Tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật

Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khoá XII về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011), để có cơ sở trình Quốc hội xây dựng Luật người khuyết tật thay thế Pháp lệnh về người tàn tật, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội báo cáo tổng kết tình hình thi hành pháp luật liên quan đến lĩnh vực người tàn tật/khuyết tật (sau đây gọi chung là người khuyết tật) như sau:

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2617 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI _________ Số: 62/BC-LĐTBXH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ________________________ Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2009 BÁO CÁO Tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật và các văn bản pháp luật liên quan _____________ Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khoá XII về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011), để có cơ sở trình Quốc hội xây dựng Luật người khuyết tật thay thế Pháp lệnh về người tàn tật, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội báo cáo tổng kết tình hình thi hành pháp luật liên quan đến lĩnh vực người tàn tật/khuyết tật (sau đây gọi chung là người khuyết tật) như sau: Phần 1. TÌNH HÌNH BAN HÀNH VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1. Xây dựng và ban hành văn bản luật pháp Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về người tàn tật. Pháp lệnh gồm 8 chương và 35 điều thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài Pháp lệnh về người tàn tật còn có 02 nghị quyết và 20 luật có quy định về các vấn đề liên quan đến người khuyết tật. Để triển triển khai thực hiện nghị quyết, các luật và pháp lệnh, Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương đã ban hành trên 200 văn bản. Đến nay hệ thống văn bản pháp luật về người khuyết tật tương đối đầy đủ và cơ bản đã thể chế hoá được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người khuyết tật; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân tham gia tích cực vào việc chăm lo, trợ giúp người khuyết tật và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để người khuyết tiếp khắc phục khó khăn hoà nhập cộng đồng xã hội. So sánh với Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và pháp luật của một số nước cho thấy các quy định pháp luật về người khuyết tật của Việt Nam về cơ bản đã có sự tương đồng. Tuy nhiên, một số quy định còn có sự trùng lặp, chồng chéo và thiếu tính khả thi trong thực tiễn. 2. Tổ chức triển khai thực hiện - Công tác tuyên truyền phổ biến luật, pháp lệnh đã được cấp uỷ, chính quyền các cơ quan từ Trung ương đến địa phương quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện. Các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến luật, pháp lệnh và các chính sách liên quan đến người khuyết tật, đào tạo tập huấn nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức, viên chức trong ngành như: Bộ Xây dựng đã biên soạn và xuất bản các tài liệu " Giáo trình thiết kế xây dựng công trình kiến trúc bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận sử dụng", tập “Danh mục các câu hỏi và trả lời” giúp cho quá trình thẩm định thiết kế, nghiệm thu, giám sát các công trình xây dựng được thuận lợi; tổ chức tập huấn cho các đơn vị trong ngành, các đơn vị có liên quan, các tổ chức của người khuyết tật và địa phương về những quy định và các vấn đề kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng công trình để người khuyết tật tiếp cận và sử dụng. Bộ Giao thông - Vận tải đã biên soạn và tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách về kiến thức và kỹ năng phục vụ người khuyết tật tham gia giao thông. Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ em mồ côi, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người khuyết tật, Hội cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ trong cả nước hàng năm đều tổ chức các lớp tập huấn cán bộ, triển khai các hoạt động vì người khuyết tật theo lĩnh vực và chức năng do đơn vị mình phụ trách. Pháp lệnh về người tàn tật và các văn bản liên quan khác về người khuyết tật đã được phát hành đến cơ sở vào Ngày người khuyết tật Việt Nam 18/04, Ngày quốc tế của người khuyết tật 03/12” hoặc ngày thương binh liệt sỹ 27/7 v.v... Hội đồng tuyên truyền pháp luật của nhiều địa phương đã trang bị tài liệu Pháp lệnh về người khuyết tật cho “Tủ sách pháp luật” ở các xã, phường, thị trấn; nhiều địa phương Trung tâm trợ giúp pháp lý còn tổ chức nhiều đoàn trợ giúp pháp lý lưu động đến các cụm, xã, thị trấn để trợ giúp pháp lý miễn phí cho hộ nghèo, các đối tượng chính sách và người khuyết tật như Thái Bình, Hưng Yên... Các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình Trung ương, địa phương đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền Pháp lệnh về người khuyết tật bằng các hình thức như: Mở chuyên đề, chuyên mục, tổ chức các buổi tọa đàm, đưa tin về các gương điển hình của các tập thể, cá nhân làm tốt công tác người khuyết tật, người khuyết tật vượt khó vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng kêu gọi gây quỹ hỗ trợ người khuyết tật. Đặc biệt các chương trình “Người đương thời”, “Người xây tổ ấm” của Đài Truyền hình Việt Nam đưa nhiều gương người khuyết tật cần cù, sáng tạo, vượt qua muôn vàn khó khăn, thành đạt trong cuộc sống, đã gây xúc động cho hàng triệu người trong và ngoài nước. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền phổ biến Pháp lệnh và chính sách liên quan đến người khuyết tật cũng còn hạn chế. Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, mới chỉ có 22,9% người biết Pháp lệnh về người khuyết tật, còn tới 77,2% số người không biết. Trong số biết chỉ có 6,4% biết rõ, 16,5% mới chỉ nghe và biết tên. Hiểu biết ít nên các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật ở cộng đồng chưa được thực hiện tốt. Người khuyết tật thường tự ti trong cuộc sống, chưa thấy được quyền và trách nhiệm của mình. - Trong những năm qua các Bộ, ngành và các địa phương, các tổ chức đoàn thể đã tổ chức nhiều cuộc tập huấn nghiệp vụ cho các đơn vị trong ngành và các đơn vị có liên quan. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ trong ngành từ cấp tỉnh đến cấp xã về triển khai Pháp lệnh về người tàn tật, kỹ năng chăm sóc người tàn tật tại trung tâm và cộng đồng, phòng ngừa tai nạn thương tích... Bộ Giao thông - Vận tải đã biên soạn và tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách trong đó có dành 01 chương hướng dẫn phục vụ người khuyết tật. Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người khuyết tật, Hội Cựu chiến binh và Hội liên hiệp phụ nữ trong cả nước hàng năm đều tổ chức các lớp tập huấn cán bộ, triển khai các hoạt động vì người khuyết tật. - Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan Trung ương và các địa phương thực hiện tương đối tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và các quy định. Các Bộ, ngành và các địa phương hàng năm ban hành hàng trăm công văn, quyết định cá biệt để xử lý và hướng dẫn xử lý những vấn đề bức xúc, hoặc tháo gỡ những khó khăn. Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành cơ quan cũng đã được thực hiện tương đối tốt. Đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về người khuyết tật. - Hàng năm đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng cho thực hiện các chế độ chính sách trợ giúp người khuyết tật (trợ giúp xã hội, y tế, giáo dục, dạy nghề việc làm... ). Phần 2. THỰC TRẠNG NGƯỜI TÀN TẬT VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH CHẾ ĐỘ LIÊN QUAN I. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Hiện nay ước tính cả nước có khoảng 5,1 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6% dân số, trong đó có 1,1 triệu khuyết tật nặng, chiếm 21,5% tổng số người khuyết tật. Bao gồm 29,% khuyết tật vận động, 17% tâm thần, 14% tật thị giác, 9% tật thính giác, 7% tật ngôn ngữ, 7% trí tuệ và 17% các dạng tật khác. Tỷ lệ nam là người khuyết tật cao hơn nữ do các nguyên nhân hậu quả chiến tranh, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích... Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 36% bẩm sinh, 32% do bệnh tật, 26% do hậu quả chiến tranh và 6% do tai nạn lao động. Dự báo trong nhiều năm tới số lượng người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai… Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Có tới 80% người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở nông thôn sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội; 32,5% thuộc diện nghèo (cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm); 24% ở nhà tạm. Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng. II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH 1. Chăm sóc đời sống người khuyết tật Thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ đã quy định chi tiết chính sách trợ giúp xã hội đối với người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa, người mắc bệnh tâm thần mãn tính, hộ gia đình có từ hai người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ. Thực hiện chính sách này đến năm 2008, các địa phương đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 395.962 người khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có từ hai người khuyết tật, nuôi dưỡng tập trung 9.798 người khuyết tật trong 300 cơ sở bảo trợ xã hội. So với năm 1998, số người số người khuyết tật được hưởng các chính sách trợ giúp xã hội tăng gấp 4 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã đựơc điều chỉnh tăng từ 45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng năm 2004 và 120.000đồng/tháng năm 2007. Chính sách trợ giúp xã hội đã đã góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật. Ngoài ra còn có 622.783 người khuyết tật là thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động, quân nhân bị bệnh nghề nghiệp, 133.356 người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị hậu quả chất độc hóa học và khoảng 4.700 gia đình người có công với cách mạng đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo quy định của Pháp lệnh người có công với cách mạng; 30.869 người hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng. Tuy vậy, còn một bộ phận người khuyết tật nặng chưa được hưởng chính sách trợ giúp xã hội do quy định của Pháp lệnh là đối tượng thuộc diện hưởng chính sách phải là người khuyết tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa; mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn quá thấp so với mặt bằng mức sống dân cư (mới chỉ bằng 60% chuẩn nghèo), chưa bảo đảm được những nhu cầu sống tối thiểu của người khuyết tật. 2. Chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng Theo báo cáo đến nay các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người khuyết tật thuộc hộ gia đình nghèo, thưc hiện chỉnh hình phục hồi chức năng và cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí cho khoảng 300 ngàn người khuyết tật; cung cấp phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy, chân tay giả cho trên 100 ngàn người; phẫu thuật chỉnh hình và trợ giúp phục hồi chức năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật. Mạng lưới phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã được phát triển ở 46/63 tỉnh, thành phố với 215 huyện, trên 2.420 xã... Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 có 52,4% người khuyết tật đi khám bệnh, phục hồi chức năng nhận được sự hỗ trợ về kinh phí (giảm viện phí). Tuy nhiên, người khuyết tật vẫn khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế, nhất là người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa khó khăn, điều kiện đi lại không thuận tiện. Nhiều địa phương do điều kiên khó khăn nên công tác chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng chưa đuợc quan tâm thực hiện. 3. Học văn hoá đối với người khuyết tật Thực hiện Luật giáo dục, Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đã có nhiều quan tâm tạo điều kiện để người khuyết tật tiếp cận dịch vụ giáo dục. Số lượng học sinh, sinh viên là người tàn tật tăng nhanh: Năm học 1996-1997 cả nước có 6.000 trẻ khuyết tật học trong 72 cơ sở giáo dục chuyên biệt, 36.000 trẻ khuyết tật học trong 900 trường phổ thông đến năm học 2005-2006 có 230.000 trẻ khuyết tật đi học trong 9.000 trường phổ thông (đạt 25%). Người khuyết tật đi học không chỉ tập trung ở bậc mầm non, tiểu học mà còn ở bậc trung học và một số đang học ở bậc trung cấp, cao đẳng, có nhiều học sinh khuyết tật đã đặt kết quả cao. Công tác đào tạo nguồn lực cho giáo dục khuyết tật ngày càng được quan tâm đến nay các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã có các khoa đào tạo, giáo dục đặc biệt; Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ liên quan đã ban hành mã ngành đào tạo giáo dục trẻ em khuyết tật, giáo dục đặc biệt. Có 264 cán bộ quản lý giáo dục của 63 tỉnh, thành phố và giảng viên của các trường đại học và cao đẳng sư phạm trong cả nước đã được bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật, gần 700 giáo viên trung học được đào tạo trình độ chuyên môn về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại 07 trường cao đẳng sư phạm, hơn 10.000 giáo viên mầm non và trung học được bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng dạy học trẻ khuyết tật, mạng lưới giáo viên cốt cán của các huyện được hình thành để đáp ứng nhu cầu đi học của gần 230.000 trẻ khuyết tật. Ngoài việc triển khai thực hiện các chính sách đối với trẻ khuyết tật, công tác nghiên cứu khoa học về giáo dục trẻ khuyết tật ngày càng có chiều sâu và tập trung nghiên cứu mô hình phát hiện, hỗ trợ cho trẻ khiếm thính, khiếm thị, khó khăn về học. Đồng thời xây dựng mô hình giáo dục hòa nhập, chuyển đổi và thẩm định sách giáo khoa chữ phẳng sang chữ nổi Braille, xây dựng hệ thống ngôn ngữ kí hiệu, thống nhất hệ thống chữ cho người mù và nhiều đề tài nghiên cứu về các chương trình, nội dung và sách giáo khoa. Tuy nhiên, vẫn còn bộ phận lớn trẻ em khuyết tật chưa tiếp cận được với dịch vụ giáo dục, nhất là ở nông thôn. Theo kết quả đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 thì mới chỉ có 36,8% người khuyết tật đã từng đi học tại các trường tiểu học hoặc phổ thông. Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức của gia đình và cộng đồng, cơ sở vật chất giáo dục chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... 4. Học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật a) Học nghề của người khuyết tật Kể từ khi có Pháp lệnh đến nay, số lượng người khuyết tật được học nghề ngày càng tăng: giai đoạn 1999 - 2004 có gần 19.000 người; giai đoạn 2005-2008 mỗi năm có khoảng 8.000 người, gấp 2 lần so với giai đoạn trước (riêng năm 2008 có 8.712 người khuyết tật được học nghề). Hiện tại trong cả nước có 260 cơ sở dạy nghề đóng trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố, trong đó 55 cơ sở chuyên biệt và 205 cơ sở có tham gia dạy nghề cho người khuyết tật. Trong những năm qua nhà nước đã dành hàng trăm tỷ đồng kinh phí từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo để đầu tư xây dựng cơ sở, hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho người khuyết tật (2005=11,5 tỷ; 2006=20tỷ; 2007= 156 tỷ; 2008=165 tỷ và 2009=183 tỷ (bao gồm 2 đối tượng nông dân và người khuyết tật). Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về dạy nghề từ Trung ương đến địa phương đã được kiện toàn một bước, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề cũng đã quy định: các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật được ưu tiên cấp địa điểm thuận lợi, hỗ trợ vốn, cấp kinh phí đào tạo, miễn giảm thuế, được vay vốn với lãi xuất ưu đãi; các cơ sở dạy nghề khác nhận người khuyết tật vào học nghề, nâng cao trình độ tay nghề được ưu tiên đầu tư, bảo đảm định mức kinh phí đào tạo. Người khuyết tật học nghề được xem xét cấp học bổng và trợ cấp xã hội, được miễn hoặc giảm học phí căn cứ mức độ khuyết tật và mức độ suy giảm khả năng lao động. Tuy nhiên, theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 cho thấy tỷ lệ người khuyết tật được học nghề còn thấp chiếm 12,1%. b) Việc làm của người khuyết tật Theo khảo sát năm 2008, có trên 50% người khuyết tật trong độ tuổi lao động có việc làm, trong đó chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp (trên 70%). Thực hiện các chính sách giải pháp tạo việc làm người khuyết tật, cả nước có hơn 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh của thương binh và người khuyết tật, tạo việc làm ổn định cho 15.000 lao động là người khuyết tật, khoảng 65% số hộ có người khuyết tật được hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, như: miễn giảm thuế, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất... Tuy nhiên, phần lớn những người khuyết tật có việc làm không ổn định, chủ yếu là tự tạo việc làm, làm việc trong các tổ chức, cơ sở mang tính nhân đạo từ thiện. Rất ít người tìm được việc làm và làm việc ổn định trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Pháp luật lao động quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nhận từ 2-3% lao động là người tàn tật vào làm việc tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp không nhận đủ tỷ lệ lao động là người tàn tật theo quy định phải đóng một khoản tiền vào Quỹ việc làm cho người tàn tật. Hầu hết các doanh nghiệp không thực hiện được quy định này. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền phổ biến, kiểm tra giám sát chưa được quan tâm thực hiện. Mặt khác bản thân người khuyết tật chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đồng thời do tính chất sản xuất, kinh doanh các doanh nghiệp cũng khó khăn trong việc bố trí việc làm phù hợp với sức khoẻ, đặc điểm của người khuyết tật, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề đặc thù như luyện kim, hoá chất, địa chất, đo đạc bản đồ, dầu khí, khai thác mỏ, khai thác khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận tải... 5. Tiếp cận văn hóa, thể thao và công trình công cộng a) Về văn hóa, thể thao Trong những năm qua nhiều hoạt động văn hóa, thể thao đã được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí của người khuyết tật ngày càng được quan tâm, nhiều cuộc thi đấu thể thao được tổ chức để người khuyết tật được tham gia hoạt động góp phần tăng cường sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần người khuyết tật xóa bỏ mặc cảm. Tham gia hoạt động thể dục thể thao giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng. Từ năm 1997 cứ 5 năm một lần tổ chức Hội thi Thể thao- Văn nghệ người khuyết tật toàn quốc, thu hút rất đông vận động viên trên khắp mọi miền tổ quốc về tham dự. Phong trào thể dục thể thao dành cho người khuyết tật tại các địa phương trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng người tập cũng như về số các môn thể thao được đưa vào hoạt động, từ chỗ chỉ có từ 10-15 tỉnh thành có phong trào TDTT của người khuyết tật đến nay trong cả nước đã có hơn 40 đơn vị tỉnh thành có phong trào, thậm chí có những tỉnh đã có phong trào phát triển ở cấp Quận, huyện (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Trị). Đến nay cả nước đã có 35/63 tỉnh, thành phố thành lập câu lạc bộ TDTT cho người khuyết tật tham gia tập luyện. Tuy nhiên, phong trào văn hóa, thể thao của người khuyết tật mới chỉ phát triển bước đầu và chủ yếu ở khu vực thành thị, còn khu vực nông thôn, miền núi chưa được quan tâm đúng mức. b) Tiếp cận công trình công cộng Thực hiện quy định pháp luật, trong những năm qua các Bộ, ngành địa phương đã có cố gắng trong việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công cộng đối với người khuyết tật, như: ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng công trình công cộng bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận; cải tạo, sửa chữa các công trình công cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Tuy nhiên, số lượng các công trình hạ tầng cơ sở bảo đảm điều kiện tiếp cận cho người khuyết tật còn rất ít. Nhất là việc tiếp cận các công trình giao thông, cơ quan hành chính nhà nước, bệnh viện, trường học... Nguyên nhân chính là do nhận thức và quan tâm của xã hội đối với người khuyết tật còn hạn chế, do thiếu nguồn lực để đầu tư, cải tạo sửa chữa các công trình, thiếu chế tài xử phạt và sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp luật. Đánh giá chung Chính sách chế độ hỗ trợ người khuyết tật ban hành trong 10 năm qua đã tạo khung pháp lý về chăm sóc người khuyết tật, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng từ Trung ương đến cơ sở cũng như tạo môi trường thuận lợi cho người khuyết tật tiếp cận học nghề, việc làm và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhờ vậy, những năm qua đời sống vật chất, tinh thần và vị thế của người khuyết tật trong xã hội được cải thiện một bước. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện cho thấy hệ thống các văn bản chưa thật sự đồng bộ, tính khả thi của một số chính sách chưa cao, công tác tuyên truyền, kiểm tra giám sát thực hiện chưa thường xuyên, nguồn lực về tài chính và nhân lực cũng chưa đáp đòi hỏi của thực tiễn. Phần 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN LUẬT PHÁP VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT I. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT Để khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật đối với người khuyết tật và bảo đảm để người khuyết tật thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với người khuyết tật cần quán triệt theo các quan điểm định huớng sau: - Phải quán triệt và thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về người khuyết tật, xác định nội dung, chức năng quản lý Nhà nước về người khuyết tật nhằm góp phần bảo đảm cho người khuyết tật sống hoà nhập với xã hội. - Điều chỉnh hệ thống pháp luật về người khuyết tật phải dựa trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những quy phạm hiện nay còn phù hợp trong Pháp lệnh về người tàn tật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến người khuyết tật khác, bảo đảm giữ tính ổn định những quy định còn phù hợp đồng thời điều chỉnh và hoàn thiện các quy định không còn phù hợp, bổ sung những vấn đề mới nảy sinh cần được điều chỉnh bằng pháp luật. - Các quy định bảo đảm có tính khả thi và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã hội, khả năng tài chính của nhà nước ta. Quy định khung pháp lý cơ bản về quyền, nghĩa vụ của người khuyết tật và quy định chi tiết về các chế độ chính sách, điều kiện bảo đảm, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội để người khuyết tật thực hiện các quyền cơ bản. - Hệ thống các quy định dành riêng đối với người khuyết tật cần bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam và bảo đảm quá trình hội nhập quốc tế. II. ĐỀ XUẤT NỘI DUNG XÂY DỰNG LUẬT 1. Đối tượng, phạm vi Xác định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật, có giải thích từ ngữ và thống nhất sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật” trong các văn bản quy phạm pháp luật. Mở rộng phạm vi điều chỉnh- Luật người khuyết tật xây dựng phải nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật như quyền con người về xã hội, văn hóa, kinh tế... như các chủ thể xã hội khác; những vấn đề mà người khuyết tật đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc hòa nhập xã hội, tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm, hôn nhân, thể dục- thể thao, thông tin... dựa trên nguyên tắc bình đẳng giới đối với người khuyết tật là nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; tạo điều kiện cho người khuyết tật là nữ tham gia hòa nhập xã hội. 2. Điều chỉnh phù hợp các quy định cụ thể về chính sách, chế độ - Bổ sung và sửa đổi các chính sách giáo dục, dạy nghề tạo việc làm, tiếp cận dịch vụ xã hội và công trình công cộng trợ giúp đời sống, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, hỗ trợ tiếp cận theo hướng hỗ trợ để hoà nhập cộng đồng tạo điều kiện để người khuyết tật sống tại cộng đồng, gia đình hoặc sống độc lập. Giảm dần số lượng người khuyết tật và các cơ sở nuôi dưỡng tập trung. Chỉ hỗ trợ nuôi dưỡng chăm sóc đối với những trường hợp đặc biệt khó khăn. Từng bước điều chỉnh các chế độ trợ giúp bảo đảm người khuyết tật hưởng chính sách được trợ cấp, trợ giúp có mức sống bằng mức sống trung bình của cộng đồng. - Quy định trách nhiệm gia đình, nhà nước và xã hội trong việc đảm quyền của người khuyết tật trong việc tiếp cận giáo dục, tạo việc làm, vui chơi, giải trí. - Sửa đổi các quy định về dạy nghề, việc làm cho phù hợp; ban hành chính sách khuyết khích các các doanh nghiệp có sử dụng số lượng lớn hoặc tỷ lệ từ 35% lao động là người khuyết tật trở lên (miễn, giảm thuế hoặc hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng cơ sở vật chất, v.v... của doanh nghiệp); đối với hoạt động dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật phải bảo đảm bình đẳng trong tuyển dụng, sử dụng và bố trí công việc, cải tạo cơ sở vật chất bảo đảm môi trường tiếp cận đề người khuyết tật làm công việc như những người bình thường khác. - Quy định bắt buộc đối với việc xây dựng mới, cải tạo các công trình công cộng, trụ sở của các cơ quan nhà nước phải có thiết kế tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận được. - Tổ chức câu lạc bộ dành riêng cho người khuyết tật để người khuyết tật có cơ hội tham gia các hoạt động mang tính tập thể như thể dục, thể thao, văn hóa, văn nghệ v.v… nhằm tạo cơ hội hòa nhập cộng đồng và nâng cao đời sống tinh thần của người khuyết tật. - Xây dựng các Trung tâm dịch vụ xã hội nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện sinh hoạt phù hợp đồng thời bảo đảm quyền bình đẳng và hòa nhập đời sống xã hội cho người khuyết tật. III. ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM Trong quá trình xây dựng Luật và khi được Quốc hội ban hành thì việc tổ chức thực hiện cũng cần phải có quy định cụ thể về: 1) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, làm rõ vai trò trách nhiệm của các tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng trong công tác thông tin tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho cộng đồng và bản thân người khuyết tật về vấn đề khuyết tật, người khuyết tật, Luật người khuyết tật cũng như các văn bản pháp lý liên quan tới quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật . Đối với một số cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình ở Trung ương và một số địa phương cần nghiên cứu và đưa ra những quy định bắt buộc nhằm bảo đảm quyền tiếp cận và sử dụng đối với người khuyết tật. 2) Khi xây dựng các chính sách đối với người khuyết tật phải xác định rõ nguồn lực để thực hiện các chính sách. Đẩy mạnh việc phân cấp và làm rõ trách nhiệm của chính quyền các cấp trong hoạt động xây dựng các giải pháp nhằm trợ giúp đối với người khuyết tật (từ ngân sách nhà nước, từ quỹ hỗ trợ người khuyết tật, v.v...). Cần có cơ chế quản lý phù hợp, thống nhất trong việc hình thành và phát triển các loại hình quỹ hỗ trợ cho người khuyết tật trong mối quan hệ với các loại quỹ khác. 3) Quy định về các cơ chế khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia xã hội hóa hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật; xác định rõ vai trò của các tổ chức phi Chính phủ trong việc hỗ trợ kỹ thuật, nhận giúp đỡ người khuyết tật ngày càng tốt hơn. 4) Cần phải có các quy định rõ về các chế tài xử phạt, đặc biệt là đối với các hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với người khuyết tật, vấn đề kỳ thị xã hội đối với người khuyết tật, hoặc không thực hiện những vấn đề được qui định trong Luật liên quan đến nhu cầu và quyền của người khuyết tật. Đồng thời cũng cần có quy định trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Song song với các quy định xử phạt cũng cần có cơ chế khuyến khích khen thưởng phù hợp đối với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có nhiều đóng góp hỗ trợ người khuyết tật. Nơi nhận: Thủ tướng Các Phó Thủ tướng; Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chính phủ ; UBCVĐXH-QH; Bộ Tư pháp; Lưu VP, BTXH. KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG (đã ký) Nguyễn Trọng Đàm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật.doc
Luận văn liên quan