LỜI MỞ ĐẦU
Liên kết, hợp tác và mở rộng quan hệ quốc tế là xu thế tất yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Các mối quan hệ được xây dưng trên cơ sở những điều ước, thoả hiệp giữa các quốc gia đó với nhau và được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế do chính các quốc gia đó xây dựng lên và đảm bảo được thực hiện. Tuy nhiên, trong tình hình hiện tại quan hệ quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp. Tranh chấp, xung đột và các hành vi vi phạm luật quốc tế xảy ra rất nhiều. Giải quyết các tranh chấp, xử lý các hành vi vi phạm, các hành vi gây thiệt hại như thế nào là vấn đề hết sức quan trọng. Bởi các quan hệ trong luật quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an ninh của chủ thể tham gia quan hệ đó đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến tình hình chung của toàn thế giới.
Hành vi vi phạm pháp luật quốc tế sẽ bị xử lý như thế nào, hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể của luật quốc tế thì sẽ bồi thường ra sao? Các chủ thể bị vi phạm, thiệt hại sẽ có những quyền gì, được phép hành động như thế nào cho đúng luật quốc tế? v.v Chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế đã được đặt ra để giải quyết các vấn đề đó nhằm đảm bảo sự tuân thủ các quy phạm pháp luật quốc tế, bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khi bị xâm hại và lợi ích của cộng đồng quốc tế. Trong phạm vi bài viết này nhóm sẽ tập trung làm rõ về trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế, cách phân biệt trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế pháp lý quốc tế đồng thời nêu ra thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm pháp lý và cưỡng chế pháp lý trong luật quốc tế hiện nay.
34 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14136 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tican có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thì Vatican phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế.
2. PHÂN LOẠI TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ:
2.1. Căn cứ vào thiệt hại xảy ra: Trách nhiệm pháp lý quốc tế bao gồm:
2.1.1. Trách nhiệm phi vật chất:
Thể loại phi vật chất là một dạng trách nhiệm pháp lý quốc tế, theo đó chủ thể vi phạm luật quốc tế phải có nghĩa vụ đền bù thiệt hại về mặt tinh thần cho chủ thể luật quốc tế khác (chủ thể bị hại), và một số trường hợp, phải gánh chịu thiệt hại vật chất do các biện pháp trả đũa hoặc trừng phạt mà một chủ thể áp dụng trên cơ sở quy định của luật quốc tế. Trách nhiệm phi vật chất có thể áp dụng một trong ba hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế: Hình thức đáp ứng đòi hỏi của bên bị hại; hình thức trả đũa và hình thức trừng phạt.
Làm thỏa mãn yêu cầu của bên bị hại:
Là một hình thức thực hiện trách nhiệm phi vật chất như xin chia buồn, thông cảm chính thức hay xin lỗi, cam kết không tái phạm, long trọng tuyên bố chính thức thừa nhận việc vi phạm, ban hành văn bản pháp luật ngăn ngừa vi phạm và xét xử nghiêm minh các cá nhân vi phạm hoặc có thể bồi thường một phần nhỏ thiệt hại về danh nghĩa.
Trả đũa :
Là hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế do bên bị hại tiến hành nhằm mục đích trừng phạt những vi phạm pháp luật quốc tế, thực hiện thông qua hành vi đáp trả một cách tương xứng đối với các hành vi vi phạm trên cơ sở luật quốc tế.
Trừng phạt quốc tế ( chế tài quốc tế )
Là hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế mang tính ngiêm khắc nhất, được áp dụng với các vi phạm luật quốc tế nghiêm trọng và chỉ được tiến hành mang tính chất tập thể. Hình thức trừng phạt thường được thực hiện trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc trên cơ sở của Hội đồng bảo an nhằm áp dụng biện pháp trừng phạt đối với quốc gia vi phạm hòa bình hoặc đe dọa hòa bình. Được thực hiện qua ba phương thức:
+ Trừng phạt phi vũ trang có thể là : cắt đứt một phần hoặc toàn bộ quan hệ ngoại giao; cắt đứt giao thông, liên lạc như cấm vận hàng hải, hàng không, khai trừ khỏi các tổ chức quốc tế , bao vây, phong tỏa, cấm vận kinh tế…
+ Trừng phạt bằng vũ trang là việc hội đồng bảo an quyết định sử dụng lực lượng hải, lục, không quân nhằm khôi phục lại hòa bình và an ninh quốc tế.
+ Trừng phạt bằng cách hạn chế chủ quyền như chiếm đóng một phần lãnh thổ, hạn chế quyền có lực lượng vũ trang; áp đặt chế độ kiểm soát quốc tế.
Ví dụ: Sau thế chiến thứ hai, phe Đồng minh đã phân chia lãnh thổ Đức, không cho Đức, Ý, Nhật thành lập lực lượng vũ trang đưa quân ra nước ngoài.
2.1.2. Trách nhiệm vật chất :
Thể loại vật chất của trách nhiệm pháp lý quốc tế là một dạng trách nhiệm pháp lý quốc tế, theo đó chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế phải có nghĩa vụ đền bù về mặt vật chất cho chủ thể bị hại.
Thể loại vật chất xuất hiện khi có các yếu tố cấu thành vi phạm là có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế; có thiệt hại vật chất trên thực tế; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại vật chất xảy ra. Thể loại vật chất có hai hình thức: Khôi phục nguyên trạng ( Restitusia ) và đền bù thiệt hại (Reparasia ).
Khôi phục nguyên trạng:
Là hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế về mặt vật chất, theo đó, bên gây hại có nghĩa vụ khôi phục lại các thiệt hại vật chất cho bên bị hại gần với hiện trạng vật chất ban đầu. Hình thức khôi phục nguyên trạng chỉ thực hiện trong trường hợp có điều kiện (ví dụ: xây lại cây cầu bị phá, trả lại đồ vật bị tịch thu…).
Ví dụ : Khi giải quyết tranh chấp năm 1962 về ngôi đền giữa Thái Lan và Campuchia, tòa quốc tế đã yêu cầu Thái Lan phải trả lại đồ vật trong đền.
Bồi thường vật chất :
So với hình thức phục hồi nguyên trạng thì hình thức này được áp dụng nhiều hơn. Đền bù thiệt hại phải dựa trên nguyên tắc “sự bồi thường phải tương xứng với thiệt hại xảy ra” được áp dụng để xác định mức độ bồi thường có nghĩa là mức độ bồi thường không hơn, không kém thiệt hại đã xảy ra trên thực tế. Với những hành vi vi phạm thông thường , nhiều khi cách giải quyết, tính toán mức bồi thường có phần giống với cách giải quyết của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng của luật dân sự trong nước( mối lợi đã mất, khoản tiền bồi thường thiệt hại tinh thần, khoản tiền lời trong trường hợp bồi thường quá muộn).
Riêng đối với việc đền bù bằng tiền có thể thực hiện cả đối với trách nhiệm vật chất và trách nhiệm phi vật chất , mặc dù trên thực tế những mất mát về tinh thần không thể được thay thế bằng các lợi ích vật chất khác nhưng phần nào cũng giúp các chủ thể bị thiệt hại khắc phục các hậu quả đáng tiếc xảy ra và nó còn có ý nghĩa là các hình phạt tượng trưng đối với các chủ thể đã có hành vi vi phạm.
2.2. Căn cứ vào hành vi gây hại:
2.2.1. Trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan:
Các hành vi luật quốc tế không cấm nhưng luật quốc tế lại ràng buộc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại với các chủ thể khi tiến hành các hoạt động được luật quốc tế cho phép nhưng lại gây thiệt hại cho các chủ thể khác của luật quốc tế (thường là vật chất).
Nguồn luật điều chỉnh:
Các quy phạm về bồi thường thiệt hại gây ra do thực hiện hành vi mà luật quốc tế không cấm được ghi nhận trong:
Các ngành luật chuyên biệt: Luật hàng không dân dụng quốc tế, luật vũ trụ quốc tế, luật nguyên tử quốc tế, luật biển quốc tế, …
Một số công ước quốc tế : Công ước về trách nhiệm quốc tế đối với thiệt hại do phương tiện bay vũ trụ gây ra; công ước về trách nhiệm trước bên thứ ba trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân 1960 (công ước bổ sung cho công ước này năm 1963); công ước về trách nhiệm của người tác nghiệp các tàu hạt nhân năm 1962; công ước về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hat nhân năm 1963; công ước về bồi thường thiệt hại phát sinh do phương tiện bay nước ngoài gây cho người thứ ba trên mặt đất năm 1952.
Căn cứ xác định trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây ra bởi hành vi luật quốc tế không cấm ( trách nhiệm khách quan ).
Có ba điều kiện được xem là cơ sở xác định trách nhiệm khách quan:
Có sự kiện làm phát sinh hiệu lực áp dụng của các quy phạm pháp lý nêu trên
+ Đây là điều kiện cần để xác định trách nhiệm pháp lý khách quan, là cơ sở thực tiễn để xác định trách nhiệm pháp lý khách quan.
+ Là hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ làm xuất hiện các tình thế, hoàn cảnh không kiểm soát được với các trang thiết bị, biện pháp khắc phục hiện có mặc dù các chủ thể đó không mong muốn.
Có quy phạm pháp lý quy định nghĩa vụ và quyền tương ứng trong trách nhiệm khách quan
+ Căn cứ về sự kiện pháp lý chỉ là cơ sở thực tiễn để xác định trách nhiệm pháp lý khách quan, còn căn cứ này là cơ sở pháp lý, là điều kiện đủ để xác định trách nhiệm pháp lý khách quan.
+ Một hành vi không bị Luật quốc tế cấm và làm phát sinh thiệt hại đối với các chủ thể khác chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có các quy phạm pháp lý quy định về nghĩa vụ này, hay nói cách khác phải có các thỏa thuận quốc tế về việc xác định trách nhiệm trong những trường hợp cụ thể này. Có nghĩa là, nếu không có các quy phạm kể trên , các chủ thể luật quốc tế sẽ không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do các hành vi hợp pháp của họ gây ra.
* Các quy phạm pháp lý kể trên có thể được ghi nhận trong các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực khác nhau: Luật hàng không, luật vũ trụ, luật biển…
Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện pháp lý và thiệt hại vật chất phát sinh.
Là cơ sở để xác đinh đúng chủ thể có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm pháp lý khách quan, đảm bảo tính quy luật, tính khách quan, tránh suy diễn chủ quan trong xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế. Chú ý rằng thiệt hại xảy ra ở đây chỉ bao gồm thiệt hại vật chất mà thôi.
Thực hiện trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây ra do hành vi mà luật quốc tế không cấm :
Đối với trách nhiệm từ thực hiện hành vi hợp pháp của quốc gia, có thể áp dụng các hình thức sau:
Đền bù bằng tiền hoặc hiện vật. Nguyên tắc chung của việc bồi thường là sự bồi thường phải tương xứng với thiệt hại xảy ra và phải bồi thường toàn bộ.
Có thể áp dụng hạn hữu hình thức thực hiện trách nhiệm khác như hình thức thay thế thiệt hại bằng việc chuyển giao cho chủ thể bị hại những đối tượng tương ứng về ý nghĩa và giá trị, thay thế đối tượng bị mất đi.
Các loại vi phạm pháp luật quốc tế:
Vi phạm pháp luật quốc tế là hành vi của chủ thể luật quốc tế trái với quy định của pháp luật quốc tế, được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, gây ra thiệt hại cho một hoặc một số chủ thể của luật quốc tế khác.
Tội ác quốc tế:
Hành vi vi phạm pháp luật quốc tế cực kì nguy hiểm của một chủ thể luật quốc tế, làm tổn hại hòa bình, an ninh thế giới, làm tổn hại quyền lợi quan trọng và sự sống còn của một dân tộc, một quốc gia hay một tổ chức quốc tế. Bao gồm:
Tội ác chống hòa bình. Ví dụ: Lập kế hoạch, tiến hành chiến tranh xâm lược.
Tội ác chống lại quyền dân tộc tự quyết. Ví dụ: Hành vi dùng vũ lực duy trì quyền đô hộ của các nước đế quốc trước đây.
Tội ác chống lại loài người. Ví dụ: Ngược đãi tù nhân, tội ác diệt chủng.
Tội ác hủy hoại môi trường môi sinh: vi phạm các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Ví dụ: Tàng trữ, sử dụng vũ khí hạt nhân, vi trùng, chất hóa học gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, biển cả.
Ngoài quốc gia thì các cá nhân cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Ví dụ: Tòa án quốc tế Nuremberg và Tokyo xét xử tội phạm chiến tranh thế giới thứ hai.
Những vi phạm pháp luật quốc tế thông thường.
Theo như đã nói ở trên thì các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế khác không phải là tội ác quốc tế thì được coi là vi phạm pháp luật quốc tế thông thường. Cụ thể đó là hành vi của chủ thể luật quốc tế trái với pháp luật quốc tế với mức độ không nghiêm trọng như tội ác quốc tế nhưng đã gây thiêt hại cho 1 hoặc 1 số chủ thể luật quốc tế khác. Ví dụ như việc không hành động cần thiết để dẫn tới hành động chống lại đại diện ngoại giao nước ngoài, vi phạm các nghĩa vụ thương mại… Trong các trường hợp đó, trách nhiệm pháp lý đặt ra trong quan hệ giữa chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế với chủ thể bị thiệt hại.
Ghi chú
Phân biệt hành vi thiếu thân thiện của các quốc gia với vi phạm pháp luật quốc tế.
Hành vi thiếu thân thiện được hiểu là một hành vi của quốc gia làm thiệt hại cho quốc gia khác nhưng không vi phạm tới cam kết quốc tế. Các hành vi thiếu thân thiện đó làm thiệt hại tới lợi ích không được luật quốc tế bảo vệ của quốc gia khác.
Ví dụ, hành vi hạn chế một số quyền của cá nhân và pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại, tăng thuế hải quan ở một số mặt hàng nhập khẩu, quốc hữu hóa đối với sở hữu nước ngoài.
Trong các trường hợp như vây, quốc gia bị đối xử thiếu thân thiện có quyền tự hành động để đối phó lại nhưng không được vi phạm các quy định và cam kết quốc tế. Hiện tại luật quốc tế chưa có quy định cấm áp dụng các hành vi thiếu thân thiện kiểu nêu trên trong quan hệ quốc tế. Do vậy vai tró quan trọng trong vấn đề điều chỉnh các quan hệ loại này thuộc về các quy phạm đạo đức và chính trị quốc tế. Chẳng hạn, vụ kiện bán phá giá cá ba sa của Mỹ đối với Việt Nam là 1 trường hợp như thế. Vì ưu thế cá ba sa nước ta khi xuất sang Mỹ với giá rẻ mà chất lượng tốt làm ảnh hưởng lớn đến các hiệp hội kinh doanh cá của Mỹ, nên Mỹ đã dùng cách này để hạn chế hàng Việt Nam.
Phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của chủ thể luật quốc tế với hành vi vi phạm được xác định là loại tội phạm có tính chất quốc tế.
Tội phạm mang tính chất quốc tế là các tội phạm hình sự, do các ca nhân thực hiện, xâm phạm tới trật tự pháp lý quốc tế hoặc quốc gia và mang tính chất nguy hiểm trên phạm vi quốc tế.
Cơ sở pháp luật của sự truy cứu trách nhiệm đối với các loại tội phạm này là các công ước quốc tế về đấu tranh chống một số loại tội phạm đặc biệt( tội không tặc, tội khủng bố, tội buôn bán ma túy, chất phóng xạ…) và các quy phạm pháp luật hình sự của các quốc gia được ban hành trên cơ sở các công ước đó.
Đặc điểm khác biệt của tội phạm mang tính chất quốc tế là ở chỗ, những tội phạm này được thực hiện bởi các cá nhân, không có liên quan tới các chính sách của quốc gia. Nói cách khác, các cá nhân khi phạm tội phạm có tính chất quốc tế không phải là các nhà chức trách hoặc công chức thay mặt quốc gia khi thi hành công vụ. Về nguyên tắc, quốc gia không chịu trách nhiệm về hoạt động của các cá nhân, do vậy, các loại tội phạm trên không là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế của chủ thể luật quốc tế.
Chủ thể luật quốc tế là quốc gia không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ chịu trách nhiệm về vật chất, tinh thần. Các cá nhân khi vi phạm thì phải chịu trách nhiệm về hình sự.
2.2.2 Trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan:
Khái niệm
Là hậu quả pháp lý phát sinh do chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế gây hại cho chủ thể khác.
Căn cứ để xác định:
Có hành vi trái pháp luật quốc tế: gồm 4 dấu hiệu:
Hành vi vi phạm thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
+ Thực hiện các hành vi mà pháp luật quốc tế cấm.
+ Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ xuất phát từ các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế hoặc các văn bản pháp luật quốc gia quốc gia đơn phương ban hành.
+ Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ pháp sinh trong tố tụng quốc tế như không tuân thủ và thực hiện các phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp của Tòa án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế mà các bên đã tự nguyện thừa nhận thẩm quyền của các cơ quan này.
+ Diễn ra do cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước, công dân quốc gia thực hiện như xâm lược, tấn công biên giới, chỉ đạo xâm nhập tòa đại sứ…Không ngăn cản các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế mà công dân đang thực hiện, không trừng trị các công dân gây hại cho công dân nước khác, không ra văn bản thực hiện các cam kết quốc tế.
Hành vi trái pháp luật quốc tế phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ quốc tế, không phù hợp với các nghĩa vụ ghi nhận trong các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế mà quốc gia đã kí kết, không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Các nghĩa vụ này đang có hiệu lực đối với quốc gia vào thời điểm hành vi vi phạm được thực hiện.
Hành vi được xem xét trên cơ sở luật quốc tế. Và vì vậy, cho dù phù hợp với luật quốc gia nhưng lại không phù hợp với luật quốc tế thì vẫn là hành vi vi phạm.
Ý nghĩa của yếu tố này: là điều kiện cơ bản để xác định có hay không có trách nhiệm pháp lý, vì thiếu điều kiện này sẽ không đặt ra trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Có thiệt hại xảy ra: thiệt hại xảy ra là cơ sở để giải quyết vấn đề bồi thường, sự xâm hại đến các lợi ích luật quốc tế bảo vệ có thể là:
Để xác định trác nhiệm pháp lý quốc tế đối với một chủ thể luật quốc tế, đặc biệt là việc xác định trách nhiệm đền bù thiệt hài thì hành vi trái pháp luật dù ở mức độ hay hình thức nào cũng phải đã gây ra thiệt hại cho chủ thể khác hoặc cho các quan hệ được luật quốc tế bảo vệ.
Thiệt hại về vật chất hay phi vật chất, hay vừa là vật chất vừa là phi vật chất. Thiệt hại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, gây ra với một quốc gia hay nhiều quốc gia. Thiệt hại có thể gây ra cho một chủ thể nhất định, có thể nhiều chủ thể hay cộng đồng.
Ý nghĩa của yêu tố này: mặc dù nó không có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định có trách nhiệm pháp lý quốc tế hay không nhưng là cở sở giải quyết bồi thường thiệt hại.
Có mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật quốc tế và thiệt hại:
Về nguyên tắc không thể bắt buộc một quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại không phải do mình gây ra.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra thể hiện ở chỗ thiệt hại xảy ra là hậu quả tất yêu phát sinh từ hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm phải là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại đã xảy ra.
Nếu không xác định được môi quan hệ nhân quả thì thiệt hại xảy ra cho các chủ thể khác hoặc cộng dồng quốc tế không phải do hành vi trái pháp luật trên trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác.
Hành vi trái pháp luật quốc tế phải là nguyên nhân dẫn đến hậu quả xảy ra thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Ý nghĩa của yếu tố này: là cơ sở để xác định đúng chủ thể có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm pháp lý chủ quan, đảm bảo tính khách quan, tránh suy diễn chủ quan trong xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Yếu tố lỗi:
Lỗi trong trách nhiệm pháp lý quốc tế không phải là yếu tố bắt buộc, bởi vì xem xét yếu tố lỗi chính là xem xét mặt chủ quan của hành vi nghĩa là xác định trạng thái tâm lý của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy, sẽ không thực tế đối với các chủ thể của hệ thống pháp luật quốc tế - những chủ thể được tạo thành từ một tập thể người – luôn luôn hành động một cách có lý chí và có tự do ý chí, chẳng hạn không thể nói rằng từ một hoàn cảnh khác quan hoặc chủ quan nào đó mà một quốc gia không thể có khả năng nhận thức được và từ đó không thể lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
Tuy nhiên, yếu tố lỗi cũng có ý nghĩa nhất định trong việc xác định mức độ bồi thương trong trách nhiệm pháp lý quốc tế.
3. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm pháp lý quốc tế:
Không phải mọi hành vi vi phạm luật quốc gia đều dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế, mà trên thực tế có những hành vi của quốc gia có những yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật nhưng hoàn toàn có sơ sở để miễn truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế. Trong Hiến Chương Liên Hợp Quốc ghi nhận những trường hợp được miễn truy cứu sau:
Tự vệ hợp pháp điều 34
Đối phó hành vi vi phạm.(điều 30: Các biện pháp đối kháng (trã đũa hợp pháp) , điều 32: thực hiện hành vi do sức ép , điều 33: tình thế cấp thiết )
Do sự đồng ý của quốc gia bị hại.(điều 29: có sự đồng ý của quốc gia hữu quan)
Trường hợp bất khả kháng.(điều 31: Hành vi bất khả kháng và hành vi do ngoại cảnh tác động)
Biện pháp trả đũa là hành vi vi phạm của một quốc gia được thực hiện do có sự vi phạm pháp luật quốc tế của quốc gia khác. NHưng thực hiện biện pháp này quốc gia phải thực hiện trên nguyên tắc vừa mức nếu vượt quá giới hạn của biện pháp trả đũa thì việc miễn trách nhiệm pháp lý sẽ không được đặt ra.
Trường hợp tự vệ chính đáng sẽ không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế nếu như nó được tiến hành phù hợp với Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Như năm 1979 Trung Quốc tấn công biên giới Việt Nam, Việt Nam đem quân tấn công lại, hành vi tự vệ chính đáng của Việt Nam trong trường hợp này không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Trường hợp bất khả kháng, quốc gia hoàn toàn không có khả năng thể hiện ý chí của mình về việc thay đổi tình thế, đó là những trường hợp do thiên tai hay sự cố làm cho quốc gia không thể thực hiện được các cam kết của mình.
Ngoài ra quốc gia được miễn trách nhiệm pháp lý quốc tế trong trường hợp hành vi của quốc gia nhìn từ góc độ các quy phạm pháp luật quốc tế chung là vi phạm pháp luật quốc tế song việc thực hiện hành vi đó được thực hiện trên cơ sở được sự đồng ý của quốc gia hữu quan.
4 Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế:
4.1. Cơ sở xác định trách nhiệm của tổ chức quốc tế:
Định nghĩa:
Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế là trách nhiệm phát sinh từ việc các tổ chức quốc tế này vi phạm các nghĩa vụ quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế và trong các nguồn pháp luật khác.
Cơ sở pháp lý:
Điều ước quốc tế về thành lập tổ chức quốc tế.
Điều ước quốc tế về nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ kể cả mặt trăng và các hành tinh năm 1967.
Công ước về trách nhiệm quốc tế đối với thiệt hại do phương tiện bay vũ trụ gây ra.
Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân năm 1963.
Công ước Brucxen về trách nhiệm của người tác nghiệp các tàu hạt nhân năm 1962
Cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế:
Tổ chức quốc tế và các nhân viên của tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của điều ước thành lập tổ chức, các điều ước quốc tế mà tổ chức là thành viên, quy định của pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật của quốc gia, nơi tổ chức quốc tế đóng trụ sở hoặc tiến hành hoạt động. Đây là cơ sở của trách nhiệm của tổ chức quốc tế.
Tổ chức quốc tế gây ra thiệt hại cho các tổ chức, các quốc gia khác hoặc các thể nhân, pháp nhân.
Thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế:
Tổ chức quốc tế có thể gánh chịu trách nhiệm vật chất và trách nhiệm phi vật chất. Đối với trách nhiệm vật chất nguồn kinh phí để tổ chức quốc tế có khả năng thực hiện trách nhiệm pháp vật chất là các khoản đóng góp của các quốc gia thành viện .
Đối với trách nhiệm vật chất, trong thực tiễn hoạt động hiện nay đã hình thành hai khuynh hướng thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế là:
Xác lập trách nhiệm vật chất chung của tổ chức và các quốc gia thành viên.
Xác lập trách nhiệm vật chất riêng của tổ chức quốc tế.
Tổ chức quốc tế phải gánh chịu trách nhiệm đối với hoạt động của các cơ quan, thiết chế cũng như các nhân viên của tổ chức.
Ví dụ : Liên Hợp Quốc đã kí các thỏa thuận với các quốc gia nơi có trụ sở của các cơ quan Liên Hợp Quốc về bồi thường thiệt hại do hoạt động của nhân viên quân sự và lực lượng vũ trang Liên Hợp Quốc gây ra cho công dân và tài sản của các nước này.
Tổ chức quốc tế có thể là chủ thể đưa ra yêu cầu về bồi thường thiệt hại do quốc gia, công dân nước sở tại gây ra cho nhân viên và tổ chức đó.
Ví dụ: Vụ kiện chống Israel vào năm 1949 khi những kẻ khủng bố của Israel đã giết đặc phái viên của Liên Hợp Quốc là huân tước Becnadot.
Tóm lại, tổ chức quốc tế có thể chịu trách nhiệm pháp lý theo luật quốc tế cũng như luật quốc gia.
II. CƯỠNG CHẾ TRONG LUẬT QUỐC TÊ
1. Lý luận chung về cưỡng chế trong luật quốc tế
Cưỡng chế là một tính chất đặc chưng, cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo Lênin thì pháp luật sẽ không còn là gì nữa "nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không".
Nếu như các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán được con người tuân thủ, chủ yếu nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và lên án của xã hội thì quy phạm pháp luật được nhà nước bảo đảm đảm bảo thực hiện bằng các công cụ quản lý nhà nước.
“Cưỡng chế được hiểu là những biện pháp dùng quyền lực bắt buộc cá nhân hoặc tổ chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định (hay nói cách khác là phải thực hiện và phục tùng theo một khuôn mẫu nào đó”.
Cưỡng chế được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (toàn án, cảnh sát, quân đội...)
Cưỡng chế được dùng để:
- Răn đe, ngăn chặn, trừng trị người vi phạm pháp luật.
- Giáo dục sâu sắc đối với các chủ thể pháp luật. Quy phạm pháp luật là chuẩn mực để con người rèn luyện ý thức công dân, hình thành ý thức, tránh hành động tùy tiện, coi thường pháp luật.
Theo đó ta có thể hiểu: “Cưỡng chế pháp lý quốc tế thực chất là việc truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế khi một hay một số chủ thể của luật quốc tế không thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình. Nghĩa là khi một chủ thể (ví dụ, một quốc gia) vi phạm luật quốc tế thì vấn đề trách nhiệm pháp lý đặt ra với quốc gia đó (họ phải có trách nhiệm bồi thường, lên tiếng xin lỗi công khai, khôi phục nguyên trạng, v.v… đối với quốc gia bị hại). Nhưng nếu họ không hoàn thành trách nhiệm pháp lý đó thì biện pháp cưỡng chế được áp dụng.
Như ta biết luật quốc tế là một hệ thống pháp luật đặc biệt không có cơ quan lập pháp, hành pháp tư pháp như luật quốc gia. Các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế được hình thành thông qua sự thỏa thuận, đấu tranh, thương lượng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế và nó được biểu hiện bằng sự tuân thủ, tự nguyện kết hợp với các biện pháp cưỡng chế thi hành do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận áp dụng.
Ví dụ: Khi quyết định các biện pháp nhằm bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế thì Hội Đồng Bảo An của LHQ chỉ thay mặt, nhân danh các quốc gia thành viên LHQ chứ không phải là cơ quan tối cao đứng trên các quốc gia để áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cụ thể Hôi đồng bảo an LHQ áp dụng biện pháp cưỡng chế vũ trang trong những trường hợp đặc biệt cần thiết.
Biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù … làm biện pháp bảo đảm thi hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực mà chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế dưới hình thức riêng rẽ hoặc tập thể. Khi LQT không được một chủ thể thực thi theo đúng yêu cầu (vi phạm về nghĩa vụ thành viên hoặc vi phạm qui định của LQT), thì pháp luật sẽ ràng buộc chủ thể vi phạm vào những trách nhiệm pháp lý QT cụ thể để buộc chủ thể đó phải có nghĩa vụ khôi phục lại trật tự pháp lý QT đã bị xâm hại. Chủ thể của LQT áp dụng nhiều cách thức, biện pháp để bảo đảm thi hành luật như: sử dụng điều ước QT và các cách thức pháp lý khác, tận dụng các yếu tố chính trị, xã hội để tạo động lực cho sự thực thi LQT.
Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản và chủ yếu trong việc thi hành áp dụng biện pháp cưỡng chế việc tuân thủ áp dụng pháp luật quốc tế bởi lẽ quốc gia là chủ thể cơ bản của luật quốc tế, xây dựng đa số các quy phạm pháp luật quốc tế và tham gia các quan hệ quốc tế nên dẫn đến là chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế nhiều nhất. Vì vậy có thể nói các quốc gia là những chủ thể áp dụng nhiều hơn cả các biện pháp cưỡng chế quốc tế so với các chủ thể khác của luật quốc tế.
2. Cơ sở pháp lý
Thứ nhất: Theo khoản 7 điều 2 Hiến chương LHQ quy định “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và không đòi hỏi các thành viên của Liên hợp quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chương; tuy nhiên, nguyên tắc này không liên quan đến việc thi hành những biện pháp cưỡng chế nói ở chương VII.” Những điều khoản quan trọng nhất có liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là việc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng những biện pháp an ninh tập thể cưỡng chế, được quy định cụ thể và chi tiết nhất ở chương VI và VII. Ta có thể xác định cơ sở pháp lý đầu tiên được quy định tại chương VII Hiến chương LHQ.
Thứ hai: Luật quốc tế được hình thành thông qua sự thỏa thuận, đấu tranh, thương lượng của các chủ thể luật quốc tế và nó được biểu hiện bằng sự tuân thủ, tự nguyện kết hợp với các biện pháp cưỡng chế thi hành do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận áp dụng. Có nghĩa các bên khi tham gia kí kết các điều ước quốc tế sẽ thỏa thuận về những biện pháp cưỡng chế buộc chủ thể vi phạm không tự nguyện phải thực hiện. Từ đó rút ra cơ sở pháp lý thứ hai của cưỡng chế trong luật quốc tế là các điều ước song phương và đa phương mà chủ thể của luật quốc tế tham gia kí kết.
3. Các hình thức cưỡng chế
Biện pháp cưỡng chế thể hiện dưới ba hình thức sau:
3.1.Cưỡng chế riêng lẽ:
Trên bình diện quốc tế không có cơ quan cưỡng chế chuyên trách để tiến hành cưỡng chế khi có vi phạm mà những biện pháp cưỡng chế do chính chủ thể của luật quốc tế thực hiện dưới hình thức cá thể, riêng lẻ tức là chủ thể bị hại được quyền sử dụng những biện pháp cưỡng chế trả đũa hay biện pháp tự vệ đối với chủ thể gây hại cho mình (rút đại sứ về nước, cắt đứt quan hệ ngoại giao, bao vây cấm vận kinh tế, giáng trả…).
Cấm vận hay trừng phạt kinh tế áp đặt lên một quốc gia là một biện pháp nhằm mục đích làm thay đổi các chính sách, chế độ chính trị tại quốc gia đó
Ví dụ 1 : Cấm vận của Mỹ
Như trong quan hệ giữa Mỹ - Iran thì Trong hơn 30 năm qua, Mỹ áp dụng chính sách cấm vận kinh tế chống Iran vì một số "tội" như sau: Iran "chống lại" tiến trình hòa bình Trung Đông, ủng hộ các phong trào Hồi giáo Hezbollah và Hamas, tiếp thu công nghệ hạt nhân và chế tạo tên lửa đạn đạo, có thái độ chống Mỹ, trong đó việc Iran theo đuổi chương trình hạt nhân bí mật được xem là trọng tâm của mọi vấn đề.
Cụ thể từ năm 1979 đến nay Mỹ tiến hành các hoạt động cấm vận riêng lẻ như:
- Mỹ đã đóng băng các tài sản tài chính của Iran
- Kế đến, Mỹ cấm nhập khẩu dầu thô từ Iran nhưng vẫn cho nhập các sản phẩm dầu mỏ đã qua chế biến. Tiếp sau đó nữa, Mỹ cấm nhập khẩu toàn bộ sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ và cả các sản phẩm phi dầu mỏ của Iran.
- Vào giữa thập niên 80 thế kỉ XX, Mỹ cấm hoàn toàn việc xuất khẩu hang hóa sang Iran.
- Mỹ ban hành Luật cấm vận Iran- Libya (ILSA, luật này ngày nay rút gọn còn ISA do Libya đã được rút tên) vào năm 1996, theo đó cấm đầu tư vào ngành năng lượng Iran.
Ví dụ 2: Triệu hồi đại sứ
Nhật Bản ngày 2-11/2010 nói rằng, Tokyo đang triệu hồi đại sứ nước này tại Nga về nước để phản đối việc Tổng thống Dmitry Medvedev đến thăm đảo Kurils mà hai bên đều tuyên bố chủ quyền.
Ngày 5-11/2010, Thái Lan đã triệu hồi đại sứ của mình tại Phnom Penh để phản đối việc Campuchia bổ nhiệm cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra làm cố vấn kinh tế cho Thủ tướng Hun Sen và chính phủ Campuchia.
Ví dụ 3: Cắt đứt quan hệ ngoại giao
Ngày 03/03/2008 Ecuador và Venezuela đã đồng loạt cắt đứt quan hệ ngoại giao với Colombia nhằm phản đối việc quân đội Colombia tấn công vào căn cứ của tổ chức nổi dậy Các lực lượng vũ trang Cách mạng Colombia (FARC) bên trong lãnh thổ Ecuador.
Ví dụ 4: Trả đũa
Tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia, ngày 12/11/2009 Bộ ngoại giao Capuchia ra lệnh trục xuất thư ký thứ nhất của Đại sứ quán Thái Lan trong 48 giờ kể từ 5 giờ chiều cùng ngày. Thái Lan cũng hạ lệnh trục xuất thư ký thứ nhất của đại sứ quán Campuchia để trả đũa.
3.2. Biện pháp cưỡng chế tập thể
Cưỡng chế tập thể là biện pháp mà quốc gia bị hại có quyền liên minh các quốc gia trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại các quốc gia gây hại cho mình. Thường thì biện pháp cưỡng chế tập thể được thực hiện thông qua Liên Hợp Quốc.
Liên Hợp Quốc giao cho Hội Đồng Bảo An có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình và an ninh của các quốc gia trong khuôn khổ tuân thủ hiến chương Liên Hợp Quốc, có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế và trừng phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia vi phạm hòa bình và anh ninh thế giới.
Biện pháp cưỡng chế của Liên hợp quốc
Theo Điều 24 của Hiến chương Liên hợp quốc, các nước thành viên Liên hợp quốc trao cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược. Các quy định của Hiến chương liên quan đến HĐBA nằm trong các chương V, VI, VII, VIII và XII.
Chế tài được áp dụng theo quyết định của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhằm loại trừ mối đe doạ đối với hoà bình, an ninh quốc tế, loại trừ sự vi phạm hòa bình và hành vi xâm lược. Để chấm dứt các cuộc xung đột vũ trang có nguy hại đến nền hoà bình thế giới hoặc có hành vi xâm lược. Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất trong hệ thống Liên hợp quốc có toàn quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhân danh Liên hợp quốc, trên cơ sở quyết định phù hợp với nguyên tắc nhất trí của các uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an. Hội đồng bảo an cũng vận dụng các thoả hiệp khu vực hoặc các cơ quan khu vực để thực hiện việc cưỡng chế dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bảo an, hoặc uỷ quyền cho các cơ quan đó thực hiện biện pháp cưỡng chế, trừ trường hợp quy định tại Điều 53, 107 - Hiến chương Liên hợp quốc. Đây là các biện pháp chế tài áp dụng đối với những nước thù địch trong Chiến tranh thế giới II và những nước tái diễn hành vi xâm lược chống các nước thành viên khác. Các biện pháp cưỡng chế kém phần hiệu quả do chính sách dung túng của các thế lực phản động .
Hội đồng bảo an là cơ quan xác định sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định những biện pháp để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh thế giới10. Những biện pháp mà Hội đồng bảo an có quyền quyết định bao gồm: thứ nhất, Hội đồng bảo an yêu cầu các thành viên áp dụng các biện pháp kinh tế và các biện pháp khác (không bao gồm dùng vũ lực) như đình chỉ một phần hay toàn bộ những quan hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng không, bưu chính, điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện giao thông khác (cấm vận), cắt đứt quan hệ ngoại giao để ngăn chặn hoặc chấm dứt hành động xâm lược11. Thứ hai, Hội đồng bảo an thực hiện hành động quân sự đối với quốc gia có hành động xâm lược như dùng các lực lượng hải, lục, không quân nếu xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh thế giới. Hành động này còn bao gồm cả những cuộc thị uy, những biện pháp phong tỏa và những cuộc hành binh khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của những thành viên Liên hợp quốc thực hiện12. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực lượng vũ trang, sự viện trợ và mọi phương tiện phục vụ khác kể cả việc cho quân đội Liên hợp quốc qua lãnh thổ của mình khi cần thiết cho việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới13. Các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một số phi đội không quân của nước mình sẵn sàng chiến đấu nhằm phối hợp thực hiện một hành động quốc tế có tính chất cưỡng chế14. Cơ quan giúp Hội đồng bảo an để chỉ huy lực lượng vũ trang của Liên hợp quốc là Ban tham mưu quân đội gồm tham mưu trưởng các nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an15.
Ví dụ 1 : Trừng phạt tập thể trên phạm vi toàn cầu và sử dụng công cụ Nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ nhằm đạt cho bằng được mục tiêu là ép Iran phải ngưng chương trình hạt nhân.
Tháng 6/2010, HĐBA LHQ ban hành Nghị quyết 1929 mở rộng thêm nhiều lĩnh vực trừng phạt Iran, như: cấm mọi giao dịch liên quan đến tên lửa đạn đạo, vũ khí, các giao dịch liên quan đến vũ khí quân dụng,... cấm đi lại đối với nhiều quan chức lãnh đạo cấp cao Iran, phong tỏa tài sản của các quan chức trong Lực lượng Vệ binh Cộng hòa (IRGC) ở nước ngoài,... cấm các hãng vận tải hàng hải, hàng không và ngành tài chính Iran hoạt động ở nước ngoài...
Ví dụ 2:
Ngày 21/11/2010 Các nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ra một tuyên bố chung chỉ trích vụ thử tên lửa của Triều Tiên và thông báo sẽ thắt chặt cấm vận đối với nước này, yêu cầu uỷ ban cấm vận của Liên Hợp Quốc áp dụng các hình thức cấm vận tài chính và vũ khí đối với Triều Tiên.
Trừng phạt vũ trang của HĐBA Liên Hợp Quốc: thực hiện các cuộc hành quân cụ thể.
Liên Hợp Quốc triển khai quân đội giữ hòa bình tại Trung Đông. Có một lực lượng của Liên Hiệp Quốc có mặt tại đây, gọi là UNIFIL, với khoảng hai ngàn lính vào thời điểm tháng 8/2006. Lực lượng này được thành lập vào tháng 3/1978 sau khi Israel tấn công vào miền nam Libăng. Mục đích buộc Israel rút quân khỏi Libang.
Các biện pháp cưỡng chế tập thể do các quốc gia liên minh thực hiện.
Trả đũa của EU: Đánh thuế cao
Tháng 3/2002 Mỹ đã tuyên bố áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại đối với ngành sản xuất thép. Sau 6 tháng điều tra Mỹ cho rằng mức nhập khẩu thép tại thời điểm hiện tại là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa thiệt hại ngành sản xuất thép trong nước. Ngày 12/3/2002 Tổng thống Mỹ George Bush đã đưa tuyên bố quyết định áp dụng tự vệ cho ngành sản xuất thép bừng cách tăng thuế nhập khẩu thép từ 8% lên 30%. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 20/3/2002 và dự kiến kéo dài trong 3 năm. Liên minh châu Âu EU coi việc tăng thuế nhập khẩu thép của Mỹ lên 30% là bất hợp pháp và đã đưa đơn kiện lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, đồng thời trình danh mục hang hóa nhập khẩu của Mỹ vào EU sẽ bị đánh thuế trả đũa và đã tiến hành công việc này vào tháng 6/2002 khi Mỹ không chịu lwois lỏng mức thuế nhập khẩu thép mới được áp dụng. Tháng 3/2003 cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã đưa ra phán quyết việc Mỹ tăng thuế nhập khẩu thép là bất hợp pháp và yêu cầu nước này trở lại các biện pháp phù hợp với các quy định của hiệp định chung về thuế quan thương mại. Bằng biện pháp cưỡng chế này rõ ràng Mỹ đã phải gánh chịu hậu quả bất lợi là hàng của mình phải chịu thuế cao hơn.
Ví dụ 2: EU trừng phạt Iran
Các nước thành viên của Liên minh Châu Âu (EU) ngày 23/6/2010 đã thông qua một loạt các biện pháp trừng phạt mới nhằm vào Iran, áp đặt thêm các giới hạn về tài chính và du lịch đối với một danh sách các công ty và chuyên gia của Iran.Tất cả tài sản của ngân hàng Bank Melli, ngân hàng lớn nhất Iran, ở EU sẽ bị phong toả. Vì quan chức phương Tây cáo buộc ngân hàng Bank Melli đã cung cấp dịch vụ cho các chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Iran. EU đã áp đặt lệnh cấm đi lại với khoảng 20 công dân và 15 công ty Iran theo các lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc. Hạn chế chủ quyền: tiến hành chiếm đóng một phần lãnh thổ, hạn chế quyền có lực lượng vũ trang.
Ví dụ: Lực lượng giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đóng căn cứ trên lãnh thổ của Afghanistan hay sau thế chiến thứ hai, phe Đồng minh đã phân chia lãnh thổ Đức, không cho Đức, Ý, Nhật thành lập lực lượng vũ trang đưa quân ra nước ngoài.
4. Biện pháp đảm bảo thi hành khác
Dùng dư luận tiến bộ thế giới
Ngoài ra vấn đề dư luận tiến bộ trên thế giới và sự đấu tranh của nhân dân các nước cũng là biện pháp để cho pháp luật quốc tế phải tuân theo.
Ví dụ: Việt Nam trong tranh chấp biển Đông
Đứng ở vị trí là nước nhỏ hơn và thua kém về mọi mặt vì vậy Việt Nam trú trọng trong đấu tranh ngoại giao và sử dụng dư luận thế giới để bảo vệ chủ quyền đối với vùng biển Đông của mình.
Việt Nam đã tuyên truyền và thu hút sự quan tâm trên phương diện quốc tế cho việc bảo vệ chủ quyền của mình. Sau khi đã thể hiện thiện chí kiên trì thuyết phục, hay đàm phán, qua các kênh khác nhau Việt Nam công bố công khai trước quốc tế, tại các diễn đàn khác nhau, những chứng cứ lịch sử chắc chắn bảo đảm chủ quyền của mình nhằm mục đích bằng con đường truyền thông và ngoại giao, vận động sự quan tâm và ủng hộ của dư luận quốc tế cho một giải pháp công bằng và hoà bình cho các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Cách đây cách đây 4 năm một Giáo sư ở Khoa Luật, Đại học Bắc Kinh, tên là Zhao Lihai, sau một thời gian dài biện hộ cho đường chữ U cũng ngộ ra rằng nếu không rút lại đường này, uy tín của Trung Quốc sẽ giảm đi nhiều trong cộng đồng khu vực và quốc tế.
Trung quốc có thể thách thức Việt Nam, hay ASEAN, hoặc thậm chí một cường quốc nào đó, nhưng không dám thách thức những nguyên tắc mà hầu như cả thế giới công nhận. Chính vì vậy khi dư luận quốc tế công nhận sự phù hợp và đúng đắn của Việt Nam với các nguyên tắc của luật quốc tế thì Tung Quốc phải chấp nhận.
Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết và nhận thức của toàn xã hội đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua đó mỗi người dân thêm hiểu và thấy được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đóng góp sức lực, trí tuệ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia trên biển Đông.
5. Phân biệt trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế
Phân biệt lại khái niệm CƯỠNG CHẾ và TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ.Về mặt lý luận phổ biến hiện nay, TNPL là một nhóm biện pháp CC (nhóm này áp dụng đối với chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ bồi thường khi gây thiệt hại được quy định tại các điều ước quốc tế - nên mới có trách nhiệm pháp lý). Có nhóm cưỡng chế không phải là trách nhiệm pháp lý trong các trường hợp như trưng dụng, trưng thu, trưng mua hay cách li người bị bệnh. Biện pháp cưỡng chế được áp dụng mà không liên quan gì tới trách nhiệm pháp lý, nghĩa là nó được áp dụng ngay cả khi không xảy ra vi phạm pháp luật. Ví dụ:
Do đó, trong cuộc sống và trao đổi, có thể người ta sẽ dùng thuật ngữ CC ở khía cạnh chỉ là nhóm thứ 2 để tách biệt hẳn với thuật ngữ TNPL.
Quy trình dẫn đến trách nhiệm pháp lý khi có vi phạm:
CAM KẾT (làm phát sinh nghĩa vụ) - THỰC HIỆN CAM KẾT (pacta sunt servanda) - VI PHẠM (không tận tâm thực hiện - phát sinh trách nhiệm) - CHỊU TRÁCH NHIỆMVậy, chịu trách nhiệm bằng những biện pháp nào?
Từ đoạn này trở đi, người ta sẽ gọi đó là TNPL hay gọi đó là CC. Ta xét trường hợp sau:
TH1: Áp dụng các biện pháp ngay tức khắc, một lần và bằng một biện pháp (như trả đũa ngay lập tức). Ở trường hợp này TNPL thể hiện qua biện pháp cưỡng chế. Ví dụ: + Vi phạm nghĩa vụ trả nợ - phong tỏa tài khoản tại ngân hàng để thu hồi (ngay lập tức). Phong tỏa tài khoản này là một biện pháp cưỡng chế và cũng chính là hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm (TNPL).
TH2: Thực hiện nhiều công đoạn: buộc bồi thường / nhượng bộ / trả đũa và CC. Như vậy, CC trong trường hợp này có phải là TNPL không? Phải, vì nó là nhóm biện pháp sau VI PHẠM trong sơ đồ nói trên. Nhưng nó có phải là biện pháp cưỡng chế không? Phải, vì bản chất của nó là cưỡng chế, hay cưỡng chế của trách nhiệm pháp lý. Tức là biện pháp cưỡng chế ở đây nhằm buộc chủ thể phải gánh chịu hậu quả bất lợi do vi phạm của mình gây ra khi không tự thực hiện. Ví dụ:
+ Vi phạm nghĩa vụ trả nợ - bồi thường thiệt hại do chậm trả (TNPL) - nếu không, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng để thu hồi
Ở đây hành động phong tỏa tài khoản được coi là biện pháp để thu hồi luôn khoản bồi thường vẫn được coi là TNPL nhưng lại chình là áp dụng biện pháp CC. Cả hai trường hợp trên đều là TNPL do đó là hậu quả của không thực hiện nghĩa vụ (vi phạm).
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ VÀ CƯỠNG CHẾ TRONG LUẬT QUỐC TẾ
1. Thực tiễn tại Việt Nam
Việc thực thi các điều ước quốc tế tại Việt Nam trên nguyên tắc tiến hành dựa trên nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế (pacta sunt sevanda) về tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế và trên cơ sở có đi có lại. Để đưa các công ước mà Việt Nam tham gia đi vào cuộc sống, Việt Nam đã tiến hành công tác nội luật hóa, xây dựng pháp luật và quy chế thích hợp, tổ chức bộ máy thực hiện, tuyên truyền nâng cao ý thức chung, tăng cường tiềm lực, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, kết hợp với các trương trình kinh tế xã hội và phát triển hợp tác quốc tế trong thực tiễn. Nước ta là một nước đang phát triển, đang trên đà hội nhập quốc tế, vì vậy chúng ta càng cần một nước phát triển, đang trên đà hội nhập quốc tế, vì chúng ta đang cần phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật quốc gia để phug hợp với pháp luật quốc tế qua đó bảo vệ quyền lợi của mình khi gia nhập vào sân chơi chung của thế giới. Hơn nữa, Việt Nam với ưu thế về địa chính trị và ddaiajj kinh tế vô cùng quan trọng , nên việc tham gia vào các công ươc quốc tế là cách tốt nhất bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia trước những nước có vị thế mạnh hơn. Ví dụ nước ta có bờ biển dài trải dọc theo lãnh thổ, vùng biển có nhiều tiềm năng và là nơi thường xảy ra tranh chấp , do đó quốc hội phê chuẩn công ước 1982 về luật biển đã tạo điều kiện cho ta có một khung pháp lý cơ bản về vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia, và bảo vệ môi trường biển…..
Hiện nay Việt Nam đã và đang thực hiện nghiêm chỉnh Công Ước Viên 1969 và các quy ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều 26 và điều 27 Công ước đã đề ra nguyên tắc nghiêm chỉnh tuân thủ luật quốc tế, tức là khi quốc gia tự nguyện rang buộc bởi một cam kết mà khi viện dẫn bất cứ lí do gì, kể cả lý do về pháp luật quốc gia để biện minh cho việc không thực hiện hay thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết.
Bằng các quy định về áp dụng điều ước quốc tế như đã nói ở trên, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về tình ưu thế của pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia. Cụ thể :
Hiện nay, với việc tham gia vào sân chơi thế giới WTO, Việt Nam đã đưa ra cách tiếp cận về việc xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế nói chung, và chế định trách nhiệm pháp lý nói riêng.
Nguyên tắc phải tính đến điều ước quốc tế khi xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Nguyên tắc thẩm định các điều ước quốc tế có quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, Ủy ban thường vụ quốc hội khi đề xuất ký kết hoặc gia nhập.
Nguyên tắc ưu tiên áp điều ước quốc tế trong trường quy định của điều ước quốc tế khác với quy định của pháp luật quốc gia.
2. Thế giới
Để giải quyến những vấn đề mang tính chất toàn cầu, đảm bảo an ninh và hòa bình trong quan hệ quốc tế, trước chiến tranh thế giới thứ hai đã tồn tại một tổ chức mang tính chất toàn cầu đó là Hội quốc liên. Sự ra đời của Hội quốc liên vào năm 1920 là một dấu hiệu khởi đầu cho vấn đề về giữ hòa bình thông qua các biện pháp phi vũ trang. Tại điều 16 trong bản hiến chương nháp cuối cùng có đề cập tới việc một quốc gia thành viên vi phạm Hiến Chương mà gây ra chiến tranh sẽ bị các nước thành viên khác áp dụng các biện pháp cưỡng chế như việc buộc một nước vi phạm luật phải chịu sự cắt đứt về quan hệ buôn bán, bị cấm có mối quan hệ với các thành viên của Hội Quốc Liên và các nước khác. Hoạt động của Hội Quốc liên trong thời gian đầu gặt hái được một số ít thành quả như tháng 11/1921 khi Nam Tư đưa quân sang xâm lược Anbani thì Tổng thư ký Hội Quốc liên đã họp hội đồng và ra quyết định trừng phạt kinh tế đối với Nam Tư. Ngược lại đối với hành động của Nhật Bản khi đưa quân sang tấn công Manchuria vào 9/1932 thì vấn đề việc Nhật vi phạm Hiến Chương và có cơ sở để áp dụng các biện pháp cưỡng chế lại không được thực thi. Chính điều này đã mở màn cho hang loạt các hành động trái với Hiến Chương của các nước thành viên.
Sau bài học được rút ra từ những cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề cho nhân loại, các nhà lãnh đạo trên thế giới đã đấu tranh để đảm bảo sao cho Liên Hợp Quốc (tổ chức này thay thế cho Hội quốc liên) trở thnahf một tổ chức mạnh mẽ hơn và hoạt động có hiệu quả hơn. Mục đích lớn nhất trong quá trình hoạt động của Liên Hợp Quốc là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, ngăn chặn những hành vi xâm lược và hòa bình. Với mục đích này Liên Hợp Quốc đã trở thành bức rào ngăn chặn chiến tranh đổ vào các nước một cách vững chắc. Cùng với sự ra đời của Hiến Chương Liên Hợp Quốc, hang loạt các điều ước quốc tế song phương và đa phương được kí kết, tạo cơ sở cho việc xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Tuy nhiên trên thực tế, vấn đề truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với chủ thể luật quốc tế có hành vi vi phạm vẫn còn nhiều hạn chế. Một số quốc gia dựa vào tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự đã có những vi phạm như can thiệp vào nội bộ quốc gia khác, dung quân sự để giải quyết tranh chấp … Nhưng lại không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì. Sauk hi Liên Xô và các nước XHCN tan rã, thì Mỹ với ưu thế vượt trội trong quan hệ quốc tế đã chi phối đến hoạt động của Hội Đồng Bảo An LHQ. Trong một số trường hợp Mỹ còn thực hiện một số hoạt động không hề có sự đồng ý của Hội đồng bảo an cũng như là Cộng đồng quốc tế. Như hành động can thiệp vào Bắc Irac, Somali, Rwanda, Đông Timor thì một số được chấp nhận của Hội đồng bảo an còn một số thì không hề thông qua. Những vấn đề về tôn giáo, sắc tộc, về nhân quyền chống khủng bố đã trở thành những chính sách đối ngoại của Mỹ và được Mỹ áp dụng một cách triệt để để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Năm 1999, Mỹ và NATO đã bỏ qua hoàn toàn Liên Hợp Quốc và Hội Đồng Bảo An không kích vào Kosovo của Nam Tư, lấy lí do nhằm bảo vệ nền dân chủ và ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền. Thực tế cho thấy khi nào lợi ích quốc gia của Mỹ bị đe dọa hoặc bị xâm hại thì khi đó bất chấp hành vi vi phạm hay không vi phạm hay không vi phạm, Mỹ vẫn tiến hành kế hoạch của mình kể cả trong trường hợp gây thiệt hại cho chủ thể khác. Sau sự kiện 11/9 Mỹ đưa ra quan điểm là Mỹ sẵn sàng loại bỏ và tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Đồng thời Mỹ cảnh báo đối với nước nào tiếp tay cho chủ nghĩa khủng bố như cấm vận hoặc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay cắt viện trợ. Tự cho mình cái quyền đó và Mỹ đã triển khai hành động quân sự trên quy mô lớn tấn công vào Afghanistan nhằm tiêu diệt chế độ Taliban và cơ sở của lực lượng AlQeada, bất trùm khủng bố Osama Bin Laden, tái thiết lập một chế độ dân chủ ở nước này. Nhưng sau một khoảng thời gian dài đóng quân tại đất nước Hồi Giáo, Mỹ đã không làm được những gì mình tuyên bố. Chiến sự ở Afghanistan ngày càng căng thẳng, nhiều cuộc xung đột vũ trang xảy ra làm nhiều người dân vô tội chết, trong khi chế độ Taliban và Al Qeada vẫn chưa bị tiêu diệt. Năm 2003, Mỹ cáo buộc Irac có vũ khí hủy diệt hàng loạt và đánh Irac,nhưng sau đó lại không hề tìm thấy được bất cứ bằng chứng nào chứng minh kết luận của Mỹ. Thực chất, hai trường hợp này Mỹ đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là dung vũ lực để can thiệp vào nội bộ của hai nước này, nhưng trên thực tế Mỹ không phải chịu bất kỳ hình thức trách nhiệm pháp lý nào.
3. Giải pháp
Cơ cấu của Hội Đồng Bảo An phản ánh sự cân bằng quyền lực toàn cầu do chiến tranh thế giới II để lại: có năm thành viên thường trực Mỹ, Nga, Anh, Pháp và Trung Quốc, những nước ngoài ghế thành viên thường trực có quyền phủ quyết bất cứ hành động nào của Hội Đồng Bảo An. Ngoài ra, có mười ghế Hội Đồng Bảo An khác được các nước giữ luân phiên với thời hạn ba năm và không có quyền phủ quyết. Tuy nhiên, cơ cấu của thời đại chiến tranh thế giới II này dường như đã lỗi thời. Như hiện nay đối với Nhật Bản và Đức có một tầm quan trọng trong các công việc toàn cầu và là những nước đứng thứ 2 và 3 trong số các nước đóng góp cho ngân sách của Liên Hợp Quốc thì tại sao lại không dành cho họ quy chế thành viên thường trực. Còn các nước lớn của thế giới thứ 3 như Brazin, Ấn Độ, Nam Phi, Nigieria là khu vực vốn từ trước đến nay chỉ có các ghế luân phiên. Vấn đề về việc tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động của Liên Hợp Quốc rất khó có thể thực hiện được bởi việc này động chạm đến đòn bẩy quyền lực quan trọng là quyền phủ quyết của Mỹ. Một mặt Mỹ mong muốn chia sẽ rộng rãi hơn trách nhiệm vì hòa bình nhưng lại lo âu về sự xâm phạm đặc quyền của Mỹ. Do vậy, thiết nghĩa trong giai đoạn hiện nay khi mà đã có sự cân bằng tiềm lực về kinh tế, quân sự… giữa các quốc gia, và Mỹ cũng không còn là một siêu cường quốc đúng nghĩa như trước đây. Để khắc phục việc các nước lớn luôn lấy vị thế kinh tế, quân sự để áp đặt lên các quốc gia khác, và nhằm đảm bảo sự công bằng, an ninh, hòa bình thế giới, chúng ta cần phải nghĩ đến việc thiết lập một Liên Hợp Quốc mạnh hơn, độc lập và quyết đoán trong mọi vấn đề mà không phụ thuộc vào bất cứ ý chí của bất kỳ quốc gia nào.
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế.doc