức của các Sở Giao thông vận tải tham gia
thực hiện công tác kiểm định mặc dù có kết quả hơn, đó là hạn chế được
mặt tiêu cực của các doanh nghiệp tới các hoạt động kiểm định, bảo
10
đảm tính khách quan của kết quả kiểm tra, nhưng hạn chế nếu chiếu
theo luật công chức viên chức thì không phù hợp.
1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÃ HỘI HÓA
CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
Quản lý nhà nước đối với xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ
giới đường bộ là các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương điều
chỉnh, định hướng, dẫn dắt hoạt động đăng kiểm xe cơ giới thông qua
các văn bản quy phạm pháp luật, tạo lập môi trường pháp lý, tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút nguồn lực ngoài khu vực công cùng với nhà
nước tham gia cung ứng dịch vụ công nhằm hướng đến mục tiêu nâng
cao chất lượng đăng kiểm góp phần bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn
giao thông và tính mạng, tài sản của người tham gia giao thông.
Với triết lý phục vụ và duy trì, cải thiện hành chính công trong
một thế giới cạnh tranh đặt ra cho các nhà quản lý các vấn đề cần phải
cân nhắc, đánh giá kỹ lưỡng trước khi quyết định như “xã hội hóa các
dịch vụ công có đem lại hiệu quả bền vững? Nên xã hội hóa dịch vụ
công ở mức độ nào? Nhà nước có bảo đảm được vai trò quản lý của
mình khi các dịch vụ này được xã hội hóa rộng rãi?”.
Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ không có
nghĩa là nhà nước bị loại mất vai trò quản lý của mình, ngược lại vai trò
quản lý nhà nước cần tăng lên khi thiết lập vai trò và trách nhiệm của
nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Sự thiếu vắng vai trò quản lý nhà nước và bỏ mặc theo kiểu “khoán
trắng” có thể dẫn đến sự mất ổn định trong cung ứng dịch vụ đăng kiểm
xe cơ giới đường bộ và làm cho quá trình xã hội hóa công tác đăng kiểm
xe cơ giới đường bộ thiếu tính bền vững, tạo ra sự bất bình đẳng trong
xã hội. Vai trò quản lý nhà nước là vừa đảm bảo các mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội trên cơ sở huy động nguồn lực, vừa phải đảm bảo quá
trình xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ diễn ra theo
quy luật của thị trường.
Khi tiến hành xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường
bộ, nhà nước cần phải xác định được nội dung cần quản lý như: xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chính
sách, chiến lược, kế hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; quản lý
thống nhất các hoạt động đăng kiểm xe cơ giới đường bộ; quản lý thông
tin, dữ liệu, cấp, gia hạn, thu hồi giấy chứng nhận trung tâm đăng kiểm
đủ điều kiện hoạt động; phổ biến, giáo dục pháp luật, thông tin truyền
thông nâng cao nhận thức cộng đồng; theo dõi thi hành pháp luật về
công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ; quản lý đội ngũ đăng kiểm
11
viên xe cơ giới đường bộ; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật,
giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động đăng kiểm xe cơ giới đường
bộ.
Nhà nước cần quy định rõ cơ chế tài chính và mức độ trần để nhà
nước có thể can thiệp, điều chỉnh được khi cần thiết, nhà nước sẽ can
thiệp khi có những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí, khi giá
dịch vụ cao hơn mặt bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội,
cần phối hợp bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có tính xã hội cao, vì
vậy Nhà nước vẫn có trách nhiệm tiếp tục đầu tư ngân sách hợp lý, hỗ
trợ cho các đơn vị đăng kiểm tồn tại nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Xã
hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ không có nghĩa là nhà
nước thoái thác cho xã hội, mà ngược lại vai trò của nhà nước chuyển
lên một tầm cao mới là nhà quản lý, dẫn dắt, chuyển giao khoa học công
nghệ, thành tựu nhân loại cho các doanh nghiệp kế thừa và phát triển
mang lại hiệu quả cao cho xã hội.
Nhà nước cần phân biệt rõ ràng về tài chính, đâu là lĩnh vực do
nhà nước trực tiếp thực hiện, đâu là lĩnh vực nhà nước giao cho tư nhân
thực hiện, trong khi đó nhà nước giữ vai trò quản lý nhằm đảm bảo trách
nhiệm đồng thời sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Nhằm đẩy mạnh xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công cho xã
hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số
73/1999/NĐ-CP và các văn bản chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ
công, Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về việc chuyển đơn vị sự nghiệp
công lập thành công ty cổ phần... Từ các cơ sở pháp lý này, hàng loạt cơ
sở cung ứng dịch vụ trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và thể
thao đã ra đời. Đồng thời, đã nảy sinh nhiều vấn đề về kiểm soát chất
lượng dịch vụ. Thông thường, các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân
chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên
cao, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ yếu,
cơ chế tài chính không minh bạch.
1.4. KINH NGHIỆM XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG ĐĂNG
KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.3.1. Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới tại Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong việc xã hội hóa công tác đăng
kiểm xe cơ giới. Trước khi Trung tâm đăng kiểm 60-04D đi vào hoạt
động, tại thành phố Biên Hòa đã có 4 trung tâm đăng kiểm xe cơ giới là
các trạm 6001S, 6002S, 6003S và 60-04S đều là các trung tâm đăng
12
kiểm do Sở Giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai quản lý nhưng do là tỉnh
phát triển công nghiệp mạnh mẽ lại nằm gần trung tâm kinh tế của cả
nước là thành phố Hồ Chí Minh nên các trung tâm này có số lượng các
phương tiện giao thông đến đăng kiểm rất đông và luôn trong tình trạng
quá tải.
Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D tại Đồng Nai là một
trong 9 trung tâm đăng kiểm tư nhân đầu tiên của cả nước được Cục
Đăng kiểm Việt Nam cho phép hoạt động sau khi thí điểm xã hội hóa
lĩnh vực này. Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D được thành lập và
đi vào hoạt động từ ngày 08 tháng 03 năm 2007 theo giấy chứng nhận
số 91/GNN của Cục Đăng kiểm Việt Nam cấp ngày 28/02/2007. Trung
tâm có tổng diện tích 7.300m2 nằm trong Khu Công nghiệp Biên Hoà 2
- tỉnh Đồng Nai do Công ty TNHH Quốc Tuấn đầu tư, được trang bị dây
chuyền thiết bị kiểm định xe du lịch và dây chuyền kiểm định xe tải do
CHLB Đức sản xuất có khả năng kiểm tra 90 phương tiện/ngày tức là
khoảng 12.000-24.000 xe/năm. Với đội ngũ đăng kiểm viên đều là kỹ sư
chuyên ngành và nhân viên nghiệp vụ được Cục Đăng kiểm Việt Nam
đào tạo theo đúng quy trình và được cấp giấy chứng nhận Đăng kiểm
viên hạng 3.
Trung tâm đăng kiểm gồm có 2 chuyền kiểm định, mỗi ngày
tiếp nhận hơn 100 xe cơ giới các loại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và các
tỉnh lân cận. Ngay trong năm đầu thành lập, Trung tâm đã đạt doanh số
là 1 tỷ 480 triệu đồng, số lượng xe kiểm định là 9.301 xe các loại. Năm
2010 doanh số đạt 3 tỷ 200 triệu đồng, số lượng xe kiểm định tại đây
tăng lên là 19.696 xe các loại.
Mặc dù Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới 6004D đã nghiêm
chỉnh chấp hành, khắc phục ngay những sai phạm, lãnh đạo Công ty Cổ
phần ô tô Quốc Tuấn cũng đã yêu cầu các cán bộ có liên quan viết bản
kiểm điểm và đề xuất hình thức kỷ luật nhưng thực trạng này cho thấy
những bất cập xảy ra đối với việc xã hội hóa công tác đăng kiểm khi
thiếu cơ chế và hoạt động kiểm soát chưa được thực hiện một cách
nghiêm túc.
1.3.2. Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới tại Nam Định
Trong nhiều năm, trên địa bàn toàn tỉnh Nam Định chỉ có duy
nhất Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định số 1801S
thuộc Sở Giao thông vận tải Nam Định thực hiện việc đăng kiểm đối với
các phương tiện Giao thông vận tải đường bộ, vì vậy tần suất và số
lượng phương tiện tham gia đăng kiểm tại Trung tâm rất cao, không đáp
13
ứng được những yêu cầu của công tác đăng kiểm phương tiện hiện nay
trên địa bàn.
Nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm định phương tiện cơ giới đường bộ
ngày càng tăng trong những năm tới, giảm tải cho Trung tâm Đăng kiểm
phương tiện giao thông Nam Định 1801S, thực hiện chủ trương xã hội
hóa công tác đăng kiểm của Bộ Giao thong Vận tải đến năm 2015, ngày
23/10/2013, UBND tỉnh Nam Định đã ban hành Quyết định số
1717/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch xây dựng các trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới trên địa bàn tỉnh Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030. Theo đó, trên toàn tỉnh sẽ xây dựng ba trung tâm đăng kiểm.
Trung tâm 1802D do Công ty Điện Thông đầu tư đã hoàn thiện
thiết kế, ký hợp đồng mua thiết bị và đã khởi công trong tháng 4/2014.
Trung tâm 1803D do Công ty Cổ phần Đạt Thành đầu tư tại xã Hải
Thanh, Hải Hậu, Nam Định, đã xây dựng xong nhà điều hành và văn
phòng trung tâm, đã ký hợp đồng mua thiết bị, trong tháng 5/2014 bắt
đầu lắp đặt thiết bị và đi vào hoạt động từ năm 2015.
Để đạt chất lượng cao trong công tác kiểm định, phòng ngừa
tiêu cực, góp phần kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông, Sở Giao
thông vận tải Nam Định đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo, giám sát các
trung tâm bảo đảm thực hiện tốt mọi quy định, không vì lợi nhuận mà
bất chấp quy tắc, bỏ qua bất cứ khâu nào trong kiểm định. Sở Giao
thông vận tải phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức kiểm tra Trung
tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định và các trung tâm
đăng kiểm xã hội hóa (khi đi vào hoạt động) để kịp thời phát hiện và xử
lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH NINH THUẬN
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH NINH THUẬN
Tỉnh Ninh Thuận nằm ở cực Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý
thuận lợi, nằm ở điểm giao tiếp của 3 vùng kinh tế lớn: Nam Tây
Nguyên, Nam Trung Bộ và gần với Miền Đông Nam Bộ giao lưu dễ
dàng với các thành phố trung tâm lớn của khu vực như thành phố: Nha
Trang, Đà Lạt, Phan Thiết, Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh.
Tính đến 31/12/2016, dân số toàn tỉnh là 601.300 người, mật độ
dân số là 179 người/ km2, bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau
14
cùng chung sống . Thành phần dân cư của Ninh Thuận gồm 7 dân tộc
chính là dân tộc Kinh chiếm 78%, dân tộc Chăm chiếm 11,3%, dân tộc
Ra-glai chiếm 9.4%, dân tộc Hoa chiếm 0,49%, còn lại là các dân tộc
khác; Ngoài ra tỉnh Ninh Thuận còn là tỉnh có dân tộc Chăm tập trung
sinh sống cao nhất nước với 67.500 người.
Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày
04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh: ”Sở là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thực
hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà
nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy định của pháp luật và
theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”;
Theo quy định của Quyết định số 962/2010/QĐ-UBND ngày
17/5/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giao thông vận tải,
quy định:”Sở Giao thông vận tải là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
tỉnh quản lý nhà nước về kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường đối với phương tiện giao thông đường bộ theo quy định của
pháp luật và phân cấp của Bộ Giao thông vận tải”.
Như vậy, lĩnh vực đăng kiểm xe cơ giới đường bộ thuộc chức
năng quản lý nhà nước của Sở Giao thông vận tải.
2.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI
ĐƯỜNG BỘ TẠI TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm đăng kiểm xe cơ
giới đường bộ Ninh Thuận
Theo Quyết định số 968/QĐ-UBND xác định rõ Trung tâm
Đăng kiểm 85.01S là đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần
chi phí hoạt động. Trung tâm Đăng kiểm có tư cách pháp nhân, có trụ
sở, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để
hoạt động theo quy định của pháp luật.
Trung tâm đăng kiểm 85.01S có địa chỉ tại Thôn Bình Quý -
Thị trấn Phước Dân, Huyện Ninh Phước- Tỉnh Ninh Thuận. Đây là
đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận.
Tính đến thời điểm 31/12/2016, Trung tâm đăng kiểm 85.01S là đơn vị
duy nhất trên địa bàn tình Ninh Thuận cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe
cơ giới đường bộ.
15
Theo Quyết định này, Trung tâm đăng kiểm có chức năng tổ
chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo
vệ môi trường đối với các loại phương tiện: phương tiện vận tải cơ giới
đường bộ, phương tiện vận tải đường thuỷ nội địa, xe máy chuyên dùng
thi công công trình giao thông và xe máy tự chế theo quy định phân cấp
của Bộ Giao thông vận tải, cụ thể:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển, kế hoạch
đăng kiểm các phương tiện vận tải cơ giới dài hạn, trung hạn và hàng
năm phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và ngành
Giao thông vận tải.
+ Tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng, an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới.
+ Tổ chức công tác tư vấn về kỹ thuật phương tiện cơ giới (thiết
kế hoán cải phương tiện cơ giới) và nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào công tác đăng kiểm.
+ Tham gia thành viên hội đồng kiểm tra chất lượng an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường các xe cơ giới cải tạo được phân cấp; giám
định tình trạng kỹ thuật phương tiện vận tải cơ giới theo yêu cầu của cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế và của các chủ phương tiện cơ giới.
+ Kiểm tra, nghiệm thu và cấp Giấy chứng nhận An toàn kỹ
thuật và Bảo vệ môi trường xe cơ giới cải tạo thùng hàng, lắp ráp khung
mui trên ô tô tải theo thiết kế do Cục Đăng kiểm Việt Nam ban hành.
+ Quản lý tài chính, tài sản và công tác thu phí, lệ phí đăng
kiểm theo quy định của cơ quan Nhà nước và của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật của Nhà nước
đã trang bị nhằm duy trì, phát triển và nâng cao hiệu quả chất lượng
công tác đăng kiểm.
+ Quản lý cán bộ, viên chức của Trung tâm theo quy định của
pháp luật và của Ủy ban nhân dân tỉnh.
+ Thực hiện chế độ thông tin định kỳ hoặc đột xuất; báo cáo
thống kê, sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả công tác của Trung tâm theo
quy định của pháp luật về đăng kiểm.
+ Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Giao thông vận
tải giao.
Cơ cấu tổ chức của Trung tâm bao gồm 02 phòng chuyên môn
là phòng kỹ thuật đăng kiểm và phòng hành chính-tổng hợp.
16
Tổng số cán bộ, nhân viên của Trung tâm gồm 21 người, trong
đó có 8 đăng kiểm viên hạng 3 và 5 nhân viên nghiệp vụ đáp ứng các
tiêu chuẩn về nhân lực theo quy định.
2.2.2. Kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
Trong những năm qua, Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ Ninh Thuận đã thực hiện tốt nhiệm vụ đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ được giao. Số lượng các phương tiện được
đăng kiểm tại Trung tâm trong giai đoạn 2011-2016 đạt 50.778 phương
tiện, trong đó chủ yếu là xe ô tô 9 ghế trở xuống (17.092 phương tiện,
chiếm 33,7%), ô tô tải đến dưới 2 tấn (11.968 phương tiện, chiếm
24,6%) và ô tô tải từ 2 đến 7 tấn (9.609 phương tiện, chiếm 18,9%)[42].
Về kinh phí thu được từ công tác đăng kiểm: việc thu phí đăng
kiểm tại Trung tâm đăng kiểm Ninh Thuận hiện nay được thực hiện theo
tuân thủ các quy định hiện hành của nhà nước tại Thông tư số
102/2008/TT-BTC ngày 11/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Về cơ
bản, mức thu này khó có thể bảo đảm cho Trung tâm hoạt động nếu
không có sự hỗ trợ của Nhà nước.
2.3. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN
2.3.1. Những ưu điểm
- Đảm bảo chất lượng phương tiện tham gia giao thông đường
bộ theo đúng quy định, qua đó góp phần quan trọng vào việc bảo đảm
an toàn giao thông đường bộ và bảo vệ môi trường.
- Thực hiện Đề án "Nâng cao chất lượng dịch vụ và chống tiêu
cực trong công tác đăng kiểm", Trung tâm Đăng kiểm phương tiện
Giao thông vận tải tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua đã tạo thuận
lợi tối đa cho người đưa phương tiện đến kiểm định.
- Các đăng kiểm viên của Trung tâm phần lớn là những người
có những kiến thức và kinh nghiệm chuyên sâu, có khả năng làm việc
độc lập, phải có tính cần mẫn, trung thực, quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, đồng thời có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện đăng kiểm.
- Cơ sở vật chất của Trung tâm được đầu tư đầy đủ, đồng bộ,
đáp ứng được nhu cầu kiểm định phương tiện Giao thông vận tải trên
địa bàn và một số tỉnh lân cận.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Thứ nhất, tình trạng quá tải đăng kiểm diễn ra phổ biến;
Thứ hai, việc đầu tư trang thiết bị rất chậm và thiếu đồng bộ;
17
Thứ ba, chất lượng một số đăng kiểm viên chưa đáp ứng yêu
cầu cả về năng lực chuyên môn và phẩm chất;
Bên cạnh đó, mặc dù đã có những cố gắng nhất định trong quản
lý và kiểm soát, nhưng hiện tượng tiêu cực vẫn còn xảy ra trong công
tác đăng kiểm. Việc nhận tiền hối lộ của chủ phương tiện để giảm nhẹ
hoặc cho qua những yêu cầu kiểm tra là một căn bệnh cần phải có nhiều
biện pháp xử lý, kể cả biện pháp đổi mới mô hình tổ chức.
Còn có tình trạng các chủ xe tháo bỏ ghế, thùng bệ chở hàng;
mượn các bộ phận của xe khác (như lốp, còi, đèn, thùng bệ...) để vào
kiểm định cho đạt yêu cầu. Sau khi kiểm định xong và được cấp phép
lưu hành thì chủ xe lại lắp các thiết bị, phụ tùng không đủ tiêu chuẩn
vào để lưu hành dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn
giao thông nghiêm trọng. Đây là một vấn đề nhức nhối hiện nay vẫn
chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế
Thứ nhất, một số văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng
dẫn trong lĩnh vực kiểm định xe cơ giới chưa thật sự hoàn chỉnh, chưa
nhất quán, chưa theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thực
tế. Trong giai đoạn hiện nay, cả nước đang quyết liệt xử lý xe quá tải,
dẫn tới tình trạng xe có giấy Chứng nhận kiểm định ghi rõ khối lượng
được phép chở tối đa nhưng vẫn không thể chở đủ tải ngay cả khi lưu
hành trên tuyến quốc lộ vì nếu chở đúng theo giấy Chứng nhận kiểm
định cũng vẫn bị quá tải. Điều đó dẫn đến sự thắc mắc, bức xúc của
người dân. Tất cả những vướng mắc trên đều chưa được giải quyết dẫn
đến khó khăn cho các đăng kiểm viên khi làm nhiệm vụ.
Thứ hai, số lượng xe cơ giới cần đăng kiểm quá nhiều dẫn tới
tình trạng quá tải: đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các hiện tượng
tiêu cực trong đăng kiểm tại Ninh Thuận.
Thứ ba, nhiều lái xe, chủ phương tiện chưa ý thức được tầm
quan trọng của việc nâng cao chất lượng phương tiện, ít chú ý đến việc
bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện trước khi đi kiểm định do đó phần lớn
vẫn coi việc kiểm định phương tiện là một hình thức bắt buộc để có
được giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cùng với
tem kiểm định.
Thứ tư, chất lượng nhân sự đăng kiểm chưa đảm bảo cả về năng
lực chuyên môn và phẩm chất. Yếu tố con người trong công tác đăng
kiểm là quan trọng nhất, cần tập trung cho công tác chăm lo, đào tạo đội
18
ngũ cán bộ nhân viên, đặc biệt là đăng kiểm viên đảm bảo đáp ứng yêu
cầu công việc.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI XÃ HỘI HÓA
CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI Ở NINH THUẬN
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC
ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI TẠI NINH THUẬN
Xu hướng xã hội hóa sẽ được tiếp tục triển khai trong những
năm tới đây cùng với việc triển khai Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ công.
Cùng với sự phục hồi kinh tế trong năm 2015 và 2016, mặc dù
mức độ tăng trưởng còn hạn chế nhưng trong những năm tới GDP bình
quân đầu người sẽ đạt mức tăng manh mẽ và khả năng tiêu dùng của
người dân sẽ còn tăng cao, nhu cầu và khả năng mua xe cơ giới, nhất là
ô tô sẽ tiếp tục tăng.
Với tốc độ gia tăng GDP như vậy và đặc điểm của thời kỳ đang
phát triển, dự báo trong tương lai gần, số lượng phương tiện giao thông
cơ giới cá nhân (cả xe gắn máy và xe ô tô cá nhân cũng như xe chuyên
dụng phục vụ vận tải hành khách và hàng hóa) sẽ gia tăng mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng ở các vùng miền khác nhau
cũng không giống nhau nên tốc độ gia tăng các phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ cũng không giống nhau, sẽ có ảnh hưởng nhất định tới
sự phân bổ các trung tâm đăng kiểm và số lượng các dây chuyền kiểm
định xe cơ giới.
Cùng với việc tăng trưởng số phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ, số lượng các vụ tai nạm giao thông liên quan tới ô tô, đặc biệt
là đối với xe vận tải và xe khách, cũng sẽ tăng lên đáng kể, đòi hỏi phải
thực hiện công tác kiểm định an toàn xe một cách nghiêm ngặt để đảm
bảo các phương tiện an toàn khi tham gia giao thông.
Sự gia tăng đột biến về số lượng các phương tiện Giao thông
vận tải cơ giới đường bộ đặt ra yêu cầu phải tăng cường số lượng kiểm
định. Nếu như năm 2016 số lượng các phương tiện tham gia kiểm định
chỉ đạt 7.473 phương tiện thì dự báo năm 2020 sẽ tang lên gần 12.000
phương tiện và năm 2030 là 25.000 phương tiện. Với quy mô này, chỉ
với một trung tâm đăng kiểm ở Ninh Thuận như hiện nay chắc chắn
không thể đảm nhiệm tốt công tác đăng kiểm.
19
Sự quá tải của Trung tâm đăng kiểm duy nhất ở tỉnh Ninh
Thuận hiện nay là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới chất lượng đăng kiểm
xe cơ giới trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chưa đáp ứng yêu cầu. Thời
gian chờ đợi đăng kiểm lâu không chỉ khiến cho chủ phương tiện không
hài lòng, làm tăng chi phí xã hội, lãng phí thời gian mà còn tạo kẽ hở
làm nảy sinh các tiêu cực trong đội ngũ đăng kiểm viên, gây phiền hà
cho các chủ phương tiện tới đăng kiểm. Chính vì vậy, việc triển khai
thêm một trạm đăng kiểm xe cơ giới nữa trên địa bàn tỉnh là cần thiết,
phù hợp với Quy hoạch phát triển các trung tâm đăng kiểm của Bộ Giao
thông vận tải, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của địa phương cũng như
nâng cao mức độ hài lòng của người sử dụng phương tiện trên địa bàn
tỉnh và các tỉnh lân cận.
Tuy nhiên, việc đầu tư cho trạm đăng kiểm cần khá nhiều chi
phí (khoảng 20 tỷ đồng đầu tư ban đầu cho một trung tâm với 2 dây
chuyền đăng kiểm, chưa kể đầu tư con người và mặt bằng đăng kiểm)
trong khi ngân sách của tỉnh còn rất hạn chế nên nếu đầu tư từ ngân sách
nhà nước đòi hỏi thời gian chờ đợi rất lâu, không đáp ứng các yêu cầu
hiện tại của việc phát triển đăng kiểm trên địa bàn.
Trung tâm mới được triển khai dưới hình thức xã hội hóa cũng
phù hợp với xu hướng chung của tiến trình xã hội hóa dịch vụ công ở
Việt Nam và định hướng phát triển công tác đăng kiểm trong tương lai.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA ĐĂNG
KIỂM XE CƠ GIỚI Ở TỈNH NINH THUẬN
3.2.1. Các yêu cầu đặt ra đối với việc triển khai Trung tâm
đăng kiểm xe cơ giới ở tỉnh Ninh Thuận theo hình thức xã hội hóa
- Rút ngắn được thời gian đăng kiểm
- Không làm tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước
- Đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng đăng kiểm
- Tăng mức độ hài lòng của chủ phương tiện khi đến đăng kiểm.
3.2.2. Lựa chọn mô hình tổ chức hoạt động
Trong hai mô hình đăng kiểm xã hội hóa chủ yếu (mô hình xã
hội hóa toàn bộ và mô hình nhà đầu tư tư nhân đầu tư trang thiết bị và
nhân viên, điều hành thuộc nhà nước), việc đầu tư theo mô hình thứ hai
có nhiều ưu thế hơn đối với Ninh Thuận, đặc biệt là ở giai đoạn đầu tiên
vì việc kiểm soát đối với các trung tâm được xã hội hóa với đăng kiểm
viên là người do chính trung tâm hợp đồng sẽ rất khó kiểm soát chất
lượng và do đó dễ dẫn tới tiêu cực. Trong giai đoạn tiếp theo có thể
chuyển đổi mô hình này theo hướng giao biên chế cho Trung tâm trực
20
tiếp tuyển dụng nếu như ý thức chấp hành pháp luật và tính tự giác của
đội ngũ lãnh đạo và nhân viên đăng kiểm nói chung được nâng lên.
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực
Chất lượng hoạt động của các trung tâm đăng kiểm phụ thuộc
phần lớn vào chất lượng nhân lực đăng kiểm, đặc biệt là các đăng kiểm
viên. Các đăng kiểm viên phải được tuyển dụng từ những người đã được
đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và phải được bồi dưỡng theo các quy
định cụ thể của Cục Đăng kiểm Việt Nam. Do công tác đăng kiểm là
một hoạt động đặc thù nên việc đào tạo các đăng kiểm viên được thực
hiện trực tiếp tại Cục Đăng kiểm Việt Nam. Ngay cả lực lượng đăng
kiểm viên đang hoạt động cũng phải được kiểm tra sát hạch lại định kỳ
để đáp ứng được các đòi hỏi thực tiễn của công tác đăng kiểm. Thực
tiễn cho thấy không phải đăng kiểm viên nào cũng đáp ứng được các đòi
hỏi của thực tiễn đăng kiểm. Theo thống kê của Trung tâm đào tạo (Cục
Đăng kiểm Việt Nam), chỉ trong năm 2016 đã có 77 đăng kiểm viên của
48 đơn vị bị xử lý vi phạm. Vì vậy, sát hạch kiểm chuẩn hàng năm là
thực sự cần thiết.
Việc triển khai trung tâm đăng kiểm mới tại Ninh Thuận theo
hình thức xã hội hóa một phần với lực lượng đăng kiểm viên là viên
chức nhà nước nằm dưới sự quản lý của Sở Giao thông vận tải như đề
xuất ở trên về mô hình trung tâm đăng kiểm đòi hỏi phải tăng biên chế
đăng kiểm viên của Sở Giao thông vận tải. Điều này đòi hỏi phải có sự
ủng hộ mạnh mẽ của HĐND và UBND tỉnh. Các đăng kiểm viên được
tuyển dụng phải đáp ứng được các yêu cầu và phải được giám sát
thường xuyên về chuyên môn của Cục Đăng kiểm Việt Nam và Sở Giao
thông vận tải tỉnh.
3.2.4. Huy động vốn cho việc xây dựng và hoạt động của
trung tâm đăng kiểm
Một trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đòi hỏi những yêu cầu
nghiêm ngặt về kỹ thuật và công nghệ nên cần một khoản đầu tư vốn
lớn và dài hạn. Về cơ bản, cơ sở vật chất kỹ thuật (mặt bằng, diện tích
xây dựng; nhà xưởng, bãi đỗ xe; thiết bị kiểm định; dụng cụ kiểm tra
trong dây chuyền kiểm định; thiết bị thông tin, lưu trữ và truyền số liệu;
các thiết bị phụ trợ khác và chi phí nguồn nhân lực) đối với một Trung
tâm đăng kiểm xe cơ giới phải bảo đảm thực hiện theo đúng quy định.
Một trong những yếu tố cơ bản có ảnh hưởng mạnh mẽ tới chất
lượng công tác kiểm định là mặt bằng của đơn vị kiểm định. Diện tích
mặt bằng của Trung tâm đăng kiểm cần đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn
bao gồm nhà kiểm định, sân bãi đỗ xe chờ đăng kiểm, văn phòng, nhà
21
chờ, đường đi lại, Như vậy cần có mặt bằng tương đối rộng để xây
dựng một trung tâm mới.
Theo tính toán của Cục Đăng kiểm Việt Nam, kinh phí để triển
khai đầu tư mới một dây chuyền kiểm định xe cơ giới hết khoảng 2,5-3
tỷ đồng và đầu tư xây dựng nhà xưởng, bãi đỗ xe, nhà văn phòng và các
trang thiết bị khác khoảng 2,3 tỷ đồng/trung tâm.
Với kinh phí như vậy, chờ đợi nguồn đầu tư từ ngân sách nhà
nước (cả nguồn từ trung ương và của tỉnh) trong bối cảnh ngân sách
hiện nay là rất khó khan. Tuy nhiên, việc huy động vốn từ khu vực tư
nhân có thể thực hiện được do trên địa bàn tỉnh có khá nhiều doanh
nghiệp lớn với mong muốn đầu tư xây dựng và phát triển tỉnh.
3.2.5. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các trung tâm
đăng kiểm xã hội hóa
Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng
dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Phân cấp quản lý việc cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ
Thực hiện chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát hoạt động
cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nhằm bảo đảm mục
tiêu của Nhà nước
Tạo lập môi trường, cơ chế phản hồi của khách hàng về chất
lượng và giá thành kiểm định xe cơ giới trung tâm đăng kiểm tư nhân.
Ban hành các cơ chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện,
nâng cao chất lượng dịch vụ.
Xác định ranh giới giữa khu vực công và khu vực tư trong cung
ứng dịch vụ công.
Quản lý chất lượng và phí dịch vụ.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Đối với Chính phủ
Sớm phê duyệt danh mục, phương án chuyển đổi đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành công ty cổ phần để làm cơ sở cho các địa phương
triển khai xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ bảo đảm
thống nhất.
3.3.1. Đối với Bộ GTVT và Cục Đăng kiểm Việt Nam
- Nhanh chóng rà soát và hoàn thiện khung pháp lý cho việc xã
hội hóa kiểm định xe cơ giới; chuyển các trung tâm đăng kiểm xe cơ
giới hiện nay đang thuộc Cục và cả các trung tâm thuộc các Sở Giao
thông vận tải sang mô hình xã hội hóa nhằm tách biệt hoạt động quản lý
nhà nước đối với đăng kiểm và công tác đăng kiểm.
22
- Sửa đổi quy định về phí kiểm định theo hướng tăng phí kiểm
định cho phù hợp với điều kiện thực tế. Việc quy định phí đăng kiểm xe
cơ giới quá thấp hiện nay (240.000đ/xe ô tô cá nhân 5 chỗ ngồi) khiến
cho khả năng lợi nhuận của các trung tâm đăng kiểm hầu như không có
nếu không nói là sẽ thua lỗ và vì vậy khó có thể thu hút được các nhà
đầu tư tư nhân. Như vậy, không nên khống chế trần phí đăng kiểm. Có
thể cho phép các trung tâm kiểm định xe cơ giới được xây dựng theo
hình thức xã hội hóa áp dụng cơ chế phí mềm dẻo. Tuy nhiên, để tránh
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới việc hạ hoặc tăng giá
thành đăng kiểm một cách tùy tiện, cần tăng cường sự kiểm soát về chất
lượng từ phía Sở Giao thông vận tải đối với công tác đăng kiểm, nhất là
với Trung tâm được tổ chức theo hình thức xã hội hóa.
- Hỗ trợ các trung tâm mới thành lập trong việc đào tạo nguồn
nhân lực để đảm bảo chất lượng nhân lực đáp ứng các yêu cầu của công
tác kiểm định theo các quy định hiện hành.
- Tăng cường kiểm soát đối với các trung tâm đăng kiểm, đặc
biệt là các trung tâm đang được xã hội hóa để đảm bảo chất lượng đăng
kiểm thống nhất trên cả nước.
3.3.2. Đối với UBND tỉnh Ninh Thuận
Trước hết UBND tỉnh cần ban hành Quy hoạch phát triển đăng
kiểm trên địa bàn tỉnh phù hợp với Quy hoạch phát triển đăng kiểm của
Bộ Giao thông vận tải làm căn cứ để triển khai huy động các đơn vị có
mong muốn tham gia vào hoạt động này.
Để thu hút các doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động
xã hội hóa, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa cụ thể.
Trước hết, để xây dựng trung tâm đăng kiểm xe cơ giới mới, cần có sự
hỗ trợ trực tiếp của UBND tỉnh trong việc tạo điều kiện về mặt bằng (bố
trí cho thuê dài hạn hoặc cấp đất để xây dựng trung tâm; hỗ trợ giải
phóng mặt bằng); hỗ trợ việc vay vốn; chuẩn y về việc bổ sung biên chế
cho trung tâm mới nếu áp dụng mô hình doanh nghiệp đầu tư vốn xây
dựng cơ sở vật chất và Nhà nước chịu trách nhiệm về tổ chức và bố trí
nhân sự,
3.3.3. Đối với Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận
Là cơ quan trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với
Trung tâm đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, Sở Giao thông vận tải phải trực
tiếp việc kiểm soát việc tuân thủ pháp luật về đăng kiểm đối với trung
tâm đăng kiểm mới. Cần xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể và mức độ
kiểm soát giữa Cục Đăng kiểm Việt Nam, Sở Giao thông vận tải và
Trung tâm đăng kiểm.
23
Thực hiện việc hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại và sát hạch hàng năm
đối với các đăng kiểm viên.
KẾT LUẬN
Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ là một hoạt động quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ, bảo đảm
an toàn kỹ thuật cho các phương tiện giao thông và bảo vệ môi trường.
Chính vì vậy, công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ cần
được thực hiện dưới sự giám sát trực tiếp của các cơ quan nhà nước.
Trong những năm qua, công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới
đã đạt được nhiều thành công nhất định, góp phần quan trọng vào việc
tăng cường chất lượng kiểm định, giảm thời gian, chi phí và phiền hà
cho các chủ phương tiện cần kiểm định. Một trong những nỗ lực nhằm
nâng cao chất lượng kiểm định, giảm gánh nặng của Nhà nước là xã hội
hóa hoạt động kiểm định xe cơ giới đã được Bộ Giao thông vận tải tiến
hành thí điểm từ năm 2010 và cho tới nay đã được chứng minh là mang
lại những hiệu quả thiết thực. Chính vì vậy, tăng cường xã hội hóa theo
hướng tách biệt công tác đăng kiểm với hoạt động quản lý nhà nước về
đăng kiểm sẽ được tiếp tục triển khai trong thời gian tới.
Ninh Thuận là một tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế-xã hội khá
nhanh và bền vững. Tỉnh lại nằm trên trục quốc lộ hành lang Bắc-Nam,
là một đầu mối giao thông quan trọng, do đó, số lượng các phương tiện
đăng kiểm sẽ gia tăng nhanh chóng trong thời gian tới. trong khi đó,
công tác đăng kiểm hiện nay do một trung tâm đăng kiểm phương tiện
giao thông duy nhất triển khai nên việc đăng kiểm trở nên quá tải, gây
nên sự chờ đợi, làm giảm mức độ hài lòng của lái xe và chủ phương tiện
khi tới đăng kiểm. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh các
tiêu cực trong công tác đăng kiểm. Chính vì vậy, việc xã hội hóa công
tác đăng kiểm ở Ninh Thuận là một yêu cầu cấp bách và khách quan.
Việc xã hội hóa công tác đăng kiểm ở Ninh Thuận trong điều
kiện hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đăng kiểm trên
địa bàn tỉnh, góp phần quan trọng vào việc giảm tải cho trung tâm
đăng kiểm hiện có, đồng thời tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh góp
phần vào việc nâng cao chất lượng đăng kiểm trên địa bàn tỉnh. Vì
vậy, cần phải nghiên cứu cụ thể để triển khai xã hội hóa trung tâm
này trong tương lai gần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_xa_hoi_hoa_cong_tac_dang_kiem_xe_co_gioi_du.pdf