GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM
II, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN GIỮA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000.
III, CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
IV, CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VỢ, CHỒNG KHI THỰC HIỆN NHỮNG GIAO DỊCH MỘT BÊN DO CHỒNG HOẶC VỢ THỰC HIỆN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG.
V, NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI
1, Giao dịch mà chồng hoặc vợ thực hiện phải là giao dịch hợp pháp:
2, Giao dịch mà chồng hoặc vợ thực hiện phải đáp ứng như cầu thiết
yếu của gia đình
VI, PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN ĐIỀU 25 LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000.
14 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5034 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm pháp lí của vợ, chồng đối với những giao dịch do một bên chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một trong những nội dung quan trọng trong đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình. Theo nguyên tắc thì khi thực hiện những giao dịch liên quan đến tài sản chung thì cả vợ và chồng có sự bàn bạc và thực hiện giao dịch. Tuy nhiên trên thực tế, vì một vài lí do khách quan nên có những giao dịch chỉ do một bên chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến tài sản chung cuả vợ chồng. Vậy, trong trường hợp này vấn đề về trách nhiệm pháp lý sẽ được đặt ra như thế nào?
Trách nhiệm liên đới của vợ và chồng theo điều 25 luật HN&GĐ năm 2000 là một trong những nội dung đáng chú ý trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Đây là một quy định mới được bổ sung trong luật HN&GĐ năm 2000 mà luật HN&GĐ năm 1959 và 1986 chưa có. Chính vì là một quy định mới cho nên việc áp dụng nó vào thực tế còn có nhiều khập khiễng và chưa thống nhất.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cũng như đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện điều luật này em xin đi sâu tìm hiểu vấn đề : “Trách nhiệm pháp lí của vợ, chồng đối với những giao dịch do một bên chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ chồng”.
Do kiến thức còn hạn chế, khả năng đào sâu vấn đề chưa cao vì thế bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô để bài làm của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!!!
I, GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM
Trách nhiệm pháp lý: Là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước và chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi và những biện pháp cưỡng chế của nhà nước được quy định ở chế tài pháp luật. Tức là, mọi hành vi vi phạm pháp luật phá vỡ trật tự pháp luật, xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ đều phải chịu sự trừng trị của pháp luật
Trách nhiệm pháp lý được cấu thành bởi các yếu tố: hành vi vi phạm pháp luật, sự thiệt hại gây ra cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và sự thiệt hại gây ra cho xã hội, lỗi của chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường, được phân thành các loại trách nhiệm: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm dân sự... Trách nhiệm pháp lý sẽ được chấm dứt với các sự kiện pháp lí thích ứng.
Giao dịch: Là những hành vi của công dân và của các tổ chức nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Phần lớn các giao dịch là sự thoả thuận của hai hoặc nhiều người và có tính chất đền bù tương ứng cho nhau. Trong giao dịch đó, một bên thực hiện những hành vi nhất định cho bên kia (giao vật, giao tiền, thực hiện một dịch vụ...) đồng thời được bên kia đền bù cho việc thực hiện những hành vi đó. Những hợp đồng tặng, hợp đồng cho, hợp đồng cho vay không lấy lãi... là những giao dịch không đền bù. Giao dịch có thể thực hiện bằng văn bản hoặc bằng miệng. Việc lựa chọn hình thức giao dịch do các bên giao dịch quyết định. Nhưng đối với phần lớn thì pháp luật có quy định hình thức thực hiện. Việc không tuân theo yêu cầu của pháp luật về hình thức giao dịch làm cho giao dịch bị coi là vô hiệu chỉ có trong những trường hợp được luật quy định.
Tài sản chung: là tài sản thuộc hình thức sở hữu chung. Trong đó, sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản – Điều 214 BLDS.
Tài sản chung của vợ chồng - căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
Theo quy đinh tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng truớc hết là tài sản chung hợp nhất và có thể phân chia. Việc xác định việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kì hôn nhân;
Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân (tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp....);
Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên;
Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc thừa kế chung;
Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản riêng nhưng vợ chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung.
Như vậy, so với những quy định về tài sản chung và quyền của vợ và chồng đối với tài sản chung trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định vấn đề này một cách tương đối cụ thể và dễ vận dụng hơn nhiều.
Từ đặc điểm của sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó không thể xác định được phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu đối với tài sản chung, chúng ta không thể xác định được phần tài sản nào là của vợ hoặc của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất. Do đó, các nhà làm luật đã sử dụng nguyên tắc suy đoán, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Tức là tài sản do vợ, chồng tạo ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do công sức của hai vợ chồng cùng tại ra, có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra trong thời kì hôn nhân.
Nguyên tắc suy đoán này bảo đảm cho sự công bằng trên cơ sở vì lợi ích chung của gia đình và của vợ chồng. Quy định này cũng là điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Quy định này xuất phát từ thực tế tranh chấp tài sản giữa vợ chồng, rất khó để chứng minh được đâu là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng sau một thời gian sống chung.
Quy định này cũng được hướng dẫn cụ thể tại nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 (về khoản 2 Điều 27).
II, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN GIỮA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000.
Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng bao gồm: quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 219 BLDS năm 2005 và Khoản 1 Điều 28 luật HN&GĐ năm 2000 thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu và sử dụng định đoạt đối với tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, về nguyên tắc, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Do mục đích và tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân là sự “liên kết” giữa một người đàn ông và một người đàn bà trong đó vợ chồng cùng có trách nhiệm vun đắp hạnh phúc gia đình, có trách nhiệm với nhau, với các con và các thành viên khác. Vì thế, thông thường mọi công việc mà họ thực hiện đều xuất phát từ lợi ích chung của gia đình xét cả về cơ sở đạo đức và yêu cầu của pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Khoản 1 điều 27 luật HN&GĐ năm 2000 quy định : “... tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất” và đó cũng là chế độ “cộng đồng tạo sản”.
Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc điểm là kể từ khi kết hôn, những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân hoặc những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung... đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên. Vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt ngang nhau với tài sản chung. Theo tính chất của quan hệ vợ chồng được xác lập trong suốt thời kì hôn nhân (là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại, tình từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật), để bảo đảm thỏa mãn nhu cầu của vợ chồng của con cái và các thành viên khác trong gia đình về vật chất cũng như tinh thần thì họ phải tham gia kí kết nhiều loại hợp đồng dân sự với các chủ thể khác mà pháp luật không thể kiểm soát, bắt buộc vợ, chồng mỗi khi kí kết hợp đồng lại phải có sự thỏa thuận, đồng ý, thậm chí bằng văn bản có chữ kí của cả hai vợ chồng. Chính vì vậy một khi vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch một bên thì bên kia cũng có nghĩa vụ liên đới về tài sản mặc dù không trực tiếp tham gia giao dịch đó. Đó cũng là một trong những nội dung liên quan đến “Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch cho một bên thực hiện”, theo điều 25 luật HN&GĐ năm 2000.
III, CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Tình trạng liên đới được xác lập trên cơ sở của quan hệ hôn nhân chứ không phải dựa vào quan hệ chung sống của vợ chồng. Bởi vậy, sự liên đới không tồn tại giữa hai con người chung sống như vợ chồng mà không có đăng kí kết hôn. Trái lại, sự liên đới đó tồn tại cả trong trường hợp vợ chồng kết hôn hợp pháp nhưng lại có nơi ở khác nhau (nghĩa là không chung sống thực tế), vợ hoặc chồng về mặt lí thuyết phải chịu trách nhiệm liên đới thanh toán các chi phí do việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu đói với cuộc sống của chồng(vợ) khi cư trứ nơi khác. Như vậy căn cứ để xác định trách nhiệm liên đới về tài sản của vợ chồng phải dựa trên quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là việc liên đới trách nhiệm chỉ được xác định khi quan hệ vợ chồng được xác lập theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Một số những điều kiện kết hôn hợp pháp theo luật HN&GĐ năm 2000 đó là : điều kiện về tuổi kết hôn, phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn và việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Khi đáp ứng đủ các điều kiện trên thì quan hệ hôn nhân của vợ chồng mới được pháp luật công nhận. Từ đó mới có thể ràng buộc các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau, trong đó có nghĩa vụ liên đới về tài sản do giao dịch một bên chồng hoặc vợ thực hiện theo điều 25 luật HN&GĐ năm 2000.
IV, CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VỢ, CHỒNG KHI THỰC HIỆN NHỮNG GIAO DỊCH MỘT BÊN DO CHỒNG HOẶC VỢ THỰC HIỆN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG.
Thông thường, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng , phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sỡ hữu chung hợp nhất (khoản 1 Điều 28). Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản chung nhằm đảm bảo đời sống chung của gia đình.
“Do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi (tất yếu) vợ chồng phải có quan hệ giao dịch với những người khác liên quan đến tài sản chung, nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình, của vợ chồng”
1, Đối với những giao dịch thông thường để phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu thường ngày, liên quan đến những tài sản “không có giá trị lớn”:
Hành vi xử sự của vợ, chồng khi định đoạt tài sản chung đó luôn được pháp luật coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng (dù chỉ có một bên vợ hoặc chồng định đoạt tài sản).
Ví dụ: Vợ chồng dùng tiền bạc, tài sản chung để đảm bảo những nhu cầu thường nhật như: chi phí cho sinh hoạt gia đình (ăn uống, tiền điện, nước...) con cái học hành…Đây là những chi phí, giao dịch rất đời thường nên dù chỉ chồng hay vợ thực hiện thì đều được xem là có sự thỏa thuận giữa hai bên.
2, Với những giao dịch liên quan đến tài sản chung “có giá trị lớn” (quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô, xe máy…)
Khi định đoạt phải có sự đồng ý của hai vợ chồng. Nếu pháp luật quy định hợp đồng liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn phải được kí kết bằng văn bản (hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà …) thì hình thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của pháp luật. Vợ, chồng phải cùng trực tiếp ký vào văn bản (hợp đồng); nếu chỉ có một bên trực tiếp ký thì phải có giấy ủy quyền (Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng – khoản 3 Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 24 Luật hôn nhân gia đình - HNGD) cho vợ, chồng ký thay, hợp đồng mới có hiệu lực .
Khoản 3 Điều 28 Luật HNGD năm 2000 quy định : “Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận…”. tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình.
Đối với việc thực hiện loại giao dịch này thì việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận (điều 28 luật HN&GĐ năm 2000) thì những giao dịch đó mới có giá trị pháp lí. Sự thỏa thuận của vợ chồng trong giao dịch dân sự được thể hiện ở việc nếu là giao dịch dân sự bằng giấy tờ (hợp đồng viết) thì phải có chữ kí của cả vợ và chồng. Nếu một bên vợ hoặc chồng ở xa thì có chứng cứ chứng tỏ đã có sự thỏa thuận của người vợ hoặc người chồng vắng mặt về giao dịch đó; nếu là giao dịch miệng thì cũng phải có chứng cứ chứng tỏ đã có sự thỏa thuận của cả vợ và chồng về giao dịch.
Bên cạnh đó, những quy định này đã được cụ thể hóa trong Điều 1,2,3 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ.
Qua đó có thể thấy rằng, đối với các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng mà có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình: hoặc giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt tài sản riêng thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình đều phải có sự thỏa thuận (đồng ý)của vợ chồng theo đúng hình thức (văn bản) mà pháp luật quy định.
V, NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI
1, Giao dịch mà chồng hoặc vợ thực hiện phải là giao dịch hợp pháp:
Theo điều 122 BLDS năm 2005 thì giao dịch dân sự được coi là hợp pháp khi có đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch, bao gồm: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; Hình thức giao dịch dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật.
2, Giao dịch mà chồng hoặc vợ thực hiện phải đáp ứng như cầu thiết yếu của gia đình :
Việc chi dùng cho những nhu cầu sinh hoạt là hết sức cần thiết để đảm bảo những nhu cầu tối thiểu cho một cuộc sống chung của cả gia đình được diễn ra một cách bình thường và phải được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng chứ không phải vì nhu cầu của cá nhân, vì lợi ích của cá nhân.
Ta có thể hiểu rõ hơn về vấn đề này qua một số trường hợp cụ thể.
- Một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch có liên quan đến tài sản chung nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới:
VD: Việc vợ vay, mượn tiền bạc, tài sản của người khác vì nhu cầu của gia đình như việc chữa bệnh cho con khi chồng đi công tác xa nhà. Đây chính là những khoản nợ mà vợ chồng phải có nghĩa vụ thanh toán cho người chủ nợ đó. Theo nguyên tắc nếu là nợ chung thì cả vợ chồng phải có trách nhiệm trả nợ. Bởi đây là những giao dịch có liên quan đến tài sản chung nhằm để phục vụ nhu cầu tất yếu của một gia đình.
- Một bên vợ (chồng) thực hiện giao dịch với giá trị lớn mà không được sự đồng ý của chồng (vợ),thì giao dịch vô hiệu: Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ.
VD: Trường hợp người chồng muốn bán nhà (tài sản chung- có giá trị lớn) để mua một ngôi nhà khác. Nhưng lại không hỏi ý kiến của người vợ nhưng người vợ vì một số lý do lại không muốn bán.Vậy lúc này, người vợ có quyền đòi lại tài sản và có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.
- Xét về yếu tố hành vi, giao dịch có hợp pháp hay không. Nếu là giao dịch bất hợp pháp thì bên còn lại sẽ không phải chịu trách nhiệm liên đới: Điều này quy định rõ ở Điều 25 Luật HNGD.
VD: Chồng vay tiền của bạn để đánh bạc. Sau đó, về nhà yêu cầu vợ phải đưa tiền để trả nợ. Trong trường hợp này người vợ có thể đưa hoặc không, tùy theo ý muốn của vợ. Nhưng, ở đây người vợ không có nghĩa vụ phải trả nợ thay chồng mình. Bởi việc đánh bạc của người chồng là một giao dịch bất hợp pháp, trái quy định của pháp luật. Hơn nữa giao dịch này không phải được diễn ra trên cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình mà chỉ nhằm phục vụ lợi ích, nhu cầu của người chồng mà thôi. Vậy nên, căn cứ vào Điều 25 ta thấy sẽ không dẫn đến chịu trách nhiệm liên đới trong trường hợp này.
VI, PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN ĐIỀU 25 LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000.
Xuất phát từ tình hình thực tế của các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi bên vợ chồng cũng như của người thứ ba tham gia giao dịch, em xin đưa ra một số đề xuất như sau:
- Thứ nhất: Nếu một bên vợ hoặc chồng tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của bên kia, thì bên đó có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng dân sự đó, Tòa án phải tuyên bố hợp đồng dân sự đó là vô hiệu.
- Thứ hai: Tuy một bên vợ hoặc chồng không có sự tham gia hợp đồng dân sự, làm cho hợp đồng dân sự đó trở nên bất hợp pháp, bị coi là vô hiệu, song thông qua các hợp đồng đó vẫn nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình, thì bên vợ hoặc chồng không tham gia hợp đồng dân sự vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối với việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, bởi ở đây liên quan đến việc nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình.
- Thứ ba: Việc thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý của bên vợ hoặc chồng không tham gia hợp đồng dân sự, không nhất thiết phải được xác định bằng văn bản thỏa thuận, mà chỉ cần xác định bên vợ hoặc chồng không tham gia hợp đồng dân sự đó có biết và phải biết việc tham gia hợp đồng dân sự của phía bên kia, thì sẽ buộc họ phải có trách nhiệm liên đới đối với việc xử lý hậu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba. Bởi theo em, việc xác lập văn bản thỏa thuận trong nhiều trường hợp là không cần thiết, mất nhiều thời gian và đôi khi sẽ gây mất tình cảm gia đình giữa vợ chồng với nhau.
- Thứ tư: Cần làm rõ khái niệm thế nào là “nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Bởi nhà làm luật chưa quy định một cách cụ thể khái niệm này nên còn dẫn đến những cách hiểu khác nhau, gây ra sự lúng túng trong việc giải quyết vấn đề này. Theo ý kiến của cá nhân em thì khái niệm nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình cần được hiểu đó là những nhu cầu căn bản nhất, thiết thực nhất nhằm đảm bảo một cuộc sống gia đình ở mức tối thiểu. Như những nhu cầu về ăn, ở, đi lại, học tập, nghề nghiệp... Tuy nhiên các tiêu chí “nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” có thể thay đổi theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ. Có những nhu cầu rất cơ bản, rất chung đối với gia đình ở mọi nơi và trong mọi thời đại: thức ăn, quần áo, thuốc men, chi phí giáo dục con cái, bảo quản nhà cửa...nhưng lại có những chi phí đặc trưng cho cuộc sống thị dân hiện đại như nhu cầu về điện, nước, điện thoại,điều hòa, tủ lạnh... Nên không thể so sánh một cách khập khiễng nhu cầu của “ngày xưa” với ngày nay. Tuy nhiên cũng cần quy định cụ thể một mức chuẩn của nhu cầu thiết yếu trong gia đình như các tiêu chí đã nêu ở trên. Điều đó sẽ tạo ra sự thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
- Thứ năm: Làm rõ khái niệm thế nào là “tài sản có giá trị lớn ?” Đó là loại tài sản như thế nào. Đối với mỗi gia đình cụ thể thì “ tài sản có giá trị lớn” sẽ tương ứng khác nhau so với tình hình gia cảnh của gia đình đó. Ví dụ, có thể với gia đình này một chiếc xe đạp chẳng đáng là bao. Nhưng với gia đình khác thì đấy là cả một “gia tài tiền sản”, họ chỉ có được mỗi cái đó để dùng trong công việc hoặc sinh hoạt chẳng hạn…
- Thứ sáu: Trong việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba: Theo ý kiến của bản thân em thì nên chăng các nhà làm luật cần bổ sung thêm quy định nhằm ràng buộc trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong giao dịch với người thứ ba, nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba bằng cách là vợ hoặc chồng trước khi thực hiện giao dịch cần thông báo với người thứ ba tình trạng hôn nhân của mình. Để đảm bảo sự chủ động của người thứ ba trong việc xác lập giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện.
- Thứ bảy: Nếu như để thực hiện nghĩa vụ liên đới, mà tài sản chung của vợ chồng chưa đủ thì phải lấy tài sản riêng của mỗi người nếu có. Luật hiện hành không có quy định riêng về mức đóng góp của mỗi bên đối với các chi phí nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tuy nhiên điều đáng nói là mỗi người có tài sản riêng không ngang nhau. Vậy nên ở đây cần xét theo tình hình tài sản riêng của mỗi người để đóng góp. Có nhiều trường hợp, nếu người không có tài sản riêng thì người còn lại chịu trách nhiệm thanh toán chi phí bằng tài sản riêng của mình.
KẾT LUẬN
Xã hội ngày càng phát triển, đất nước ta đang trên đà hội nhập với các nước trên thế giới. Chính vì thế, yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng xao hơn, Luật HN&GĐ cũng nằm trong xu thế đó.
Trên cơ sở điều chỉnh quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ nhân thân, đặc biệt trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ chồng với nhau, nhất là nghĩa vụ liên đới đối với những giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện Luật HN&GĐ năm 2000 luôn đề cao và khuyến khích việc sử dụng những yếu tố tình cảm, và đạo lí vợ chồng để điều chỉnh các quan hệ này. Bởi lẽ trong quan hệ tài sản này không chỉ được điều chỉnh trên cơ sở của pháp luật mà còn điều chỉnh trên cơ sở của đạo đức. Qua đó nhằm quy kết trách nhiệm (nghĩa vụ) chung của hai vợ chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng thực hiện vì nhu cầu thiết yếu của gia đình, đồng thời cũng bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, nhằm ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Việc nắm rõ được về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ chồng với nhau, nhất là nghĩa vụ liên đới đối với những giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện sẽ giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn cũng như có thể áp dụng đúng hơn trong thực tiễn học tập cũng như nghiên cứu sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật hôn nhân và gia đình. Trường đại học Luật Hà Nội. Nxb Công An nhân dân Hà Nội năm 2009.
Bộ luật dân sự năm 2005.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
Ts. Nguyễn Văn Cừ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Tạp chí luật học 2000.
150 câu hỏi và trả lời về pháp luật hôn nhân và gia đình. Nxb Chính trị Quốc gia.
Một số trang web điện tử.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- GI7842I THCH KHI NI7878M.doc
- PH7908 L7908C.doc