Thẩm phán là những người thay mặt cho Nhà nước sử dụng quyền lực nhà
nước để đưa ra các phán quyết nhằm giải quyết sự tranh chấp giữa các bên hoặc phán
quyết việc áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong
các vụ án thuộc thẩm quyền, đảm bảo sự tôn trọng và thực thi pháp luật trong đời
sống xã hội, đảm bảo bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng bị xử lý: “không để
lọt tội phạm” và “không xử oan người vô tội”.
Hiện nay, theo quy định của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam
thì nhiệm kỳ của một Thẩm phán thường được quy định trong một khoảng thời
gian nhất định. Ở Việt Nam nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm, Hàn Quốc nhiệm
kỳ của Thẩm phán là 10 năm. Tuy nhiên, cũng có nhiều nước nhiệm kỳ của Thẩm
phán là không thời hạn họ chỉ bị miễn nhiệm khi vi phạm các quy định của pháp
luật ví dụ ở Úc Thẩm phán toà án liên bang được bổ nhiệm cho tới khi họ 70 tuổi
(đến khi nghỉ hưu).
18 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2245 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Xây dựng ý thức pháp luật của thẩm phán trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THANH BÌNH
X¢Y DùNG ý THøC PH¸P LUËT CñA THÈM PH¸N
TRONG BèI C¶NH C¶I C¸CH T¦ PH¸P ë N¦íC TA HIÖN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Thanh Bình
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA
THẨM PHÁN ................................................................................... 13
1.1. Nhận thức cơ bản về Thẩm phán .................................................... 13
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán ........................................................................ 13
1.1.2. Đặc điểm của Thẩm phán ................................................................... 13
1.1.3. Vị trí, vai trò của Thẩm phán ............. Error! Bookmark not defined.
1.1.4. Điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán Error! Bookmark not defined.
1.1.5. Phân loại Thẩm phán .......................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Ý thức pháp luật và ý thức pháp luật của Thẩm phánError! Bookmark not defined.
1.2.1. Khái niệm cơ bản về ý thức pháp luật Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Cơ cấu của ý thức pháp luật ............... Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Ý thức pháp luật của Thẩm phán ....... Error! Bookmark not defined.
1.2.4. Các yếu tố tác động đến ý thức pháp luật của Thẩm phánError! Bookmark not defined.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA THẨM
PHÁN Ở NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAYError! Bookmark not defined.
2.1. Thực trạng về số lƣợng, chất lƣợng của Thẩm phán và tình
hình xét xử trong thời gian qua ...... Error! Bookmark not defined.
2.2. Công tác quy hoạch, tuyển dụng và bổ nhiệm Thẩm phánError! Bookmark not defined.
2.3. Công tác đào tạo, bồi dƣỡng Thẩm phánError! Bookmark not defined.
2.4. Cơ chế kiểm tra giám sát Thẩm phánError! Bookmark not defined.
2.5. Chế độ chính sách đối với Thẩm phán hiện nayError! Bookmark not defined.
2.6. Ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối cảnh cải cách
tƣ pháp giai đoạn hiện nay ............ Error! Bookmark not defined.
2.6.1. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay...................................... Error! Bookmark not defined.
2.6.2. Một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành Toà án trong xây dựng ý
thức pháp luật của Thẩm phán đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp......................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG Ý
THỨC PHÁP LUẬT CỦA THẨM PHÁN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY ........................... Error! Bookmark not defined.
3.1. Quan điểm về xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán
trong bối cảnh cải cách tƣ pháp hiện nayError! Bookmark not defined.
3.2. Một số giải pháp xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán
trong bối cảnh cải cách tƣ pháp hiện nayError! Bookmark not defined.
3.2.1. Đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm Thẩm phánError! Bookmark not defined.
3.2.2. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phánError! Bookmark not defined.
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sátError! Bookmark not defined.
3.2.4. Quan tâm đến các chế độ chính sách đãi ngộ đối với Thẩm
phán, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho các Thẩm phán
làm việc .............................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 15
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam á
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
NQ-TW: Nghị quyết Trung ương
PLTP&HTND: Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
TAND: Toà án nhân dân
TANDTC: Toà án nhân dân tối cao
TTLT-TANDTC-BQP-
BNV-UBTWMTTQVN: Thông tư liên tịch – Tòa án nhân dân Tối cao
– Bộ nội vụ - Ủy ban Trung ương mặt trận tổ
quốc Việt Nam
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
WTO: Tổ chức thương mại quốc tế
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức pháp luật và xây dựng ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý, hình
thành lối sống, làm việc theo pháp luật là một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với
mọi người dân nói chung và Thẩm phán nói riêng trong bối cảnh cải cách công
tác tư pháp ở nước ta hiện nay. Ngoài các tiêu chí như hệ thống pháp luật phải
đầy đủ, pháp luật phải nhân đạo, vì con người thì yêu cầu xây dựng ý thức
pháp luật đối với mọi tầng lớp nhân dân nói chung và Thẩm phán nói riêng là
một nội dung quan trọng. Điều này không chỉ góp phần khắc phục những tiêu
cực của xã hội do ý thức pháp luật kém gây ra, mà còn góp phần quan trọng
trong việc xây dựng một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
Đất nước ta đã trải nhiều thời kì bị xâm lược, từ ngàn năm Bắc thuộc tới các
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong quá trình cai trị, các nước đã
đưa pháp luật phản động vào nước ta nhằm phục vụ mục đích cai trị và nô dịch; do
vậy, hình thành nên ý thức chống đối hoặc thờ ơ với pháp luật trong nhân dân nói
chung và một số bộ phận làm công tác pháp luật nói riêng, ý thức hệ ấy còn tồn tại
trong một bộ phận không nhỏ nhân dân hiện nay và là rào cản trong quá trình đưa
các chủ trương, chính sách pháp luật vào cuộc sống. Hơn thế, trình độ dân trí nước
ta còn thấp nên để hiểu pháp luật và thi hành pháp luật là những thách thức lớn.
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng về kinh tế-xã hội, an ninh
chính trị được giữ vững, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện và phát triển;
bộ máy nhà nước hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, đóng góp tích cực vào công
cuộc đổi mới của đất nước. Nhờ có sự đổi mới về kinh tế và quyết tâm thực hiện
công cuộc cải cách hành chính mà Việt Nam đang là nước có nền kinh tế tăng
trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới; cơ sở vật chất được tăng cường, đời
sống chính trị - xã hội ổn định, quan hệ quốc tế được mở rộng. Tuy nhiên, khi nền
kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị trường cùng với các yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế thì ngày càng có nhiều vụ việc phức tạp, các loại án hình sự ngày
càng tinh vi, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày lớn, các vụ án dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh tế, thương mại, lao động... ngày càng gia tăng về cả số lượng và
sự phức tạp, đặc biệt khi nó xuất hiện yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, giá trị
lợi ích vật chất trong các vụ án ngày càng lớn. Do đó, để đưa ra được phán quyết
thấu tình đạt lý, phù hợp với thông lệ, tập quán pháp luật quốc tế đòi hỏi Thẩm
phán phải tâm huyết với nghề, không ngừng học tập nâng cao trình độ, chuyên
môn, nghiệp vụ xét xử của mình.
Nghề Thẩm phán là nghề xét xử, mục đích là đưa lại sự công bằng cho xã
hội, đảm bảo sự ổn định, phát triển và mang ý nghĩa xã hội to lớn. Chính vì thế
người Thẩm phán được Visanhsky, một trong những người xây dựng ngành Tư
pháp Nga sau cách mạng tháng Mười khẳng định “Thẩm phán người thầy của cuộc
sống”. Gần 100 năm nay, điều Ông nói vẫn đúng, lời nói đó vượt qua mọi ranh giới
quốc gia và khoảng cách về thời gian.
Thẩm phán với nghề nghiệp xét xử đã và đang thực sự là biểu tượng cho
khát vọng của nhân loại về một sự công bằng cho đới sống xã hội. Vinh quang của
nghề Thẩm phán trước hết phải nói đến là nghề nghiệp mang tính xã hội cao, bởi lẽ
công việc của Thẩm phán luôn liên quan đến nhiều cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Nghề nghiệp xét xử của Thẩm phán liên quan đến số phận, danh dự, uy tín. tài sản,
thậm chí nó quyết định cả tính mạng của con người. Toà án, cụ thể hơn là Thẩm
phán là người đại diện cho quyền lực nhà nước để đưa ra các phán quyết và khi các
phán quyết đó có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội, các cá nhân liên quan đều phải tuân thủ chấp hành.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo
ngành Toà án, Thẩm phán nước ta không ngừng được nâng cao cả về số lượng và
chất lượng, kết quả xét xử của họ đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp
luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đổi mới
toàn diện của đất nước, đặc biệt là đứng trước các yêu cầu, thách thức trong bối
cảnh cải cách công tác tư pháp hiện nay thì Thẩm phán của chúng ta còn nhiều hạn
chế, bất cập, tình trạng “thiếu” về số lượng và “yếu” về chất lượng vẫn còn xảy ra
ở nhiều nơi, nhiều lúc. Một bộ phận không nhỏ Thẩm phán suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
đã làm sai lệch vụ án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong sạch, vững mạnh, có đủ
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và năng lực công tác đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là rất quan trọng, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước và ngành Toà án phải tăng cường chỉ đạo và thực hiện quyết liệt hơn nữa
nhiệm vụ quan trọng này để thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước Việt Nam
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc
sĩ của mình là “Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối cảnh cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, với mong muốn thông qua việc phân tích, đánh
giá thực trạng ý thức pháp luật của Thẩm phán ở nước ta hiện nay để góp phần
phát hiện những bất cập, hạn chế của công tác xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm
phán ở nước ta, tìm ra những nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế đó. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối
cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường hội
nhập kinh tế quốc tế, thì việc xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán phải biết
tuân thủ pháp luật, có phẩm chất đạo đức và đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao,
đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới là rất cần thiết.
Đây là lĩnh vực được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua ở
nước ta đã có một số công trình nghiên cứu quan trọng liên quan đến lĩnh vực này
như: Sổ tay Thẩm phán; Các phẩm chất cơ bản của Thẩm phán của tác giả Đặng Thị
Thanh Nga (Tạp chí Luật học số 5/2002); Kỹ năng giao tiếp của Thẩm phán khi giải
quyết vụ án dân sự; ThS. Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Luật học số 2/2005); Một số suy
nghĩ về những việc Thẩm phán không được làm quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002, Nguyễn Thị Hồng Tươi (Tạp chí Toà án
nhân dân số 1/2003); Một số vấn đề về mô hình nhân cách Thẩm phán, ThS, Bùi Thị
Kim Chi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2005); Những phẩm chất, nhân cách
của Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay, ThS. Đặng Thanh Nga (Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003); Suy nghĩ về những điều
Thẩm phán phải làm, Thẩm phán được làm, chính sách chế độ đối với Thẩm phán,
Nguyễn Hồng Tươi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 5/2002).
Nhìn chung, các bài viết trên của các tác giả được thể hiện ở nhiều cấp độ
nghiên cứu khác nhau, góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yếu dưới dạng các
bài nghiên cứu trên các tạp chí chưa có đề cập một cách có hệ thống về xây dựng ý
thức pháp luật của Thẩm phán để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm ra những luận cứ khoa học và
thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật về ý thức
pháp luật Thẩm phán và công tác xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối
cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ý thức pháp luật của Thẩm phán và
xây dựng ý thức pháp pháp luật của Thẩm phán đáp ứng yêu bối cảnh cải cách
tư pháp.
Đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn diện một số quy định của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002 và các quy định của pháp luật
thực định về tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán.
Đánh giá thực trạng công tác xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán ở
nước ta hiện nay để làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về ý thức pháp luật
và xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán, những yêu cầu, đòi hỏi đối với Thẩm
phán; chỉ ra được những bất cập, hạn chế của công tác xây dựng ý thức pháp luật
của Thẩm phán; làm rõ hơn những yếu tố tích cực, tiêu cực ảnh hưởng đến chất
lượng của Thẩm phán cũng như việc tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm Thẩm phán
ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
“Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối cảnh cải cách tư pháp
ở nước ta hiện nay” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung phong
phú, đa dạng, phức tạp và tương đối “nhạy cảm”. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu
của một luận văn thạc sĩ luật học, dựa trên nền tảng các chức năng, nhiệm vụ của
công tác xây dựng ý thức pháp luật cán bộ, công chức nói chung để nghiên cứu và
tiếp cận các nội dung xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán nói riêng. Tác giả
tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, trọng tâm sau:
Khái niệm, vị trí vai trò quan trọng của Thẩm phán ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới;
Phân tích, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật của Thẩm phán và công
tác xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán ở nước ta hiện nay, qua đó chỉ ra
những bất cập, hạn chế về chất lượng, số lượng của Thẩm phán cũng như những
bất cập trong công tác tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta hiện nay;
Những yêu cầu, đòi hỏi trong công tác xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm
phán trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta. Từ đó đề xuất được một số giải
pháp quan trọng để xây dựng và phát triển Thẩm phán đáp ứng yêu cầu xây dựng
một nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác xây
dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán ở nước ta trong bối cảnh cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
Nội dung quan điểm chỉ đạo công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và công tác
xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán, cán bộ tư pháp trong Nghị quyết 08/NQ-
TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về Thẩm phán, điều kiện, tiêu chuẩn
tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán các văn bản chính sách của Nhà nước về xây
dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng đó là phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp lý luận kết hợp với
thực tiễn.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của đề tài
Đề tài “Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối cảnh cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay” được nghiên cứu để đạt được kết quả sau:
Đây là luận văn được nghiên cứu ở bậc cao học có tính hệ thống, toàn diện
về xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối cảnh cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
Đề tài có tính hệ thống hoá một cách toàn diện những quy định của pháp luật
nước ta về thẩm phán từ năm 1945 đến nay.
Xác định được hiệu quả sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về tiêu chuẩn,
điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, qua đó chỉ ra các điểm hạn chế của
pháp luật thực định về nội dung này, giúp các nhà lập pháp hoàn thiện hơn những quy
định của pháp luật hiện hành, đồng thời giúp cho ngành Toà án thấy được vị trí, vai
trò quan trọng của công tác xây dựng chiến lược đào tạo Thẩm phán cũng như đội ngũ
“nguồn” để tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.
Mặt khác, thông quan việc so sánh, tìm hiểu các quy định của pháp luật một
số nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới như Hàn Quốc, Pháp, Malaixia... về
điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán cũng như kinh nghiệm
xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán, “nguồn” để tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm
phán của họ. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao
chất lượng trong công tác xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong bối cảnh
cải cách tư pháp hiện nay. Đặc biệt là các quy định liên quan đến trách nhiệm của
ngành Toà án trong việc xây dựng kế hoạch chiến lược đào tạo Thẩm phán và
“nguồn” để bổ nhiệm Thẩm phán đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ của công
tác cải cách tư pháp nhằm xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương, 6 mục:
Chương 1: Cơ sở lý luận về ý thức pháp luật của Thẩm phán.
Chương 2: Thưc trạng ý thức pháp luật của Thẩm phán ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp xây dựng ý thức pháp luật của
Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA THẨM PHÁN
1.1. Nhận thức cơ bản về Thẩm phán
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán
Điều 1 PLTP&HTTAND năm 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án” [28, tr.1].
Như vậy, Thẩm phán là những công chức nhà nước được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh tế, thương mại, hành chính, lao động và giải quyết những việc
khác thuộc thẩm quyền của Toà án.
Thẩm phán là những người thay mặt cho Nhà nước sử dụng quyền lực nhà
nước để đưa ra các phán quyết nhằm giải quyết sự tranh chấp giữa các bên hoặc phán
quyết việc áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong
các vụ án thuộc thẩm quyền, đảm bảo sự tôn trọng và thực thi pháp luật trong đời
sống xã hội, đảm bảo bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng bị xử lý: “không để
lọt tội phạm” và “không xử oan người vô tội”.
Hiện nay, theo quy định của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam
thì nhiệm kỳ của một Thẩm phán thường được quy định trong một khoảng thời
gian nhất định. Ở Việt Nam nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm, Hàn Quốc nhiệm
kỳ của Thẩm phán là 10 năm. Tuy nhiên, cũng có nhiều nước nhiệm kỳ của Thẩm
phán là không thời hạn họ chỉ bị miễn nhiệm khi vi phạm các quy định của pháp
luật ví dụ ở Úc Thẩm phán toà án liên bang được bổ nhiệm cho tới khi họ 70 tuổi
(đến khi nghỉ hưu).
1.1.2. Đặc điểm của Thẩm phán
Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề
nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên
môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến
thức uyên thâm trên mọi lĩnh vực bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công lý, cho
lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Do vậy, Thẩm phán có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật
Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, Thẩm phán với vai trò
là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực tế, không
định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi tư vấn tranh luận tại
phiên toà phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ án. Mọi hành vi ép buộc
làm ảnh hưởng tới sự khách quan đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái với
mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là người hết
sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét đứng đắn các bằng chứng thực tế mà mỗi
bên đương sự đưa ra trong quá trình giải quyết vụ án của mình
Thứ hai: Hoạt động xét xử chính là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách
quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ chức và cá
nhân.
Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn bộ
kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng thực tế.
Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người Thẩm phán
phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và nhạy bén tại phiên toà, giai
đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng.
Để không bị cám dỗ trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh tinh thần
của người Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí.
Mục tiêu cuối cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích
mà toàn bộ nhân dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt
lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn
mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng. Chính vì thế hoạt
động xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc Toà án xét xử
công khai, khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân chính là sự giám sát ở
bên trong phiên toà. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán,
cùng Thẩm phán đưa ra quyết định đúng pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII (1996), Nghị quyết Hội nghị lần
thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
nhiệm vụ đến năm 2000, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 “Về một số việc ấp bách của
các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000”, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Dung, Ngô Đức Tuấn, Nguyễn Thị Khế (1996), Lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Dui-ri-a ghim I Iav (1986), Pháp luật, chính trị đạo đức và ý thức pháp luật
xã hội, những vấn đề cơ bản về Nhà nước pháp quyền XHCN, NXB Sự thật,
Hà Nội.
7. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới và hội
nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Trần Ngọc Đường (1990) "Đổi mới nhận thức và tổ chức thực hiện công tác
giáo dục", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (4).
9. Lênin (2008), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Lộc (chủ biên) (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, Hà
Nội.
11. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Hải (1977), Lý luận chung về Nhà nước và Pháp
luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hồ Chi Minh (1945), Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 về việc Lập các Tòa án
quân sự tại Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ nước Việt Nam, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Nhà nước cách mạng Việt Nam (1945-2010),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Quốc hội (2014), Hiến pháp 2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Lê Minh Thông (1983), Vài ý kiến về xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật
XHCN của cán bộ trong bộ máy nhà nước, Tăng cường hiệu lực nhà nước
XHCN của ta, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Lê Minh Thông (1997) "Để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân", Triết học, (6), Hà Nội.
18. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 137/2003/QĐ-TTG ngày
11/7/2003 phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công
tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003-2010, Hà Nội.
19. Toà án nhân dân Tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác năm 2004 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2005 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
20. Toà án nhân dân Tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2006 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
21. Toà án nhân dân Tối cao (2007), Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2007 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
22. Toà án nhân dân Tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2009 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
23. Toà án nhân dân Tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2010 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
24. Toà án nhân dân Tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2011 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
25. Toà án nhân dân Tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2013 của ngành toà án nhân dân, Hà Nội.
26. Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc
Việt Nam (2003), Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT-TANDTC-BQP-BNV-
UBTWMTTQVN ngày 01/4/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp
lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án
nhân dân năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Hà Nội.
29. Viện Hàn Lâm khoa học xã hội trực thuộc ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản
Liên xô biên soạn (1986), Những nguyên lý xây dựng Nhà nước Xô viết và
pháp quyền, NXB Sách giáo khoa, Hà Nội.
30. Viện khoa học xét xử, Toà án nhân dân Tối cao (2006), Thông tin khoa học
xét xử (4), Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050004849_0868.pdf